Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Xét xử sơ thẩm vụ án tranh chấp kinh doanh thương mại bằng tòa án trên địa bàn tỉnh đồng tháp (luận văn thạc sỹ luật)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (20.99 MB, 86 trang )

MỤC LỤC

Trang
Trang phụ bìa

Lời cam đoan
Mục lục

Danh mục ký hiệu, chữ viết tắt
MỞ ĐẦU.............................................................................................................1
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐÈ LÝ LUẬN VÈ THẨM QUYỀN
XÉT XỬ Sơ THÁM CỦA TOÀ ÁN TRONG GIẢI QUYÉT

TRANH CHẤP KINH DOANH, THƯƠNG MẠI............................ 7
1.1.

Khái quát về thẩm quyền của Tồ án và quy định trình tự,
thủ tục tố tụng trong hệ thống pháp luật......................................... 7

1.1.1. Khái quát về thẩm quyền của Toà án trong hệ thống pháp luật........... 7
1.1.2. Khái quát về nhũng quy định trình tự, thủ tục tố tụng trong hệ
thống pháp luật........................................................................................ 9
1.2.

Tranh chấp kỉnh doanh, thưoìig mại và thẩm quyền xét xử SO'

thẩm cùa Tòa án trong việc giẳi quyết tranh chấp kinh doanh,

thuơng mại............................................................................................ 11
1.2.1. Tranh chấp kinh doanh, thương mại................................................... 11
1.2.2. Vai trò của Tòa án trong việc xét xử tranh chấp kinh doanh,


thương mại............................................................................................ 17
1.3.

Pháp luật nước ngoài về phân định thấm quyền của Toà án

trong việc giải quyết TCKDTM........................................................ 25

TIỂU KẾT CHƯƠNG 1.................................................................................... 27
CHƯƠNG 2: những quy định của pháp luật vè thẩm

QUYỀN XÉT XỬ SO THẨM CỦA TỒ ÁN VIỆT NAM ĐĨI

VỚI CÁC TRANH CHẤP KINH DOANH, THƯƠNG MẠI VÀ
THỰC TIỄN THỰC THI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐÒNG THÁP.... 29


2.1.

Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Toà án trong việc giải quyết

tranh chấp kinh doanh, thương mại theo pháp luật Việt Nam

hiện hành.............................................................................................. 29
2.1.1. Thẩm quyền xét xử sơ thẩm theo loại việc của Tòa án....................... 29
Thẩmquyền xét xửsơ thẩm theo cấp xét xử của Toà án.................... 34

2.1.2.

2.1.3. Thẩm quyền xét xử sơ thẩm theo lãnh thổ của Toà án....................... 37
____


7

N

7

2.1.4. Thâm quyên xét xử sơ thâm theo sự lựa chọn của nguyên đơn của
nr _ s



Toà án...................................................................................................

2.2.

Thực tiên thực thi hành thâm quyên xét xử sơ thâm của Toà

án trong việc giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại
trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp............................................................. 42

2.2.1. Khái quát về tình hình kinh tế xã hội tỉnh Đồng Tháp........................42
2.2.2. Khái quát về tổ chức và hoạt động của Tòa án Nhân dân tỉnh
Đồng Tháp............................................................................................. 43
r

.

7


2.2.3. Một sô vụ xét xử sơ thâm án kinh doanh thương mại điên hình

trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp................................................................ 45
2.3.

Một số đánh giá về năng lực xét xử sơ thấm tranh chấp kinh
doanh thưong mại của Tòa án hai cấp tỉnh Đồng Tháp.................56

2.3.1. Việc thành lập Tòa kinh tế chuyên trách để xét xử sơ thẩm trach

chấp kinh doanh thương mại của Tòa án nhân dân 2 cấp tỉnh
Đồng Tháp cịn khó khăn.................................................................... 56

2.3.2. Năng lực xét xử tranh chấp kinh doanh, thương mại của Tòa án

còn han chế........................................................................................... 58

TIỂU KẾT CHƯƠNG 2...................................................................................
CHƯƠNG 3: MỘT SÔ GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO

HIỆU QUẢ XÉT XỬ Sơ THẤM CÁC TRANH CHẤP KINH
DOANH, THƯƠNG MẠI TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN HAI CẤP

TỈNH ĐỒNG THÁP.............................................................................61


3.2.

Một số kiến nghị.................................................................................. 67


3.2.1. Hoàn thiện các quy định pháp luật....................................................... 67
3.2.2. Một số kiến nghị đối với Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp............... 72

TIỂU KẾT CHƯƠNG 3.................................................................................... 75
KẾT LUẬN...................................................................................................... 76

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................... 79


DANH MỤC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TÁT

BLTTDS:

Bộ Luật Tố tụng dân sự

CHXHCNVN:

Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam

ICC:

Phòng thương mại quốc tế

ICSID:

Trung tâm giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế

KDTM:

Kinh doanh, thương mại


TCKDTM:

Tranh chấp kinh doanh, thương mại

UNCITRAL:

Luật thương mại quốc tế

WTO:

Tồ chức thương mại thế giới


MỞ ĐÀU
1. Tính câp thiêt của việc nghiên cứu đê tài
Trong điều kiện kinh tế ngày càng phát triển đặc biệt khi nước ta đã gia

nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), các quan hệ kinh doanh, thương

mại (KDTM) ngày càng đa dạng, phong phú và mang những diện mạo sắc
thái mới. Tương ứng với sự đa dạng phong phú của các quan hệ này, các tranh

chấp kinh doanh, thương mại (TCKDTM) ngày càng mn hình mn vẻ và
với số lượng lớn.
Đáp ứng yêu cầu giải quyết các TCKDTM của cá nhân, tổ chức trong
nền kinh tế thực tiễn đã hình thành nhiều phương thức giải quyết TCKDTM

như: thương lượng, hòa giải, giải quyết theo thủ tục Trọng tài, giải quyết theo
thủ tục tư pháp. Ỏ Việt Nam các đương sự thường lựa chọn hình thức giải

quyết TCKDTM bằng Toà án như một giải pháp cuối cùng để bảo vệ có hiệu
quả các quyền và lợi ích của mình khi thất bại trong việc sử dụng cơ chế

thương lượng, hoà giải. Tuy nhiên, việc giải quyết tranh chấp bằng con
đường Tồ án vẫn cịn nhiều vấn đề đáng quan tâm đó là: vướng mắc từ phía

pháp luật chưa phù hợp, dẫn đến việc áp dụng khơng đạt được tính thuyết
phục; hướng dẫn của ngành không thống nhất, quan điểm giải quyết không
thống nhất giữa các cấp giải quyết, điều đó làm cho hoạt động xét xử của

Tồ án gặp nhiều khó khăn vướng mắc. Mặc dù năm 2015 Bộ luật Tố tụng
dân sự (BLTTDS) đã được sửa đổi, bổ sung, nhưng các quy định của pháp

luật về thẩm quyền giải quyết TCKDTM của Tòa án vẫn chưa được khắc
phục. Hơn nữa, trong Nhà nước pháp quyền cũng đòi hỏi hoạt động xét xử
của Tồ án phải đảm bảo cơng minh, nhanh chóng, chính xác và kịp thời

tránh tình trạng tồn đọng án, giải quyết án kéo dài, dễ gây phiền hà, mệt mỏi
cho các bên đương sự.


Trong giai đoạn hiện nay, cùng với việc tiêp tục đây nhanh quá trình

cải cách kinh tế và cải cách nền hành chính quốc gia, cơng cuộc cải cách tư

pháp cũng đang được Đảng và Nhà nước tích cực triển khai, coi đây như là
khâu đột phá quan trọng, thúc đấy q trình xây dựng và hồn thiện Nhà nước
pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Điều này được thể hiện rõ nét trong
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 về “chiến lược cải cách


tư pháp đến năm 2020”. Công cuộc cải cách tư pháp ở nước ta đã và đang đặt
ra một loạt vấn đề lý luận và thực tiễn cần được giãi quyết một cách hợp lý và

thố đáng, trong đó có vấn đề xây dựng và hồn thiện pháp luật kinh tế nói
chung cũng như tạo lập khuôn khồ pháp lý điều chỉnh pháp luật bảo vệ quyền

và lợi ích hợp pháp, chính đáng cho các chủ thể kinh doanh, kể cả việc giải

quyết vấn đề đặt ra về tố tụng kinh tế, dân sự nói riêng sao cho thích hợp hiện

cũng cần được quan tâm thích đáng nhằm tìm ra phương hướng giải quyết
đúng đắn, nâng cao hiệu quả điều chỉnh của pháp luật, đáp ứng yêu cầu mới
đặt ra trong giai đoạn hiện nay. Nói một cách khác, vấn đề đặt ra là làm thế
nào đế nâng cao hiệu lực và hiệu quả của hoạt động xét xử của Toà án đối với
việc giải quyết các TCKDTM. Đây là một trong số những nội dung cơ bản,

quan trọng trong việc cải cách và trên nền tảng đó, hồn thiện cơ chế bảo vệ
quyền lợi ích họp pháp của cơng dân, cơ quan, tổ chức, góp phần thúc đẩy

phát triển kinh tế, giữ vững an ninh chính trị và hội nhập quốc tế.
Trước những yêu cầu của thực tiễn, việc tiếp tục nghiên cứu các quy

định của pháp luật về thẩm quyền của Tịa án trong việc giải quyết
TCKDTM nhằm góp phần làm sáng tỏ thêm về lý luận cũng như thực tiễn,

tìm ra những hạn chế, vướng mắc trong quy định pháp luật và thực tiễn thi
hành, từ đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu
quả công tác giải quyết các vụ án kinh tế theo tinh thần cải cách tư pháp là
hết sức cần thiết và vẫn có tính thời sự, rất được quan tâm trong khoa học


pháp lý ở Việt Nam hiện nay.

2


Do vậy, tác giả đã chọn đê tài “Xét xử sơ thâm vụ án tranh châp kinh

doanh thương mại bằng tòa án trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp" để làm luận
văn thạc sĩ Luật học của mình.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong lĩnh vực khoa học pháp lý đã có nhiều cơng trình, bài viết nghiên

cứu về vấn đề thẩm quyền của Tòa án trong việc giải quyết TCKDTM theo
những khía cạnh khác nhau như:

Giảo trình Luật thương mại, Đại học Luật Hà Nội, năm 2016; Giáo
trình Luật kinh tế Việt Nam, Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2001 ... Các bài

tạp chí chuyên ngành luật học như: Gíảí quyết TCKDTM theo quy định của
BLTTDS 2015 (Viên Thế Giang, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 12/2005);
Thâm quyền giải quyết các tranh chấp kinh doanh theo BLTTDS và các vấn

đề đặt ra trong thực tiễn thi hành (Phan Chí Hiếu, Tạp chí Nhà nước và Pháp
luật số 6/2005); Một số kiến nghị liên quan đến quy định về thảm quyền giải

quyết TCKDTM theo Điều 29 BLTTDS (ThS.Nguyễn Thị Vân Anh - Giảng
viên khoa Đào tạo Thẩm phán Học viện Tư pháp); Giải quyết tranh chấp
thương mại quốc tế bằng con đường Tịa án (Nguyễn Vũ Hồng, NXB Thanh


niên, năm 2003)... Các luận án tiến sỹ như luận án “Pháp luật giải quyết tranh

chấp kinh tế bằng con đường Toà án ở Việt Nam" của tác giả Nguyễn Thị
Kim Vinh; luận án “Thẩm quyền xét xử của Toà án nhân dân đổi với các vụ

việc KDTM theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam" cùa tác giả Nguyễn Văn

Tiến. Một số luận văn thạc sĩ liên quan đến vấn đề thẩm quyền của Tòa án
trong việc giải quyết TCKDTM như: “Một số giải pháp nâng cao hiệu quả

giải quyết TCKDTM tại Tòa án nhân dân cấp huyện ” của tác giả Nguyễn Vũ
Hoàng; “Giải quyết tranh chấp thương mại bằng Tòa án theo tinh thần cải
cách tư pháp ở Việt Nam" của tác giả Vũ Quốc Hùng...
Các cơng trình trên đã góp phần quan trọng vào việc hoàn thiện hệ

3


thơng pháp luật Việt Nam vê thâm qun cùa Tịa án trong việc giải quyêt

TCKDTM trong thời gian qua. Tuy nhiên, các công trinh nghiên cứu trên đều

chưa tập trung đưa ra các giãi pháp để hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu
quả của hoạt động giải quyết TCKDTM. Hơn nữa nhiều vấn đề lý luận và
thực tiễn đang tiếp tục được đặt ra và có nhu cầu giải quyết hoặc chưa được

cập nhật trong pháp luật hiện hành. Đây là vấn đề cấp thiết đặt ra trong tiến
trình hồn thiện hệ thống pháp luật nói chung, hệ thống pháp luật kinh tế nói

riêng ở nước ta.

3. Mục
đích và nhiệm
vụ• nghiên
cứu của đề tài




3.1. Mục đích

Trên cơ sở nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành liên quan
trực tiếp đến vấn đề thẩm quyền của Toà án trong việc giải quyết TCKDTM

mục đích của luận văn là đưa ra các giải pháp để nâng cao hiệu quả của pháp

luật về thẩm quyền của Tòa án trong việc giải quyết TCKDTM nói riêng và

pháp luật giải quyết TCKDTM nói chung nhằm đảm bảo mọi TCKDTM đều
được giải quyết một cách thuận lợi và triệt để.
3.2. Nhiệm
vụ•


Đe tài nghiên cứu có nhiệm vụ làm sáng tỏ các vấn đề cơ bản sau:

- Hệ thống được cơ sở lý luận, quan điểm khoa học, nhận thức chung về
thẩm quyền xét xử của Toà án nhân dân trong việc giải quyết TCKDTM. Đây là
cơ sở khoa học làm cơ sở cho việc xác định thẩm quyền tư pháp nói chung và

thấm quyền xét xừ đối với các vụ việc KDTM nói riêng.


- Phân tích nội dung các quy định của pháp luật hiện hành về thẩm
quyền của Toà án trong việc giải quyết các TCKDTM. Thực tiễn thi hành

pháp luật, trên cơ sở đó chỉ ra những bất cập, hạn chế, vướng mắc trong thực
thi pháp luật về thẩm quyền của Toà án trong việc giải quyết các TCKDTM.

- Hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền của Toà án trong việc giải quyết

4


TCKDTM nhăm hồn thiện cơng cụ pháp lý trong lĩnh vực kinh doanh, tiên
đề cho cải cách tư pháp, tiến tới xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa, xã hội dân chủ, bình đẳng, văn minh.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đoi tượng nghiên cứu của luận văn'. Là các quy phạm pháp luật hiện hành

liên quan trực tiếp đến vấn đề thẩm quyền của Toà án trong việc giải quyết
TCKDTM mà đặc biệt là BLTTDS 2015 đã quy định và thực tiễn xét sử sơ thẩm

các tranh chấp thương mại trên địa bàn tình Đồng Tháp.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài: nghiên cứu pháp luật thực định Việt
Nam về thẩm quyền giải quyết TCKDTM ở Tòa án cấp sơ thẩm cấp

TCKDTM, cụ thể là BLTTDS 2015 về thẩm quyền của Tòa án trong việc giải
quyết TCKDTM, khái quát sơ lượt những quy định trình tự, thù tục tố tụng và


các văn bản có liên quan về thực tiễn xét xử sở thẩm các TCKDTM ở trên địa

bàn tỉnh Đồng Tháp.
5. Phương pháp nghiên cứu

Các phương pháp được sử dụng chủ yếu để nghiên cứu đề tài bao gồm
các phương pháp nghiên cứu khoa học nói chung và phương pháp nghiên cứu
khoa học pháp lý nói riêng như phương pháp phân tích, tổng hợp, đối chiếu,
so sánh, hệ thống hóa pháp luật, phương pháp phân loại...

6. Tính mói và những đóng góp của đề tài
Đề tài nghiên cứu một cách toàn diện về cả lý luận và thực tiễn vấn

đề, xác định những hạn chế, bất cập của pháp luật Việt Nam về thẩm quyền

xét xử sơ thẩm của Tòa án trong việc giải quyết TCKDTM trên địa bàn tỉnh

Đồng Tháp. Tác giả của luận văn với mong muốn đây là cơng trình nghiên
cứu có ít nhiều giá trị về mặt lý luận cũng như thực tiễn đế làm tài liệu
tham khảo cho các hoạt động xét xử các vụ TCKDTM trên thực tiễn ở

Đồng Tháp, góp phần nâng cao hiệu quả giải quyết TCKDTM bằng Tòa án.

5


7. Kết cấu của luận văn

Ngồi lời nói đầu và kết luận, luận văn bao gồm 3 chương:
F


r

x

\

9

x

r

9

Chương 1. Một sô vân đê lý luận vê thâm quyên xét xử sơ thâm của

Toà án trong việc giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại.
Chương 2. Những quy định cũa pháp luật về thẩm quyền xét xử sơ

thấm của Toà án Việt Nam đối với các tranh chấp kinh doanh, thương mại và
thực tiễn thực thi trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp.

Chương 3. Một sô giải pháp, kiên nghị nhăm nâng cao hiệu quả xét xử
sơ thẩm các tranh chấp kinh doanh, thương mại tại tòa án nhân dân hai cấp

tỉnh Đồng Tháp.

6



Chương 1
MỘT
SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VỀ


THẨM QUYỀN XÉT xử sơ THẨM CỦA TOÀ ÁN

TRONG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH, THƯƠNG MẠI

1.1. Khái quát về thấm quyền của Toà án và quy định trình tự, thủ
tục tố tụng trong hệ thống pháp luật

1.1.1. Khái quát về thẩm quyền của Toà án trong hệ thống pháp luật
Thẩm quyền là quyền xem xét để kết luận và định đoạt một vấn đề theo

pháp luật [47, tr. 922]. về mặt pháp lý, thẩm quyền là một quyền năng thi
hành trao cho một cơ quan được thiết lập chính thức bởi pháp luật hay một

lãnh đạo chính trị để giải quyết và đưa ra những tuyên bố về những vấn đề

pháp lý và để đảm bảo công lý trong phạm vi lãnh thổ cụ thể.
Thẩm quyền là giới hạn nhiệm vụ, quyền hạn của các chủ thể nhất định

(cá nhân, tổ chức) và được quyết định khi thực hiện các hoạt động thuộc thẩm
quyền. Thẩm quyền gắn liền với bộ máy nhà nước và các cá nhân cỏ thẩm
quyền khi thực hiện các hoạt động trong phạm vi, quyền hạn.

Thẩm quyền của Tòa án được quy định trong Hiến pháp 2013, Luật Tổ


chức Toà án Nhân dân năm 2014, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, BLTTDS

2015, Luật Tố tụng hành chính năm 2015 và các văn bản pháp luật khác. Theo
quy định của những văn bản pháp luật nêu trên thì Tồ án là cơ quan xét xử duy
nhất của nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam (CHXHCNVN), chức
năng xét xử của Toà án là chức năng cơ bản và quan trọng nhất, nỏ bao trùm
và xuyên suốt quá trình hoạt động của Toà án. Điều 120 Hiến pháp 2013 “Tòa
án nhân dân gồm Tòa án nhân dân tối cao và các Tòa án khác do Luật định”;

Khoản 2 Điều 2 Luật Tố chức Toà án Nhân dân 2014 quy định Tòa án nhân

danh nước CHXHCNVN xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hơn nhân và gia

7


đình, KDTM, lao động, hành chính và giải qut các việc khác theo quy định
của pháp luật.

Qua đó, thẩm quyền của Tòa án trong hệ thống pháp luật được hiểu với
những cấp độ và nội dung khác nhau. Cụ thể:
Thẩm quyền của Tòa án là phạm vi quyền hạn của Tòa án trong việc

thực hiện pháp luật mà trọng tâm là công tác xét xử các loại vụ án theo quy
định cùa pháp luật. Theo đó tùy thuộc vào quyền hạn do luật định, Tòa án các

cấp, các Tòa án khác nhau trong hệ thống Tịa án, có phạm vi quyền hạn khác
nhau trong việc xét xử các loại vụ án. Giới hạn thẩm quyền căn cứ vào nhu


cầu điều chỉnh pháp luật từ thực tiễn khách quan, khả năng điều kiện của các
Tòa án trong việc thực thi nhiệm vụ cũng như hiệu quả của hoạt động đó.

Bên cạnh đó, thẩm quyền của Tịa án cịn là sự phân định quyền hạn
giữa Tòa án Nhãn dãn và các cơ quan chức năng khác trong hệ thống các cơ
quan nhà nước. Theo luật định mồi hệ thống cơ quan nhà nước có chức năng,
nhiệm vụ riêng thực hiện các cơng việc do nhà nước giao phó. Sự phân cơng
này nhằm đảm bảo tính chun mơn, chun nghiệp hóa; phân định lĩnh vực

hoạt động của các cơ quan nhà nước. Tòa án Nhân dân với chức năng là cơ

quan xét xử, có trách nhiệm giải quyết các xung đột trong đời sống xã hội
xâm phạm đến lợi ích nhà nước, cơng dân được quy định trong pháp luật. Tịa

án khơng thực hiện chức năng điều hành quản lý nhà nước như các cơ quan

hành chính hoặc chun mơn khác thuộc hệ thống cơ quan nhà nước.
Từ những phân tích trên, theo tác giả thẩm quyền của Tòa án là phạm
vi giới hạn hoạt động của Tòa án và quyền năng pháp lý của Tịa án có mối
liên quan chặt chẽ với nhau bao gồm thẩm quyền xét xử, phạm vi - giới hạn

xét xử và quyền hạn quyết định của Tòa án.

Luận văn này tập trung vào xem xét về thực hành quyền xét xử sơ thẩm
của tòa án trên một địa phương là tỉnh Đồng Tháp.

8


1.1.2. Khái quát về những quy định trình tự, thủ tục tấ tụng trong hệ

thong pháp luật
- Trình tự, thủ tục xét xử theo BLTTDS 2015
Được quy định trong Phần thứ hai của BLTTDS 2015: Thủ tục giải

quyết vụ án tại tòa án cấp sơ thẩm (Từ chương 12 đến chương 14 BLTTDS
2015). Gồm có:
+ Khởi kiện và thụ lý vụ án quy định từ Điều 186 đến Điều 202

BLTTDS 2015
Đổi với khởi kiện vụ án: Khởi kiện vụ án kinh tế là yêu cầu Toà án giải

quyết các tranh chấp trong KDTM.
Đối với thụ lý vụ án: Thụ lý vụ án kinh tế là một thủ tục pháp lý khẳng

định sự chấp nhận của Tòa án đối với việc giải quyết vụ án. Sau khi nghiên
cứu đơn khởi kiện và các tài liệu có liên quan Tồ án sẽ tiến hành thụ lý vụ án

nếu thấy vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của mình. Để tiến hành thụ lý vụ
án, Toà án sẽ dự định số tiền tạm ứng án phí và thơng báo cho người khởi

kiện u cầu nộp tiền tạm ứng án phí.

Sau khi thụ lý vụ án Tồ án phân cơng một Thấm phán giải quyết vụ
án, đồng thời thông báo bằng văn bản cho bị đơn, cá nhân, đơn vị có liên

quan và cho Viện kiểm sát cùng cấp biết.
Khi nộp cho Toà án văn bản ghi ý kiến cùa mình, bị đơn có quyền phản

tố trong một số trường hợp: Yêu cầu phản tố để bù trừ nghĩa vụ với yêu cầu
của nguyên đơn, yêu cầu phản tố được chấp nhận dẫn đến loại trừ việc chấp

nhận một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn, giữa yêu cầu phản tố và

yêu cầu của nguyên đơn có sự liên quan với nhau.
+ Thủ tục hòa giải và chuẩn bị xét xử quy định từ Điều 203 đến Điều

221 BLTTDS 2015

Hòa giải chuẩn bị xét xử là khoảng thời gian chuẩn bị xét xử được tính

từ ngày Tồ án thụ lý vụ án đến ngày Toà án ra quyết định đưa vụ án ra xét

9


xử. Đây là khoảng thời gian cân thiêt đê Toà án tiên hành lập hô sơ, xác minh
thu thập chứng cứ, hoà giải giữa các bên tranh chấp và xem xét để đưa vụ án
ra xét xử. Trong thời hạn chuẩn bị xét xử, tuỳ từng trường hợp Tòa án có

quyết định sau:

Cơng nhận sự thoả thuận của các đương sự.
Tạm đình chỉ giải quyết vụ án.
Đình chỉ giải quyết vụ án.

Đưa vụ án ra xét xử.
+ Phiên tòa sơ thẩm: Quy định chung về phiên tòa sơ thẩm quy định

từ Điều 222 đến Điều 238 BLTTDS 2015.
Thành phần hội đồng xét xử phiên toà sơ thấm: Hội đồng xét xử gồm
có 1 Thẩm phán, 2 Hội thẩm nhân dân, trường họp đặc biệt thì có 2 Thẩm


phán, 3 Hội thẩm nhân dân.
Sự có mặt của đương sự tại phiên tồ.

Đương sự phải có mặt tại phiên tồ khi Tồ án xét xử vụ án. Tuy nhiên,

trên thực tế vì một số nguyên nhân khách quan nên họ không thể có mặt tại

phiên tồ. Trường hợp vắng mặt lần thứ nhất có lý do chính đáng thì Tồ án
phải hỗn phiên tồ để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho họ. Khi ấy
đương sự phải có đơn đề nghị tồ xét xử vắng mặt, hoặc đã có người đại diện

họp pháp tại phiên tồ. Tuy nhiên, có trường hợp đương sự cố tình tránh mặt
để trốn tránh nghĩa vụ, nên sự vắng mặt lần 2 phải được xem xét cụ thể.

Nếu nguyên đơn đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ 2 mà vẫn vắng
mật thì bị coi là từ bỏ vụ kiện, Toà án quyết định đình chỉ giải quyết vụ án.

Trong trường hợp này, nguyên đơn có quyền khởi kiện lại nếu cịn thời
hiệu khởi kiện.
Neu bị đơn đã được triệu tập họp lệ đen lần thứ 2 mà vẫn vang mặt thì
tồ án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt họ.

10


Người có quyên lợi, nghĩa vụ liên quan đã được triệu tập hợp lệ đên lân
thứ 2 mà vẫn vắng mặt thì Tồ án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt họ.
Sự có mặt của Kiểm sát viên.
Kiếm sát viên chỉ có bắt buộc phải tham gia phiên tồ đối với những vụ


án do Toà án thu thập chứng cứ, mà đưcmg sự có khiếu nại.
+ Thủ tục bắt đầu phiên tòa quy định từ Điều 239 đến Điều 246

BLTTDS 2015. Xét hỏi tại phiên toà.
+ Tranh tụng tại phiên tòa quy định từ Điều 247 đến Điều 263

BLTTDS 2015. Tranh luận tại phiên toà.
+ Nghị án và tuyên án quy định từ Điều 264 đến Điều 269 BLTTDS

2015. Ra quyết định hoặc bản án.

1.2. Tranh chấp kinh doanh, thương mại và thẩm quyền xét xử sơ
thẩm ciía Tịa án trong việc giăi quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại

1.2.1. Tranh chấp kinh doanh, thương mại
1.2.1.1. Khải niệm tranh chấp kinh doanh, thương mại

Tranh chấp được hiểu là sự mâu thuẫn hoặc bất đồng (tranh cãi); sự
mâu thuẫn về các quyền yêu cầu hay quyền, sự đòi hỏi về quyền yêu cầu hay
đòi hỏi từ một bên được đáp lại bởi một yêu cầu hay lập luận trái ngược cùa

bên kia [8, tr. 9],

TCKDTM là một thuật ngữ pháp lý mới xuất hiện cùng với sự ra đời

của BLTTDS năm 2004 thay thế cho thuật ngữ tranh chấp kinh tế, “ một khái
niệm quen thuộc của cơ chế kế hoạch hóa đã ăn sâu vào tiềm thức và tư duy
pháp lý người Việt Nam” [44, tr. 427],


Tranh chấp kinh tế theo tư duy cũ quy định tại Điều 12 cùa Pháp lệnh

Thủ tục giải quyết các vụ án Kinh tế năm 1994, bao gồm:

- Các tranh chấp về hợp đồng kinh tế giữa pháp nhân với pháp nhân,
giữa pháp nhân với cá nhân có đăng ký kinh doanh.

11


-Tranh châp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các
thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải
thể công ty.

- Các tranh chấp liên quan đến mua bán cổ phiếu, trái phiếu.
- Các tranh chấp khác theo quy định của pháp luật.
Với quy định này, khái niệm tranh chấp kinh tế vẫn không bao quát hết

các tranh chấp phát sinh trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, ví dụ như

tranh chấp về hợp đồng có mục đích kinh doanh giữa hai doanh nghiệp tư

nhân với nhau không được xem là tranh chấp kinh tế mà xem là tranh chấp
dân sự. Điều này dẫn đến khơng có sự phân biệt rõ ràng giữa tranh chấp kinh
tế và tranh chấp dân sự.

Hiện nay ở Việt Nam chưa có cách hiểu chuẩn xác và thống nhất về
TCKDTM. Việc xác định phạm vi của tranh châp được coi là TCKDTM chủ
yếu căn cứ vào luật thực định.


Theo giải thích tại Khoản 21 Điều 4 Luật Doanh nghiệp 2020 thì:
“Kinh doanh là việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả cơne đoạn của








c J



q trình từ đầu tư, sản xuất đến tiêu thụ sản phãm hoặc cung ứng dịch vụ
trên thị trường nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận ”
Khoản 1 Điều 3 Luật Thương mại năm 2005 định nghĩa: “hoạt động

thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng
hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xủc tiến thương mại và các hoạt động nhằm
mục đích sinh lợi khác
Có thể thấy khái niệm kinh doanh theo Luật Doanh nghiệp 2020 và

khái niệm thương mại theo Luật Thương mại 2005 về cơ bản là tương thích

với nhau và cũng phù hợp với khái niệm thương mại theo luật mẫu về thương
mại điện tử của UNCITRAL:
Thuật ngữ thương mại được diễn giãi theo nghĩa rộng để bao quát các

12



vấn đề nảy sinh từ mọi quan hệ thương mại, dù có hay khơng có hợp đồng.
Các mối quan hệ mang tính thương mại bao gồm nhưng khơng phải chỉ bao

gồm, các giao dịch sau đây: bất cứ giao dịch thương mại nào về cung cấp
hoặc trao đổi hàng hóa hoặc dịch vụ; thỏa thuận phân phối; đại diện hoặc đại

lý thương mại; ủy thác hoa hồng, cho thuê dài hạn, xây dựng các cơng trình;
đầu tư; cấp vốn; ngân hàng; bảo hiểm; thỏa thuận khai thác hoặc tô nhượng;
liên doanh hoặc các hình thức về hợp tác cơng nghiệp hoặc kinh doanh;

chuyên chở hàng hóa hay hành khách bằng đường biển, đường không, đường

sắt hoặc đường bộ [46].
Với cách định nghĩa trên hoạt động kinh doanh và hoạt động thương

mại có nhiều nội hàm trùng nhau như về mục đích sinh lợi, về đầu tư, về cung

ứng dịch vụ, về tiêu thụ sản phẩm ... Như vậy, có thể quan niệm TCKDTM là
những mâu thuần, bất đồng giữa các chủ thể phát sinh trong hoạt động thực

hiện liên tục một, một số hoặc tồn bộ q trình đầu tư từ sản xuất đến tiêu

thụ sản phấm, cung ứng các dịch vụ trên thị trường, xúc tiến thương mại và

các hoạt động sinh lợi khác. Nói một cách ngắn gọn hơn, có thể định nghĩa
TCKDTM là những mâu thuẫn, bất đồng về quyền lợi giữa các chủ thể phát
sinh trong hoạt động KDTM.
Cách định nghĩa trên có hạn chế là tuy chỉ ra được bản chất của

TCKDTM là mâu thuần về quyền lợi phát sinh khi tham gia hoạt động

KDTM nhưng lại khơng cho thấy biểu hiện của nó. Trong quan hệ kinh
doanh, giữa các bên luôn tồn tại đồng thời hai mối quan hệ vừa xung đột,
vừa hợp tác. Để xác định chính xác khi nào những xung đột lợi ích này

chuyển thành tranh chấp thì cần phải dựa vào những dấu hiệu biểu hiện của

nó. Dấu hiệu đó là khi một bên cho rằng quyền và lợi ích của mình bị vi
phạm u cầu phía bên kia khắc phục nhưng khơng nhận được sự đồng ý. Vì

vậy, theo cách này, cịn có một cách định nghĩa khác đó là “TCKDTM xảy

13


ra khi một bên trong quan hệ KDTM khăng định một trải quyên mà lại bị
bên khác chổng lại” [12].

Từ các định nghĩa trên có thể nêu ra khái niệm TCKDTM như sau:
“TCKDTM là những mâu thuẫn, bất đồng về quyền lợi giữa các bên trong

quan hệ KDTM khi một bên khẳng định trái quyền của mình mà lại bị bên

khác chổng lại ”.
Mỗi cách định nghĩa đều có hạt nhân hợp lý của mình, vấn đề là sử
dụng thuật ngữ thống nhất trong tất cả các văn bản pháp luật. Và thuật ngữ đó

khơng thể bó hẹp nội dung cụ thể của tranh chấp mà mang tính bao quát, tiên
liệu các TCKDTM trong sự biến động của đời sống kinh tế hiện nay, nhưng

lại xác định chính xác loại tranh chấp. Đặc biệt, xây dựng hệ thống pháp luật

giải quyết tranh chấp này thật hiệu quả là vấn đề thực tế đặt ra.
1.2.1.2. Giải quyết tranh chẩp kinh doanh, thương mại - Các phương

thức cơ bản
TCKDTM là hệ quả phát sinh từ các quan hệ KDTM, các quan hệ có

tính tài sản với mục đích kinh doanh, kiếm lời. Khi tham gia các quan hệ
KDTM, các chù thể đều hướng đến mục đích cao nhất là lợi nhuận, lợi ích

kinh tế. Do vậy, TCKDTM phát sinh trên cơ sở sự xâm phạm đến quyền lợi
kinh tể. Các tranh chấp này thường có ảnh hưởng đến khơng những quyền lợi
của các bên tranh chấp mà còn ảnh hưởng đến sản xuất, kinh doanh của cả

cộng đồng kinh doanh. Đây chính là phản ứng dây chuyền của TCKDTM và
do vậy nếu nó khơng được giải quyết một cách khoa học, bảo đảm quyền lợi

của các bên trong quan hệ tranh chấp thì có thể ảnh hướng tiêu cực đến sự

phát triển của nền kinh tế đất nước.

Giải quyết TCKDTM theo nghĩa chung nhất có thể hiểu là cách thức,
phương pháp cũng như các hoạt động để khắc phục và loại trừ các tranh chấp

phát sinh, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cùa các chủ thế kinh doanh,
bảo vệ trật tự kỷ cương xã hội [13, tr. 287].

14



Hoạt động KDTM có những đặc thù riêng cho nên khi tranh châp xảy
ra các bên tranh chấp luôn mong muốn nhanh chóng chấm dứt xung đột để
bão vệ hoặc khơi phục quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Do đó, việc giải
quyết TCKDTM cần đáp ứng một số u cầu sau:

- Nhanh chóng, thuận lợi, khơng làm cản trở các hoạt động kinh doanh
- Khôi phục và duy trì các quan hệ hợp tác, sự tín nhiệm giữa các bên
trong kinh doanh

- Giữ bí mật kinh doanh, uy tín của các bên trên thương trường
- Kinh tế nhất, ít tốn kém nhất cả về thời gian, tiền bạc, sức lực
Việc lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp nói riêng cũng như
mọi vấn đề liên quan đến quá trình giải quyết các tranh chấp trong kinh
doanh nói chung dựa trên nguyên tấc quan trọng là quyền tự định đoạt của

các bên. Cơ quan nhà nước và Trọng tài thương mại can thiệp theo yêu cầu
của các bên tranh chấp, kể cả khi Tòa án hoặc Trọng tài đã can thiệp trong

quá trình tố tụng, quyền tự định đoạt biểu hiện bằng những hành vi đơn

phương hoặc thỏa thuận của các bên luôn được ghi nhận và tôn trọng. Quyền

tự định đoạt của các bên được coi là một nội dung của quyền tự do kinh
doanh và được pháp luật bảo hộ.

Xuất phát từ quyền tự do kinh doanh, trong đó bao hàm quyền tự do lựa
chọn phương thức giải quyết tranh chấp, các bên tranh chấp có quyền lựa chọn

phương thức giải quyết tranh chấp phù hợp nhất cho mình. Có 4 phương thức


giải quyết tranh chấp cơ bản đó là: thương lượng, hịa giải, Trọng tài và Tòa án.
Các phương thức này được thừa nhận rộng rãi ở các nước trên thế giới. Ớ Việt

Nam, các phương thức này được ghi nhận trong Điều 317 Luật Tương mại
2005, Điều 30 Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, Nghị định 22/2017/NĐ-

CP về hòa giải thương mại và Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án 2020.

Giải quyết TCKDTM bằng thương lượng là hình thức giải quyết

15


TCKDTM được tiên hành giữa các bên (hoặc đại diện của các bên) tranh

chấp để cùng tìm ra và đi đến những thỏa thuận thống nhất bằng những

giãi pháp phù hợp với tất cả các bên nhằm chấm dứt những tranh chấp

trong hoạt động kinh doanh.

Giải quyết TCKDTM bằng hòa giải ngồi tịa án là phưong thức giải
quyết TCKDTM có sự tham gia của bên thứ ba giữ vai trò trung gian hòa giải
nhằm giúp cho các bên tranh chấp thu hẹp những bất đồng và đi đến giải pháp

giải quyết vụ tranh chấp. Bên thứ ba (hay còn gọi là hòa giải viên) do các bên
tranh chấp thỏa thuận lựa chọn làm trung gian hịa giải khơng có quyền quyết

định hay áp đặt ý chí cùa mình lên các bên tranh chấp. Tuy nhiên, hòa giãi viên


là người am hiếu pháp luật, có kỹ năng hịa giải, có kiến thức chuyên môn liên
quan đến lĩnh vực tranh chấp sẽ đỏng vai trò quan trọng trong việc giúp cho các

bên tranh chấp tìm kiếm nhũng giải pháp thích họp cho việc giải quyết tranh

chấp, cịn giải pháp có đạt được hay không là do các bên tranh chấp quyết định.

Giải quyết TCKDTM bằng Trọng tài là hình thức giải quyết tranh chấp
thông qua hoạt động của Trọng tài viên (hoặc Hội đồng Trọng tài), với tư cách là
bên thứ ba độc lập nhằm chấm dứt xung đột bằng việc đưa ra một phán quyết
buộc các bên tranh chấp phải thực hiện. Cơ sở làm phát sinh thấm quyền của

Trọng tài là sự thỏa thuận của các bên tranh chấp. Khoản 1, Điều 5 của Luật
Trọng tài thương mại 2010 quy định: “Tranh chấp được giải quyết bằng Trọng

tài nếu các bên có thoả thuận Trọng tài. Thỏa thuận Trọng tài có thể được lập

trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp”. Thỏa thuận Trọng tài phải được lập thành
văn bản, có thể ghi trong hợp đồng chính hoặc bằng văn bản riêng.

G/ảỉ' quyết TCKDTM bằng Tòa án là phương thức giải quyết tranh
chấp tại cơ quan xét xử nhân danh quyền lực nhà nước, được tiến hành theo
trình tự, thủ tục nghiêm ngặt, chặt chẽ và bản án hay quyết định của Tịa án

về vụ tranh chấp nếu khơng có sự tự nguyện tuân thủ sẽ được đảm bào thi

16



hành băng sức mạnh cưỡng chê của nhà nước [44, tr. 465], Tòa án là cơ
quan tài phán kinh tế duy nhất có quyền nhân danh quyền lực nhà nước tiến
hành xét xử các vụ TCKDTM. Đặc điểm này thể hiện vai trò của nhà nước
trong việc tạo lập nên những thiết chế quyền lực nhằm giải quyết những

mâu thuẫn bất đồng trong kinh doanh, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp

cùa các chủ thể trong nền kinh tế, góp phần xây dựng mơi trường kinh
doanh lành mạnh.

1.2.2. Vai trò của Tòa án trong việc xét xử tranh chấp kinh doanh,
thương mại
1.2.2.1. Vai trò của Tòa án so với các phương thức khác trong giải

quyết tranh chap kinh doanh, thương mại
Có rất nhiều lý do để các bên tranh chấp trong KDTM lựa chọn những

hình thức giải quyết tranh chấp phù hợp với yêu cầu của mình:
Đối với phương thức giải quyết TCKDTM bằng thương lượng. Thông

thường là phương thức được các bên tranh chấp lựa chọn trước tiên khi tranh

chấp xảy ra. Bởi vì nó đơn giản lại không bị ràng buộc bởi các thủ tục pháp lý
phiền phức, ít tốn kém về chi phí và thời gian cho các bên, không làm phương
hại đến quan hệ họp tác vốn có giữa các bên trong kinh doanh và vẫn đảm bảo
được bí quyết kinh doanh và uy tín của các bên trên thương trường. Tuy nhiên

thương lượng lại phụ thuộc vào khả năng cũng như kỹ năng đàm phán thương
lượng, ý chí của các bên tranh chấp. Do đó, nếu một bên trong thương lượng


khơng có thiện chí họp tác, lợi dụng hình thức thương lượng để kéo dài thời
gian thực hiện nghĩa vụ, thì thương lượng chỉ làm tốn kém và kéo dài thời
gian hơn. Mặt khác, thỏa thuận thương lượng chưa có sự điều chỉnh pháp lý
rõ ràng. Nó chì được quy định chung chung là một hình thức giải quyết tranh

chấp (Điều 317 Luật Thương mại 2005) mà không được quy định chi tiết về
thủ tục, cách thức và trình tự vì vậy một bên có thể lợi dụng thương lượng

17


băng cách kẻo dài quá trình thương lượng hoặc trì hoãn việc thực hiện thỏa
thuận thương lượng đã đạt được giữa các bên để làm cho bên kia mất quyền

khởi kiện tại Tòa án.
Đối với phương thức giải quyết bằng hòa giải. Bên cạnh những ưu

điểm như giải quyết bằng thương lượng như: nhanh chóng, linh hoạt, hiệu
quả, ít tốn kém; hịa giải cịn có ưu điềm vượt trội bởi có sự tham gia của

người thứ ba trong q trình giải quyết tranh chấp. Người thứ ba thường là
người có trình độ chun mơn, có kinh nghiệm, am hiếu lĩnh vực và vấn đề

đang tranh chấp. Khi hiếu rõ được nguyên nhân hoàn cảnh phát sinh mâu
thuần cũng như quan điểm nhận thức của các bên, họ sẽ biết cách làm cho ý

chí của các bên dễ gặp nhau trong quá trình đàm phán để loại trừ tranh chấp.
Hệ thống pháp luật về hòa giải hiện hành chủ yếu điều chỉnh hoạt động

hòa giải trong tố tụng. Hòa giải trong tố tụng là việc hòa giải được tiến hành

bởi cơ quan Trọng tài hay Tòa án. Vụ tranh chấp được các cơ quan này thụ lý

giải quyết và tiến hành hịa giải theo trình tự thủ tục do pháp luật quy định.

Bên thứ ba giữ vai trị trung gian hồ giải có thể là Thẩm phán hoặc Trọng tài
viên phụ trách vụ việc (hoặc Hội đồng Trọng tài). Kết quả hịa giải phản ánh
sự thỏa thuận tự nguyện, khơng trái pháp luật và đạo đức xã hội của các bên

và được ghi nhận tại biên bản hòa giải thành. Tòa án hoặc Trọng tài sẽ ra

quyết định công nhận sự thỏa thuận của các bên và có hiệu lực thi hành.
Riêng hịa giải với tính chất là một biện pháp giải quyết TCKDTM

ngoài tố tụng là một khái niệm mới. Đây là một trong những biện pháp giải
quyết TCKDTM ngoài tố tụng được đánh giá cao về tính hiệu quả. Hịa giải
ngồi tố tụng là hình thức hịa giải với ý nghĩa là một phương pháp giải quyết
tranh chấp độc lập thay the (Alternative Dispute Resolution - ADR) do các
bên tự lựa chọn hòa giải viên và tiến hành hòa giải, q trình hịa giải khơng

liên quan đến cơ quan Trọng tài hay Tòa án.

18


Tuy nhiên, hịa giải cũng có hạn chế bởi nền tảng của hòa giải vẫn được
quyết định trên cơ sở tự nguyện thi hành của các bên. Bởi vậy, nếu một bên
khơng trung thực, thiếu thiện chí hợp tác trong q trình đàm phán thì hịa
giải cũng khó đạt được kết quả cao.
Chúng ta đều biết, một thỏa thuận đạt được tại Tịa án, được Tịa án


cơng nhận với vai trị trung gian hịa giải, thì thỏa thuận đó có giá trị hiệu lực
buộc các bên thực hiện theo thỏa thuận, nếu không thực hiện sẽ bị cưỡng chế
thi hành. Nhưng cũng là thỏa thuận đó của các bên dựa trên sự tự định đoạt,

tự do ý chí nhưng nó lại khơng có hiệu lực thi hành bắt buộc, khơng có cơ chế
cưỡng chế thi hành. Như vậy, vấn đề hình thức pháp lý và hiệu lực pháp lý

của hịa giải ngồi tố tụng vẫn cịn bị bỏ ngỏ.
Việt Nam cũng như hầu hết các nước trên thế giới hiện nay chủ yếu sử

dụng hai phương thức giải quyết TCKDTM là Trọng tài và Tịa án. Mỗi
phương thức có ưu, nhược điểm riêng. Ưu điểm của phương thức này có thể

là nhược điếm của phương thức kia và ngược lại.
Ưu điểm nổi bật của phương thức Tịa án là tính quyền lực nhà nước.

Tòa án là cơ quan tư pháp có quyền nhân danh ý chí quyền lực của nhà nước
khi xét xử các vụ tranh chấp. Bản án, quyết định của Tịa án được mọi cá
nhân, tổ chức tơn trọng và thi hành. Điều 136 Hiến pháp nước CHXHCNVN

quy định: “Các bản án và quyết định của Tòa án nhân dân đã có hiệu lực pháp
luật phải được các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, các đơn

vị vũ trang nhân dân và mọi công dân tôn trọng; những người và đơn vị hữu
quan phải chấp hành”. Trong trường hợp bản án không được tự nguyện thi
hành thì sẽ bị cưỡng chế bởi quyền lực nhà nước. Trong khi đó ở Việt Nam
trong một thời gian dài, các quyết định của Trọng tài không có cơ quan cưỡng
chế thi hành nên hiệu quả hoạt động của Trọng tài rất thấp. Khắc phục nhược
điểm này, Luật Trọng tài Thương mại 2010 quy định “bên được thi hành phán


19


quyêt Trọng tài có quyên làm đơn yêu câu cơ quan thi hành án dân sự có thâm
quyền thi hành phán quyết Trọng tài” (Điều 67 Luật Trọng tài Thương mại

2010). Tuy nhiên tình hình vẫn khơng được cải thiện là mấy.

Tính qun lực nhà nước cịn thê hiện là trong q trình giải qut vụ
án, Tịa án có quyền áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời, có quyền triệu

tập nhân chứng, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan nhằm đảm bảo cho
việc giải quyết vụ án được khách quan, chính xác. Ưu điểm này khơng thể có
ở phương thức Trọng tài vì thẩm quyền của Trọng tài được hình thành trên cơ

sở thỏa thuận của các bên tranh chấp nên Trọng tài viên khơng có nhiều
quyền hạn như Thẩm phán, khơng có quyền triệu tập các bên liên quan khác
ngoài các bên tranh chấp.

Tuy nhiên, xét dưới góc độ kinh doanh của doanh nghiệp đề đánh giá
việc lựa chọn, thì Trọng tài có những điểm ưu việt trội.
Trong kinh doanh, nhiều khi thời gian là yếu tố được quy ra tiền bạc.
Ưu thế về tốc độ giải quyết tranh chấp, rút ngắn sự lãng phí thời gian công

sức theo đuổi kiện tụng cho doanh nghiệp không thuộc về Tòa án. Với đặc

điểm của cơ chế tố tụng hiện nay, một vụ việc TCKDTM nếu trải qua đủ các
trình tự, thủ tục pháp lý sơ thẩm, phúc thẩm, thì về mặt quy định thời hạn giải

quyết tại Tịa án có thể từ 7 - 12 tháng, nhưng trên thực tế, có thể mất 1 - 3

năm. Trong khi đó, nếu cộng tất cả các thời hạn theo các trình tự, thủ tục liên

quan, thì thời hạn giải quyết một vụ tranh chấp của Trọng tài thương mại chỉ
mất khoảng hơn 120 ngày và giữa quy định với thực tế không khác xa là bao.
Với những doanh nghiệp đã từng trải qua một chu trình xét xử từ sơ

thẩm đến phúc thẩm, có khi lại giám đốc thẩm hủy án để xét xử sơ thẩm lại từ
đầu, mới thấu hiểu đến giá trị của việc phán quyết chung thẩm, một lần nhanh
gọn và có hiệu lực áp dụng ngay của Trọng tài thương mại. Những chi phí gia
tăng suốt quá trình mệt mỏi theo kiện khiến cho lợi thế về án phí so với phí
Trọng tài giờ trở thành vô nghĩa.

20


Một ưu thê vượt trội của Trọng tài thương mại là ở đội ngũ Trọng tài
viên. Muốn thu hút được sự tin tưởng từ các doanh nghiệp, các trung tâm
Trọng tài thương mại phải lựa chọn chặt chẽ đội ngũ Trọng tài viên của mình.

Trên thực tế, họ đều là những chuyên gia của nhiều lĩnh vực khác nhau, có

kiến thức và dày dạn về kinh nghiệm về những vụ việc mà họ tham gia giải

quyết trong tư cách Trọng tài viên. Điều này khiến cho trong quá trình giải
quyết vụ việc, giữa Trọng tài viên và các doanh nghiệp đã có sẵn tiền đề tốt
cho việc phân giải là sự cùng am hiếu về những khái niệm kinh doanh, về
những vấn đề kinh tế ... Trong khi đó, rất nhiều doanh nghiệp đã chật vật giải
thích những ý kiến kinh doanh của mình khi tham gia tranh tụng tại Tịa án, vì

sự hạn chế trong tiếp cận các thơng tin, kiến thức kinh doanh của nhiều Thẩm


phán. Đây rõ ràng là ưu điểm của Trọng tài thương mại mà các doanh nghiệp
có thể nhìn nhận được.

Xét về tổng thể, sự hoạt động hiệu quả cùa Trọng tài thương mại không

chỉ dừng lại ở ỷ nghĩa của một cơ quan tài phán. Hoạt động của Trọng tài
thương mại là cơ sở phát triển và cập nhật cho doanh nghiệp những kiến thức

lấp đầy những khuyết tật trong kinh doanh và rõ ràng đây là một “bệnh viện”
pháp lý tốt cho những căn bệnh tranh chấp pháp lý phát sinh của doanh
nghiệp trong quá trình phát triển kinh tế đất nước.

Qua việc so sánh hai phương thức giải quyết tranh chấp bằng Tịa án và
Trọng tài, có thể thấy phương thức Trọng tài có nhiều ưu điểm hơn, những ưu

điếm này đặc biệt quan trọng đối với hoạt động KDTM. Chính vì thế phương
thức Trọng tài được ưu chuộng hơn đặc biệt ở các nước có nền kinh tế thị

trường phát triển. Tuy nhiên, ở các nước đang phát triển và chậm phát triển

thì Tịa án vẫn là cơ quan giải quyết TCKDTM chủ yếu. Có thể lấy ví dụ ở
Việt Nam, “Theo số liệu thống kê vào năm 2010 của Trung tâm Trọng tài

quốc tế (VIAC), trong khi mồi Thẩm phán ở Toà kinh tể Thành phố Hà Nội

21



×