Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Vai trò của phật giáo trong giáo dục đạo đức và lối sống tuân thủ pháp luật ở việt nam hiện nay (luận văn thạc sỹ luật)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (25.61 MB, 99 trang )

MỤC LỤC

Trang
Trang phụ bìa

Lời cam đoan
Mục lục

MỞ ĐẦU............................................................................................................ 1
Chương 1: NHỮNG VÁN ĐỀ LÝ LUẬN cơ BẢN VÈ PHẬT GIÁO
VÀ VAI TRÒ CỦA PHẬT GIÁO TRONG GIÁO DỤC
ĐẠO ĐÚC VÀ LỐI SÓNG TUÂN THỦ PHÁP LUẬT Ở

VIỆT NAM HIỆN NAY.................................................................... 6
1.1.

Khái niệm chung về Phật giáo.......................................................... 6

1.1.1.

Khái niệm.............................................................................................. 6

1.1.2.

Phật giáo tại Việt Nam......................................................................... 8

1.1.3.

Nhà nước với Phật giáo....................................................................... 11

1.2.



Khái niệm chung về giáo dục đạo đức............................................12

1.2.1.

Khái niệm về giáo dục đạo đức...........................................................12

1.2.2.

Phật giáo với giáo dục đạo đức.......................................................... 13

1.2.3.

Các hình thức giáo dục đạo đức với Phật giáo...................................14

1.3.

Khái niệm chung về lối sống tuân thủ pháp luật.......................... 15

1.3.1.

Khái niệm lối sống tuân thủ pháp luật............................................... 15

1.3.2.

Cách hình thức của lối sống tuân thủ pháp luật................................. 17

1.4.

Nhận thức chung về vai trò của Phật giáo trong giáo dục

đạo đức và lối sống tuân thủ pháp luật......................................... 17

1.4.1.

Mối quan hệ giữa giáo dục đạo đức và lối sống tuân thủ pháp luật...... 17

1.4.2.

Vai trò của Phật giáo với giáo dục đạo đức và lối sống tuân thủ

pháp luật.............................................................................................. 27
1.5.

Những yếu tố tác động đến Phật giáo trong giáo dục đạo đức
và lối sống tuân thủ pháp luật......................................................... 51


1.5.1.

Những yêu tô thuận lợi của Phật giáo trong giáo dục đạo đức và
lối sống tuân thủ pháp luật................................................................ 51

1.5.2.

Những khó khăn mà giáo dục đạo đức và lối sống tuân thủ pháp

luật với Phật giáo gặp phải................................................................. 52

Chương 2: THựC TRẠNG VAI TRÒ CỦA PHẬT GIÁO TRONG
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC VÀ LÓI SÓNG TUÂN THỦ PHÁP

LUẬT Ỏ VIỆT NAM HIỆN NAY.................................................. 54

2.1.

Thực trạng vai trò của Phật giáo trong giáo dục đạo đức ở

Việt Nam hiện nay............................................................................ 54
2.1.1.

Thực trạng đạo đức ở nước ta hiện nay............................................. 54

2.1.2.

Phật giáo với giáo dục đạo đức trong xây dựng văn minh, lịch
sự xã hội.............................................................................................. 63

2.2.

Thực trạng vai trò cúa Phật giáo trong giáo dục lối sống

tuân thủ pháp luật ờ Việt Nam hiện nay....................................... 67

2.2.1.

Thực trạng ý thức pháp luật, tuân thủ pháp luật ở nước ta hiện nay........67

2.2.2.

Phật giáo với xây dựng lối sống tuân thủ pháp luật.......................... 75


2.3.

Uu điểm, hạn chế cua Phật giáo trong giáo dục đạo đức và
lối sống tuân thủ pháp luật.............................................................. 78

2.3.1.

Những ưu điểm của Phật giáo trong giáo dục đạo đức và lối

sống tuân thủ pháp luật...................................................................... 78
2.3.2.

Những hạn chế của Phật giáo trong giáo dục đạo đức và lối sống

tuân thủ pháp luật ở Việt Nam hiện nay............................................ 79

Chương 3: CÁC QUAN ĐIẺM, GIẢI PHÁP CHỦ YÉU PHÁT HUY
VAI TRÒ CỦA PHẬT GIÁO TRONG GIÁO DỤC ĐẠO

ĐỨC VÀ LĨI SƠNG TN THỦ PHÁP LUẬT Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY............................................................................ 81
3.1.

Những quan điếm cơ bản phát huy vai trò của Phật giáo
trong giáo dục đạo đức và lối sống tuân thủ pháp luật ở Việt
Nam hiện nay....................................................................................81


3.2.


Những giải pháp chủ yếu phát huy vai trò của Phật giáo
trong giáo dục đạo đức và lối sống tuân thủ pháp luật ở Việt

Nam hiện nay.....................................................................................81

3.2.1.

Tăng cường sự kết hợp giữa tồ chức Phật giáo và các cơ quan

Nhà nước về phổ biến, giáo dục pháp luật trong giáo dục đạo
đức và lối sống tuân thủ pháp luật..................................................... 82

3.2.2.

Tăng cường sự kết hợp giữa tổ chức Phật giáo và các tổ chức xã
hội, gia đình, nhà trường trong giáo dục đạo đức và lối sống

tuân thủ pháp luật................................................................................83

3.2.3.

Chính sách hồ trợ của Nhà nước về áp dụng công nghệ thông tin

trong giáo dục đạo đức và lối sống tuân thủ pháp luật do các tổ

chức Phật giáo thực hiện.................................................................... 85
3.2.4.

Một sổ kiến nghị khác........................................................................ 86


KẾT LUẬN...................................................................................................... 94
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................. 95


MỞ ĐÀU
1. Tính câp thiêt của đê tài

Tri thức vừa đem lại điều tích cực nhưng cũng đưa lại điều tiêu cực,
trong đó có việc đem lại những ham muốn mới. Tri thức là một trong những

mục tiêu theo đuổi của rất nhiều người để đạt được những mục đích khác

nhau. Trẻ con ham học hỏi, tìm tịi muốn khám phá tri thức mới thông qua
những sự việc, hiện tượng xảy ra xung quanh hằng ngày. Giới trẻ muốn nâng
cao tri thức trong quá trình học tập để tăng thành tích học tập hay có thể hịa

nhịp theo xu thế phát triển của giới trẻ trên toàn thế giới mà mình khơng bị lạc

hậu, khơng bị tụt lại phía sau so với những tiến bộ vượt bậc hằng ngày. Giới
kinh doanh thì cần tri thức để liên tục cải tiến cách thức kinh doanh nhằm
đem lại lợi nhuận ngày càng cao cho bản thân, đồng thời tránh những mâu

thuẫn, những thủ đoạn gian lận trong kinh doanh. Nhà nước, Chính phủ ln
tìm cách đưa những kiến thức mới tới những cán bộ, cơng chức trong bộ máy
chính quyền nhằm nâng cao hiệu quả quản lí, nâng cao khả năng duy trì trật

tự xã hội trong tình hình hội nhập thế giới và những hệ quả thiếu tích cực mà
xu thế hội nhập đem lại. Có thề nhận thấy tri thức có vai trị vơ cùng quan

trọng trong tất cả các lĩnh vực, ngành nghề, thời gian, tầng lóp... và ảnh

hưởng của tri thức là vô cùng sâu rộng. Tri thức được con người đón nhận

tiếp thu thơng qua rất nhiều hình thức khác nhau như thơng qua trao đổi trực
tiếp trong khu vực xung quanh, hoặc gián tiếp thông qua đài báo, internet...
với khối lượng thông tin ngày càng lớn và sâu rộng, trong đó có cả tri thức
hữu dụng đem lại những kiến thức tích cực nhằm phát triển con người, phát

triển môi trường, xây dựng xã hội nhưng cũng có những kiến thức thực sự
tiêu cực trong việc đáp ứng nhu cầu thiết lập hệ thong xã hội lành mạnh, văn
minh với nền tảng con người và môi trường. Nếu những kiến thức được mọi

người vận dụng đem vào phục vụ mục đích chung và từ mục đích chung đe


đem lại lợi ích của cá nhân như tận dụng sự phát triên của phương tiện đi lại
đưa những thực phẩm, thuốc men tới những vùng xa xôi hẻo lánh thì có thể
vừa giúp ích cho những người ở đây lại vừa mở rộng thêm thị trường thì là

điều được khuyến khích phát triền vì có lợi cho cả cộng đồng và cả cá nhân.

Tuy nhiên với việc sử dụng sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, của văn minh

nhân loại vào các mục tiêu xấu gây thiệt hại cho người khác nhằm đem lại lợi
ích cho riêng cá nhân như lợi dụng sự kém hiểu biết của người dân trong các
lĩnh vực phức tạp như công nghệ thông tin, y tế... để bán hàng giả, hàng kém

chất lượng vừa là hành vi vi phạm đạo đức, vừa là hành vi vi phạm pháp luật.
Chính ờ lẽ đó mà việc kiềm soát chất lượng tri thức được tiếp cận đối với mọi

người là vô cùng cần thiết và quan trọng, đặc biệt là trong thời đại 4.0 khi mà

Internet phát triển mạnh mẽ, cách mạng khoa học công nghiệp đã dẫn tới
những đột phá về công nghệ và sự trao đổi giao tiếp giữa người với người trở

nên vô cùng mạnh mẽ và dễ dàng. Sự kiểm soát cần được sát sao cả quá trình

từ hình thành, tiếp nhận cho tới hình thành hành vi.

Ngày nay, tình trạng xuống cấp đạo đức của nhiều bộ phận người dân
cũng như các thành phần khác trong xã hội thể hiện rõ trong đời sống hằng

ngày thông qua những hành vi tiêu cực như tham nhũng, lừa đảo, vi phạm
pháp luật... cũng như trong nhận thức thông qua các cư xử giữa người với

người hay với các thành tố khác như động, thực vật, mơi trường... đang trong
tình trạng báo động. Tuy nhiên, có thể thấy trong những năm gần đây, tơn
giáo nói chung và Phật giáo nói riêng đang ngày càng có những tác động tích

cực đối với người dân trong việc nâng cao nhận thức, truyền bá, gây dựng
những hoạt động mang tính xã hội hướng thiện trên khắp cả nước ta: các hoạt

động thiện nguyện, tình thương, giúp đỡ người nghèo, người khó khăn... Có
thể thấy hiện nay giáo dục đạo đức và lối sống tuân thủ pháp luật với Phật
giáo đáp ứng được việc xuyên suốt cả quá trình này. Với giáo dục đạo đức và
lối sống tuân thủ pháp luật theo Phật giáo, việc truyền đạt kiến thức để nhận

2


ra những điêu tích cực và tiêu cực trong cách nghĩ và cách cư xử, hành vi với


những người xung quanh là mục tiêu đặt lên hàng đầu.

2. Tình hình nghiên cứu cùa đề tài

Giáo dục đạo đức và pháp luật đang được hướng tới tập trung nghiên
cứu qua nhiều các đề tài, sách báo sau:

- Hoàng Thị Kim Quế, Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật, Nxb.
Đại học quốc gia Hà nội, 2015

- Hoàng Thị Kim Quế (2006), “Những vẩn đề hôm nay của pháp luật
và đạo đức ”, Tạp chí Luật học, tr. 42 — 48;

- Hồng Thị Kim Quế (2010), ‘‘Bản chất đích thực của moi quan hệ
giữa pháp luật với đạo đức ”, Tạp chí dân chủ và pháp luật, (1), 3 - 6;

- Lê Đức Hạnh, Vai trò của giáo dục đạo đức của Phật giáo ở Việt Nam
- TT.TS. Thích Đức Thiện, TT.TS. Thích Nhật Từ, “Phật giáo và giáo

dục đạo đức tồn cầu ” (2019)
- Thích Nhật Từ, Giáo dục đạo đức Phật giảo trong trường học và xã

hội (2019).
- Dương Quang Điện, Ý nghĩa của giáo dục Phật giáo trong hình thành

nhân cách, lối sổng cho thế hệ trẻ (2019).
Tuy nhiên các đề tài, sách báo này chưa đề cập tới vai trò, mối quan hệ
của Phật giáo với giáo dục đạo đức và lối sống tuân thú pháp luật mà chỉ dưới
góc độ giáo dục đạo đức với Phật giáo hoặc giáo dục đạo đức với pháp luật.


Luận văn sẽ tập trung phân tích mối quan hệ giữa giáo dục đạo đức và giáo
dục lối sống tuân thủ pháp luật và vai trò của Phật giáo trong giáo dục đạo
đức và lối sống tuân thủ pháp luật ở Việt Nam hiện nay.

3. Mục đích nghiên cún
Mục đích nghiên cứu của luận văn này nhằm:

- Làm sáng tở những vấn đề lý luận về vai trò của Phật giáo trong giáo
dục đạo đức và lối sống tuân thủ pháp luật ở Việt Nam hiện nay.

3


- Nghiên cứu, đánh giá thực trạng vai trò của Phật giáo trong giáo dục
đạo đức và lối sống tuân thủ pháp luật ở Việt Nam hiện nay.

- Nêu lên những quan điểm, giải pháp để nâng cao hiệu quà thực hiện giáo
dục đạo đức và lối sống tuân thủ pháp luật với Phật giáo ở Việt Nam hiện nay.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài này chủ yếu nghiên cứu các vấn đề liên quan đến Phật giáo và
giáo dục đạo đức, giáo dục lối sống tuân thủ pháp luật như nghiên cứu lý luận
về giáo dục đạo đức, giáo dục lối sống với Phật giáo thông qua lịch sử hình

thành, mối quan hệ giữa giáo dục đạo đức, giáo dục lối sống tuân thủ pháp luật
với Phật giáo, nêu ra thực trạng hiện nay của xã hội để thấy được sự cần thiết
của Phật giáo trong giáo dục đạo đức, giáo dục lối sống tuân thủ pháp luật và

đưa ra các định hướng, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của giáo dục đạo
đức, giáo dục lối sống tuân thù pháp luật với Phật giáo ở Việt Nam hiện nay.


5. Phương pháp nghiên cứu

Để đạt được những mục đích trên, luận văn chủ yếu dựa trên cơ sở
phương pháp luận của lý luận chung về nhà nước và pháp luật, đặc biệt là

quan điếm, vai trò quyết định của giáo dục với đạo đức, lối sống tuân thủ

pháp luật và vai trò của Phật giáo đối với giáo dục đạo đức, giáo dục lối sống

tuân thủ pháp luật. Ngoài ra những phương pháp nghiên cứu cụ the: logic, lịch

sử, phân tích, tổng hợp, so sánh và thống kê... được sử dụng phù hợp với
từng mặt, từng lĩnh vực của đề tài.

6. Đóng góp mới cùa luận văn

Thứ nhất: Nghiên cứu, làm rõ những vấn đề lý luận của Phật giáo trong
giáo dục đạo đức và lối sống tuân thủ pháp luật ở Việt Nam hiện nay.

Thứ hai: Chỉ ra thực trạng, những thuận lợi, khó khăn của giáo dục đạo
đức và lối sống tuân thủ pháp luật với Phật giáo ở Việt Nam hiện nay.

Thứ ba: Đưa ra những quan điểm, giãi pháp nhàm phát huy vai trò của
Phật giáo trong giáo dục đạo đức và lối sống tuân thủ pháp luật với Phật giáo

ở Việt Nam hiện nay.

4



r

r

7. Ket câu của luận văn
\

£

Ngoài mục lục, lời mở đâu, kêt luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ

lục, Luận văn gôm 3 chưcmg:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về Phật giáo và vai trò của Phật
giáo trong giáo dục đạo đức và lối sống tuân thủ pháp luật ở Việt Nam hiện nay.

Chương 2: Thực trạng vai trò của Phật giáo trong giáo dục đạo đức và
lối sống tuân thủ pháp luật ở Việt Nam hiện nay.

Chương 3: Các quan điểm, giải pháp chủ yếu phát huy vai trò của Phật
giáo trong giáo dục đạo đức và lôi sông tuân thủ pháp luật ở Việt Nam hiện nay.

5


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN cơ BẢN VỀ PHẬT GIÁO VÀ VAI TRÒ

CỦA PHẬT GIÁO TRONG GIÁO DỤC ĐẠO ĐÚC VÀ LĨI SỐNG
TN THỦ PHÁP LUẬT

• Ỏ VIỆT
• NAM HIỆN
• NAY
1.1. Khái niệm chung về Phật giáo

1.1.1. Khái niệm
Phật giáo có thể được biết đến như sau:

“Người sảng lập ra đạo Phật là Thải tử Tất Đạt Đa (Shidartha) sinh
năm 624 trước cơng ngun thuộc dịng họ Thích Ca (Sakyà), con vua Tịnh

Phạn Vương Đầu Đà Na (Sudhodana) trị vì nước Ca Tỳ La Vệ (Kapilavasu)
xứ Trung Ân Độ lúc đó và hồng hậu Ma Da (Maya). Dù sống trong cuộc đời

vương giả nhưng Thái tử vẫn nhận ra sự đau khổ của nhãn sinh, vô thường
của thế sự nên Thái tử đã quyết tâm xuất gia tìm đạo nhằm tìm ra căn ngun
của đau khơ và phương pháp diệt trừ đau khổ để giải thoát khỏi sinh tử luân

hồi. Sau nhiều năm tìm thày học đạo, Thải Tử nhận ra rằng phương pháp tu
hành của các vị đó đều khơng thể giải thốt cho con người hết khổ được.

Cuối cùng, Thái tử đến ngồi nhập định dưới gốc cây Bồ đề và thề rằng "‘Nếu

Ta không thành đạo thì dù thịt nát xương tan, ta cũng quyết khơng đứng dậy
khỏi chỗ này”. Sau 49 ngày đêm thiền định, Thải tử đã đạt được Đạo vô

thượng, thành bậc "Chánh đẳng chánh giác ”, hiệu là Phật Thích Ca Mâu Ni.
Đó là ngày 08 tháng 12 năm Đức Phật 31 tuổi.

Tư tưởng chủ đạo của đạo Phật là dạy con người hướng thiện, có tri

thức đê xảy dựng cuộc Sống tốt đẹp yên vui trong hiện tại. Đạo Phật khỏng

công nhận có một đấng tối cao chi phổi đời sống của con người, không ban
phúc hay giảng hoạ cho ai mà trong cuộc Sống mỗi người đều phải tuân theo

luật Nhãn - Quả, làm việc thiện thì được hưởng phủc và làm việc ác thì phải

6


chịu bảo ứng. Đạo Phật còn thê hiện là một tơn giáo tiên bộ khi khỏng có thái

độ phân biệt đẳng cấp. Đức Phật đã từng nói: “Khơng có đẳng cấp trong
dịng máu cùng đỏ như nhau, khơng có đẳng cấp trong giọt nước mắt cùng

mặn

Ngoài ra, đạo Phật cũng thê hiện tinh thần đồn kết và khơng phản

biệt giữa người tu hành và tín đồ, quan điếm của đạo Phật là “Tứ chủng đồng
tu ”, đó là Tăng, Ni, Phật tử nam và Phật tử nữ đều cùng được tu và nếu ai cỏ
quyết tâm đều có thể thành tỉm như Đức Phật.

Khác với một số tôn giáo lớn trên thế giới, đạo Phật chủ trương khơng
có hệ thống tô chức thế giới và hệ thống giáo quyền. Điều này xuất phát từ lỷ

do Đức Phật hiểu rõ sự ham muốn quyền lực của con người, do đó Đức Phật
chủ trương không giao giảo quyền quản lỷ cho ai mà chỉ hướng dần đệ tử
nương vào giáo lỷ, giảo luật đê duy trì và tồn tại theo hệ thống son mơn (như


dịng họ thế tục ngồi đời).

Một đặc điêm nơi bật của đạo Phật là một tơn giáo hồ bình, hữu nghị,
hợp tác. Trải qua hơn 25 thế kỷ tồn tại và phát triển, đạo Phật du nhập vào

trên 100 nước trên thế giới, ở hầu khắp các châu lục nhưng ln với trạng
thải ơn hồ, chưa bao giờ đi liền với chiến tranh xăm lược hay xảy ra các
cuộc thánh chiến. Tính đến năm 2008, đạo Phật có khoảng 350 triệu tín đồ và

hàng trăm triệu người có tình cảm, tín ngưỡng và có ảnh hưởng bởi văn hố,
đạo đức Phật giáo” [9].
Như vậy, có thể thấy Phật giáo là hệ thống các giáo lý hướng con người
ta tới các suy nghĩ tích cực, từ đó đưa ra những hành động mang tính chất
hướng thiện với thế giới xung quanh. Phật giáo có rất nhiều ưu điểm trong hệ

thống giáo lý, giáo luật đều là những tư tưởng nhằm định hướng, xây dựng,

sửa đối... nhân cách, đạo đức con người chúng ta. Đạo Phật tập trung xây

dựng, rèn luyện con người từ cách nghĩ, cách tư duy, cách tiếp thu, tiếp cận
vạn vật theo chiều hướng tích cực nhằm đem lại cho bản thân một góc nhìn

này sinh tình cảm u thương với vạn vật, với mn lồi đề từ đó sống hịa

7


hợp giữa thiên nhiên, đât trời cùng với mn lồi khác và hướng tới Niêt Bàn.

Để đạt được Niết Bàn là trạng thái cao nhất mà Đạo Phật hướng tới khi

con người đã tiếp thu được tất cả những bài kinh và rèn luyện, tu dường bản

thân tới mức hóa giải được mọi vấn đề trong cuộc sống, suy nghĩ thông suốt,

thấu đáo những việc đã, đang và sẽ xảy ra và cũng từ bỏ hay xóa bỏ được dục
vọng, ham muốn bản năng của bản ngã, Đức Phật chỉ dạy con người thông
qua những giáo lý gồm những chi dạy là những bài kinh và được ôn đi ôn lại

hằng ngày; phương pháp thực hiện bao gồm tu thân, thiền định, rèn luyện bản
thân với Bát Chánh Đạo, Tứ vơ lượng tâm với Từ, Bi, Hỷ, Xả... nhằm mục

đích chính trong cải cách chính con người mồi chúng ta.

1.1.2. Phật giáo tại Việt Nam
Theo những nghiên cứu thì Phật giáo đã du nhập vào Việt Nam khoảng

2000 năm trước qua những con đường khác nhau như đường thủy và đường
bộ, từ Ấn Độ và Trung Quốc vào đầu kỷ nguyên Tây lịch. Phật giáo ở Việt

Nam được Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam chia thành 4 thời kì:

- Thời kỳ thứ nhất: từ khi Phật giáo du nhập vào cho đến thế kỷ X, Phật
giáo được cho là du nhập vào nước ta khi mà chúng ta đang trong thời kỳ Bắc
thuộc với tồn tại của Nho giáo và đạo Lão được nhà Hán truyền vào. Ớ thời kì

này Phật giáo ở Việt Nam mới chỉ ănh hưởng một chút, gọi như là “biết đến”

chứ chưa có ảnh hưởng rộng lớn và sâu sắc tới người dân.

- Sang thời kì thứ hai là Phật giáo thời kì Đinh - Lê - Lý - Trần (thế kỷ

X đến thế kỷ XV) thì Phật giáo ở thời kì này được coi trọng và phát triển một

cách mạnh mẽ. Ở thời kì này, sau một nghìn năm Bắc thuộc dưới ách đơ hộ

của các triều đại phong kiến Trung Quốc thì nước ta đã giành được độc lập và

tự chủ, đây là điều kiện và cơ hội cho Phật giáo phát triển. Dưới các triều đại
này thì tơn giáo chính được đặt lên hàng đầu đó là Phật giáo và coi là tơn giáo

chính. Bằng chứng là việc cho xây dựng nhiều chùa chiền, lấy tư tưởng, giáo

8


lý nhà Phật đê xây dựng nên giáo dục toàn dân và bộ máy chính qun thời kì

này. Bên cạnh đó là việc các nhà sư được sủng ái bởi các Vua trong thời kì
này. Thiền sư Ngơ Chân Lưu (933-1011) đã được Vua Đinh Tiên Hồng
phong làm Khng Việt Thái sư và Tăng thống đứng đầu Phật giáo cả nước,

các Pháp sư như Ma Ni, Đặng Huyền Quang cũng được phong vào những vị
trí quan trọng để điều hành Phật giáo cả nước. Đáng kể đến thời nhà Lý Trần được xem là thời kì mà Phật giáo phát triển và thịnh hành nhất. Vua Lý

Công Uẩn tức Lý Thái Tổ có cùng xuất thân với Sư Vạn Hạnh nên đã được
tiếp cận với nền Phật học và hết sức ủng hộ với Phật giáo. Sau khi lên ngôi,
ông đã tập trung đầu tư nhiều để Phật giáo phát triển như xây dựng nhiều ngôi
chùa lớn và mới, tu sừa lại những ngơi chùa cũ, ở thời kì này cũng tôn quý

các nhà sư và thường phong chức cho các nhà sư có những vị trí chức sắc và
giữ nhũng vai trò đặc biệt trong điều hành, nghiên cứu, truyền bá tư tưởng

Phật giáo. Nổi tiếng ở thời nhà Trần là đời vua Trần Nhân Tông với phái
Thiền Trúc lâm n Tử quy tụ các dịng thiền đang có ờ nước ta thời bấy giờ

và được xem là thuần túy của người Việt cũng như là nền móng cho phát triển

riêng biệt của Phật giáo Việt Nam.
- Thời kì thứ ba: Phật giáo thời Lê sơ đến nhà Nguyễn (thế kỷ XV-XX).
Sang đến giai đoạn này thì ở Việt Nam đã chuyển sang Nho giáo làm tư tưởng
chính nên Đạo Phật đã bị suy yếu dần, Phật giáo ở thời kì này do đã ăn sâu

vào tầng lớp người dân nên cịn được gìn giữ và lưu truyền tại các làng quê

cùng với truyền thống yêu nước, đoàn kết dân tộc, bản sắc văn hóa. Phật giáo
cùng với các tư tưởng đạo Lão và Nho giáo đã tạo nên hệ tư tưởng chủ đạo
trong giai đoạn này trên tinh thần nhập thế. Khi Trịnh - Nguyễn phân tranh
thì Phật giáo mới quay trở lại khi cả đàng trong và đàng ngoài đều được các

chúa tu sửa lại các chùa chiền như chùa Phúc Long (1618), chùa Thiền Tây ở

Vĩnh Phúc (1727), chùa Thiên Mụ ở Huế (1601) ... và sự xuất hiện của những

9


phái thiên mới như Thiên Tào Động hay Thiên Lâm tê.

- Thời kì thứ tư là từ thế kỉ XX đến nay: Sang thời kì thứ ba, Phật giáo
đã khơng còn được thịnh hành như trước mà chỉ còn được duy trì và mãi tới

những năm ba mươi cùa thế kỉ XX mới có phong trào Chấn hưng Phật giáo ở

Việt Nam và nhìn ra thế giới cũng có rất nhiều nước Chấn hưng nền Phật giáo

trong giai đoạn này như Trung Quốc, Nhật Bán. Với những thay đối về kinh

tế, văn hóa xã hội, tư tưởng thì những biến đổi về giáo lý, giáo hội... cũng
được thay đối theo kịp thời đại. Giai đoạn Chấn hưng này cùng với q trình

đấu tranh giải phóng dân tộc của nước ta đã kéo theo sự tham gia của nhiều

nhà sư để cùng đoàn kết, phối hợp giữa Phật giáo và nhân dân đứng lên đấu

tranh chống thực dân Pháp. Sau khi đất nước ta giành được độc lập, hịa bình
và thống nhất năm 1975 đã tạo điều kiện cho Phật giáo được thống nhất các tổ
chức giáo phái trên khắp cả nước. Sự kiện nổi bật là tháng 2/1980, Ban vận
động Phật giáo thống nhất được thành lập và đến tháng 11 năm 1981 tại Hội

nghị đại biểu thống nhất Phật giáo tổ chức tại Hà Nội với 165 đại biểu gồm

các tăng, ni, cư sĩ của các hệ phái Phật giáo đã thống nhất và lập ra Giáo hội
Phật giáo Việt Nam (GHPGVN) với Hiến chương, chương trình hành động

của Giáo hội và đường hướng “Đạo pháp - Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội”.

Cho tới hiện nay thì Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã trải qua 8 kỳ đại
hội với cơ cấu tổ chức gồm: cấp Trung ương, cấp Tinh, cấp huyện, cấp Trung
ương và cấp Tỉnh giữ vai trị chủ chốt và ở cấp Trung ương có Hội đồng
Chứng minh và Hội đồng Trị sự. Hiện nay cả nước có hơn 4,6 triệu tín đồ

Phật tử quy y tam bảo, hơn một nửa dân số Việt Nam chịu ảnh hưởng của
Phật giáo ở các mức độ khác nhau; 893 đơn vị gia đình Phật tử; 44.498 tăng,

ni; 14.775 tự viện, tịnh xá, tịnh thất, niệm Phật đường; 04 học viện Phật giáo;

hơn 30 trường Trung cấp Phật học; ngồi ra đạo Phật cịn có tạp chí: Tạp chí
nghiên cứu Phật học, tạp chí văn hóa Phật giáo, trang mạng Thư viện hoa

10


sen... (theo thơng kê của Ban Tơn giáo Chính phủ).

Như vậy có thể thấy Phật giáo Việt Nam trải qua rất nhiều thời kì với
bề dày lịch sử hai nghìn năm đã gắn bó sâu sắc cùng với truyền thống, văn

hóa, bản sắc dân tộc, là cái nơi, là nền tảng góp phần xây dựng nền giáo dục,
văn hóa hiện tại. Cùng với quá trình phát triển và biến đối, Phật giáo đã nhập

thế cùng với xu hướng thời đại để khơng chỉ góp phần gìn giữ chính mình mà
cịn lan tỏa, phát triển cùng với các tôn giáo khác, các thành phần xã hội khác.

1.1.3. Nhà nước với Phật giáo
Nhà nước ta đã dành những quan tâm nhất định tới tôn giáo thể hiện
qua: sắc lệnh số 234-SL ngày 14/6/1955 với nội dung: “việc tự do, tín

ngưỡng, thờ cúng là một quyền lợi của nhân dân. Chính quyền dân chủ cộng
hịa ln ln tơn trọng quyền lợi ấy và giúp đỡ nhân dân thực hiện” (Điều

15) của Chủ tịch Hồ Chí Minh cho thấy tầm quan trọng của tơn giáo đối với

tình hình đất nước lúc bấy giờ. Sau quá trình đấu tranh giành độc lập, đất
nước ta bước vào phát triển thì những nội dung liên quan đến pháp luật quy


định về tơn giáo, tín ngưỡng nhằm đảm tạo điều kiện cho sự phát triển của tơn
giáo, tín ngưỡng cũng như thiết lập những quy chế chung tạo bộ khung đảm
bảo sự phát triển được đúng hướng, phù hợp với văn hóa đạo đức, truyền
thống dân tộc và định hướng phát triển của đất nước ta. Có thể kể đến là Nghị
quyết số 297-CP (11/11/1977) về “Một số chính sách đối với tơn giáo” với nội

dung về các nguyên tắc tự do của tôn giáo; Nghị định 69-HĐBT (21/3/1991)

ban hành “Quy định về các hoạt động tôn giáo”; Nghị định 26/1999/NĐ-CP

(19/4/1999) về các hoạt động tôn giáo.
Trải qua một thời gian dài thì những bước tiến mới của Nhà nước trong

cơng tác tơn giáo, tín ngưỡng được nâng lên thông qua Hiến pháp năm 2013

với Điều 24 quy định về việc:

Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo

11


một tơn giáo nào. Các tơn giáo bình đăng trước pháp luật. Nhà nước tôn
trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tơn giảo. Khơng ai được xâm phạm

tự do tín ngưỡng, tơn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm

pháp luật.
Với việc quy định về việc tự do tín ngưỡng, tự do tơn giáo thì cũng đòi


hởi cơ chế quản lý với vấn đề tự do tín ngưỡng, tơn giáo của người dân và đó

cũng chính là cơ sở ra đời Luật Tín ngưỡng, Tơn giáo năm 2016. Luật Tín
ngưỡng, Tơn giáo ra đời với mục đích nêu ra những quyền cùa mọi người
trong tự do tín ngưỡng, tơn giáo; quy định các hoạt động tín ngưỡng, tơn giáo;

các quyền và nghĩa vụ của các cơ quan, tổ chức... trong các hoạt động liên

quan đến tơn giáo, tín ngưỡng. Sau đó là Nghị định số 162/2017/NĐ-CP quy
định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật này. Đây là cơ sở, nền
tảng cho các hoạt động tín ngưỡng, tơn giáo được phát triển nhưng cũng đảm
bảo an toàn, trật tự xã hội.
1.2. Khái niệm chung về giáo dục đạo đức
1.2.1. Khái niệm về giáo dục đạo đức

Con người qua q trình tiến hóa và phát triển đã dần hoàn thiện mọi
thứ từ thể chất cho tới tinh thần, cùng với đó là nhu cầu đảm bảo giữ gìn và

phát triển cao hơn nữa hai yếu tố vô cùng cần thiết này. Cả thể chất và tinh
thần của con người đều là những yếu tố phức tạp và tồn tại ở nhiều dạng khác

nhau và có tác động với nhau rất nhiều.
Trong “Giáo dục đạo đức Phật giáo” có đề cập đến Giáo dục thơng

qua
việc
nêu ra các khái niệm
về Giáo dục.
Theo đó thì: “Giảo dục

là một
JL






hiện tượng tiến hỏa của xã hội lồi người, khơng có giáo dục con người chỉ

Sống theo bản năng của thủ tỉnh. Nhờ giảo dục, lồi người thốt khỏi trạng
thái mông muội hỗn độn, phát triển dần về khỉ chất, từ con người nô lệ trước
lực lượng thiên nhiên đến con người biết chinh phục thiên nhiên, phục vụ

12


đời sống đưa nhãn loại tiến nhanh hơn đến cho tồn mỹ. Theo quan niệm
phương Tây thì, ngun ngữ “Education ” (giáo dục) bắt nguồn từ tiếng Latinh cổ là: “Educere” hay “Educare”: E: Ra khỏi, thoát khỏi. Ducere: Dần

dắt, hướng dẫn.

Theo quan niệm phương Đơng thì: Giảo: Là dạy; Dục: Là nuôi. Giảo
dục là hướng dần, tác động, dẫn dắt khiến cho thay đôi cả tinh thần và thê

chất của con người sao cho ngày một hoàn thiện hơn, tốt đẹp hơn. ”

“Giáo dục theo nghĩa chữ Hán cỏ thê hiểu: giảo là giảo hỏa, là dạy
tri thức, là dẫn dắt về mặt tinh thần, đạo đức con người; dục nghĩa là nuôi


dưỡng. Giáo dục bao hàm ba mặt nghĩa song song là: tri thức, đạo đức và

thể chất” [8].

Qua các khái niệm trên có thể thấy Giáo dục là phương thức truyền đạt
kiến thức, tri thức mới cho mọi người thông qua những quá trinh như truyền

đạt, dạy dỗ, phổ biến những tri thức đó dưới sự hướng dẫn, chỉ dạy của những

người đã có kiến thức, tri thức.
Đạo đức
Theo khái niệm về đạo đức trong “Giáo dục đạo đức Phật giáo” thì:

“Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, xuất hiện tưong đối sớm và có vai trị
quan trọng đối với sụ phát triển của xã hội. Đạo đức được hiểu là Hệ thống
các quy tắc, chuẩn mực xã hội mà nhờ đó con người tự giác điều chỉnh hành

vi của mình cho phù hợp với lợi ích của cộng đồng, của xã hội”.
Như vậy, giáo dục đạo đức là quá trình truyền dạy những tri thức về
những quy tắc, chuẩn mực sống đã được tổng kết, quy nạp lại để các thế hệ

sau được biết, hiểu và thực hiện theo những chuẩn mực chung đó.

1.2.2. Phật giáo với giáo dục đạo đức
Giáo dục đạo đức với Phật giáo là nhằm truyền dạy thông tin cho người
nghe, người học hiểu được về những giáo lý, tư tưởng của nhà Phật về những

13



yếu tố như cách tiếp cận với sự việc, vấn đề; cách suy nghĩ, nhận xét về
chúng; cách hành xử, xử lý chúng theo hướng “thiện”, hướng tích cực để từ
đó họ có thể lựa chọn, tìm ra cho mình những cách giải quyết vấn đề phù hợp

với đạo đức, với những quy chuẩn chung của xã hội. Giáo dục đạo đức với
Phật giáo không chỉ chú trọng vào việc truyền dạy tri thức cho mọi người để
mọi người có thể thực hiện theo với cách học truyền thống là bị động tiếp

nhận tri thức và thực hành theo mà cịn tạo ra sự chủ động cho người học
thơng qua việc tự khơi dậy trong bản thân mồi người việc tự rèn luyện bản

thân trong việc tiếp cận với thế giới khách quan bên ngoài và linh hoạt trong
việc sử dụng những cách ứng xử đã được học để xử lý các vấn đề trong cuộc

sống xã hội hằng ngày.

1.2.3. Các hĩnh thức giáo dục đạo đức với Phật giáo
Có thể thấy Phật giáo Việt Nam giáo dục đạo đức với các hình thức cơ

băn sau:

Thứ nhất là hình thức đạo tạo theo lối sư phạm do Trung ương Giáo hội
Phật giáo Việt Nam tồ chức tại các Học viện, các trường Đại học, trường Cao

đẳng, Trung cấp chuyên nghiệp về Phật giáo do Giáo hội Phật giáo Việt Nam
thành lập như Học viện Phật giáo Việt Nam tại Hà Nội, Học viện Phật giáo

Việt Nam tại Huế, Học viện Phật giáo Việt Nam tại thành phố Hồ Chí Minh...

Thứ hai là tại các địa phương với sự tổ chức của các Ban Trị sự cấp

tĩnh, cấp huyện, tại các tự viện và các thiền viện bao gồm: câu lạc bộ, các

khóa tu, các lớp bồi dưỡng kiến thức...

Thứ ba là thông qua hệ thống Internet, ngày nay khi mà cơng nghệ phát

triển với sự kết nối tồn thế giới mà không cần phải tới trực tiếp các địa điểm
đế học tập nhằm giảm chi phí đi lại cũng như ăn ở mà có thể học tập trực tiếp
tại nhà thì Internet đã cung cấp cho mọi người một cách học mới thơng qua

điện thoại thơng minh, máy tính hay máy tính bảng có kết nối Internet... Điều

14


này giúp người học có thê học tập ở mọi lúc, mọi nơi phù họp với điêu kiện
của bản thân dù không thể trực tiếp đến lớp học do những bài giảng đã được

đưa lên hệ thống toàn cầu như Yotube và người học có thể lưu lại để xem tại
những vùng khơng có Internet.

1.3. Khái niệm chung về lối sống tuân thủ pháp luật

1.3.1. Khái niệm loi sống tuân thủ pháp luật
T

r _

ĩ


Ạ • _Ạ

Lơi sơng

“Lối sống của con người là các chiều cạnh chù quan của văn hóa, là
q trình thực hiện hóa các giá trị văn hóa thông qua hoạt động sống của con

người. Lối sống bao gồm tất cả những hoạt động sống và phương thức tiến

hành các hoạt động sống được một bộ phận lớn hoặc tồn thể nhóm hay cộng
đồng người chấp nhận và thực hành trong một khoảng thời gian tương đối ổn
định, đặt các mối tương tác biện chứng của các điều kiện sống hiện hữu và

trong các mối liên hệ lịch sử của chúng”.
Tuân thủ pháp luật là chủ thể pháp luật kiềm chế mình để khơng thực

hiện điều pháp luật cấm. Tuân thủ pháp luật mang tính bắt buộc thực hiện. Tn

thủ pháp luật có tính chất thụ động và thể hiện dưới dạng hành vi không hành

động. Tuân thủ pháp luật thường thể hiện dưới dạng những quy định cấm đốn,
tức quy phạm bắt buộc chủ thể khơng được thực hiện những hành vi nhất định.
Do đó, Lối sổng tuân thủ pháp luật là lối sống mà ở đó mọi người chủ

động lựa chọn cách sống, cách hành xử, thực hiện các hoạt động mang tính cá

nhân và cộng đồng trong sinh hoạt hàng ngày hay trong các hoạt động khác
như văn hóa, chính trị, xã hội, kinh tế... dưới sự tự giác cập nhật, tiếp thu

pháp luật và hướng các hoạt động của mình dưới góc nhìn nhận thức được hệ

quả pháp lý đế từ đó hạn chế tối đa hoặc tránh những vi phạm pháp luật. Lối

sống tuân thủ pháp luật được dựa trên nhận thức được hành vi vi phạm pháp
luật hoặc những hành vi mặc dù pháp luật chưa quy định nhưng lại là hành vi

15


gây tôn hại cho các môi quan hệ khác dưới những dạng khác nhau. Lôi sông
tuân thủ pháp luật dựa trên ý thức pháp luật được hình thành thơng qua sự

“khắc cốt ghi tâm”, nhập tâm tích cực vai trị của pháp luật, những hành động
hợp pháp và lặp đi lặp lại liên tục, hàng ngày. Lối sống tuân thủ pháp luật là
mỗi chủ thể trước khi hành động đều đưa ra những nhận thức, đánh giá, đặt

hành vi sắp tới của mình lên bàn cân để so sánh, soi xét tính hợp pháp của
hành động trước khi nó được thực hiện. Điều này chỉ có thề thành hiện thực
nếu những hành động phức tạp này được thực hiện và được tính tốn, phân

tích trong thời gian ngắn trước hành động bởi sự kiện xảy ra trong thực tế

không phải lúc nào cũng kịp để con người kịp chuẩn bị. Chính vì vậy phải xây
dựng lối sống đó thành bản năng để hạn chế tối đa nếu trong tình huống gấp

gáp hoặc nếu có thời gian thì ngăn chặn vi phạm pháp luật.

Lối sống tuân thủ pháp luật đem lại cho mọi người một cuộc sống được

đảm bão sự an tồn, trật tự bởi tính bắt buộc cưỡng chế của nó đối với các


hành vi vi phạm pháp luật. Do đó, khi một người sống trong mơi trường tn
thủ thì môi trường này là nhằm đảm bảo những hành vi tuân thù pháp luật
được được thực một cách đúng quy định và ít có hành động xảy ra xâm phạm

tới các cá nhân khác so với môi trường xã hội với nhiều thành phần và đối

tượng chưa thề kiểm soát được hết như hiện nay bởi môi trường tuân thủ pháp

luật sẽ tập hợp những người đã chọn lối sống tuân thủ theo pháp luật.
Sự tạo ra môi trường lối sống tuân thủ pháp luật riêng này sẽ phải đòi

hỏi chủ thể muốn tham gia phải chấp nhận lựa chọn lối sống tuân thủ pháp luật

mà ở đó mọi hành vi đều phải thực hiện theo những quy định đã được đề ra.

Ban đầu có thể là xây dựng những mơ hình quy mơ nhó, được kiểm sốt gắt
gao nhằm tạo ra tiềm thức cho mồi người về các hành xử, cách suy nghĩ, đánh

giá vấn đề và những hành động của cá nhân đối với những người, mối quan hệ
khác. Và sau khi trải qua một quá trình và một thời gian nhất định theo quy

16


chuân chung đê có thê đạt được ý thức pháp luật thì có thê gỡ bỏ sự kiêm sốt
ở quy mô nhở để hướng tới xây dựng những quy mô lớn hơn. Sự kiềm sốt gắt
gao và giới hạn ít nhiều sự tự do nhưng là đề đảm bảo cho mục đích chung
trong tương lai cho thời gian dài sắp tới. Chúng ta có thể biết đến khi đề cập tới

những vùng, những đất nước mà khi nhận thức họ được nâng cao, sự tự ý thức


được hình thành trong mồi cá nhân để xây dựng môi trường xã hội an toàn, văn
minh, lịch sự... như ở Mỹ, Nhật, Liên minh Châu Âu... thì những người từ các

vùng đất khác tới đó để học tập, sinh sống, làm việc đều phải trải qua những
quá trình kiểm tra nghiêm ngặt để đảm bảo hạn chế những rủi ro có thể đem lại

cho mơi trường và con người đó. Tuy nhiên vẫn rất nhiều người muốn tới

những vùng đất này mặc cho những thủ tục nghiêm ngặt và gắt gao đó cho thấy
tính hiệu quả, hấp dẫn và ưu việt của mơi trường này. Do đó, việc xây dựng

mơi trường với lối sống tuân thủ pháp luật là cần thiết ở mọi quốc gia trong đó
ke cả những nước theo hình thức xã hội chủ nghĩa như ở Việt Nam chúng ta.

1.3.2. Cách hình thức của lối sống tuân thủ pháp luật

Mỗi người có thế thực hiện lối sống tuân thủ pháp luật thông qua việc
hành động hoặc không hành động nhằm thực hiện một việc gì đó, chẳng hạn

khơng bn bán ma túy, không buôn lậu, không tố chức cờ bạc, lô đề... hoặc

hành động theo quy định của pháp luật như đội mũ bảo hiểm khi tham gia
giao thông, không uống rượu bia khi tham gia giao thông...

Lối sống tuân thủ pháp luật có thể trực tiếp thơng qua những hành
động hằng ngày nhưng cũng có thể là gián tiếp thông qua việc giáo dục, dạy

dỗ, truyền đạt cho các thành viên trong gia đình cùng xây dựng lối sống tuân
thủ pháp luật.

1.4. Nhận thức chung về vai trò của Phật giáo trong giáo dục đạo

đức và lối sống tuân thủ pháp luật

1.4.1. Moi quan hệ giữa giáo dục đạo đức và loi sống tuân thủ pháp luật

- Đối tượng là con người

17


Giáo dục đạo đức với Phật giáo tập trung vào hồn thiện mơi con người
với tam học là giới, định, tuệ, trong đó giới là Ngũ giới ngăn con người không

làm những điều cấm kị. Định là thiền định tu luyện rèn giũa bản thân. Tuệ là
trí tuệ, nâng cao hiểu biết, tri thức của bản thân. Là thành phần cơ bản của xã

hội loài người, mồi con người chúng ta đều đóng góp vào mơi trường sống
chung, vì vậy mồi hành động nhở có thể tạo nên xu hướng hay xu thế thay đổi

nhận thức của những người xung quanh, nhóm nói riêng hay cả một tập thể
lớn nói chung. Điều đó được giáo dục đạo đức với Phật giáo sớm nhìn nhận ra
và tập trung vào phát triển mỗi con người từ nhận thức, suy nghĩ, nhận định

ban đầu thông qua sự tiếp xúc, cảm nhận tới hành động thực tế và lối sống
hằng ngày. Mồi cá nhân trong cuộc sống đều tham gia và hoạt động trong xã
hội hiện nay, điều này khiến chúng ta chính là nguyên nhân chính cho mọi rắc

rối, mâu thuẫn, tranh cãi hằng ngày. Rõ ràng rằng theo giáo dục đạo đức với
Phật giáo thì nguyên nhân của những rắc rối này đều từ mồi con người mà ra


như tham lam, sân si, dục vọng... nhưng nếu những yếu tố này có trong mồi
con người mà chủ thể tự kiềm chế, ý thức, nhận định được mà khơng để cho
chúng có cơ hội được bộc lộ, được thể hiện ra bên ngoài thì những mâu thuẫn,

những rắc rối của xã hội sẽ khơng hình thành và khơng phức tạp như hiện

nay. Cho nên giáo dục đạo đức với Phật giáo giáo dục đầu tiên là đạo đức của
mồi người là hướng đến cách ngăn ngừa hậu quả của những hành vi mà bản

thân mỗi người gây ra trong cuộc sống hằng ngày bằng cách loại trừ những

nguyên nhân gây ra hậu quà đó như lịng tham lam, dục vọng, ích kỷ, sân si...

Tuy nhiên để đạt hiệu quả cho việc loại trừ những nguyên nhân này thì mồi
bản thân chúng ta phải thực hiện loại trừ nó thường xuyên hằng ngày, hằng

giờ trong mỗi hành động của chúng ta trong từng suy nghĩ, lời nói, cử chỉ,

hành động ở bất kể mối quan hệ nào. Từ đó mới tạo điều kiện để loại trừ dần
dần, hình thành thói quen phản xạ và nhanh chóng loại bở bất kể nguyên nhân
nào kịp thời trong thời đại mà cuộc sống nhộn nhịp cuốn theo mọi thứ như

18


một cái guông máy hiện nay.
Cũng giống như giáo dục đạo đức với Phật giáo, lối sống tuân thủ pháp
luật cũng hướng tới con người đầu tiên trong quá trình nồ lực để đạt được
mục tiêu của mình. Với sự hình thành và phát triển của xã hội lồi người trải

qua từ xã hội nguyên thủy, nông nô, phong kiến và hiện nay là tư bản chủ

nghĩa và xã hội chủ nghĩa, con người đã xây dựng rất nhiều thứ như hệ thống
kinh tế, hệ thống chính trị, hệ thống khoa học, hệ thống cơng nghiệp... trong
đó có hệ thống pháp luật. Hệ thống pháp luật có những điểm giống với các hệ

thống khác khi cũng được xây dựng nhằm mục đích kiểm sốt những thành

phần bên trong nó và có tác động tới các lĩnh vực liên quan trong cuộc sống

hằng ngày nhưng cũng có điểm khác biệt là pháp luật thậm chí cịn bao trùm
lên tất cả các hệ thống khác, tác động lên chúng để đảm bảo tất cả chúng đều
hoạt động theo nguyên tắc đã được đề ra hướng tới mục tiêu chung là phát

triển đất nước, con người và xã hội. Pháp luật được Nhà nước đề ra khi xã hội
bắt đầu phát triển mà trong đó những mối quan hệ đã được hình thành khi con

người bước qua xã hội nguyên thủy, tiến vào những q trình như trao đổi
hàng hóa, trao đổi đồ vật, tri thức... Ở đây, trong những quá trình này, con

người có những hành vi mới, cử chỉ mới... khi tiếp xúc với những con người
mới mà trước đây, khi ở xã hội nguyên thủy con người sống trong các vùng

nhất định thành từng nhóm chưa được tiếp xúc. Sự tiếp xúc mới này vừa giúp
con người được tiếp cận với những cách cử xử, hành vi mới... nhưng cũng

gây ra những khó khăn khi gây ra vấn đề sốc văn hóa bởi mỗi vùng con người
lại có cách xử trí riêng cho cùng một vấn đề. Điều này đã khiến những mâu

thuần, những xung đột xảy ra khi những con người này khơng thể thống nhất

được cách xử trí chung cho cùng một vấn đề. Chính vì vậy, khi được thành

lập, những người được người dân lập ra một cơ chế để quản lí chung xã hội
đã xây dựng một hệ thống các nguyên tắc, quy định chung mang tính bắt buộc

19


thực hiện vê cách giải quyêt, xử lý đôi với những sự việc xây ra mâu thuân
trong cuộc sống hằng ngày dựa trên những kinh nghiệm rút ra từ những sự việc

tương tự đã xảy ra gọi chung là hệ thống pháp luật. Pháp luật đã đưa ra những
cách giải quyết, xử lý về những hành vi được xác lập do con người tạo nên
trong quá trình sinh hoạt hằng ngày cho đến những mối quan hệ được tạo ra,

duy trì và phát triển. Ĩ đây pháp luật thời kì đầu đơn thuần là đưa ra cách giải
quyết mâu thuẫn nhưng sau này các nhà làm luật đã hoàn thiện thêm pháp luật

khi đưa ra những quy định nhắm tới những ngun nhân hình thành những mâu
thuẫn đó trong xã hội, đó là việc đưa ra khái niệm về “tuân thủ pháp luật”.

Vượt lên trên tất cả những loài động vật khác, con người trở thành động vật cấp

cao với khả năng tư duy, nhận thức đáng nể, con người nhận thức được những
hành vi xấu và tốt, nên làm và khơng nên làm để từ đó đưa ra những quyết định
dành cho bản thân trong những hành động của chính mình. Tuy nhiên q trình
thời gian đưa tới sự phát triển mạnh mẽ dân số đã dẫn tới những nhu cầu về rất

nhiều lợi ích là quá lớn, điều này đã khiến con người khơng cịn đủ thời gian


như trước để kịp suy xét những hành động nên làm hoặc khơng nên làm và từ
đó dẫn tới những hành vi vi phạm pháp luật. Điều này đã được các nhà xây

dựng pháp luật nhìn nhận ra và đã đưa ra phương pháp hạn chế những hành vi

vi phạm pháp luật bằng cách ngăn chặn ngay từ đầu những hành vi đó thơng
qua việc giới hạn, kiềm chế con người chúng ta trong nhận thức, suy nghĩ về

những hành động có thể dẫn tới vi phạm pháp luật. Lối sống tuân thủ pháp luật

đưa ra chính là nhằm đạt được mục đích đó.

- Đối tượng là Mơi trường xã hội
Bên cạnh tập trung tập trung vào đối tượng chính là con người, giáo

dục đạo đức với Phật giáo và lối sống tuân thủ pháp luật cũng có chung đối

tượng điều chỉnh là môi trường xung quanh con người. Con người chúng ta
trong cuộc sống hàng ngày đều ít nhiều tiếp xúc với môi trường sống, môi

20


trường sông xung quanh chúng ta trước đây chỉ đơn giản là khơng khí, đât,

nước, động thực vật sống, gió, ánh sáng... nhưng khi xã hội con người hình
thành thì môi trường sống trở nên phức tạp hơn, con người tiếp xúc với nhiều
loại môi trường mới như môi trường giáo dục, mơi trường cơng việc, mơi

trường văn hóa... Ớ những mơi trường mới này, sự tiếp xúc khơng cịn đơn

r

r

r

giản là những người cùng bộ lạc, cùng huyêt thông mà cịn tiêp xúc với những

người ở mơi trường mới, nên văn hóa mới với những phong tục tập quán mới.
Điều này được giáo dục đạo đúc với Phật giáo nhận định là có thể cả thiện
thơng qua giáo dục đề xây dựng môi trường sống lành mạnh, văn minh mà ở
đó mọi mơi trường làm việc, mơi trường cơng cộng, mơi trường xã hội... đều

có nên tảng trên cơ sờ những hành vi, cử chỉ của giữa người với người, người
với thiên nhiên đúng mực, không vượt quá những giới hạn có thể gây hậu quả

về sau. Phật giáo không chỉ đưa ra những nguyên tắc để bản thân có thể tự rèn
luyện mình hướng tới Niết bàn thơng qua Bát chánh đạo mà còn giáo dục mồi

bản thân trong những mối quan hệ trong môi trường sống hằng ngày. Phật

giáo đưa ra Tứ vô lượng tâm đề chỉ dạy con người nhũng cách cư xử, xử lý
giữa người với người là Từ, bi, hỷ, xả, bình đẳng, bác ái... để cùng nhau xây
dựng một môi trường xã hội văn minh, đoàn kêt cùng nhau thực hiện mục tiêu

đất nước phát triển, xã hội phồn vinh. Môi trường xung quanh có tác động rất

lớn đối với cuộc sống chúng ta hằng ngày, từ mơi trường tự nhiên đó là đất,

nước, khơng khí, động thực vật cho tới mơi trường xã hội phức tạp như môi

trường làm việc, môi trường giáo dục, mơi trường văn hóa, chính trị... đều tác

động tới mỗi chúng ta trong quá trình sống và phát triển. Do vậy chúng ta đều
mong muốn được sống trong môi trường tốt đẹp, trong lành, văn minh, lịch

sự. Trước đây môi trường trong sạch, trong lành là do thiên nhiên tốt, tươi đẹp
đem lại cịn mơi trường văn minh, lịch sự là do con người tạo ra còn hiện nay,
khi mà xã hội đã phát triển tới mức con người có thể điều khiển được rất

21


nhiêu thứ như đăp đập ngăn nước, dùng trực thăng đê xua mây mưa... thì con

người có thể bớt phụ thuộc vào thiên nhiên nhiều như trước đây. Ngày nay
môi trường văn minh lịch sự do cách con người ứng xử, phản ứng trước

những ngoại cảnh và tạo dựng môi trường sống với những hành vi, cử chỉ

trong cuộc sống hằng ngày. Do vậy để có mơi trường như mình mong muốn
chúng ta có thể dùng nền táng giáo dục đạo đức với Phật giáo làm cơ sở nền

tảng nhằm xây dựng lên nền giáo dục toàn dân toàn diện hướng tới mục tiêu
thiết lập môi trường sống xung quanh chúng ta chan hịa, đồn kết, nghĩa tình

vì mục tiêu chung phát triển đất nước, phát triển con người.

Theo Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam thì về mặt chủ quan của tội
phạm sẽ gồm có Động cơ phạm tội và Mục đích phạm tội, việc cá nhân phạm


tội được cho là do động cơ từ bên trong là những nhu cầu, ham muốn cá

nhân... của tội
trước khi thực
hiện
tội
Việc
giáo dục
đạo
đức của

JLphạm




1phạm.





Phật giáo trong đời sống con người hằng ngày là một trong những phương
thức cần thiết đế ngăn ngừa, làm giảm nguy cơ phát sinh Động cơ phạm tội

của các chủ thể trong quá trình sinh hoạt hằng ngày cũng như q trình tham

gia xã hội, cơng tác cộng đồng.

Mơi trường phát triển không chỉ là đối tượng tác động của riêng Phật

giáo, Pháp luật cũng là một trong những nhân tố không thể thiếu để xây dựng

lên một môi trường trong lành, văn minh, lịch sự. Cùng với Phật giáo, Pháp

luật đem lại những tác động tích cực cho q trình gây dựng lên một mơi
trường thuận lợi cho con người chúng ta đế tồn tại, sinh sống và cùng nhau

phát triển. Do đó, mơi trường cần được đảm bảo duy trì tính ổn định, trật tự
của nó mới tạo thành bộ khung vừa đề là nơi con người có thể sinh tồn và

phát triển nhưng cũng giúp chính mơi trường có thế duy trì lâu dài. Pháp luật
ra đời nhằm mục đích đám bảo tính ồn định và trật tự đó của mơi trường. Neu

như Phật giáo giúp xây dựng mơi trường ở giai đoạn đầu hình thành khi Phật

22


×