MỤC LỤC
MỞ ĐÀU
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ LY THÂN...................... 14
1.1. Khái niệm, đặc điểm của ly thân.......................................................... 14
1.1.1. Khái niệm ly thân...........................................................................14
1.1.2. Đặc điểm của ly thân..................................................................... 20
1.2. Ý nghĩa của ly thân.............................................................................. 22
1.3. Các quan điểm pháp lý điều chỉnh về ly thân tại một số quốc gia trên
thế giới......................................................................................................... 24
1.3.1. Ly thân trong pháp luật về hơn nhản và gia đình một sổ bang tại
Hoa Kỳ................ .........
.......26
1.3.2. Ly thân trong Bộ luật Dãn sự Pháp.............................................. 29
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1...............................................................................32
CHƯƠNG 2: Cơ SỚ XÂY DỤNG CHẾ ĐỊNH LY THÂN TRONG PHÁP
LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM........................................33
2.1. Các yếu tố chi phối đến việc ly thân tại Việt Nam............................. 33
2.2. Vấn đề ly thân theo pháp luật Việt Nam truớc đây............................ 42
2.2.1. Vẩn đề ly thân theo pháp luật Việt Nam trước năm 1975............ 42
2.2.2. Vấn đề ly thân theo pháp luật Việt Nam từ năm 1975 đến nay ...A7
2.3. Thực trạng ly thân tại Việt Nam hiện nay
_
r
2.3.1. Tình hình ly thân trên thực tê hiện nay
2.3.2. Hệ lụy của việc ly thân trên thực tê không được pháp luật quy
định
54
2.3.3. Ly thân trên thực tế qua các vụ án ly hôn.................................... 64
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2.............................................................................. 66
CHƯƠNG 3: sự CẦN THIẾT VÀ NỘI DUNG CẦN ĐIỀU CHỈNH CỦA
CHẾ ĐỊNH LY THÂN TRONG LUẬT HỊN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT
NAM............................................................................................................... 67
3.1. Sự cân thiêt quy định chê định ly thân trong pháp luật Việt Nam hiện
nay
67
3.1.1. Sự phát triển của các quan hệ hôn nhân và gia đình trong điều
kiện kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay................ 67
5
3.1.2. Các quan điêm vê điêu chỉnh pháp luật ly thân tại Việt Nam hiện
nay............................................................................................................ 69
3.1.3. Ly thân là tình trạng thực tế khách quan cần có sự điều chỉnh của
pháp luật.................................................................................................. 79
3.2. Đề xuất nội dung chế định ly thân trong Luật hơn nhân và gia đình
Việt Nam..................................................................................................... 84
y
\
3.2.1. Quyên yêu câu ly thân ................................................................... 85
3.2.2. Căn cứ ly thân ................................................................................89
3.2.3. Hệ quả pháp lý của ly thân........................................................... 94
3.2.4. Thời gian và thủ tục ly thân.......................................................... 97
3.2.4.1. Thời gian ly thân..................................................................... 97
3.2.4.2. Thủ tục ly thân........................................................................ 98
3.2.5. Những vẩn đề pháp lý khác của ly thân....................................... 99
3.2.5.1. Nuôi con nuôi trong thời gian ly thân.................................... 99
3.2.5.2. Chấm dứt ly thân................................................................... 101
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3............................................................................. 102
KẾT LUẬN................................................................................................... 103
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................106
6
MỞĐẰƯ
1. Tính câp thiêt của đê tài
Theo lẽ tự nhiên, đề đáp ứng những nhu cầu về tình càm và vật chất, vợ
chồng chung sống với nhau để có thể thường xun chăm sóc, giúp đỡ và
cùng nhau ni dạy con cái. Đây là bổn phận đạo đức và cũng là nghĩa vụ
pháp lý của vợ chồng. Theo quy định của pháp luật hơn nhân - gia đình
nhiều nước trên thế giới và Việt Nam, vợ chồng có nghĩa vụ sống chung với
nhau, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác hoặc do yêu cầu của nghề
nghiệp, công tác, học tập, tham gia các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa,
xã hội hay lý do chính đáng khác.
Tuy nhiên, khi xã hội ngày càng phát triển thì kéo theo đó là những hệ
lụy với những mối quan hệ vơ cùng phức tạp, điều đó cũng ảnh hưởng
khơng nhỏ đến cuộc sống của mỗi gia đình. Do khơng hài hòa được cuộc
sống vợ chồng, nhiều cặp vợ chồng đã chọn giải pháp ly thân để giải quyết
mâu thuần. Trong những trường hợp này họ vẫn là vợ chồng, nhưng họ
khơng cịn quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau hay cùng nuôi dạy con cái và
thường xảy ra những mâu thuẫn, bất đồng sâu sắc giữa hai bên vợ chồng.
Ngày nay, nhiều cặp vợ chồng lựa chọn giải pháp ly thân như một biện
pháp giải tỏa tình trạng tràm trọng trong hơn nhân. Theo thống kê của ngành
Tịa án, ở nước ta hiện nay có tới hơn 90% các cặp ly hơn đều trải qua giai
đoạn ly thân, có cặp vợ chồng ly thân rất nhiều năm mới chính thức gửi đơn
khởi kiện ra Tòa án yêu càu giải quyết ly hôn [38], Thực tế, việc sống ly
thân giữa vợ chồng vẫn thường xảy ra mà không được pháp luật điều chỉnh
rõ ràng về quyền, nghĩa vụ của hai bên nên dễ gây ra nhiều khó khăn, hệ lụy
cho cà hai người và xã hội. Khi vợ chồng ly thân, các khó khăn, vướng mắc
thường thể hiện ở một số vấn đề sau:
7
Một là, tranh châp quyên trực tiêp nuôi duỡng, chăm sóc con cái trong
thời gian ly thân; tranh chấp về cấp dưỡng của người không trực tiếp nuôi
dưỡng con cái trong thời gian ly thân.
Hai là, tranh chấp về quyền yêu cầu cấp dưỡng giữa vợ chồng khi vợ
hoặc chồng ở trong tình trạng khó khăn do ốm đau, bệnh tật... mà cần sự
giúp đỡ của người còn lại trong thời gian ly thân.
Ba là, tranh chấp về tài sản trong thời gian ly thân; quyền và nghĩa vụ
về tài sản của vợ, chồng với người thứ ba trong thời gian ly thân; vấn đề đại
diện cùa vợ chồng trong thời gian ly thân.
Có thể thấy, rất nhiều vấn đề pháp lý phức tạp phát sinh trong thời gian
khi vợ chồng ly thân. Ly thân là một tồn tại thực tế ở nước ta hiện nay, việc
điều chỉnh pháp luật về ly thân là cần thiết, bởi lẽ ly thân dẫn đến nhiều hệ
quả pháp lý phức tạp khác nhau. Vì vậy, pháp luật hơn nhân và gia đình
(HNGĐ) khơng thể né tránh. Đặc biệt, đây là giải pháp rất hữu ích cho cộng
đồng người Cơng giáo, bởi theo giáo lý, họ không được phép ly hôn; ly thân
là một biện pháp giúp các bên vợ, chồng tránh tình trạng bạo lực gia đình,
tạo điều kiện cho vợ chồng có thời gian đế cân nhắc kỹ lưỡng trước khi tới
quyết định cuối cùng trong giải quyết mâu thẫn của mình là ly hơn. Quy
định về ly thân cịn giúp làm minh bạch hóa các giao dịch dân sự, kinh tế do
một bên vợ, chồng thực hiện trong thời kỳ ly thân, bào đảm tốt hơn quyền
lợi của các con, các thành viên khác trong gia đình và bên thứ ba.
Trên thực tế hiện nay việc ly thân diễn ra khá nhiều, với thời gian
khơng ngắn, có những cặp vợ chồng đã duy trì tình trạng ly thân đến 4-5
năm trước khi đi đến quyết định ly hôn. Trong thời gian ly thân cũng xảy ra
nhiều vấn đề cần giải quyết về mặt pháp lý, song pháp luật hiện hành khơng
có quy định nào về ly thân, do đó tình trạng ly thân và những hệ quả xảy ra
từ việc ly thân khơng được nhìn nhận, cơng nhận về mặt pháp lý. Vì thế,
việc nghiên cứu đề tài “Xây dựng chế định ly thân trong pháp luật hơn
nhân và gia đình Việt Nam” là cần thiết và có ý nghĩa trong điều kiện kinh
8
tế xã hội hiện nay ở nước ta, nhằm giải quyết các vấn đề nảy sinh từ tình
trạng ly thân trong thực tế, góp phần bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của
vợ, chồng và các con.
2. Tình hình nghiên cứu
Liên quan đến chế định ly thân, đã có một số đề tài khoa học, luận văn,
bài viết trên tạp chí đề cập một cách trực tiếp hoặc lồng ghép vào những nội
dung liên quan. Các cơng trình nghiên cứu đã cơng bố có liên quan đến vấn
đề ly thân có thể chia thành các nhóm sau:
* Các luận văn, luận án
* Đe tài nghiên cứu khoa học
* Các bài viết trên các tạp chi chuyên ngành, bài viết hội thảo, tọa đàm
khoa học
2.1. Các bài viết trên các tạp chí chuyên ngành, bài viết hội thảo, tọa
đàm khoa học
Bài viết Bô sung chế định ly thân vào Luật HNGĐ - những vấn đề pháp
ỉý và thực tiền, Bùi Minh Hồng, tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số chuyên đề
sửa đổi, bổ sung Luật hơn nhân và gia đình năm 2000, 2013, trang 97-105
và Bài viết Sự cần thiết và những nội dung cơ bản của Dự thảo Luật sửa
đôi, bô sung một số điều của Luật hôn nhân và gia đĩnh năm 2000, Đàm
Viết Lâm, tạp chí Dân chù và Pháp luật, số chuyên đề sửa đổi, bổ sung Luật
hơn nhân và gia đình năm 2000, 2013, trang 5-16. Các bài viết này chủ
yếu đề cập và đưa ra những lập luận về sự cần thiết bổ sung chế định ly thân
và những nội dung cơ bản cần đưa vào Dự thảo Luật HNGĐ năm 2014.
Theo các nghiên cứu này, chế định ly thân cần có các nội dung như: Giài
quyết yêu cầu ly thân của vợ chồng, hiệu lực của ly thân, chấm dứt ly thân,
giải quyết yêu cầu ly hôn trong thời gian ly thân.
Bài viết Pháp luật Việt Nam với vấn đề ly thân, Ngô Thu Trang, tạp chí
Nhà nước và Pháp luật, số 8/2016, trang 39 - 43. Bài viết trình bày một số
vấn đề lý luận về ly thân và đưa ra những chế định tương thích trong pháp
9
luật Việt Nam đê từ đó chứng minh, đê xuât đưa chê định ly thân vào Luật
HNGĐ.
Bài viết Vấn đề ly thân có được quy định trong Luật HNGĐ Việt Nam
năm 1986, Nguyễn Văn Cừ, tạp chí Luật học, số 6/1997, trang 38-41. Tác
giả đưa ra các học thuyết, quan điểm khác nhau về ly thân; quy định về ly
thân trong pháp luật Việt Nam trước đây, cụ thế là trong Bộ dân luật giản
yếu Nam kỳ năm 1883, Bộ luật gia đình năm 1959 (dưới chế độ Ngơ Đình
Diệm), Bộ luật Dân sự năm 1972 của Ngụy quyền Sài Gịn; sự hạn chế của
Luật HNGĐ năm 1986 do khơng quy định về ly thân...
Bài viết Sự cần thiết luật hỏa chế định ly thân trong Luật hôn nhân và
gia đình, Đồn Thị Ngọc Hải, tạp chí Tịa án điện tử, đăng ngày 08/8/2019.
Tác giả nêu thực trạng và nguyên nhân vấn đề ly thân ở Việt Nam những
năm gần đây, khó khăn của Thẩm phán khi giải quyết vụ án ly hôn của vợ
chồng đã từng ly thân mà trong thời gian ly thân xảy ra tranh chấp về tài
sản, trách nhiệm nuôi con...; sự bất cập bởi pháp luật hiện hành không giải
quyết được thỏa đáng những tranh chấp thực tiễn.
2.2. Các luận vãn, luận án
Luận văn Thạc sĩ luật học Ly thân - Một số vấn đề lỷ luận và thực tiễn,
Nguyễn Ngọc Sơn, 2014, Đại học Luật Hà Nội và Luận văn Thạc sĩ Luật
học Những vấn đề pháp lý về ly thân, Lê Thị Lương, 2016, khoa Luật Đại
học Quốc gia Hà Nội. Các luận văn có nội dung nối bật là đưa ra số liệu,
nêu nhận xét về ly thân trên thực tế và hệ quả của nó, những khó khăn khi
giải quyết vấn đề phát sinh trong thời gian ly thân cùa vợ chồng, từ đó kiến
nghị xây dựng pháp luật điều chỉnh ly thân ở Việt Nam.
Luận
• văn Thạc
• sĩ luật
• học
• Căn cứ ly
e/ hơn theo Luật
• HNGĐ Việt
• Nam
năm 2014, Nguyễn Thị Thơm, 2015, khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Luận văn đề cập một phần đến ly thân như một căn cứ ly hôn theo pháp luật
Việt Nam trước đây.
10
2.3. Đê tài nghiên cứu khoa học
Chuyên đề vấn đề ly thân của tác giả Ngô Thị Hường, Hội thảo khoa
học về những nội dung liên quan đến Dự thảo Luật hơn nhân và gia đình sửa
đổi, diễn ra tại trường Đại học Luật Hà Nội, 2014. Chuyên đề đã khái quát
những quan diem về ly thân và đưa ra ý kiến cá nhân của tác già là “không
thể không thừa nhận ly thân, chỉ coi nó là thỏa thuận riêng của vợ chồng và
đặt nó ngồi vịng luật pháp được”.
Các cơng trình nghiên cứu trên đã bàn luận về nhiều góc độ và quan
điểm về chế định ly thân, tuy nhiên, đề xây dựng một chế độ pháp lý tồn
diện về ly thân thì cịn khá khiêm tốn. Vì vậy, tôi lựa chọn đề tài “Xây dựng
chế định ly thân trong pháp luật hơn nhân và gia đình Việt Nam ” để làm
luận văn thạc sĩ luật học. Dựa trên tính chất tham khảo, học hơi những
nghiên cứu đã có, luận văn này tiếp tục phát triển, phân tích chế định ly thân
trong pháp luật HNGĐ Việt Nam, so sánh với pháp luật một số quốc gia
trên thế giới, từ đó đưa ra các kiến nghị xây dựng, hồn thiện che định ly
thân sao cho phù hợp với thực tiễn Việt Nam về vấn đề này.
3. Đối tuựng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận, các quan
điểm về ly thân trên thế giới, pháp luật về ly thân của một số quốc gia, thực
trạng ly thân tại Việt Nam hiện nay.
về phạm vi nghiên cứu, luận văn nghiên cứu quy định của pháp luật về
ly thân tại Việt Nam trước đây và của một số quốc gia trên thế giới. Bên
cạnh đó, luận văn cũng nghiên cứu về thực trạng các tranh chấp thường hay
xảy ra trong thời gian ly thân, các cách giải thích pháp luật và cách giải
quyết của Tòa án trong giai đoạn hiện nay tại Việt Nam.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu của luận văn là phân tích các vấn đề lý luận về
ly thân, cơ sở, các căn cứ để quy định về ly thân nhằm giải quyết các tranh
chấp có thể xảy ra trong thời kỳ ly thân, vướng mắc mà Tòa án gặp phải khi
11
giải quyêt vụ án có tranh châp trong thời gian ly thân. Từ đó, luận văn lập
luận để đưa ra các căn cứ cần phải xây dựng chế định ly thân và các nội
dung cơ bản cần phải có của chế định này trong Luật HNGĐ Việt Nam.
* Nhiệm
cứu đề tài: để có thể đạt
• vụ• nghiên
4^2
• được
• mục
• đích đặt
< ra khi
nghiên cứu đề tài, đòi hởi luận văn phải làm rõ các vấn đề sau:
Thứ nhất, phân tích, xây dựng khái niệm ly thân, làm rõ cơ sở lý luận
về ly thân, cơ sở đế quy định và điều chỉnh pháp luật về ly thân, các nội
dung cần điều chỉnh khi quy định về ly thân trong pháp luật.
77ỉứ hai, thực trạng ly thân và khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn xét
xử các vụ án ly hôn có ly thân tại Việt Nam.
Thứ ba, phân tích, đánh giá khả năng xây dựng chế định ly thân trong
Luật HNGĐ Việt Nam và các nội dung cơ bản cần phải có của chế định này.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được các mục tiêu nghiên cứu mà đề tài đặt ra, trong quá trình
nghiên cứu luận văn đã sử dụng những phương pháp nghiên cứu cơ bản sau:
Phương pháp luận nghiên cứu khoa học duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin. Theo đó, người viết đặt các vấn đề về ly
thân trong mối liên hệ, quan hệ với nhau, không nghiên cứu một cách riêng
lẻ; đồng thời, có sự so sánh với các quy định đã hết hiệu lực. vấn đề ly thân
được xem xét nghiên cứu như một hiện tượng khách quan trong đời sống xã
hội, chịu sự tác động của các yếu tố văn hóa, xã hội và các điều kiện sống cụ
thể hiện nay tới quan hệ vợ chồng.
Một số phương pháp nghiên cứu chủ yếu được áp dụng:
Phương pháp phân tích, phương pháp diễn giải: Những phương pháp
này được sừ dụng phố biến trong việc làm rõ các khía cạnh lý luận, các quy
định cúa pháp luật về ly thân.
Phương pháp đánh giá, phương pháp so sánh: Những phương pháp này
được người viết vận dụng để đưa ra ý kiến nhận xét quy định của pháp luật,
12
đơng thời nhìn nhận trong mơi tương quan so với quy định liên quan hoặc
pháp luật của các nước khác về ly thân...
Phương pháp quy nạp, phương pháp diễn dịch: Được vận dụng để triển
khai có hiệu quả các vấn đề liên quan đến ly thân, các kiến nghị hoàn thiện.
Tất cả các phương pháp trên được trình bày đan xen trong luận văn, tùy
từng nội dung mà áp dụng phương pháp cho phù hợp để tạo ra sự hài hòa,
cân đổi, mạch lạc trong từng vấn đề của luận văn.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
về mặt lý luận, kết quả đạt được của luận văn góp phần làm sáng tỏ
phương diện lý luận trong khoa học pháp lý về ly thân.
về mặt thực tiễn, luận văn là kết quả tổng hợp dựa trên số liệu thực tế
các vụ án có tranh chấp trong thời kỳ ly thân tại Việt Nam. Vì vậy, những
kiến nghị mà luận văn đưa ra là cơ sở quan trọng bám sát thực tiễn nhằm
giúp các cơ quan có thẩm quyền xây dựng và hoàn thiện chế định ly thân
trong Luật HNGĐ.
6. Co’ cấu của luận văn
Ngồi lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
chính của luận văn gồm 03 chương, cụ thể:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về ly thân
Chương 2: Cơ sở xây dựng chế định ly thân trong pháp luật hơn nhân
và gia đình Việt Nam
Chương 3: Các nội dung cần điều chỉnh của chế định ly thân trong Luật
hôn nhân và gia đình Việt Nam.
13
CHƯƠNG 1
MỘT SÔ VẤN ĐÈ LÝ LUẬN VÈ LY THÂN
1.1. Khái niệm, đặc điểm của ly thân
1.1.1. Khái niệm ly thân
Ly thân là một hiện tượng xảy ra trên thực tế trong quan hệ vợ chồng.
Việc ly thân có thể diễn ra bởi nhiều lý do, trong đó lý do cơ bản nhất là
giữa vợ chồng xảy ra những bất đồng, mâu thuẫn làm ảnh hướng sâu sắc
đến tình cảm giữa hai bên mà chưa thể giải quyết được. Trong những trường
hợp này, trên thực tế, vợ chồng thường lựa chọn giải pháp sống riêng biệt
nhau nhằm giảm bớt, giải tỏa sự căng thắng, mâu thuẫn. Mặc dù hiện nay ở
nước ta, ly thân tuy vẫn tồn tại như một hiện tượng xã hội có tính khách
quan, nhưng chưa được pháp luật điều chỉnh. Do đó, tìm hiểu, nghiên cửu
về ly thân cần xem xét dưới hai góc độ: Xã hội học và pháp lý.
* Ly thân dưới góc độ xã hội học: Là một quan hệ xã hội tồn tại khách
quan trong quan hệ giữa vợ và chồng
Do pháp luật Việt Nam chưa có quy định về ly thân nên có rất nhiều
quan điểm với cách hiểu khác nhau. Trên thực tế hiện nay, ly thân được
nhìn nhận như một hiện tượng xã hội, là một quan hệ xã hội xảy ra trong đời
sống vợ chồng. Tìm kiếm từ khóa “ly thân” trên thanh tìm kiếm Google ta
sẽ có khoảng 258.000.000 kết quả (0,35 giây). Wikipedia bách khoa toàn
thư mở định nghĩa: “Ly thân mô tả quan hệ vợ chồng theo đó hai người
khơng cịn chung sống, ãn ở với nhau, nhưng vẫn chưa ly hôn. Vợ chồng
thường tự thỏa thuận với nhau để sống ly thân chứ không cần phải ra tịa và
trên pháp lý thì họ vẫn là vợ chồng. Ly thân tạo cơ hội cho vợ hay chồng
sống riêng biệt mà không phải cần ly dị” [39].
Theo một số cơng ty tư vấn luật thì “khái niệm ly thân được hiểu một
cách đơn giản là hai vợ chồng sống chung hoặc sống riêng nhưng khơng có
quan hệ vợ chồng (quan hệ tình dục). Neu sau quá trình ly thân, cuộc sống
hơn nhân của vợ chồng rơi vào tình trạng trầm trọng, đời sống hơn nhân
14
khơng thê kéo dài, mục đích hơn nhân khơng đạt được thì vợ chơng có thê
tiến hành thủ tục ly hơn” [40].
Theo đó, dưới góc độ xã hội học, ly thân được hiếu là hiện tượng
khách quan chỉ việc vợ chồng chưa ly hơn nhưng khơng cịn đời sống hơn
nhân chung (thường là do những mâu thuẫn, bất đồng), họ lựa chọn ly thân
như một giải pháp tạm thời nham khắc phục mâu thuẫn, sau đó họ có thể
quay trở lại bên nhau như trước khi ly thân hoặc cũng có thế chính thức
chấm dứt hơn nhân bằng cách ly hơn.
* Ly thân dưới góc độ pháp lý: Là một quan hệ xã hội cần được pháp
luật điều chỉnh
Chế định ly thân hay thuật ngữ “ly thân” hồn tồn khơng tồn tại
trong Luật HNGĐ năm 2014. Trong các văn bản pháp quy cũng khơng quy
định về ly thân. Vì vậy, hiện nay không cơ quan, tổ chức nào giải quyết cho
vợ chồng ly thân theo hướng ra quyết định hoặc bản án công nhận cho ly
thân. Tuy nhiên, trên thực tế hiện tượng ly thân vẫn tồn tại trong đời sống
hơn nhân của nhiều vợ chồng. Vì vậy, khi nói đến ly thân được hiểu là ly
thân thực tế giữa vợ chồng.
Từ góc độ nghiên cứu dưới góc độ luật học hay xã hội học gia đình
cũng có một số cơng trình hay bài báo khoa học nghiên cứu về ly thân. Theo
Từ điển luật học, ly thân được hiểu là “việc vợ chồng chấm dứt nghĩa vụ
sống chung với nhau trong khi quan hệ hôn nhân chưa hoặc không chấm
dứt” [4], “Nghĩa vụ sống chung” được quy định tại khoản 2 Điều 19 (Tình
nghĩa vợ chồng) trong Luật HNGĐ năm 2014, theo đó: “...2. Vợ chồng có
nghĩa vụ sống chung với nhau, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác
hoặc do yêu cầu cùa nghề nghiệp, công tác, học tập, tham gia các hoạt động
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và lý do chính đáng khác”. Nghĩa vụ sống
chung của vợ chồng được hiểu là cuộc sống của một người nam và một
người nữ sau khi kết hôn sẽ chung nhà, chung bàn ăn và chung giường,
chung chăn gối... Tuy nhiên, quy định tại Điều 19 Luật HNGĐ năm 2014 và
15
thực tê cũng cho thây, vợ chông không nhât thiêt phải ăn ở, sinh hoạt chung
liên tục, thường xuyên trong suốt thời kỳ hơn nhân, nhưng giữa họ phải có
mối liên hệ sâu đậm về tình cảm và sinh hoạt vật chất, thể xác. Việc không
sống chung liên tục trong thời gian dài mà khơng vì lý do cơng việc, nghề
nghiệp, học tập, công tác hay lý do khách quan khác... được hiểu là vợ
chồng sổng ly thân với nhau. Vợ chồng sống ly thân thường do yếu tố tình
cảm chi phối; họ có mâu thuẫn trong đời sống hơn nhân dẫn đến việc không
muốn tiếp xúc, ở cạnh nhau.
Theo các văn bản pháp luật về HNGĐ tại miền Nam Việt Nam trước
năm 1975 như: Luật gia đình năm 1959, sắc luật năm 1964 (của chế độ Sài
Gòn dưới thời Ngơ Đình Diệm), thì vợ chồng muốn ly thân phải yêu cầu
Tòa án giải quyết và Tòa án chỉ tuyên bố cho vợ chồng ly thân khi có các
căn cứ phù hợp với quy định pháp luật. Khi bản án tuyên bố cho vợ chồng
ly thân có hiệu lực pháp luật thì vợ chồng chấm dứt nghĩa vụ “đồng cư”, túc
là họ khơng cịn nghĩa vụ sống chung với nhau, trong khi quan hệ hôn nhân
giữa họ vẫn tồn tại. Như vậy, ly thân được hiểu là: Vợ chồng chấm dứt
nghĩa vụ “đồng cư”, tức là vợ chồng khơng có nghĩa vụ sống chung với
nhau mà được quyền sống riêng biệt trong khi quan hệ hôn nhân giữa họ
vẫn tồn tại và được pháp luật bảo vệ.
Tại Dự thảo Luật HNGĐ - Phiên bản lấy ý kiến các Bộ, ngành, địa
phương và nhân dân ngày 11/6/2013, khoản 10 Điều 8 “Giải thích từ ngữ”
quy định: “10. Ly thân là tình trạng pháp lý, theo đó vợ chồng khơng có
nghĩa vụ chung sống với nhau do cơ quan có thẩm quyền công nhận hoặc
quyết định theo yêu cầu của hai vợ chồng hoặc của vợ, chồng”. Cùng với
đó, tại Điều 20 “Lựa chọn nơi cư trú của vợ, chồng” cũng quy định như sau:
“Nơi cư trú của vợ, chồng do vợ chồng lựa chọn, không bị ràng buộc bởi
phong tục, tập qn, địa giới hành chính. Vợ, chồng khơng được căn cứ vào
quy định này để từ chối sống chung với nhau mà khơng có lý do chính
đáng”.
16
Tuy nhiên, cũng cân loại trừ trường hợp vợ chông khơng ở cạnh nhau
về mặt địa lý vì những lý do khách quan, chính đáng như cơng tác, học tập,
cơng việc... Trong trường hợp này, việc không ở bên cạnh nhau cùa vợ
chồng chỉ là tạm thời, trong một thời gian nhất định và giữa họ vẫn có mối
liên quan mật thiết với nhau về tình cảm, nhân thân và tài sản, tức là họ vẫn
sống chung. Việc không sống chung hay sống chung không phụ thuộc vào
khoảng cách địa lý. càn hiểu rằng khi vợ chồng không sống cùng một nơi
do nhu cầu công việc, học tập, nghề nghiệp thì khơng thể hiểu là khơng sổng
chung, vì họ vẫn có đời sống hơn nhân chung, vẫn cùng nhau chăm lo cho
gia đình, con cái và quan tâm, yêu thương nhau. Vì vậy, sẽ là bất thường
nếu vợ chồng khơng sống chung với nhau trong thời gian dài do những mâu
thuẫn trong đời sống hơn nhân, bởi khi đó giữa họ mất đi sự liên kết chặt
chẽ giữa hai cá thể về mặt tình căm, nhân thân và tài sán. Hay “sống chung”
giữa vợ chồng là có chung đời sống tình cảm, cuộc sống gia đình, cùng quan
tâm, dành tình cám và gắn bó với gia đình, chứ khơng thể hiếu “sống
chung” chỉ bó hẹp về mặt địa lý. Do vậy, việc quy định nghĩa vụ sống chung
của vợ chồng làm căn cứ xác định tình trạng ly thân là hợp lý và phù hợp
với pháp luật của nhiều quốc gia trên thế giới.
Khác với Việt Nam, nhiều quốc gia khác đã luật hóa chế định ly thân
trong các văn bản pháp luật chính thống. “Theo Điều 296 Bộ luân Dân sự
Pháp, chế định ly thân được hiểu là sự giảm độ gắn kết quan hệ vợ chồng,
theo đó hệ quả quan trọng nhất là sự hủy bỏ nghĩa vụ chung sống giữa vợ và
chồng, trong khi những nghĩa vụ khác như nghĩa vụ chung thủy, nghĩa vụ
tương trợ giúp đỡ nhau vẫn phải được duy trì giữa hai vợ chồng theo quy
định cùa pháp luật Pháp, do Tòa án ra quyết định trên cơ sở những căn cứ và
điều kiện giống như căn cứ và điều kiện ly hôn (vợ chồng ly thân, vợ chồng
thống nhất chấm dứt hôn nhân, vợ chồng ly thân do lồi của một bên hoặc ly
thân do cuộc sống chung đã hoàn toàn chấm dứt)” [51. Khái niệm này cơ
bản đã thể hiện được những đặc trưng của ly thân. Tuy nhiên, việc ly thân
17
chỉ được thừa nhận hợp pháp trên cơ sở quyêt định của Toà án, làm thủ tục
tố tụng trong ly thân trở nên rườm rà hơn so với một số quốc gia cho phép
hai bên tự thoả thuận thông qua văn bản tự chứng thư [5],
Cịn theo Luật gia đình tại Anh và xứ Wales (Điều 46 Phần II), ly thân
(separation) được hiểu là: Đình chi quyền và nghĩa vụ sống chung chỉ còn để
lại nghĩa vụ trung thành và không thể kết lập cuộc hôn nhân mới. Sự ly thân
có thế là ly thân tư pháp (judicial separation) hay ly thân thuận ý (voluntary
separation) được thực hiện bởi chứng thư ly thân (separation deed). Chứng
thư ly thân hợp thức hóa sự hiện hữu phân cách giữa vợ và chồng có thề có
các quy định liên quan đến tiền trợ cấp trong trường hợp ly thân tư pháp và
bảo dưỡng con cái. Sự ly thân tư pháp có thế được tuyên do đơn xin của
người chồng hay người vợ nhằm một kỳ hạn nhất định hay vô hạn định trong
tất cã các trường hợp mà sự ly hôn sẽ được thỏa thuận, với điều kiện là bên
đương sự khơng có một lồi lầm nào để bị trách cứ [46]. Cách hiểu này gần
giống tinh thần với pháp luật Cộng hoà Pháp, tuy nhiên, thủ tục mở rộng chấp
nhận sự thuận ý hai bên chứng minh bởi chứng thư ly thân.
Bộ luật Dân sự Cộng hịa Pháp và Luật gia đình tại Anh và xứ Wales
quy định về ly thân có những điểm khác biệt nhất định; tuy nhiên, cả hai
quốc gia này đều nhìn nhận sống chung là nghĩa vụ của vợ chồng và ly thân
chính là tình trạng vợ chồng khơng cịn phải thực hiện nghĩa vụ đó nữa. Bên
cạnh hai quốc gia này, còn nhiều quốc gia khác quy định về nghĩa vụ sống
chung của vợ chồng, như là: Bộ luật Dân sự và Thương mại Thái Lan, tại
Điều 226 Quyền V chỉ rõ “Vợ chồng phải sống chung với nhau đúng như
quan hệ vợ chồng’’ [6]; Điều 1088 Bộ luật Dân sự Nhật Bản: “Vợ chồng
cùng chung sống, hợp tác và giúp đỡ lẫn nhau” [7]; Điều 965 Bộ luật Dân
sự Campuchia: “Vợ chồng phải cùng sống chung và cùng hợp tác giúp đỡ
lẫn nhau” [8],
Khái quát lại, ta có thể hiểu “ly thân” như là một hình thức tạm dừng
nghĩa vụ sống chung của vợ chồng do những mâu thuẫn trong đời sống hôn
18
nhân. Khơng sơng chung cân hiêu là khơng có sự liên kêt vê tình căm, nhân
thân và tài sản, khơng thực hiện những nghĩa chung của vợ chồng đối với
nhau và đối với gia đình, khơng có đời sống chung trong hơn nhân, gia đình.
Việc khơng chung sống này bao gồm cả trường hợp vợ chồng ở chung một
nhà nhưng ăn riêng, ngủ riêng, không giao tiếp hoặc rất hạn chế giao tiếp.
Bởi lẽ, nam nữ kết hơn thì sống chung là một trong những mục đích và nhu
cầu quan trọng của họ. Hay nói cách khác, nam nữ kết hôn là thế hiện mong
muốn được sống cùng nhau nhằm có những điều kiện thuận lợi để chăm
sóc, yêu thương, quan tâm nhau, quyền được quan hệ tình dục, sinh con và
chăm sóc con chung... sống chung là một nghĩa vụ tự nhiên luôn gắn liền và
là đặc trưng của quan hệ hơn nhân, đây cũng chính là dấu hiệu của một gia
đình “cơ bản”.
Nhìn chung, có thể thấy ly thân có các dấu hiệu đặc trưng sau:
Thứ nhất, ly thân không làm chấm dứt mối quan hệ pháp lý giữa vợ
chồng, các bên vẫn có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ đối với nhau và đối với
con chung và tài sản chung. Họ vẫn là vợ chồng trước pháp luật và ly thân là
giải pháp để giải quyết xung đột, tạo cơ hội cho hai bên suy nghĩ, khắc
phục, sửa chữa lồi lầm, mâu thuẫn.
Thứ hai, Tòa án là “cơ quan nhà nước có thẩm quyền” phù hợp nhất
để công nhận hoặc quyết định việc ly thân của vợ chồng, bởi thơng qua
phiên họp hoặc q trình xét xử, Tịa án có thể xem xét thấu đáo tình trạng
mâu thuẫn cùa vợ chồng, bảo vệ quyền lợi chính đáng cho vợ, chồng và đặc
biệt là con cái, bảo vệ lợi ích của người thứ ba trong quan hệ dân sự, đảm
bảo tính minh bạch trong chia và quản lý tài sản của vợ chồng.
TAứ ba, ly thân là quyền gắn liền với nhân thân của vợ chồng, do đó,
chỉ có vợ chồng mới có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền
cơng nhận ly thân giữa vợ chồng [9].
Từ những phân tích trên, có thể kết luận: Ly thân là tình trạng pháp
lý xác định moi quan hệ của VỌ’ chồng trong thịi kỳ hơn nhân, được CO’
19
quan nhà nước có thâm qun cơng nhận hoặc ra quyêt định nhăm châm
dứt tạm thời quan hệ sống chung giữa hai vợ chồng.
1.1.2. Đặc điểm của ly thân
Qua tìm hiểu về khái niệm ly than, qua nghiên cứu tài liệu và nhìn
nhận tình hình ly thân trên thực tế tại Việt Nam hiện nay, có thể khái quát về
đặc điểm của ly thân dưới góc độ pháp lý như sau:
Thứ nhất, ly thân là quyền nhân thân của vợ chồng không thể chuyển
giao cho người khác [10]. Pháp luật dân sự thừa nhận quyền nhân thân là
quyền dân sự gắn liền với mồi cá nhân không thể chuyển dịch cho người
khác, trừ một số trường hợp khác theo quy định của pháp luật. Theo đó,
quyền nhân thân của chủ thề nào thì chỉ có chủ thể đó được hưởng mà
không thể chuyển giao cho người khác và cũng không ai có thề đại diện cho
họ thực hiện thay họ quyền này. Ly thân là quyền nhân thân của vợ chồng
và chỉ vợ, chồng mới có quyền quyết định có ly thân hay không. Bời lẽ, chỉ
vợ chồng là chù thể biết được rỗ nhất hơn nhân của mình đang gặp vấn đề gì
và làm cách nào để giải quyết tốt nhất. Vì vậy, vợ, chồng là người trực tiếp
có quyền u cầu, quyết định có ly thân hay khơng, ly thân như thế nào,
trong bao lâu mà không thể chuyển giao hay úy quyền cho người khác thực
hiện thay yêu cầu này.
Thứ hai, ly thân thường phát sinh do giữa vợ chồng có mâu thuẫn sâu
sắc về tình cảm nhưng chưa muốn ly hôn. Mâu thuẫn này thường xuất phát
từ sự bất đồng trong quan điểm sống hay các hành vi vi phạm nghĩa vụ vợ
chồng (như có hành vi bạo lực gia đình, vi phạm chế độ một vợ một chồng,
có cách sống tha hóa, khơng quan tâm, chăm sóc gia đình...) làm cho vợ
chồng khơng muốn sống chung với nhau. Sự mâu thuẫn vợ chồng đã ở mức
độ tương đối lớn mà không thể giải quyết trong thời gian ngắn, hơn nữa việc
chung sống với nhau đôi khi có tác động xấu đến q trình hàn gắn làm cho
họ quyết định sống xa nhau. Tuy nhiên, ý chí của vợ chồng chưa muốn
chính thức chấm dứt hơn nhân mà chỉ muốn chấm dứt nghĩa vụ sống chung
20
nhằm giải quyết mâu thuẫn. Vợ chồng mong muốn sau thời gian không
chung sống, đối phương sẽ thay đổi, sửa chữa lồi lầm để quay trở lại bên
nhau hòa hợp hơn.
Thứ ba, ly thân dựa trên cơ sở tự do ý chí, quyền tự định đoạt của vợ
chồng. Vợ chồng là hai chủ thể có quyền quyết định cao nhất trong đời sống
hôn nhân, từ khi kết hôn, trong quá trình hơn nhân (quyết định các vấn đề
con cái, tài sản)... và cách giải quyết các mâu thuẫn nếu có (kể cà việc kết
thúc đời sống hôn nhân). Ly thân là phương thức thuộc quyền quyết định
của vợ chồng. Vợ chồng có thể chọn ly thân như một cách giải quyết mâu
thuẫn mà không bị bất kỳ ai lừa dối, cưỡng ép hay đe dọa và vợ chồng cũng
không được quyền lừa dối, cưỡng ép, đe dọa đối phương để ly thân. Việc
quyết định này hoàn toàn phải được tự nguyện và thực hiện theo ý chí của
vợ chồng. Đặc điểm này của ly thân cho thấy sự sự bình đẳng, tiến bộ của
hôn nhân hiện đại và cũng là cơ sở để xây dựng gia đình bền vững.
Thứ tư, căn cứ ly thân gần giống hoặc tương tự căn cứ ly hôn. Hầu hết
các quốc gia trên thế giới quy định căn cứ để Tịa án/cơ quan có thẩm quyền
khác công nhận hoặc quyết định cho vợ chồng ly thân dựa trên các căn cứ
tương tự như căn cứ ly hơn. Tuy nhiên, điểm khác biệt là Tịa án xét thấy
những yếu tố này chưa đến mức quá trầm trọng như ly hôn, vợ chồng không
muốn kết thúc hôn nhân và có nguyện vọng được ly thân như biện pháp,
cách thức giải quyết tình trạng căng thắng, mâu thuẫn giữa vợ và chồng.
Thứ năm, hệ quả pháp lý của ly thân chỉ làm chấm dứt một số nghĩa
vụ nhất định của vợ chồng. Đây là điểm khác biệt căn bản nhất giữa ly thân
và ly hôn. Ly hôn là sự kiện pháp lý đánh dấu hai chủ thế không còn là vợ
chồng trước pháp luật, đồng nghĩa với việc vợ chồng chấm dút tất cả các
quyền và nghĩa vụ hơn nhân (chỉ cịn lại một số nghĩa vụ chung như nghĩa
vụ ni nấng, chăm sóc, giáo dục con chung hoặc nghĩa vụ trả nợ cho khoản
nợ chung). Trong khi đó, ly thân khơng làm chấm dứt quan hệ vợ chồng
trước pháp luật, mà chi chấm dứt nghĩa vụ sống chung và chế độ cộng đồng
21
tài sản. Vì vậy, vợ chồng vẫn cịn đầy đủ các nghĩa vụ với con chung và tài
sản chung đã tạo lập trước đó (theo nguyên tắc chia tài sản chung trong thời
kỳ hôn nhân, chế độ tài sản riêng có thể được thiết lập nếu vợ chồng có thỏa
thuận); phải đóng góp phí tổn vào nhu càu đời sống chung gia đình; vợ
chồng vẫn phải chung thủy với nhau, tức là không được sống chung như vợ
chồng hay kết hôn với người khác, nếu vi phạm dẫn đến hậu quả nhất định
thì có thế bị xử lý hành chính hoặc hình sự tùy theo mức độ, tính chất của
hành vi vi phạm.
1.2. Ý nghĩa của ly thân
Ly thân là khoảng thời gian cần thiết đe vợ chồng nhìn nhận và tìm
cách giải quyết các mâu thuẫn, rạn nứt trong quan hệ hôn nhân. Bởi lẽ, ly
thân củng cố hôn nhân hay khuyến khích tư duy nhận thức đổi mới đời sống
vợ chồng. Ly thân ra đời trong hoàn cảnh vợ chồng có những trục trặc trong
đời sống hơn nhân mà chưa thể tìm thấy ngay lập tức cách giải quyết. Vợ
chồng cần một khoáng thời gian nhất định để tìm thấy hướng đi chung nhằm
hàn gắn mối quan hệ rạn nứt. Bởi lẽ, khi mâu thuẫn xảy ra không phải
trường hợp nào vợ chồng cũng lựa chọn phương thức giải quyết là ly hơn,
tức là kết thúc hồn tồn quan hệ pháp lý vợ chồng. Mà khi đó, hầu hết các
cặp vợ chồng đều trải qua giai đoạn “quá độ” là ly thân để tìm cách tháo gỡ,
nếu khơng còn cách nào khác họ mới chọn phương án cuối cùng là ly hơn.
Đây chính là khoảng thời gian họ đổi mới tư duy, nhận thức về đối phương
và cuộc sống gia đình mà trước đó hay trong lúc mâu thuẫn, tranh cãi họ
không nhận ra.
Hiện nay, ở nước ta không công nhận ly thân pháp lý, tuy nhiên trong
thực tế, ly thân đã và đang là giải pháp được nhiều vợ chồng lựa chọn khi
xảy ra mâu thuẫn mà chưa đến mức phải ly hôn, hoặc như là một cách “ly
hôn thử” trước khi cùng nhau đưa ra giải pháp tốt nhất cho cuộc sống hơn
nhân. Nhìn chung, ly thân có ý nghĩa khơng chỉ với mối quan hệ nội tại của
vợ chồng mà cịn có ý nghĩa cả với xã hội. Cụ thể là:
22
Đôi với vợ chông, ly thân là khoảng thời gian vợ chơng giãn cách sau
khi mâu thuẫn và khơng tìm được tiếng nói chung. Đây là giai đoạn cả hai
người cần khoảng thời gian “tĩnh” để tự bản thân nhìn nhận lại vấn đề, từ đó
giúp vợ chồng có thời gian binh tĩnh suy nghĩ lại về cuộc sống hôn nhân,
tìm cách giải quyết mâu thuẫn phù họp nhất. Rất nhiều trường hợp trên thực
tế đã cho thấy, sau giai đoạn ly thân, các cặp vợ chồng đã có thể cùng nhau
tìm ra giải pháp chung để giải quyết những mâu thuẫn trong mối quan hệ
hơn nhân của mình. Những giải pháp có thể mang tính tích cực như là sự
hàn gắn, kết nối lại cùa hai vợ chồng, tìm được sự căm thông, chia sẻ và
hiểu nhau hơn nhưng đơi khi cũng có thế theo chiều hướng tiêu cực đó là ly
hơn. Tuy nhiên, việc ly hơn trong những trường họp trải qua khoảng thời
gian ly thân thường không quá phức tạp bởi giữa hai vợ chồng thường đã có
sự thỏa thuận, thống nhất về các vấn đề như nuôi con, chia tài sản trong thời
gian ly thân. Do đó, việc giải quyết các vụ việc ly hơn khi đã trải qua giai
đoạn ly thân thường không phức tạp và nhiều tranh chấp như những vụ việc
ly hôn thông thường.
Bên cạnh đó, việc ly thân trong khoảng thời gian mâu thuẫn vợ chồng
sẽ giúp cho mối quan hệ vợ chồng giảm thiểu các cuộc xung đột, tranh chấp,
đặc biệt là hiện tượng bạo hành trong gia đình. Đã có khơng ít những bài
học đau thương xuất phát từ mâu thuẫn vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân và
không thể không kể đến những sự việc như bố, mẹ bạo hành con; chồng
(vợ) bạo hành vợ (chồng), thậm chí đã có những vụ án mạng liên quan đến
mâu thuẫn vợ chồng. Chính vì vậy, ly thân sẽ là một giải pháp thích hợp
trong những trường hợp này, đặc biệt trong việc đảm bảo quyền lợi của
nhóm người yếu thế (phụ nữ, trẻ em...).
Đặc biệt, với vợ chồng hoặc một bên vợ hoặc chồng theo đạo Công
giáo, ly thân là giải pháp duy nhất cho họ khi hôn nhân không thể tiếp tục,
bởi giáo lý của đạo Công giáo không cho ly hôn.
23
Ngoài ra, phong tục, tập quán của người Việt Nam thường rât coi
trọng danh dự, uy tín, sĩ diện của gia đình. Do đó, khi mối quan hệ hơn nhân
rạn nứt, đổ vỡ thì các cặp vợ chồng (đặc biệt là cặp vợ chồng đã có tuổi)
thường tìm những giải pháp phù hợp như ly thân thay vì ly hơn. Đơi khi, ly
thân cũng sẽ là một giải pháp thích hợp nhằm giải quyết mâu thuẫn vợ
chồng mà vẫn cỏ thể giúp ổn định các mối quan hệ xung quanh (cha mẹ, họ
hàng, bạn bè, công việc...), đặc biệt không làm ảnh hưởng đến con chung.
Đối với xã hội, ly thân sẽ là giải pháp giúp các mối quan hệ trong xã
hội phần nào ồn định hơn. Trong rất nhiều trường hợp, mâu thuẫn vợ chồng
hồn tồn có thể giải quyết thông qua ly thân mà không cần phải sử dụng
đến thủ tục ly hôn. Việc ly hôn sẽ làm cho các quan hệ xã hội thay đổi, từ
quan hệ vợ chồng, gia đình tới những quan hệ khác có liên quan cũng buộc
phải thay đối hoặc chấm dứt theo (như các quan hệ tài sản, sở hữu, giao dịch
dân sự...).
Như trên đã phân tích, ly thân cũng sẽ giúp cho xã hội giảm thiểu
được những hậu quả không đáng có như bạo hành gia đình, ngược đãi phụ
nữ, trẻ em hay những vụ án hình sự có liên quan đến mâu thuẫn, tranh chấp
giữa vợ chồng. Vì vậy, ly thân cũng góp phàn giảm thiểu sự bất ổn xã hội,
mất trật tự trị an nơi sinh sống của các cặp vợ chồng có mâu thuẫn sâu sắc
trong đời sống gia đình.
1.3. Các quan điểm pháp lý điều chỉnh về ly thân tại một số quốc
gia trên thế giới
Theo học thuyết Mác-Lênin về HNGĐ thì vấn đề ly thân có nguồn
gốc từ tôn giáo. Chủ nghĩa Mác-Lênin cho ràng HNGĐ là những hiện tượng
xã hội có q trình phát sinh, vận động do các điều kiện kinh tế - xã hội
quyết định. Trong tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và
của nhà nước”, Mác và Ăngghen đã phân tích: Lịch sử gia đình là lịch sử
của q trình xuất hiện chế độ quần hơn, chuyển sang gia đình đối ngẫu,
phát triển lên gia đình một vợ một chồng - là q trình khơng ngừng hồn
24
thiện hình thức gia đình, trên cơ sở sự phát triên của các điêu kiện sinh hoạt
vật chất của con người. Mác và Àngghen nhìn nhận:
“Cái sẽ biến mất một cách chắc chắn trong chế độ một vợ, một
chồng là tất cả những đặc trưng mà những quan hệ tài sản đẻ ra
nó. Những đặc trưng đó là: Sự thống trị của người đàn ơng và tính
ràng buộc vĩnh viễn của hôn nhân. Sự thống trị của người đàn ông
trong hôn nhân chỉ đơn thuần là kết quả của sự thống trị về kinh
tế. Tính ràng buộc vĩnh viễn của hôn nhân, một phần là kết quả
của sự thống trị về kinh tế trong đó chế độ một vợ, một chồng
phát sinh và phần nữa là truyền thống của thời kỳ trong đó mối
quan hệ giữa những điều kiện kinh tế ấy với chế độ một vợ, một
chồng còn chưa được người ta hiểu đúng đắn và đã bị tôn giáo
thổi phồng lên” [11],
Thêm vào đó, Mác và Ăngghen cho rằng: “Nhà thờ Thiên chúa giáo
sở dĩ cấm ly hôn, có lẽ cũng chỉ vi đã thấy rằng khơng có phương thuốc nào
trị được ngoại tình cũng như khơng có phương thuốc nào trị được cái chết
cà” [11]. Như vậy có thể thấy rằng theo quan điểm của Mác và Ănggen thì
ly thân có nguồn gốc từ tơn giáo.
Đặc biệt, theo sách Giáo lý của Cơng giáo thì hơn nhân là việc do
Chúa tạo lập và những gì Thiên Chúa tạo lập thì lồi người khơng được
phân ly. Do đó, vợ chồng không thể chia tách, ruồng bở nhau mà phải ln
gắn bó, “ăn đời ở kiếp” với nhau. Cụ thể tại Giáo lý Công giáo số 2384 đã
ghi nhận: “Ly dị là một vi phạm nặng nề đối với luật tự nhiên: Nó dám phá
vỡ giao ước đã được hai vợ chồng tự do ký kết, là sống với nhau cho đến
chết” [28], Trong 07 Phép Bí tích, Bí tích về hơn phối răn dạy các con chiên
rằng: “Hơn Phối là bí tích Chúa Giêsu đã lập để kết hợp một nam, một nữ
thành vợ chồng trước mặt Chúa và Hội Thánh và ban ơn đặc biệt để giúp họ
sống chu tồn nghĩa vụ”; mục đích của hơn phối là “Sinh sản và giáo dục
con cái theo đạo Công Giáo, trung thành, yêu thương và nâng đỡ nhau”.
25
Tâm quan trọng của hơn phơi là “Tình u vợ chơng biêu hiện tình u
Chúa và Hội Thánh. Sinh sản con cái để thời phượng Chúa”; “Hợp nhất:
phải giữ một vợ một chồng. Không được ly dị và phải sống hoà thuận với
nhau cho đến chết” [29].
Tuy nhiên, cuộc sống thực tế giữa vợ và chồng thường không thuận
lợi như những gì mong đợi, sẽ có những lúc xảy ra mâu thuẫn, xung đột và
nếu những điều này không được giải quyết triệt để thì rất dễ dẫn tới tình
trạng vợ chồng không thể chung sống với nhau được nữa. Những hệ thống
pháp luật theo quan điểm Công giáo như đã phân tích trên nên việc vợ
chồng ly hơn thường bị cấm và chế định ly thân là một giải pháp phù hợp
trong hồn cảnh này. Điều này khơng đồng nghĩa với việc ly thân chỉ áp
dụng đối với những người theo đạo Cơng giáo mà giải pháp này cịn được
áp dụng rộng rãi ở một số quốc gia, những nơi coi việc áp dụng các quy
định về ly thân như một giai đoạn quá độ trước khi quyết định việc ly hôn.
Thông thường, các quốc gia chấp nhận chế định ly thân tồn tại trong hệ
thống pháp luật nước mình sẽ phân loại ly thân theo tình trạng thực tế và
tình trạng pháp lý. Theo đó, ly thân theo thực tế có thể sẽ là một trong
những căn cứ pháp lý xác đáng để Tòa án xác định và tuyên bố mối quan hệ
vợ chồng rơi vào tình trạng ly thân pháp lý. Pháp luật các nước như
Singapore, Philippines, Pháp, Canada... là những nước theo quan điểm chấp
nhận chế định ly thân, trong khi đó Việt Nam, Nhật Bản và Trung Quốc
hiện nay là những quốc gia chưa có quy định về chế định ly thân.
1.3.1. Ly thân trong pháp luật về hơn nhân và gia đình một so bang
tại Hoa Kỳ
Luật gia đình (Family Code) tại Bang California - Hoa Kỳ định nghĩa
ly thân tại Phần 2310 (Section 2310 - grounds for separation) như sau: “Ly
thân (separation) là tình trạng hai vợ chồng sống riêng rẽ (ăn riêng/ở
riêng/hai nơi khác nhau, dù trong cùng một nhà); Trong giai đoạn ly thân,
hai bên sống tự do, nhưng hôn thú vẫn cịn, nên các đương sự khơng thể kết
26
hôn với người khác; Trong thời kỳ ly thân, tài sản hôn nhân (marital
property) tạm chấm dứt, mọi việc mua bán, nợ nần, thuế má đều có tính
cách riêng rẽ” [47].
Ly thân pháp định (legal separation) theo Luật gia đình Bang
California là: “Ly thân pháp định (legal separation) là tình trạng hai vợ
chồng sổng riêng rẽ sau khi có án lệnh toà thụ lý cho ly thân. Lý do xin ly
thân pháp định có thế là: hành hạ, ngược đãi (abuse, crualty); trốn bỏ
(abandonment); tù đầy (imprisonment); ngoại tình (adultery); bở bê gia đình
(failure to support). Đương sự có quyền chọn ly thân trước khi ly dị. Nhưng
ly thân sẽ khơng cần thiết, nếu đương sự có lý do chính đáng (như liệt kê
trên) để xin ly dị ngay. Sau giai đoạn ly thân, đương sự có thể lập thủ tục
xin ly hơn trước Tịa” [47],
Thuận tình ly thân (separation by mutual consent) theo Luật gia đình
Bang California là: “Hai bên hơn phối có thể thuận tình ly thân. Họ chỉ cần có
nhân chứng (họ hàng, bạn bè) xác nhận tình trạng và thời điểm ly thân; Họ có
thể hợp thức hóa tình trạng thuận tình ly thân khi hai bên thuận nhận ký kết
khế ước ly thân và phân chia tài sản (Property Settlement Agreement/PSA).
Khế ước này ấn định tình trạng tài chính, phân chia của cải và trách nhiệm
riêng rẽ của hai bên đương sự, đồng thời ấn định trách nhiệm nuôi dưỡng và
quyền giữ, thăm con cái cùa họ. Neu một bên không thi hành đúng khế ước
PSA, bên kia có quyền kiện đối phương bội ước” [47],
Tại các bang Hoa Kỳ cũng có những quy định khác nhau về ly hơn
liên quan đến ly thân, Tịa án có thể ra phán quyết cho vợ chồng ly hôn
trong trường hợp: Tại New York “nếu vợ chồng ngoại tình; trốn bỏ cơ sờ
hơn nhân; độc ác; phạm tội đại hình; ly thân pháp định/ước định quá 01
năm” [48J; tại Texas “nếu vợ chồng ngoại tinh; trốn bỏ cơ sở hơn nhân; độc
ác; điên khùng; phạm tội đại hình; ly thân 03 năm; hôn nhân đổ bể” [49]; tại
Viginia “nếu vợ chồng ngoại tình; bỏ cơ sở hơn nhân; loạn dâm, độc ác;
phạm tội đại hình; ly thân 01 năm” [50]. Ly thân là một căn cứ quan trọng
27
để Tịa án cho phép vợ chồng ly hơn. Đa số (95%) các vụ ly dị trên khắp
Hợp Chủng Quốc thuộc loại khơng viện lỗi (no-fault divorces) căn cứ trên
tình trạng khác biệt bất khả hoà giải (irreconcilable differences) hoặc hơn
nhân bất khả cứu vãn (irretrievable marriage break-down). Đó cũng là
trường hợp ly hơn hốn chuyển (conversion divorces) tiếp nối cuộc ly thân
pháp định, hoặc thuận tình ly hơn (divorce by mutual consent) tiếp nối các
thủ tục thuận tình ly thân có trước. Bên ngun đơn xin tồ thụ lý chuẩn
chấp những điều khoản ước định của khế ước ly thân và phân chia tài sản
(Property Settlement Agreement/PSA) mà hai bên đã ký kết trước đây. Khế
ước này có tính cách cưỡng bách khi được sát nhập vào lệnh công bổ ly dị
(decree) của Toà thụ lý.
Các quy định về phân chia tài sản khi ly hôn, nghĩa vụ cấp dưỡng cho
vợ, chồng khi ly hơn, quyền gìn giữ, chăm nom, thăm viếng hay cấp dưỡng
con cái khi vợ chồng ly hôn cũng phần lớn dựa vào những thỏa thuận của vợ
chồng khi ly thân hay quyết định của Tòa án khi phán quyết cho vợ chồng ly
thân trước đó. Ví dụ như:
“Trong trường hợp thuận tình ly hơn (divorce by mutual consent), hai
bên đương sự căn cứ vào khế ước ly thân và phân chia tài sản (Property
Settlement Agreement/PSA) để ấn định việc phân chia của cải thuộc khối tài
sản hơn nhân (marital property) gồm có tài sản thu hoạch trong thời kỳ hôn
thú và của cải tuy trước riêng, sau này kết nhập (commingled) phần thu
hoạch mới vào khối tài sàn hôn nhân...” [51].
“Vợ chồng ly thân hoặc ly dị được quyền ước định hoặc pháp định
đơn phương (sole custody) hoặc song phương giữ con cái vị thành niên
(dual custody), căn cứ vào [a] nhu cầu thuận lợi nhất của con cái (best
interest of the child), [b] phương diện sức khoẻ, cá tính của đứa trẻ, [c] mối
liên hệ tình cảm với bố hoặc mẹ, [d] khả năng và luân lý của bố hoặc mẹ có
ảnh hưởng tới đời sống con cái.
28
Người cha hoặc mẹ ly thân hoặc ly dị không được giữ con
(noncustodian parent) vẫn có quyền thăm viếng chúng, được tham khảo và
có quyền quyết định về việc học vấn, tình trạng sức khoẻ, thủ tục y khoa
liên quan tới con cái vị thành niên.
Mọi hình thức vi phạm quyền gìn giữ hoặc thăm viếng con cái trên
đều bị coi là bất tn lệnh tồ (contempt of court), có thể bị phạt vạ
[fíne/bằng tiền] hoặc phạt tù (jail term).
Người cha hoặc mẹ ly thân hoặc ly dị giữ con có quyền di chuyển
sang tỉnh hoặc tiểu bang khác nếu thật tâm có lý do chính đáng (good-faith
reasons) như cơng ăn việc làm tốt hơn, đồn tụ đại gia đình để có thêm giúp
đỡ V.V., dù tình trạng này có thế gây khó khăn cho việc thăm viếng của đối
phương khơng được giữ con cái. Tồ cũng cho phép di chuyển như vậy nếu
người thăm viếng lơ là, thiếu bổn phận, kém tư cách...” [51],
Như vậy, có thể nói ly thân là một chế định cơ bản và quan trọng
trong pháp luật HNGĐ tại đa số bang của Hoa Kỳ, bởi Hoa Kỳ nhận định
ràng hầu hết vợ chồng đều trải qua ly thân trước khi đi đến quyết định ly
hơn. Vì vậy, căn cứ, điều kiện, hậu quả pháp lý về nhân thân, tài sản của vợ
chồng hay chăm sóc, ni dưỡng con chung khi vợ chồng ly thân đều được
quy định rõ ràng và tỉ mỉ.
1.3.2. Ly thân trong Bộ luật Dân sự Pháp
Pháp luật Pháp có những đặc trưng của dòng họ pháp luật châu Âu
lục địa (Civil Law). Bộ luật Dân sự Cộng hòa Pháp năm 1804 đã hợp nhất
tất cả các luật rời rạc thành bộ luật thống nhất, bao gồm 2283 điều khoản về
con người, tài sản và sở hữu. Chế định ly thân được quy định tại Thiên IV
Quyển thứ nhất về con người (từ Điều 296 đến Điều 309), trong đó Mục
một quy định về các trường hợp ly thân và thủ tục ly thân (từ Điều 290 đến
Điều 298), Mục hai quy định hệ quả pháp lý của ly thân (từ Điều 299 đến
Điều 304), Mục ba về chấm dứt ly thân (từ Điều 305 đến Điều 309). Có thể
nói, Bộ luật Dân sự Napoleon năm 1804 là một trong những bộ luật dân sự
29