Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

Đề cương Luật Hành chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (433.72 KB, 18 trang )

ĐỀ CƯƠNG LUẬT HÀNH CHÍNH
I. TẦM QUAN TRỌNG CỦA TỔ CHỨC XÃ HỘI TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1. Khái niệm
Tổ chức xã hội là hình thức tổ chức tự nguyện của công dân, tổ chức Việt Nam có
chung mục đích tập hợp, hoạt động theo pháp luật và theo điều lệ, khơng vì lợi nhuận nhằm
đáp ứng lợi ích chính đáng của các thành viên và tham gia vào quản lí nhà nước, quản lý
xã hội.
Ví dụ: Đảng cộng sản Việt Nam, Mặt trận tổ quốc Việt Nam, Cơng Đồn, tổ dân phố.
1.2. Tầm quan trọng TCXH
Hiện nay, ở Việt Nam vai trò năng động của các tổ chức và phong trào xã hội ngày
càng rõ rệt. Các tổ chức này đã và đang đóng góp tích cực vào thực hiện “dân chủ cơ sở”,
xóa đói giảm nghèo, an sinh xã hội...
Các tổ chức xã hội thực hiện chức năng đại diện cho quyền lợi của các nhóm cơng
dân bị thiệt thịi khi đưa ra các khuyến nghị, tác động đến điều kiện chính trị và q trình
soạn thảo chính sách nói chung. Như vậy, TCXH có một vai trị quan trọng trong việc địi
hỏi và thúc đẩy tinh thần trách nhiệm của Nhà nước đối với cơng dân của mình thơng qua
giám sát và phản biện chính sách.
Qua hoạt động thực tiễn cho thấy, các TCXH có các vai trị rất đa dạng, góp phần
xây dựng kinh tế - xã hội thông qua những hoạt động như: là người đại diện cho các đối
tượng cần sự trợ giúp; có thể hỗ trợ về mặt kỹ thuật; tập huấn và xây dựng năng lực; cung
cấp dịch vụ; góp phần xác định vấn đề và giải pháp, mở rộng sự hiểu biết của công chúng
về các vấn đề phát triển; cung cấp thông tin; tư vấn, phản biện và giám định xã hội, thẩm
định những chủ trương, chính sách, kế hoạch hoạt động của các cơ quan nhà nước; góp
phần xóa đói giảm nghèo, nâng cao dân trí, bảo vệ hội viên; tham gia xã hội hóa các hoạt
động văn hóa, giáo dục, y tế, thể dục thể thao, các hoạt động từ thiện nhân đạo; thực hiện
những dịch vụ xã hội không vụ lợi, phi lợi nhuận; tiến hành các hoạt động công tác xã hội
hướng vào việc thực hiện an sinh xã hội, phúc lợi xã hội; tham gia giám sát thực hiện luật
pháp, chính sách,...
Theo báo cáo của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội(2), cả nước có hơn 9 triệu
người nghèo, 7,5 triệu người cao tuổi, 5,4 triệu người khuyết tật, 1,4 triệu trẻ em có hồn


cảnh đặc biệt, hơn 180 nghìn người nhiễm HIV, gần 170 nghìn người nghiện ma túy...
1


Tính đến năm 2010 cả nước có 21,6 triệu trẻ em/85.789.573 người, chiếm 24,7% dân số
trong cả nước, trong đó khoảng 40% dân số trẻ em hiện đang sống ở 2 vùng đồng bằng
sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long. Để tham gia bảo vệ quyền lợi cho các đối tượng
nêu trên rất cần có sự tham gia đóng góp của tồn xã hội. Thực tế cũng cho thấy, hoạt
động của các tổ chức xã hội thường tập trung vào bảo vệ quyền cho các đối tượng ở tầng
thấp trong tháp phân tầng xã hội. Đó là những người nghèo, những gia đình gặp rủi ro,
những người thất nghiệp, có bệnh tật, hồn cảnh sống khó khăn, có những thương tật hoặc
khuyết tật bẩm sinh, những phụ nữ nghèo khổ v.v...
1.3. Một số vấn đề khó khăn, thách thức
Trong q trình hoạt động, có nhiều vấn đề mà các TCXH mong muốn được quan tâm
như: được khẳng định vị trí, vai trị trong các văn bản pháp lý; được sự quan tâm của các
cấp, các ngành; được nâng cao năng lực tổ chức; nguồn lực hoạt động... Đặc biệt trong đó,
các TCXH mong muốn được tạo điều kiện nhiều hơn nữa để tham gia vào các quá trình xây
dựng chính sách, giám sát, đánh giá việc thực hiện luật pháp, chính sách và phản biện xã
hội.
Thực tế cho thấy, quá trình tham gia vào sự phát triển xã hội, vận động chính sách,
giám sát xã hội, các TCXH đã có nhiều thuận lợi, Chính phủ ngày càng quan tâm các
TCXH; mạng lưới các TCXH ngày càng rộng mở hơn.
Tuy nhiên, có một số vấn đề khó khăn, thách thức đang đặt ra đối với các TCXH:
Vị trí, vai trị hoạt động cùng với tính hiệu quả, trách nhiệm của các TCXH cịn nhiều
hạn chế. Thiếu sự cộng tác tích cực để được tham gia xây dựng, giám sát chính sách.
Một số TCXH còn thiếu năng lực, thiếu kinh nghiệm, thiếu thơng tin, dữ liệu...
Bên cạnh đó, về mặt thể chế xã hội, có một số vấn đề khó khăn đối với hoạt động của
các TCXH như:
Những quy định pháp luật hiện hành chưa tạo được một cơ chế pháp lý hữu hiệu cho
các TCXH thực hiện quyền tư vấn và đóng góp xây dựng chính sách, giám sát, tham gia

xây dựng kinh tế - xã hội.
Việc chuyển đổi sang cơ chế kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế nảy sinh
nhiều vấn đề mới, cả phía quản lý nhà nước và các TCXH đều tiếp cận những vấn đề mới
mẻ. Nhận thức về vai trò của các TCXH đối với phát triển xã hội dân sự trong điều kiện
kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam chưa chuyển kịp với đòi hỏi của
thực tiễn cuộc sống và xu thế thời đại.
2


Do chưa có Luật về hội nên hiện nay một số hội đã coi quy định nhiệm vụ trong Điều
lệ của mình đã được phê duyệt bởi cơ quan có thẩm quyền là điều kiện có tính pháp lý để
triển khai hoạt động của TCXH. Tuy nhiên, Điều lệ không phải là văn bản quy phạm pháp
luật có tính áp dụng chung nên sẽ không thuận lợi cho TCXH, hiệp hội khi tham gia các
quan hệ xã hội có tác động ra bên ngồi. Hơn thế, nếu mỗi hội có cách quy định riêng về
phạm vi, nội dung, phương thức thực hiện thì các hoạt động xã hội sẽ được tiếp cận có sự
khác nhau trong các Điều lệ của các TCXH.
Nhiều TCXH còn chậm đổi mới hoạt động, thụ động, ỷ lại vào Nhà nước, làm theo
cách hành chính (hoặc nhà nước hóa), lúng túng trước những vấn đề mới và mối quan hệ
mới. Một số TCXH còn thiếu các chuyên gia giỏi trong các lĩnh vực liên quan để có thể
làm việc hiệu quả với các cơ quan, tổ chức và đối tác tương ứng của Việt Nam và nước
ngoài.
Do yêu cầu bức thiết hiện nay, việc nghiên cứu ban hành Luật về hội để có cơ sở pháp
lý cao về quản lý nhà nước đối với hội và tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của TCXH
là một việc làm quan trọng. Đồng thời, các tổ chức hội phải đổi mới tổ chức và phương
thức hoạt động, khắc phục tình trạng “nhà nước hóa”, “hành chính hóa”, thực sự gắn bó với
hội viên, thành viên, bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của hội viên và thực
hiện được các nhiệm vụ, đáp ứng nhu cầu thực tiễn.
1.4. Giải pháp
Một là, tăng cường tương tác giữa chính quyền trung ương, địa phương với các tổ
chức xã hội.

Hai là, hoàn thiện cơ sở pháp lý cho hoạt động của các tổ chức xã hội.
Ba là, xây dựng cơ chế tham gia giám sát của các TCXH..
Bốn là, tiếp tục nâng cao trình độ chuyên và bản lĩnh chính trị cho đội ngũ cán bộ,
cơng chức làm việc trong các tổ chức xã hội.
II. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ PHÂN CẤP QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY.
2.1. Khái niệm
- Quản lý hành chính nhà nước là hoạt động chấp hành và điều hành của Nhà nước.
- Phân cấp quản lý hành chính nhà nước là sự chuyển giao thẩm quyền từ cấp trên xuống
cấp dưới nhằm đạt được một cách có hiệu quả mục tiêu chung của hoạt động quản lý hành
chính nhà nước.
3


2.2. Thực trạng vấn đề phân cấp quản lý hành chính nhà nước ở việt nam hiện nay.
Trong những năm qua, việc phân cấp, phân quyền giữa Chính phủ với chính quyền
địa phương ở Việt Nam đã được đẩy mạnh đáp ứng yêu cầu CCHC, bảo đảm sự chỉ đạo,
điều hành thống nhất của Chính phủ và phát huy sự chủ động, sáng tạo của chính quyền địa
phương, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước. Tuy nhiên, việc phân cấp,
phân quyền giữa các cấp chính quyền và CCHC thời gian qua vẫn còn những bất cập, hạn
chế.
Thứ nhất, chủ trương phân cấp, phân quyền giữa Trung ương với địa phương và giữa
các cấp chính quyền địa phương chưa được thực hiện đồng bộ, triệt để theo yêu cầu đặt
ra(6). Việc phân cấp quản lý nhà nước giữa Trung ương với chính quyền địa phương và
giữa các cấp chính quyền địa phương chưa thật hợp lý, thiếu nhất quán, chưa đáp ứng được
xu thế phát triển, chưa xác định được việc gì giao cho cấp nào thực hiện thì hiệu quả hơn.
Ví dụ: Một số nội dung tuy đã phân cấp cho cấp dưới nhưng sau một thời gian ngắn thực
hiện thì cấp trên lại thu về như lĩnh vực đầu tư công, xây dựng hoặc việc đăng ký quyền sử
dụng đất; Trong quản lý cán bộ, công chức, pháp luật quy định về quyền tự chủ của chính
quyền địa phương các cấp cịn hạn chế, thể hiện ở thẩm quyền quản lý cán bộ, công chức

hành chính chủ yếu tập trung ở cấp tỉnh; cấp huyện thì mờ nhạt, cịn cấp xã hầu như khơng
có thẩm quyền.
Thứ hai, mặc dù đã có sự thay đổi, nhưng trong nhiều trường hợp, phân cấp, phân
quyền vẫn “từ trên xuống”, chưa phải “từ dưới lên”, vì vậy chưa tạo sự chủ động cần thiết
cho các cấp địa phương, đồng thời làm cho cấp trung ương quá tải, khó kiểm sốt, dễ xảy
ra tham nhũng, thất thốt. Ví dụ: trong lĩnh vực quản lý ngân sách, đầu tư phát triển, cơ
chế huy động nguồn tài chính cho đầu tư phát triển, quản lý quy hoạch, kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội, hạ tầng đô thị, tổ chức bộ máy, biên chế,... chủ yếu do cấp trên quyết định
mà thiếu sự tham của bên thụ hưởng nên nhiều trường hợp không đáp ứng đúng nhu cầu
của địa phương.
Thứ ba, phân cấp, phân quyền nhưng không kèm theo điều kiện bảo đảm, không được
tăng cường tổ chức bộ máy, nhân lực, tài chính và các điều kiện cần thiết khác để thực hiện
nhiệm vụ được phân cấp(7). Vì vậy, chính quyền địa phương khó có thể thực hiện được
“quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm”.
Thứ tư, phân cấp, phân quyền mang tính đồng loạt và đại trà, khơng rõ ràng, cụ thể
cấp nào có thẩm quyền gì; thể hiện ở việc tỉnh, huyện, xã đều thực hiện nhiệm vụ luật định
4


gần giống nhau, chỉ khác về cấp độ và khu vực địa lý trong khi nguồn lực, năng lực khác
nhau. Điều này làm cho chức năng, nhiệm vụ của các cấp chính quyền địa phương có sự
chồng chéo, trùng lắp.
Thứ năm, nhiều lĩnh vực liên quan trực tiếp đến quyền lợi của người dân chưa được
phân cấp, phân cấp không rõ ràng, hoặc chậm, thiếu sự tập trung trong tổ chức thực
hiện(10); ví dụ, việc tổ chức và hoạt động của các đơn vị cung ứng dịch vụ công như giáo
dục phổ thông, dạy nghề, y tế. Đặc biệt, trong giải quyết công việc cho người dân thông
qua các thủ tục hành chính có nhiều việc cần được phân cấp sớm cho chính quyền cấp cơ
sở nhưng cịn rất chậm trễ; người dân chưa được tiếp cận một cách thuận lợi, dễ dàng khi
có cơng việc như khai sinh, hộ khẩu, làm thẻ bảo hiểm y tế .v.v...
Thứ sáu, nhiều lúc, nhiều nơi, phân quyền, phân cấp quản lý nhà nước thiếu sự giám

sát, kiểm sốt, trách nhiệm giải trình chưa rõ ràng. Việc phân cấp, phân quyền giữa Chính
phủ với các bộ, ngành và chính quyền địa phương ở một số lĩnh vực chưa có cơ chế hiệu
quả để kiểm soát quyền lực; thiếu kiểm tra, thanh tra, giám sát (quản lý số lượng người làm
việc trong các đơn vị sự nghiệp công lập, người hoạt động không chuyên trách cấp xã và
thôn, tổ dân phố...). Điều này dẫn đến thể chế quản lý nhà nước bị phân tán, khả năng thực
thi chính sách từ Trung ương tới các địa phương kém hiệu quả.
Thứ bảy, hiện nay, số lượng cơ quan chun mơn thuộc UBND cấp tỉnh cịn lớn, cơ
cấu tổ chức bên trong còn nhiều đầu mối, cồng kềnh, tổ chức thành nhiều chi cục, phòng
và tương đương; mất cân đối giữa số lượng người giữ chức danh lãnh đạo, quản lý và cơng
chức tham mưu; cịn tồn tại số lượng lớn các ban quản lý, ban chỉ đạo, hội đồng... ở một số
địa phương; thẩm quyền quản lý biên chế thiếu thống nhất, thiếu tập trung; việc giao và
quản lý biên chế chưa khoa học, làm tăng biên chế, nhất là số lượng người làm việc trong
các đơn vị sự nghiệp công lập ở địa phương trong giai đoạn 2011-2015; việc thực hiện quy
định về quản lý biên chế ở một số bộ, ngành, địa phương chưa nghiêm(11).
Thứ tám, các quy định về nguyên tắc phân cấp, phân quyền chưa có sự liên thơng
giữa Luật tổ chức Chính phủ năm 2015 và Luật tổ chức chính quyền địa phương năm 2015.
Luật tổ chức Chính phủ năm 2015 chưa quy định về điều kiện, phạm vi của việc ủy quyền
từ Chính phủ đến Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và từ Bộ trưởng tới các đơn vị trực
thuộc, chính quyền địa phương, các cơ quan chun mơn thuộc UBND cấp tỉnh, UBND
cấp huyện.

5


Các quy định của Luật tổ chức Chính phủ năm 2015 và Luật tổ chức chính quyền địa
phương năm 2015 chưa tạo thành các nguyên tắc để pháp luật chuyên ngành điều chỉnh
cách thức quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ,
ngành và chính quyền địa phương, dẫn đến tình trạng các luật chuyên ngành tiếp tục giao
nhiệm vụ cụ thể cho Chính phủ, các bộ, ngành và chỉ giao nhiệm vụ cho chính quyền địa
phương cấp tỉnh hoặc UBND cấp tỉnh, hoặc chỉ quy định chung chung về nhiệm vụ của

chính quyền địa phương các cấp. Điều này gây khó khăn cho Chính phủ trong việc phân
định nhiệm vụ, quyền hạn giữa các bộ, ngành và giữa các cấp chính quyền địa phương; gây
khó khăn trong việc thực hiện nguyên tắc phân cấp, phân quyền, ủy quyền và việc sắp xếp,
bố trí tổ chức bộ máy, biên chế(12).
2.3. Một số giải pháp.
Một là, cần tiếp tục đẩy mạnh việc phân quyền, phân cấp đảm bảo tính hợp lý, khoa
học giữa Chính phủ với các bộ, ngành; giữa Chính phủ, các bộ, ngành với chính quyền địa
phương và giữa các cấp chính quyền địa phương nhằm tinh gọn bộ máy, tinh giản biên chế,
nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động; phát huy tính chủ động, sáng tạo, đề cao tinh thần
trách nhiệm của từng cấp, từng ngành gắn với kiểm soát quyền lực.
Hai là, cần làm rõ hơn nguyên tắc về phân định thẩm quyền (phân cấp, phân quyền);
quy định cụ thể nguyên tắc và thẩm quyền ủy quyền trong cơ quan hành chính nhà nước ở
địa phương; các vấn đề liên quan đến phân quyền, phân cấp và ủy quyền, đặc biệt trong các
cơ quan của HĐND và UBND các cấp trong quá trình xây dựng, ban hành văn bản hướng
dẫn thi hành Luật sửa đổi, bổ sung Luật tổ chức chính quyền địa phương năm 2015.
Ba là, cần bảo đảm điều kiện về ngân sách và nguồn nhân lực của các địa phương khi
phân cấp, phân quyền; bảo đảm không chồng chéo nhiệm vụ, thẩm quyền giữa các cơ quan;
đồng thời, tạo khung pháp lý để luật chuyên ngành phải quy định những nội dung không
được ủy quyền trong cơ quan hành chính nhà nước. Chính quyền địa phương thực hiện các
nhiệm vụ, quyền hạn đã được phân quyền, phân cấp và chịu trách nhiệm trong phạm vi
được phân quyền, phân cấp.
Bốn là, cần quy định rõ hơn nhiệm vụ, quyền hạn, mối quan hệ giữa Chính phủ với
các bộ, ngành; giữa Chính phủ, các bộ, ngành với chính quyền địa phương cấp tỉnh và giữa
các cấp chính quyền địa phương. Bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung, thống nhất của
Chính phủ, đồng thời thực hiện phân cấp, phân quyền mạnh mẽ, hợp lý giữa Chính phủ,

6


Thủ tướng Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ và UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung

ương.
Năm là, cần hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm, mối quan hệ
công tác giữa các bộ, ngành, các tổ chức trực thuộc các bộ, ngành, địa phương và cơ cấu tổ
chức của các cấp chính quyền địa phương; khắc phục triệt để sự trùng lắp, chồng chéo chức
năng, nhiệm vụ theo hướng một tổ chức có thể đảm nhiệm nhiều việc, nhưng một việc chỉ
do một tổ chức chủ trì và chịu trách nhiệm chính. Hồn thiện quy định về cơ cấu tổ chức,
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương, của HĐND và UBND các
cấp trên cơ sở các định hướng của Trung ương; tiếp tục đổi mới tổ chức, hoạt động của
chính quyền địa phương các cấp, tinh gọn tổ chức bộ máy nhằm đáp ứng những yêu cầu
thực tiễn trong việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước.
III. THỰC TRẠNG THAM GIA QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC CỦA
NGƯỜI DÂN.
Khái niệm: nhân dân tham gia hoạt động chấp hành và điều hành của cơ quan hành
chính nhà nước. Ví dụ: Nhân dân góp ý vào các văn bản quy phạm pháp luật khi được công
bố hỏi ý kiến qua báo chí.
Cơ sở pháp lý: Điều 28 Hiến pháp 2013
Hiện nay, tình trạng người dân tham gia vào quản lý hành chính nhà nước cịn gặp
nhiều khó khăn, hạn chế. Người dân ít có những ý kiến đóng góp với chính quyền và các
cơ quan nhà nước trừ khi có những vấn đề bức xúc của bản thân. Khi có các văn bản xin ý
kiến tham gia đóng góp đăng trên các cơ quan báo chí cũng chỉ có số ít những người có ý
kiến. Việc kiểm tra, giám sát hoạt động quản lý nhà nước của các cơ quan và công chức
nhà nước; thực hiện khiếu nại, tố cáo những việc làm trái pháp luật của các cơ quan và cơng
chức nhà nước của người dân cũng cịn hạn chế.
Ngun nhân của những khó khăn, hạn chế trong việc tham gia quản lý nhà nước của
nhân dân là do:
Trước hết, là từ nhận thức của xã hội, của những người quản lý. Mặc dù hiện nay tư
tưởng xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân đã được
phổ biến trong xã hội, nhưng việc nhận thức đúng về tư tưởng này vẫn còn khoảng cách.
Những người quản lý vẫn còn thiếu tin tưởng ở người dân, vẫn coi việc quản lý nhà nước
là cơng việc riêng vốn có của Nhà nước mà khơng phải là nhiệm vụ của chính nhân dân

trong việc quản lý xã hội. Ngược lại, chính người dân cũng coi đó chỉ là nhiệm vụ của các
7


cơ quan nhà nước, mà khơng phải là của mình. Vì lẽ đó, đã làm hạn chế sự tham gia rộng
rãi của nhân dân vào hoạt động quản lý nhà nước.
Thứ hai, những quy định pháp lý chưa đủ mạnh và rõ để các cơ quan nhà nước, nhất
là các cơ quan đại biểu phải thực hiện các nhiệm vụ mà nhân dân ủy quyền và để nhân dân
kiểm soát sự ủy quyền của mình, cũng như để nhân dân tham gia trực tiếp nhiều hơn vào
các công việc của Nhà nước. Cơ chế đại biểu phải gắn với cử tri bầu ra mình, cơ chế bắt
buộc phải tiếp nhận và phản ánh các ý kiến, nguyện vọng của cử tri, hoặc cơ chế cơng khai,
minh bạch... vẫn cịn chưa được quy định đủ rõ, đủ mạnh.
Thứ ba, ảnh hưởng của văn hóa hành chính cũ cịn khá nặng. Đã có một thời gian dài
ở Việt Nam, bộ máy nhà nước được xây dựng và hoạt động theo cơ chế tập trung, bao cấp.
Các cơ quan nhà nước được xây dựng theo một mơ hình thống nhất chung, đứng ra làm tất
cả mọi việc cho nhân dân theo sự chỉ huy tập trung từ bên trên và đã mang lại nhiều kết quả
cho người dân, vì thế nhân dân tin tưởng vào Nhà nước. Nhưng cũng từ thực tế đó, lâu dần
đã hình thành nên tâm lý và văn hóa hành chính mà theo đó, các cơ quan, cơng chức coi
việc xây dựng luật pháp, chính sách như là đặc quyền riêng của mình và vì thế các cơng
việc của Nhà nước ln khép kín, cịn nhân dân ỷ lại, coi đó là cơng việc của Nhà nước, ít
có quan tâm chung tới hoạt động của Nhà nước và các chính sách, nếu khơng có ảnh hưởng
trực tiếp tới lợi ích cá nhân.
Thứ tư, trình độ dân trí, nhất là trình độ về pháp luật, của người dân cịn rất hạn chế.
Hiện nay không chỉ kiến thức pháp luật của người dân còn thấp mà sự chấp hành, ý thức,
tinh thần pháp luật của người dân khơng cao. Chính vì vậy, khi tham gia vào các công việc
quản lý nhà nước, người dân rất lúng túng.
Thứ năm, việc tổ chức các hình thức, phương thức tham gia của người dân được các
cơ quan nhà nước thực hiện cũng chưa thật sự khoa học. Nhiều văn bản quy phạm pháp
luật được tổ chức xin ý kiến của người dân chưa thật sự hướng vào các đối tượng bị điều
chỉnh. Việc tiếp thu giải quyết các vấn đề mà nhân dân nêu ra chậm và ln bị tránh, né

làm giảm lịng tin và nhiệt tình của người dân.
Thứ sáu, trình độ sử dụng cơng nghệ thơng tin để tham gia góp ý cho các văn bản
pháp luật của nhân dân còn thấp. Sự phổ cập báo chí điện tử mới giới hạn ở các thành phố
và một số đối tượng - thường đã là cán bộ, công chức nhà nước.
Để đẩy mạnh sự tham gia của người dân vào quá trình xây dựng luật pháp, chính sách,
quản lý của Nhà nước trong thời gian tới, cần phải làm tốt các công việc chủ yếu sau:
8


- Tiếp tục hồn thiện hệ thống thể chế, có cơ chế huy động người dân tham gia vào
quá trình quản lý của Nhà nước. Cần sửa đổi cơ chế bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng
nhân dân sao cho những người được bầu phải gắn bó với người dân, phản ánh được ý chí
nguyện vọng của người dân, khơng cịn đại diện chung chung, hình thức. Họ phải chịu sự
giám sát của nhân dân, gắn trách nhiệm, lợi ích với sự tín nhiệm của nhân dân, khi khơng
hồn thành được vai trị đại diện quyền lợi và nguyện vọng của cử tri bầu cho thì họ phải
bị bãi miễn. Mở rộng hình thức quyết định trực tiếp - trưng cầu dân ý, để tồn dân có quyền
tham gia vào các công việc trọng đại của đất nước, của địa phương.
- Tiếp tục đẩy mạnh công cuộc cải cách nền hành chính nhà nước. Đổi mới cơ cấu tổ
chức, phương thức hoạt động của các cơ quan nhà nước, mở rộng sự công khai, minh bạch,
tạo cơ hội để người dân nắm được các công việc của Nhà nước để tham gia một cách chủ
động, thiết thực, có hiệu quả. Nâng cao trách nhiệm của các cơ quan nhà nước và của công
chức trong việc tiếp thu các ý kiến và nguyện vọng của nhân dân.
- Tiếp tục mở rộng và phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Mở rộng sự hình thành
và tham gia của các hội, tổ chức phi chính phủ trong việc giải quyết các nhu cầu của nhân
dân và tích cực tham gia vào cơng tác quản lý nhà nước. Có các cơ chế và phương thức để
phát huy và tiếp nhận được các ý kiến phản biện của nhân dân và của các tổ chức quần
chúng.
- Tiếp tục có biện pháp giáo dục nâng cao kiến thức, trình độ, nhất là ý thức chính trị,
tinh thần pháp luật của người dân, làm cho người dân tự giác và có ý thức hơn nữa trong
việc tham gia vào các công việc xã hội và các hoạt động quản lý nhà nước.

- Nâng cao vai trò của các tổ chức quần chúng trong việc tuyên truyền, giáo dục và tổ
chức tham gia của người dân đối với việc xây dựng chính sách, pháp luật.
- Sử dụng tốt hơn các phương tiện thông tin đại chúng. Mở rộng việc sử dụng các báo
điện tử trong việc tuyên truyền các chính sách, pháp luật của Nhà nước và thu thập, phản
ánh các ý kiến đóng góp, tham gia của nhân dân.
IV. MỐI QUAN HỆ GIỮA CHÍNH PHỦ VỚI UBND CÁC CẤP
Khơng thể thực hiện quyền hành pháp mà không bao gồm quyền lãnh đạo hành chính,
nên mối quan hệ giữa Chính phủ với CQĐP là ln tồn tại, kể cả có hay khơng việc quy
định bổ sung thêm chức năng Chính phủ “thực hiện quyền hành pháp”. Mối quan hệ này
không nhất quán ở mọi quốc gia, cũng không giống nhau ở mọi thời kỳ. Sự khác biệt dựa
trên nền tảng mức độ phân quyền (giữa trung ương và địa phương).
9


2.1. Vị trí của CQĐP
Địa vị của CQĐP phản ánh phần nào mối quan hệ giữa Chính phủ - CQĐP. Cách gọi
tên CQĐP thể hiện mối quan hệ đó. Khá nhiều hiến pháp trên thế giới dùng khái niệm “tự
quản địa phương” (Hiến pháp Nhật Bản); hoặc “tự trị địa phương” (Hiến pháp Liên bang
Nga, Hiến pháp Hàn Quốc) trong chương về CQĐP. Ngay cả khi không gọi là tự quản địa
phương thì địa vị của CQĐP cũng được khẳng định rõ trong Hiến pháp, như trường hợp
của Cộng hòa Pháp: “Các địa phương tự quản hành chính thơng qua hội đồng dân cử và có
quyền lập quy để thực thi các thẩm quyền của mình trong các điều kiện quy định bởi pháp
luật”[8].
Vị trí này cho phép nhìn thấy lát cắt giữa trung ương và địa phương, từ đó có thể hình
dung ranh giới quyền “lãnh đạo hành chính” của trung ương.
Hầu hết các quốc gia có nền hành chính phi tập trung đều phân biệt hành chính trung
ương và hành chính địa phương. Ở Pháp, các học giả cho rằng, Chính phủ lãnh đạo hoạt
động hành chính, nhưng chỉ trong phạm vi hành chính trung ương mà thơi. Hành chính địa
phương là hoạt động tự quản, bởi vậy sẽ khơng chịu sự lãnh đạo của Chính phủ. Hành chính
địa phương sẽ chịu sự chỉ đạo điều hành của các thủ trưởng hành chính địa phương và

những thủ trưởng này do Hội đồng dân biểu địa phương lập ra, khơng lệ thuộc vào hành
chính trung ương[9]. Sự lãnh đạo của Chính phủ đối với CQĐP thể hiện thơng qua việc
hoạch định các chính sách chung, chứ khơng thơng qua điều hành cụ thể.
Ngược lại, trong nền hành chính tập trung, vị trí độc lập của CQĐP khơng được thể
hiện rõ trong pháp luật. Ví dụ trong Hiến pháp nước ta, thuật ngữ “cơ quan hành chính của
địa phương” cịn chưa được sử dụng, mà thay vào đó là “cơ quan hành chính ở địa phương”
-thuật ngữ phản ánh tính thống nhất của hệ thống hành chính nhà nước từ trung ương xuống
địa phương. Dường như CQĐP chưa có hệ thống hành chính riêng của mình. Kiểu tổ chức
nền hành chính tập trung và lệ thuộc vào trung ương chỉ phù hợp với một số mơ hình địa
phương đặc biệt; hoặc với các nước tập trung hành chính, hoặc mới tiếp cận với thời kỳ bắt
đầu của phân quyền. Trong các bản Hiến pháp trước năm 2013 của Việt Nam, tính chất
hành chính tập trung cịn thể hiện rõ rệt thông qua việc gọi tên các cơ quan địa phương là
Hội đồng nhân dân (HĐND), Ủy ban nhân dân (UBND). Việc gọi tên “HĐND và UBND”
dường như chỉ kể đến các cơ quan ở cấp địa phương và cùng với các chế định khác về các
cơ quan này có thể hiểu là chúng cùng với các cơ quan cùng hệ thống ở trung ương - sẽ tạo
ra một chỉnh thể thống nhất. Ví dụ: HĐND các cấp và Quốc hội - tạo thành hệ thống cơ
10


quan quyền lực nhà nước; UBND các cấp và Chính phủ - tạo thành hệ thống cơ quan hành
chính. Cách gọi tên này (HĐND và UBND) dường như khơng có sự phân biệt giữa trung
ương và địa phương mà chỉ có sự phân khúc quyền lực nhà nước trên từng địa bàn lãnh thổ.
Hiến pháp năm 2013 đưa ra cách gọi tên mới: CQĐP - tên gọi mới không những khắc phục
được điểm này, mà còn phản ánh một tư duy mới: Tên chương “Chính quyền địa phương”
sẽ cho phép nhìn nhận rõ lát cắt giữa trung ương - địa phương, cho phép nhìn nhận CQĐP
như là một thực thể riêng, tồn tại khá độc lập so với chính quyền trung ương, đặc biệt là
hành chính trung ương.
2.2. Mối quan hệ giữa Chính phủ và chính quyền địa phương
2.2.1. Về nội dung
Thẩm quyền

Phạm vi thẩm quyền của địa phương phản ánh trực tiếp nhất mối quan hệ giữa địa
phương với hành chính trung ương - Chính phủ. Đây cũng là nội dung cốt yếu của phân
quyền hành chính.
Thơng thường, phạm vi thẩm quyền của địa phương được quy định tại Hiến pháp hoặc
ít nhất, là trong luật. Khoản 1 Điều 130 Hiến pháp Liên bang Nga quy định: "Tự quản địa
phương ở Liên bang Nga bảo đảm quyền tự quyết của cư dân đối với các vấn đề tầm địa
phương, nắm giữ, sử dụng và định đoạt sở hữu của địa phương”. Tương tự, Điều 94 Hiến
pháp Nhật Bản quy định: “CQĐP có thẩm quyền trong quản lý tài sản của mình, thực thi
các cơng việc, quản trị hành chính và ban hành các quy định của mình phù hợp với các quy
định của pháp luật”. Thẩm quyền này cũng có thể được xác định theo hướng loại trừ: khoản
4 Điều 117 Hiến pháp Cộng hòa Italia 1947 quy định rằng: “Các Khu vực có quyền lập
pháp trong mọi vấn đề không được luật nhà nước nêu rõ”[10]. Hiến pháp Cộng hòa Ba Lan
quy định rộng mở: “CQĐP thực hiện các công vụ không được quy định trong Hiến pháp và
các đạo luật về các cơ quan khác của Nhà nước” (Điều 163).
Sau khi đã có phân định thẩm quyền địa phương, quy tắc tiếp theo là địa phương hoàn
toàn tự chủ trong quyết định nội dung, lựa chọn phương tiện để thực thi các thẩm quyền đó.
Chính phủ khơng can thiệp, chỉ đạo và thậm chí khơng giám sát các thẩm quyền tự quản
của địa phương.
Ở những quốc gia có nền hành chính tập trung, sự phân định thẩm quyền giữa Chính
phủ với CQĐP khơng rõ rệt. Thẩm quyền địa phương không hiện diện cụ thể trong hiến
pháp; các công việc của trung ương và địa phương không phân định rõ nét trong luật; hoặc
11


có phân định trong các đạo luật nhất định nhưng vẫn có sự ràng buộc lẫn nhau thơng qua
quy định về nghĩa vụ báo cáo của địa phương với cấp trên; hay thông qua việc phê duyệt,
cấp phép về chủ trương của trung ương đối với công việc địa phương. CQĐP được ban
hành văn bản pháp quy nhưng văn bản của CQĐP chủ yếu nhằm cụ thể hóa các quy định
của cấp trên- trong đó có Chính phủ.
Trong rất nhiều lĩnh vực của thẩm quyền, sự tinh tế trong mối quan hệ giữa Chính phủ

với địa phương đặc biệt thể hiện trong quyền lập quy của địa phương. Việc ban hành các
văn bản quy phạm của địa phương không thể là sự cụ thể hóa các quy định của Chính phủ.
Trong nền hành chính phân quyền, địa phương ban hành các quy phạm nhằm thực thi các
thẩm quyền riêng có của mình. Ranh giới này thể hiện rõ trong quy định tại Điều 72 Hiến
pháp Cộng hịa Pháp, theo đó “địa phương có quyền lập quy để thực thi các thẩm quyền
của mình”. Và rõ ràng, trong các lĩnh vực thẩm quyền riêng của địa phương thì Chính phủ
khơng thể ra quy phạm. Việc cụ thể hóa các quy phạm của Chính phủ sẽ do các cơ quan
thuộc Chính phủ thực hiện mà không thuộc thẩm quyền lập quy của địa phương.
Tuy nhiên, sự phân định này chỉ rạch ròi đối với các công việc thuộc phạm vi thẩm
quyền riêng của địa phương. Vẫn cịn đó những ranh giới mập mờ giữa quyền lập quy của
Chính phủ và quyền lập quy của địa phương, ví dụ ở Pháp, đó là các lĩnh vực mà lập pháp
đã quy định nhưng cần cụ thể hóa để thực thi (đào tạo nghề; giáo dục; quy hoạch đô thị;
hoạt động kinh tế và phát triển doanh nghiệp) và cả Chính phủ cũng như địa phương đều
có thẩm quyền can thiệp[11].
Tài chính
Mối quan hệ giữa thẩm quyền và tài chính ln tỷ lệ thuận: Địa phương càng độc lập
về thẩm quyền thì nguồn tài chính của địa phương cũng độc lập hơn so với trung ương và
ngược lại, nếu các thẩm quyền của địa phương vẫn cịn chia sẻ với trung ương thì ngân sách
của địa phương không thể là tự chủ. Điều này dẫn đến quy định mới trong Hiến pháp sửa
đổi năm 2003 của Cộng hòa Pháp: “Việc chuyển giao các thẩm quyền giữa Nhà nước và
các địa phương phải đi cùng việc giao các nguồn lực tương ứng để thực thi các thẩm quyền
đó” (Điều 72 - 2).
Cũng với tinh thần đó, Hiến pháp năm 2013 của nước ta đã có quy định rất xác thực:
“Trong trường hợp cần thiết, CQĐP được giao thực hiện một số nhiệm vụ của cơ quan nhà
nước cấp trên với các điều kiện bảo đảm thực hiện nhiệm vụ đó” (Khoản 3 Điều 111).

12


Mối quan hệ giữa Chính phủ với CQĐP về phương diện tài chính cần được xác định

trên cơ sở xác định lại các thẩm quyền của địa phương. Trong xu thế phân quyền, nên từng
bước tăng sự tự chủ tài khóa cho CQĐP, đặc biệt là những nguồn thu địa phương được
hưởng 100%, gắn với việc quản lý và cung ứng dịch vụ công tại địa phương. Cũng như vậy,
trong chi ngân sách, cần phân định nhiệm vụ chi của địa phương cho phù hợp với chức
năng, nhiệm vụ của chính quyền theo phân cấp quản lý hành chính. Trong tương lai, cần
xây dựng cơ chế để CQĐP có quyền tự chủ trong các quyết định phân bổ nguồn lực, sử
dụng nguồn lực theo các ưu tiên của địa phương và chủ động chọn lựa cách thức thực hiện;
trung ương chỉ tác động, can thiệp khi cần thực hiện các mục tiêu có tính quốc gia.
2.2.2. Về mặt tổ chức
Quan hệ về tổ chức giữa Chính phủ - CQĐP thể hiện qua việc thành lập các cơ quan
địa phương, việc tồn tại các cơ quan tản quyền của Chính phủ tại địa phương, trong quy
chế công chức địa phương.
Ở những quốc gia có nền hành chính tập trung, mối quan hệ về mặt tổ chức giữa Chính
phủ với CQĐP là khăng khít, lệ thuộc. Đó là sự gắn kết trong việc thiết lập (cơ quan hành
chính của địa phương do Chính phủ lập ra/tham gia vào việc lập ra, thơng qua việc bổ nhiệm
các chức danh lãnh đạo). Việc can dự vào thành lập sẽ là tiền đề để chỉ đạo, điều hành mọi
hoạt động của hành chính địa phương. Và ở các nước có nền hành chính tập trung, từ logic
thẩm quyền hành chính thống nhất nên cơ cấu của hành chính địa phương về cơ bản khá
thống nhất với tổ chức hành chính trung ương. Chế độ cơng vụ, công chức cũng cùng chung
quy chế thống nhất trên tồn quốc.
Tuy nhiên, trong nền hành chính phân quyền có sự phân biệt rõ ràng giữa các cơ quan
của địa phương và các cơ quan hành chính tản quyền (của Chính phủ) đặt tại địa phương.
Ví dụ ở Pháp hiện nay, trừ mơ hình xã trưởng - vừa kết hợp giữa dân bầu và quyền cách
chức của Hội đồng bộ trưởng; cịn lại tất cả các cơ quan hành chính địa phương đều có
nguồn gốc từ địa phương và khơng chịu bất kỳ sự can thiệp nào của Chính phủ. Mơ hình
chung là dân bầu ra Hội đồng dân cử, và cơ quan này lập ra cơ quan hành chính của mình.
Bên cạnh bộ máy hành chính thuần túy của địa phương, có một số đại diện trung ương nhưng chỉ ở một vài cấp địa phương lớn mà thôi - đó là tỉnh trưởng (ở cấp tỉnh); vùng
trưởng (ở cấp vùng) và một số cơ quan tản quyền đặt chủ yếu tại cấp tỉnh. Không phải bất
cứ bộ nào cũng có cơ quan tản quyền ở địa phương, mà thường chỉ có một vài bộ như Văn
hóa, Giáo dục v.v.. Các nhân sự và các cơ quan tản quyền này, Chính phủ trực tiếp bổ

13


nhiệm, quản lý và chỉ đạo hoạt động. Họ cũng là kênh liên lạc giữa Chính phủ với địa
phương, thơng qua việc xem xét một số loại quyết định của CQĐP, nhưng khơng có quyền
đình chỉ hay bãi bỏ chúng[12].
Nhiều quốc gia có nền hành chính phân quyền thậm chí cịn có sự phân biệt trong quy
chế cơng vụ của trung ương và địa phương. Các khái niệm công chức nhà nước, công chức
địa phương cũng xuất hiện từ đây. Cơng chức địa phương có quy chế riêng, được tuyển
dụng theo cách riêng biệt[13]
2.2.3. Về giám sát của Chính phủ đối với CQĐP
Mối quan hệ giữa Chính phủ và CQĐP thể hiện trực tiếp và rõ rệt nhất thông qua khâu
cuối cùng: hoạt động giám sát của Chính phủ đối với địa phương. Khơng có nền hành pháp
nào hồn tồn tách rời các lãnh thổ hành chính của mình, nhưng mức độ can thiệp của
Chính phủ đối với CQĐP là rất khác nhau, tùy từng quốc gia.
Thông thường, trong nền hành chính tập trung, các quyết định của cơ quan hành chính
địa phương và kể cả cơ quan dân cử, vẫn có thể bị đình chỉ, bãi bỏ bởi cơ quan hành chính
cấp trên hay Chính phủ. Như vậy, quan hệ giám sát hành chính vẫn tồn tại một cách trực
tiếp và tồn diện. Trực tiếp vì Chính phủ có quyền đình chỉ, bãi bỏ ngay các văn bản của
CQĐP vi phạm pháp luật, chứ không dừng lại ở mức kiến nghị hay đề xuất địa phương bãi
bỏ. Toàn diện bởi vì việc giám sát khơng giới hạn ở bất kỳ lĩnh vực nào. Quyền giám sát
như vậy thực ra không thể tồn tại trong một bối cảnh CQĐP phân cấp và tự chủ, bởi lẽ sự
can thiệp trực tiếp và toàn diện là đi ngược lại với quyền tự chủ của địa phương.
Ở các quốc gia có sự phân quyền trung ương - địa phương, giám sát hành chính của
chính quyền trung ương đối với địa phương đã giảm thiểu đến gần như tối đa. Điển hình là
quá trình phân cấp ở Cộng hòa Pháp thể hiện bằng quá trình trao quyền cho địa phương và
cắt giảm sự giám hộ của trung ương. Luật ngày 02/03/1982 đã giới hạn phạm vi kiểm tra
hoạt động của CQĐP: chỉ trong khuôn khổ tính hợp pháp chứ khơng thể kiểm tra tính hợp
lý của các quyết định của CQĐP. Tỉnh trưởng, Vùng trưởng - người đại diện cho Nhà nước
trung ương - khơng có quyền năng gì trong việc ngăn chặn các quyết định của địa phương.

Khi phát hiện các văn bản của CQĐP vi phạm pháp luật, các Tỉnh trưởng, Vùng trưởng chỉ
có thể u cầu Tịa Hành chính xét xử, và Tịa Hành chính là cơ quan duy nhất có quyền
tuyên hủy các quyết định của địa phương.
Thẩm quyền kiểm tra của các Tỉnh trưởng, Vùng trưởng bị thu hẹp đến mức, theo các
học giả Pháp thì dường như: “việc chuyển văn bản trái pháp luật (của CQĐP) cho Tòa án
14


xử lý không phải là nghĩa vụ của Tỉnh trưởng, Vùng trưởng. Mặc dù trong một Quyết định
của Hội đồng bảo hiến (Quyết định số 93-335 DC ngày 21/01/1994) có đoạn viết: “căn cứ
vào Điều 72 của Hiến pháp, việc kiểm tra tính hợp pháp đối với các quyết định của CQĐP
thuộctrách nhiệm của người đại diện Nhà nước trung ương...” nhưng vì pháp luật cũng như
án lệ khơng hề xác định chế tài trong trường hợp người đại diện Nhà nước trung ương
không thực hiện trách nhiệm này nên có thể khẳng định rằng, đó khơng phải là một trách
nhiệm mang tính pháp lý”[14].
Ở hầu hết các quốc gia có tài phán hiến pháp và hành chính, nhiệm vụ quan trọng của
Tòa án là phân xử các tranh chấp thẩm quyền giữa địa phương với cơ quan nhà nước trung
ương và giữa địa phương với nhau. Điều 165 Hiến pháp Ba Lan quy định: “Các tịa án hành
chính có nhiệm vụ giải quyết các tranh chấp về thẩm quyền giữa các đơn vị của CQĐP và
các cơ quan hành chính nhà nước”. Khi mà thẩm quyền trung ương - địa phương được phân
định rành mạch thì hiển nhiên hành chính trung ương khơng cịn quyền giám sát địa phương
đối với các công việc đã phân quyền, và lúc này, thiết chế tư pháp chiếm vị trí ưu thế, là
người khách quan, độc lập đánh giá sự đúng sai trong xử sự của hành chính trung ương địa phương trên cơ sở pháp luật. Mối quan hệ giữa Chính phủ với CQĐP dựa trên cơ sở tôn
trọng quyền tự quản của địa phương.
Kết luận
Nếu quan hệ của Chính phủ với CQĐP vẫn tồn tại trong trục hoạt động hành chính,
thì việc Chính phủ có chức năng thực hiện quyền hành pháp sẽ thúc đẩy mạnh mẽ đến diễn
tiến mối quan hệ này trong tương lai. Khi mà địa vị của Chính phủ được đề cao, quyền hành
pháp được giao về Chính phủ, người ta có thể hình dung ra một Chính phủ cầm lái chứ
khơng chèo thuyền và mối quan hệ với địa phương sẽ khơng cịn là “cầm tay chỉ việc” mà

dựa trên nền tảng tôn trọng quyền tự quản và định hướng.
V. THỰC TRẠNG TUYỂN DỤNG CÔNG CHỨC, VIÊN CHỨC HIỆN NAY
5.1. Khái niệm (trong luật)
5.2. Thực trạng
Các văn bản quy phạm pháp luật trên đã tạo dựng một cơ sở pháp lý khá vững chắc
cho hoạt động tuyển dụng viên chức tại các ĐVSNCL. Việc tổ chức thi tuyển, xét tuyển
viên chức đã từng bước đi vào nề nếp và được tổ chức thường xuyên ở các bộ, ngành, địa
phương. Những năm gần đây, hoạt động tuyển dụng viên chức diễn ra tương đối thuận lợi,
trong số các ĐVSNCL, số lượng viên chức trong ngành Giáo dục và Y tế được tuyển dụng
15


chiếm số lượng nhiều nhất. Đây cũng là những đơn vị mang đầy đủ những nét tiêu biểu của
hoạt động tuyển dụng, sử dụng, quản lý viên chức trong khối các ĐVSNCL. Từ năm 2019
đến nay, một số bộ, ngành, địa phương đã tổ chức tuyển dụng viên chức theo quy định mới
tương đối thành công như: Bộ Giao thông vận tải, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, thành phố Hà
Nội, tỉnh n Bái, tỉnh Thanh Hóa…
Nhìn chung, các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương áp dụng chế độ ưu tiên tuyển
dụng theo quy định của Luật và các văn bản hướng dẫn thi hành. Ngồi ra, cũng có địa
phương đã đưa ra các chính sách ưu tiên đối với một số đối tượng cụ thể như đối với người
có trình độ sau đại học, tốt nghiệp đại học loại giỏi, xuất sắc, thạc sỹ, tiến sỹ…
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, trong lĩnh vực tuyển dụng viên chức
cũng đã phát sinh một số hạn chế, bất cập như: hoạt động tuyển dụng viên chức hiện nay
khơng có sự đồng đều giữa các đơn vị, các ngành nghề và các địa phương. Các ĐVSNCL
ở khu vực có điều kiện kinh tế – xã hội phát triển thường tuyển dụng viên chức thuận lợi
hơn so với đơn vị ở khu vực có điều kiện khó khăn.
Các đơn vị đóng ở khu vực kinh tế – xã hội chậm phát triển, vùng sâu vùng xa thường
xảy ra tình trạng thiếu viên chức, có đơn vị trong nhiều năm không tuyển đủ chỉ tiêu (thiếu
giáo viên, thiếu nhân lực y tế). Những ngành, nghề ít được quan tâm, tiền lương thấp thường
khó khăn trong việc thu hút người dự tuyển. Hầu hết các ĐVSNCL đều gặp phải khó khăn

trong việc thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao, điển hình là các bệnh viện, trường đại
học, viện nghiên cứu. Đa phần chỉ có các đơn vị sự nghiệp ở các thành phố lớn có khả năng
tuyển dụng các đối tượng này, trong khi các đơn vị đóng ở địa phương gần như khơng có
cơ hội. Tính cạnh tranh, khách quan, cơng bằng trong q trình tuyển dụng chưa cao. Bên
cạnh đó, hoạt động tuyển dụng viên chức tại khơng ít đơn vị, địa phương còn chưa nghiêm,
để xảy ra hiện tượng tiêu cực trong quá trình tuyển dụng, như chạy việc, tuyển người không
xứng đáng…, tạo ra tâm lý bức xúc cho xã hội (tuyển dụng viên chức chỉ là hình thức).
Trong quá trình tổ chức tuyển dụng, một số bộ, ngành, địa phương đã chấp hành không
nghiêm, thậm chí có những vi phạm nghiêm trọng như: can thiệp làm lộ đề thi; không xây
dựng và phê duyệt kế hoạch tuyển dụng trước khi tiến hành tuyển dụng; xây dựng đề thi,
đáp án thi khơng có thang điểm chi tiết; thông báo thi tuyển, nhận hồ sơ dự tuyển không
đúng quy định; thành lập hội đồng thi tuyển, xét tuyển không đúng quy định; không tổ chức
giám sát kỳ thi…

16


Mặc dù tuyển dụng viên chức là một hoạt động diễn ra trong thời gian ngắn nhưng lại
ảnh hưởng rất lớn, lâu dài tới sự tồn tại và phát triển của một ĐVSNCL. Nếu việc thực hiện
tuyển dụng có hiệu quả sẽ là tiền đề, cơ sở để xây dựng một đội ngũ viên chức có trình độ,
năng lực và tạo đà phát triển cho đơn vị. Ngược lại, nếu việc thực hiện tuyển dụng không
nghiêm túc sẽ làm giảm hiệu quả hoạt động chung cho ĐVSNCL của mình.
5.3. Đề xuất giải pháp
Hiện nay, trong các ĐVSNCL đang nắm giữ một số lượng lớn viên chức có trình độ
chun mơn cao, giàu kinh nghiệm, song vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn
công việc và sự kỳ vọng của Nhân dân. Trước nhu cầu thay đổi của xã hội, địi hỏi nâng
cao chất lượng dịch vụ cơng, theo đó, chất lượng nguồn nhân lực cũng phải được quan tâm
hàng đầu. Thực tiễn, trong giai đoạn hiện nay chất lượng nguồn nhân lực lại là điểm yếu
của khơng ít ĐVSNCL, dẫn đến việc tổ chức hoạt động cung cấp các dịch vụ công chưa
thật sự hiệu quả, chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra của thời kỳ đổi mới, phát triển kinh tế

thị trường, hội nhập quốc tế. Để xây dựng đội ngũ viên chức đáp ứng được u cầu, nhiệm
vụ trong tình hình mới thì vai trị của công tác tuyển dụng và các cơ quan liên quan trong
cơng tác tuyển dụng là rất quan trọng, địi hỏi phải có sự thay đổi mạnh mẽ đối với cơng
tác này.
Cần điều chỉnh một số quy định có liên quan đến tuyển dụng viên chức như: xây dựng
một hệ thống quy định pháp luật thống nhất, toàn diện. Tuyển dụng, sử dụng và quản lý
viên chức là nhóm hoạt động có sự liên kết chặt chẽ với nhau, vì vậy, pháp luật về tuyển
dụng không thể tách rời những quy định về quản lý và sử dụng viên chức bởi nếu hoạt động
quản lý và sử dụng viên chức khơng được thực hiện tốt, viên chức sẽ có tư tưởng tìm việc
làm tại một đơn vị khác, việc tuyển dụng khơng mang lại hiệu quả. Chính vì thế, ngồi việc
điều chỉnh những quy định về tuyển dụng, cần thiết phải điều chỉnh các quy định về quản
lý, sử dụng viên chức.
Trong phương thức tuyển dụng đặc biệt với người có tài năng và người có trình độ
chun mơn cao, cần quy định rõ những đối tượng nào được áp dụng thủ tục tuyển dụng
đặc biệt, ví dụ như người có trình độ chun mơn cao (chẳng hạn tiến sỹ), người được đào
tạo tại các cơ sở giáo dục danh tiếng trên thế giới, người được các giải thưởng uy tín về
chun mơn tầm cỡ quốc tế, quốc gia… Nên chăng, những đối tượng này chỉ cần được
người đứng đầu ĐVSNCL đồng ý ký hợp đồng làm việc là trở thành viên chức chứ không
cần thiết phải qua các thủ tục tuyển dụng.
17


Ngồi ra, cần xây dựng chính sách lương đặc biệt đối với người có tài năng và người
có trình độ chuyên môn cao để thu hút nguồn nhân lực này, có thể giao cho người đứng đầu
ĐVSNCL tự quyết định mức lương khởi điểm trên cơ sở quỹ lương của đơn vị.
Thi tuyển viên chức được thực hiện theo 2 vịng thi: vịng 1 được thực hiện trên máy
tính đã tạo được sự khách quan, công khai, minh bạch trong hoạt động tuyển dụng. Song,
cần sửa đổi, bổ sung quy định về tuyển dụng viên chức tại vòng 2 (thi môn nghiệp vụ
chuyên ngành). Đối với phần thi phỏng vấn, cần có quy định ghi âm, ghi hình và cho phép
phúc tra bài thi nhằm tạo căn cứ cho việc thanh tra, kiểm tra, đồng thời góp phần hạn chế

tình trạng thiếu khách quan, công khai, minh bạch trong quá trình phỏng vấn.
Cần thực hiện nghiêm ngun tắc cơng bằng, minh bạch trong tuyển dụng viên chức.
Nguyên tắc cạnh tranh trong tuyển dụng cũng phải được đề cao, kể cả khi ĐVSNCL có
điều kiện lựa chọn từ rất nhiều ứng viên dự tuyển. Đây là cơ sở để lựa chọn được người
xứng đáng nhất.

18



×