Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

Tội trộm cắp tài sản trong luật hình sự việt nam (trên cơ sở số liệu xét xử tại tòa án quân sự)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (23.85 MB, 97 trang )

MỤC LỤC

Trang phụ bìa
LỜI CAM ĐOAN............................................................................................... i

DANH MỤC CÁC TÙ VIẾT TẮT................................................................. V
DANH MỤC CÁC BẢNG.............................................................................. vi
MỞ ĐẦU............................................................................................................ 1

CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VÁN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỘI TRỘM CẮP
TÀI SẢN......................................................................................................... 7
1.1. Khái niệm, đặc điểm của tội trộm cắp tài sản........................................... 7

1.1.1. Khái niệm tội trộm cắp tài sản................................................................. 7
1.1.2. Đặc điểm của tội trộm cắp tài sản............................................................ 8
1.2. Khái quát lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam quy định về tội trộm cắp
tài sản............................................................................................................... 11

1.2.1. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam vê tội trộm căp tài sản giai
đoạn từ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 đến trước khi Bộ luật Hình sự năm
1985 có hiệu lực................................................................................................ 11

1.2.2. Quy định của Bộ luật Hình sự năm 1985 về tội trộm cắp tài sản........ 14
1.2.3. Quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 về tội trộm cắp tài sản........ 16
1.2.4. Điểm mới cùa Bộ luật Hình sự năm 2015 về tội trộm cắp tài sản....... 18
1.3. Tội trộm cắp tài sản quy định trong pháp luật hình sự của một số quốc gia

trên thế giới....................................................................................................... 19
1.3.1. Tội trộm căp tài sản quy định trong Bộ luật Hình sự Liên bang Nga... 19
1.3.2. Tội trộm cắp tài sản quy định trong Bộ luật Hình sự Cộng hòa Liên
bang Đức.......................................................................................................... 22



Tiểu kết chương 1........................................................................................... 24

11


CHƯƠNG 2: QUY ĐỊNH CỦA Bộ LUẬT HÌNH sự NĂM 2015 VÈ TỘI
TRỘM
CẮP TÀI SẢN VÀ THỰC
TIỄN XÉT xử TỘI
NÀY TẠI
CÁC





TỊA ÁN QN Sự...................................................................................... 26
2.1. Dấu hiệu pháp lý của tội trộm cắp tài sản theo quy định của Điều 173 Bộ

luật Hình sự năm 2015.................................................................................... 26
2.1.1. Dấu hiệu khách thể của tội trộm cắp tài sản.......................................... 26
2.1.2. Dấu hiệu mặt khách quan của tội trộm cắp tài sản................................27
2.1.3. Dấu hiệu chủ thể của tội trộm cắp tài sản.............................................. 33
2.1.4. Dấu hiệu mặt chủ quan của tội trộm cắp tài sản.................................... 34
2.2. Hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản theo quy định của Điều 173 Bộ luật

Hình sự năm 2015............................................................................................35

2.2.1. Hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ


luật Hình sự năm 2015.................................................................................... 35
2.2.2. Hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản quy định tại khoản 2 Điều 173 Bộ

luật Hình sự năm 2015...................................................................................... 36
2.2.3. Hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản quy định tại khoản 3 Điều 173 Bộ

luật Hình sự năm 2015...................................................................................... 37
2.2.4. Hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản quy định tại khoản 4 Điều 173 Bộ

luật Hình sự năm 2015...................................................................................... 37
N

r

2.3. Thực tiên áp dụng quy định của Bộ luật Hình sự vê tội trộm căp tài sàn 38

2.3.1. Tình hình xét xử tội trộm cắp tài sản tại các Tòa án quân sự giai đoạn

2016-2020....................................................................................................... 38
2.3.2. Một số hạn chế, thiếu sót trong thực tiễn xét xử đối với tội trộm cắp tài

sản tại các Tòa án quân sự................................................................................43
2.3.3. Một số nguyên nhân của những hạn chế, thiếu sót trong thực tiễn xét xử

đối với tội trộm cắp tài sản tại các Tòa án quân sự.......................................... 66

Tiểu kết chương 2............................................................................................ 69

•••

ill


CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG QUY

ĐỊNH
CỦA PHÁP LUẬT
HÌNH sự
TRỘM
CẮP TÀI


• ĐỐI VỚI TỘI


SẢN TẠI CÁC TỊA ÁN QN sự............................................................ 70

3.1. Hồn thiện quy định của pháp luật hình sự về về tội trộm cắp tài sản.... 70
3.1.1. Hoàn thiện quy định cùa Bộ luật Hình sự.............................................. 70
3.1.2. Tăng cường hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật hình sự về tội
trộm cắp tài sản................................................................................................. 72

3.2. Một số giải pháp khác.............................................................................. 77
3.2.1. Tăng cường công tác giám đốc xét xử, tổng kết thực tiễn xét xử; giải
thích, hướng dẫn áp dụng pháp luật; thanh tra, kiểm tra hoạt động áp dụng

pháp luật............................................................................................................ 77

3.2.2. Nâng cao năng lực, trình độ chun mơn nghiệp vụ cho đội ngũ Thẩm


phán và Hội thẩm quân nhân............................................................................ 78
3.2.3. Tăng cường phối hợp giữa Tòa án với Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát
trong quá trình giải quyết vụ án trộm cắp tài sản............................................. 82

3.2.4. Tăng cường cơ sở vật chất cho cơ quan áp dụng pháp luật.................. 84
3.2.5. Tăng cường kiểm tra, tuần tra, giám sát và phát hiện, xử lý kịp thời đối
với hành vi trộm cắp.......................................................................................... 85

Tiểu kết chương 3............................................................................................ 87
KẾT LUẬN...................................................................................................... 88
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................... 90

iv


DANH MỤC CÁC TÙ VIẾT TẤT

Cum
• từ viết tắt

Nguyên nghĩa

PLHS

Pháp luật hình sự

BLHS

Bơ• lt
• Hình sư•


BLDS

Bơ• lt
• Dân sư•

TAND

Tịa án nhân dân

TAQS

Tòa án quân sự

VKSQS

Viện kiểm sát quân sự

HĐXX

Hội đồng xét xử

TCTS

Trộm cắp tài sản

TNHS

Trách nhiêm
• hình sư•


V


DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2.1. Tình hình thụ lý, giải quyết án hình sự của các Tịa án qn sự
trong giai đoạn 05 năm (2016 - 2020).............................................................. 39

Bảng 2.2. Số vụ án và số bị cáo đã thụ lý giải quyết về tội trộm cắp tài sản cùa

các Tòa án quân sư giai đoạn 05 năm (2016 - 2020)...................................... 39
Bảng 2.3. Kết quả xét xử sơ thẩm và phúc thẩm đối với các vụ án trộm cắp tài

sản của các Tòa án quân sự giai đoạn 05 năm (2016 - 2020)......................... 40

vi


MỞ ĐẦU

1. Tính câp thiêt cua đê tài nghiên cửu

Quyền sở hữu tài sản luôn đuợc Hiến pháp và pháp luật ghi nhận và bảo
vệ. Mọi hành vi xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản đều bị nghiêm trị trước
pháp luật. Tại Điều 32 Hiến pháp 2013 đã quy định: “1. Mọi người có quyền sở

hữu về thu nhập họp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản

xuất, phần vốn góp trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác. 2.


Quyền sở hữu tư nhân và quyền thừa kế được pháp luật bảo hộ”.
Trong PLHS, quyền sở hữu tài sàn được bảo vệ thông qua các quy định

về các tội xâm phạm sở hữu. Đây cũng là một trong những nhóm tội được quy

định sớm nhất trong PLHS trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Ke
thừa BLHS năm 1999, BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 (BLHS

năm 2015) ra đời một lần nữa khẳng định chính sách của Nhà nước trong việc
bảo vệ quyền sở hữu thông qua các quy định tại Chương XVI của Bộ luật.
Trong số các tội phạm về xâm phạm sở hữu, tội TCTS là một trong nhũng

loại tội xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản, gây mất ổn định trật tự
an toàn xã hội.
Đây là tội phạm xảy ra khá phổ biến và chiếm tỉ lệ lớn trong tổng số

các vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của các TAQS. Tính chất phức tạp của
các vụ án TCTS thể hiện ớ việc số lượng vụ án và người phạm tội bị đưa ra
xét xử hàng năm liên tục tăng, phương thức thù đoạn phạm tội ngày càng đa
dạng và mức độ nguy hiểm ngày càng nghiêm trọng. Độ tuổi của người phạm
tội ngày càng trẻ hóa, trong đó khơng ít người có lối sống bng thả, mắc vào
các tệ nạn xã hội. Những vấn đề đó đã gây hoang mang trong đời sống quần
chúng nhân dân, làm ảnh hưởng chung đến an ninh trật tự xã hội. Dù đã được

các cơ quan có thẩm quyền tích cực áp dụng các biện pháp phòng chống, đấu
1


tranh, nhât là việc phát hiện và làm hạn chê và loại bỏ dân các nguyên nhân

làm phát sinh tội TCTS song hiệu quả mang lại chưa được như mong muốn.
Trong thời gian qua, các TAQS đã cố gắng không ngừng nâng cao chất

lượng xét xử các vụ án TCTS, hạn chế đến mửc thấp nhất các bản án, quyết
định bị sửa, hủy nhưng cũng khơng tránh khỏi những khó khăn, vướng mắc

trong việc định tội danh hay xác định khơng đúng tình tiết định tội, áp dụng

tình tiết tăng nặng TNHS khơng chính xác, quyết định hình phạt cịn chưa

tương xứng với mức độ nguy hiểm, hậu quả cùa hành vi phạm tội, nhân thân

các bị cáo...Những hạn chế trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau
như do chưa có sự thống nhất trong nhận thức áp dụng pháp luật; các văn bản
hướng dẫn còn thiếu hoặc chưa đầy đủ, rõ ràng; đội ngũ cán bộ thực hiện

công tác xét xử còn thiếu về số lượng và hạn chế về năng lực chuyên môn
nghiệp vụ; điều kiện cơ sở vật chất còn thiếu, chưa đáp ứng đủ nhu cầu thực
tế; các cơ quan, đơn vị, tổ chức kinh tế mặc dù có điều kiện về kinh tế nhưng

cơng tác bảo vệ tài sản còn nhiều hạn chế, mất cảnh giác, không quan tâm
trang bị các phương tiện khoa học kỳ thuật để phục vụ cho việc phòng ngừa
và chống tội phạm.
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả đã lựa chọn đề tài “Tội trộm cắp
tài sản trong Luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở số liệu xét xử tại Tòa án

quân sự)” làm luận văn Thạc sĩ với mong muốn trên cơ sở nghiên cứu lý luận

và thực tiễn xử lý loại tội này sẽ góp phần bảo đảm việc áp dụng đúng PLHS,
qua đó nâng cao chất lượng và hiệu quả của công tác đấu tranh phòng chống

tội TCTS trong phạm vi các TAQS.

2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Dưới góc độ khoa học pháp lý, việc nghiên cứu về tội TCTS đã được

để cập đến trong các giáo trình của các trường Đại học, Học viện đào tạo về
ngành Luật, sách chuyên khảo. Trong đó phải kể đến: Giáo trình Luật hình sự

2


Việt Nam, Tập 2, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb Cơng an nhân dân, năm

2016; Giáo trình Luật hình sự Việt Nam - Phần các tội phạm, của Khoa Luật -

Đại học Quốc gia Hà Nội, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2007; Bình
luận khoa học Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Phần

các tội phạm, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội; Định tội danh đối với các tội
xâm phạm sở hữu của Lê Đăng Doanh, Nxb Tư pháp, năm 2013; Tội phạm và
cấu thành tội phạm của Nguyễn Ngọc Hòa, Nxb Tư pháp, năm 2015...

Luận án tiến sĩ Luật học: Tội trộm cắp tài sản và đấu tranh phòng
chống tội này ở Việt Nam, của Hoàng Văn Hùng, năm 2007: Luận văn thạc sĩ

Luật hoc: Tội trộm cắp tài sản trong luật hình sự Việt Nam, của Phạm Thu

Hà, năm 2016...

Dưới góc độ tội phạm học và điều tra tội phạm có cơng trình nghiên

cứu của một số tác giả sau đây: Luận văn thạc sĩ Luật học: Phòng ngừa tội
trộm cắp tài sản trên địa bàn tinh Điện Biên, của Vì Thị Hiến, năm 2013;

Luận văn thạc sĩ Luật học: Phòng ngừa tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh

Thái Nguyên, của Đinh Quang Tuyển, năm 2015...
Bên cạnh đó cịn một số bài viết của nhiều tác giả đăng trên các tạp chí,

sách, báo khoa học để cập tới tội trộm cắp tài sản như: Bài viết Các tội xâm
phạm sở hữu trong Bộ luật Hình sự năm 1999 của Trưong Quang Vinh, Tạp
chí Luật học số 4/2000, bài viết Định tội danh tội trộm cắp tài sản qua một số
dấu hiệu đặc trưng, của Trần Mạnh Hà, Tạp chí Nghề Luật, số 5/2006; bài

viết Lấy tài sản sau khi nạn nhân đã chết cỏ bị coi là tội phạm hay khơng và
nếu có thì tội danh đó là gì?, của Lê Đăng Doanh, Tạp chí TAND, số
01/2013; bài viết Yếu tố định lượng tài sản đối với tội trộm cắp tài sản, của

Dương Vân Anh, Tạp chí Kiểm sát, số 23/2014; bài viết Quy định của Bộ luật
Hình sự năm 1999 về tội trộm cắp tài sản, của Mai Bộ, Tạp chí TAND, số

9/2015; bài viết về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội

3


mà có theo Điêu 323 BLHS năm 2015 của Vũ Tuân Hải, Tạp chí điện tử
TAND năm 2020...
Mặc dù đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về tội TCTS nhưng tình hình

tội phạm trong giai đoạn hiện nay đã có nhiều thay đổi và diễn biến phức tạp,


trong bối cảnh BLHS năm 2015 mới có hiệu lực thi hành với nhiều nội dung
mới chưa được hướng dẫn thì các cơng trình nghiên cứu nêu trên đã thể hiện

những điềm khơng cịn phù hợp với thực tiễn. Do đó, việc nghiên cứu tội

TCTS về phương diện lý luận và thực tiền là điều cần thiết. Thông qua việc
nghiên cứu luận văn này, tác giả đi sâu tìm hiểu tồn diện về tội TCTS và việc
áp dụng các quy định của pháp luật trên thực tiễn; từ đó đưa ra một số đề xuất

nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về tội TCTS nhàm nâng cao hiệu quả
áp dụng quy định về tội danh này trong thời gian tới.

3. Mục
vụ• nghiên
cứu
• đích và nhiệm


3.1. Mục đích nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ các dấu hiệu pháp lý đặc trưng
và đánh giá thực tiễn xét xử tội TCTS, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm hồn

thiện quy định pháp luật về tội này;
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục đích nêu trên luận văn phải thực hiện những nhiệm vụ
sau đây:


- Phân tích để làm rõ khái niệm, đặc điểm tội TCTS trong PLHS Việt Nam;
- Phân tích một cách khái qt lịch sừ lập pháp hình sự của Việt Nam
về loại tội TCTS từ khi Cách mạng tháng 8 thành công đến trước khi ban

hành BLHS năm 2015; So sánh tội TCTS được quy định trong BLHS Việt
Nam đối với tội TCTS được quy định trong BLHS của một số quốc gia trên

thế giới;

4


- Phân tích các dâu hiệu định tội, dâu hiệu định khung hình phạt và
hình phạt đối với tội TCTS được quy định trong BLHS năm 2015;

- Đánh giá thực tiễn xét xử tội TCTS tại các TAQS, tìm ra những hạn
chế, vướng mắc và nguyên nhân; Đưa ra các giải pháp hoàn thiện quy định
cùa pháp luật về tội TCTS trong BLHS.

4. Đối tượng, phạm vi và phưong pháp nghiên cún

4.1. Đồi tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận và thực tiễn

xét xử về tội TCTS theo quy định của PLHS Việt Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu thực tiễn xét xử tội TCTS tại các TAQS từ năm

2016 đến năm 2020.

4.3. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; Tư tưởng Hồ Chí Minh về

Nhà nước và pháp luật; Quan điểm của Đảng về đổi mới Nhà nước và pháp

luật, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN; quan điểm chỉ đạo của Đảng và
Nhà nước ta về đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phương pháp

phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, khảo sát, đánh giá...
5. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn

Luận văn là một cơng trình nghiên cứu vừa có ý nghĩa về mặt lý luận,
vừa có ý nghĩa về mặt thực tiễn:

- về mặt lý luận, luận văn đã tổng họp các quan điểm khoa học về tội
TCTS, nghiên cứu làm sáng tở những vấn đề lý luận về tội TCTS, nâng cao

nhận thức chúng ta và đặc biệt là các cơ quan áp dụng pháp luật đối với bản
chất loại tội phạm này, qua đỏ góp phần hồn thiện nội dung quy định của tội

TCTS được quy định tại Điều 173 BLHS năm 2015.
5


- về mặt thực tiễn: những giải pháp đề xuất nêu trong luận văn sẽ góp
phần nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của PLHS Việt Nam về tội
TCTS, tránh bỏ lọt tội phạm và xử lý oan người vơ tội, đóng góp cho việc

nâng cao hiệu quả cơng tác đấu tranh và phịng, chổng tội phạm.

- Luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho những người
học tập, nghiên cứu, cho người làm công tác thực tiễn trong địa bàn của

TAQS cũng như trên địa bàn toàn quốc liên quan đến việc áp dụng các quy

định của PLHS về tội TCTS trong thực tế.
6. Kết cẩu của luận văn

Ngồi lời nói đầu, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
bao gồm 03 chưorng. Cụ thể:

Chưong 1: Một số vấn đề lý luận về tội trộm cắp tài sản
Chưong 2: Quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 về tội trộm cắp tài

sản và thực tiễn xét xử tội này tại các Tòa án quân sự
Chưong 3: Một số giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định của pháp
luật hình sự đối với tội trộm cắp tài sản tại các Tịa án qn sự








1




6

1




CHƯƠNG 1:

MỘT
• SỐ VẤN ĐÈ LÝ LUẬN
• VÈ TỘI


TRỘM CẮP TÀI SẢN

1.1. Khái niệm, đặc điểm của tội trộm cắp tài sản
ĩ. 1.1. Khái niệm tội trộm cap tài sản

Điều 8 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định về khái niệm tội phạm là:




X










X



“hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự, do
người cỏ năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện

một cách cổ ỷ hoặc vô ý, xám phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thô Tổ quốc, xâm phạm chế độ chỉnh trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa,

quốc phịng, an ninh, trật tự, an tồn xã hội, quyền, lợi ích họp pháp của tồ
chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích họp pháp của công dân, xâm

phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy

định
của Bộ• luật
này
TCTS là một
loại tội phạm


V 1phải bị
• xử lý
tS hình sự

• ”. Tội

•••!_•
cụ thề, do đó cũng có đầy đủ các dấu hiệu của tội phạm chung nêu trên. Có
thể nói khái quát: tội TCTS là hành vi nguy hiểm cho xã hội, do người có
năng lực TNHS thực hiện một cách cố ý, xâm phạm đến quyền sở hừu mà

theo quy định của BLHS phải bị xử lý về hình sự.

Bên cạnh những dấu hiệu chung đó, tội TCTS có những dấu hiệu riêng
để nhận diện. Hiện nay, ở nước ta có rất nhiều quan điểm khác nhau về khái
niệm tội TCTS. Theo giáo trình của Trường Đại học Luật Hà Nội: “Tội TCTS

là hành vi lẻn lút chiếm đoạt tài sản đang có chủ” [24], Theo từ điển bách
khoa của Công an nhân dân: “TCTS được hiểu là hành vi lén lút bí mật đối

với người quản lý tài sản để chiếm đoạt tài sản” [19], Theo Từ điển pháp luật

hình sự: “Tội TCTS là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản đang có người khác
quản lý” [18]. Theo Từ điển tiếng Việt, “trộm cắp” là “trộm và lấy cắp của cải

7


nói chung”; trong đó “trộm” là “lây của người khác một cách lén lút, nhân

lúc không ai đe ý” và “cắp” là “lấy của người khác một cách lén lút, vụng
trộm” [20],

Tiến sĩ Hồng Văn Hùng thì cho rằng: "Tội TCTS là hành vi lén lút lấy

tài sản của người khác với mục đích chiếm đoạt, do người có năng lực TNHS

và tuổi chịu TNHS thực hiện dưới hình thức lỗi cố ý, xâm phạm các quyền sở

hữu được Nhà nước bảo vệ bằng pháp luật" [26],

Từ các định nghĩa nêu trên, có thể thấy đặc điểm nổi bật của tội TCTS

là người phạm tội có hành vi lén lút, bí mật chuyến dịch bất họp pháp tài sản
của chủ sở hữu hoặc người quàn lý tài sàn nhằm chiếm đoạt tài sản đó. Điều

này đã làm rõ thêm các đặc điểm về lồi của tội TCTS là lỗi cố ý, người phạm
tội phải đủ tuổi chịu TNHS và có năng lực TNHS. Những hành vi lấy tài sản
của người khác khi chưa đủ tuồi chịu TNHS hoặc ở tình trạng khơng có năng

lực TNHS thì khơng phải là tội phạm.

Trên các cơ sở tham khảo và tìm hiểu, tổng kết các quan điểm khác

nhau về tội TCTS, từ đó tác giả đưa ra khái niệm về tội TCTS như sau: “Tội
trộm cap tài sản là hành vi lén lút chuyên dịch một cách trái pháp luật tài sản
của người khác thành của mình, do người có đù năng lực trách nhiệm hình sự

và đủ tuồi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện một cách co ý, xâm phạm đến













z

X



quan hệ sở hữu tài sản của cơ quan, tổ chức và cá nhân

1.1.2. Đặc điểm của tội trộm cắp tài sản
Tội TCTS ngồi những dấu hiệu pháp lý hình sự nói chung thì cịn có

nhũng đặc điểm riêng biệt như sau:
Thứ nhất, hành vi chiếm đoạt tài sản được thực hiện một cách lẻn lút.

Đặc điểm riêng biệt có tính đặc thù của tội TCTS là hành vi “lén lút”,

không có việc lén lút thì khơng phải trộm cap. Neu một hành vi chiếm đoạt tài
sản trước sự chứng kiến của chủ sở hữu tài sản, người quản lý hợp pháp tài
8


sản thì khơng thê coi đó là hành vi trộm căp, mà hành vi trộm căp phải được

thực hiện một cách lén lút, vụng trộm đối với chủ sờ hữu tài sản, người quản


lý họp pháp tài sản. Trong tội TCTS, hành vi lén lút chiếm đoạt tài sàn là
hành vi của một người cố ý thực hiện một việc làm bất minh, vụng trộm, giấu
giếm không để lộ cho người khác biết, nhằm mục đích chiếm đoạt trái phép
tài sản của họ [33].

Hành vi “lén lút” ở đây không nhất thiết là việc làm mà khơng ai biết,
nó có thể được thực hiện một cách giấu giếm, vụng trộm nhưng cũng có thể

được thực hiện một cách cơng khai, giữa nơi đơng người. Tuy nhiên, hành vi

TCTS phải có một đặc điểm chung, đó là bắt buộc phải lén lút đối với chủ sở
hữu tài sản hoặc người quản lý tài sản họp pháp. Bởi nếu không lén lút đối

với chủ sở hữu tài sản, người quản lý hợp pháp tài sản thì hành vi của họ sẽ

khơng cấu thành tội TCTS.

Thứ hai, đoi tượng mà tội phạm hướng tới để thực hiện hành vi trộm cap.
Đối tượng mà tội phạm hướng tới để thực hiện hành vi trộm cắp là chủ

sở hữu hoặc người quản lý tài sản hợp pháp .

- Chủ sở hữu tài sản: theo quy định tại Điều 158 BLDS thì “quyền sở

hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của
chủ sở hữu theo quy định của pháp luật” [4], Chủ sở hữu là người có quyền

tự nắm giữ, quản lý, chi phối tài sản theo ý mình mà khơng bị hạn chế, gián


đoạn về thời gian; có quyền khai thác các cơng dụng, lợi ích, giá trị của tài
sản và quyết định về số phận của tài sản đó.

- Người quản lý tài sản: là người đang nắm giữ hoặc trông coi tài sản,
họ không phải là chủ sở hữu tài sản nên họ khơng có được đầy đủ ba quyền

năng của chủ sở hữu. Vì vậy, người quản lý tài sản không được định đoạt tài

sản. Họ có thể được định đoạt tài sản trong phạm vi ủy quyền của chủ sở hữu.
Xét dưới góc độ pháp lý thì người quản lý tài sản được chia ra hai trường hợp

là quản lý tài sản hợp pháp và quản lý tài sản bất hợp pháp.
9


+ Người quản lý tài sản họp pháp: là trường hợp người được chủ sở hữu

giao cho quản lý tài sản một cách hợp pháp; hoặc tuy không phải do chủ sở hữu
giao cho nhưng việc sử dụng, quản lý tài sản được coi là họp pháp; người được
người quản lý hợp pháp tài sản, giao tài sản cho để trông giữ; hoặc người phát

hiện và thu giữ các tài sản vô chủ, tài sán bị bỏ quên, chôn giấu, bị chìm

đắm. ..phù hợp với các điều kiện pháp luật quy định; hay các trường họp quản lý

tài sản theo quyết định, mệnh lệnh của cơ quan Nhà nước [33],
+ Người quản lý tài sản không hợp pháp: xét về góc độ quyền sở hữu

thì đây là trường hợp chiếm hữu bất hợp pháp trong quyền chiếm hữu tài sản.


Một số trường họp sau đây được coi là người quản lý tài sản khơng hợp pháp:

Người có được tài sản do phạm tội mà có;
Người cố ý mua được tài sản do người khác phạm tội mà có;
Người có được tài sản do hành vi gian dối, do vi phạm pháp luật nhưng
chưa đến mức là tội phạm hình sự...

Đây chì là một số những trường hợp điển hình, cịn trong thực tế thì có
vơ số sự biến tướng cùa dạng người này. Tuy nhiên, chúng có một đặc điểm

chung nhất, đễ nhận biết nhất là: việc chiếm hữu, quản lý tài sản không hợp

pháp và không được pháp luật thừa nhận. Nhưng trong PLHS, mà cụ thể là

trong tội TCTS thì những người này trở thành đối tượng mà tội phạm hướng
tới để thực hiện hành vi lén lút, bởi tại thời điếm đó, họ là người đang nắm
giữ tài sản [33].

Thứ ba, vào thời điểm mat tài sản, chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp

pháp tài sản không biết.
Tại thời điểm mất tài sản, chủ tài sản khơng biết mình đã bị mất tài sản.

Việc khơng biết bị mất tài sản có thể có nhiều nguyên nhân khác nhau, như:
+ Khơng có mặt tại nơi để tài sản;
+ Thủ đoạn và phương pháp tinh vi của người phạm tội làm cho chủ tài

săn không biết được việc mình bị mất tài sản;
10



+ Do lâm vào tình trạng khơng có khả năng biêt, như: bị tai nạn ngât, bị

chết...
Việc xác định “tại thời điểm mất tài sản, chủ sở hữu hoặc người quản lý
họp pháp tài sản có biết hay khơng” là vấn đề cần thiết phải làm rõ, bởi nó

liên quan đến bản chất cùa hành vi chiếm đoạt. Neu tại thời điểm mất tài sản,

chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp tài sản biết việc tài săn của mình bị
người khác chiếm đoạt, thì rất có khả năng là người chiếm đoạt khơng có ý định

che giấu hành vi phạm tội của mình. Và như vậy, vấn đề có hay khơng có dấu
hiệu “lén lút” cần phải đặt ra trong trường hợp này khi định tội danh [33].

Thứ tư, đặc điểm tài sản bị trộm cắp.
Theo quy định tại Điều 105 BLDS thì “Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có

giả và quyền tài sản ” [4].

Tuy nhiên, không phải loại tài sản nào cũng là đối tượng tác động của
tội TCTS, mà chỉ những tài sản thuộc các trường hợp sau mới là đối tượng tác

động của loại tội phạm này. Trước hết, về mặt vật lý, tài sản là đối tượng của
tội TCTS phải là một dạng vật chất cụ thể và tồn tại dưới dạng là một động

sản; Tài sản phải đang trong vòng kiểm soát của chủ sở hữu, người quản lý

hợp pháp tài sản; Tài sản có giá trị hoặc giá trị sử dụng; Tài sàn do chiếm hữu


không họp pháp [33],

1.2. Khái quát lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam quy định về tội trộm
cắp tài sản

1.2.1. Quy đinh của pháp luật hình sự Việt Nam về tội trộm cấp tài sản giai

đoạn
từ sau Cách mạng
tháng
8 năm 1945 đến trước khi Bộ• luật
Hình sự


o
O


năm 1985 có hiệu
lực


Thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng 8 năm 1945 đã đánh dấu sự ra đời
của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ

nghĩa Việt Nam. Với thắng lợi mang ý nghĩa Chính trị - lịch sử này, bên cạnh

11



việc hình thành một nhà nước kiêu mới thì đơng thời cũng đánh dâu môc quan

trong trong lịch sử lập pháp nói chung và lập pháp hình sự nói riêng.
Trong giai đoạn đầu khi nhà nước mới thành lập phải đương đầu với
nhiều khó khăn, thử thách đến từ nhiều phía, chính vì vậy để điều chỉnh quan

hệ pháp luật nói chung và quan hệ PLHS nói riêng. Nhà nước ta đã ban hành
sắc lệnh số 47-SL ngày 10/10/1945, tạm thời giữ lại các luật lệ cũ tại ba miền
cho đến khi ban hành các văn bản pháp luật mới đề điều chỉnh các quan hệ

trên với điều kiện không trái với nguyên tắc độc lập và chính thể dân chủ
cộng hịa.

Đáp ứng u càu của tình hình mới, luật cũ có nhiều quy định khơng

thích họp. Nhà nước ta đã ban hành một số văn bản PLHS quan trọng để xử lý

hành vi TCTS như: sắc lệnh số 12-SL ngày 12/3/1948 quy định trừng trị các
hành vi trộm cấp vật dụng nhà binh trong thời bình và thời kỳ chiến tranh,
Nghị định số 32-NĐ ngày 06/4/1952 của Bộ tư pháp quy định đường lối xét

xừ các tội trộm cắp, lừa đảo, biển thủ tài sản; Thông tư số 01-BK ngày
14/12/1949 của liên Bộ nội vụ, Quốc phòng, Tư pháp ấn định phương pháp

đối phó với các vụ trộm cắp tại nơi có chiến sự.
Ví dụ: Sắc lệnh số 12-SL ngày 12/3/1948 quy định trừng trị các hành vi

trộm cắp vật dụng nhà binh trong thời bình và thời kỳ chiến tranh, có quy
định: "Trong thời bình, tội ăn cắp, lấy trộm các đồ quân giới, quân trang,
quân dụng nói tóm lại các vật dụng nhà binh, bị phạt theo điều khốn của hình

luật chung" [13].

Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954, miền Bắc tiến hành
xây dựng Chủ nghĩa xã hội. Để góp phần vào việc bảo vệ sự nghiệp xây dựng

kinh tế và văn hoá mới, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã ban hành

một số văn bản điều chính về hành vi TCTS như: Thơng tư 442-TTg ngày
19/1/1955 của Thủ tuớng Chính phủ, quy định thống nhất một số tội phạm,

trong đó có tội TCTS:

12


“1. Trộm căp: phạt tù từ 03 tháng đên 03 năm. Trường hợp trộm có tơ
chức, có bạo lực, có dùng vũ khí đê doạ nạt thì phạt tù từ 03 đến 10 năm.” [36].
Điểm đặc biệt của Thông tư này là tại mục 4 cho phép áp dụng tương

tự, có nghĩa là nếu ngồi tội TCTS, đối với những tội tương tự với tội trộm
cắp, các Tồ án có thể phạt theo như tội đó.
Do yêu cầu khách quan của việc tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa,

ngày 21/10/1970, Nhà nước ta đã thông qua hai Pháp lệnh mới, trên tinh thần

pháp điển hóa các văn bản pháp luật trước đó quy định về tội TCTS nói riêng

và các tội xâm phạm sở hữu nói chung. Đó là: Pháp lệnh số 149-LCT ngày
21/10/1970 về trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chú nghĩa và Pháp


lệnh số 150-LCT ngày 21/10/1970 về trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng
của cồng dân.

Trong đó, tội trộm cắp được quy định tại hai pháp lệnh với tên tội danh

là tội TCTS xã hội chủ nghĩa và tội TCTS riêng của công dân. Cụ thể: Điều 7,

Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa quy định tội

TCTS xã hội chủ nghĩa, như sau:
“7. Kẻ nào TCTS xã hội chủ nghĩa thì bị phạt tù từ 06 thảng đến 05 năm.
2. Phạm tội trong những trường hợp sau đây: a) Có tính chất chun

nghiệp hoặc tải phạm nguy hiểm; b) Có tơ chức; c) Có móc ngoặc; d) Dùng

thủ đoạn xảo quyệt, nguy hi êm; đ) Trộm tài sản với số lượng lởn hoặc tài sản
cỏ giả trị đặc biệt; e) Dùng tài sản trộm cắp vào việc kinh doanh, bóc lột, đầu

cơ hoặc vào những việc phạm tội khác;
Thì bị phạt tù từ 03 năm đến 12 năm.

3. Phạm tội trong trường hợp so tài sản bị xăm phạm rất lớn hoặc có
nhiều tình tiết nghiêm trọng, hoặc gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì phạt
tù từ 10 năm đến 20 năm, tù chung thản hoặc bị xử tử hình” [39].

Điều 6, Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân

quy định tội TCTS riêng của công dân, như saư:
13



'7. Kẻ nào TCTS riêng của cơng dân thì bị phạt tù từ 03 thảng đên 03 năm.

Phạm tội trong những trường hợp sau đây: a) Có tỉnh chất chuyên
nghiệp hoặc tái phạm nguy hiếm; b) Có tơ chức; c) Dùng thủ đoạn xảo quyệt,

nguy hiểm; d) Gây hậu quả nghiêm trọng đến đời sống của người bị thiệt hại
hoặc gây hậu quả nghiêm trọng khác.
2. Phạm tội trong trường họp gây hậu quà đặc biệt nghiêm trọng thì bị

phạt tù từ 07 năm đến 15 năm” [40].
Việc ban hành song song hai bản Pháp lệnh thời điểm này thể hiện sự

quan tâm của Đảng và Nhà nước ta trong việc bảo vệ không những đối với tài
sản nhà nước, của hợp tác xã, mà cả đối với tài sản riêng của cơng dân, góp
phần xây dựng chủ nghĩa xã hội tại miền Bắc.

Tóm lại, sơ lược giai đoạn luật hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến
trước khi nhà nước ta ban hành BLHS năm 1985, tội TCTS đã đuợc quy định

tại
số
• nhiều văn bàn đơn lẻ khác nhau. Đặc
• biệt
• với sự• ra đời của Pháp1 lệnh


149-LCT về trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa và Pháp lệnh
số 150-LCT về trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân, Nhà


nuớc ta đã xây dựng đuợc hai cấu thành tội phạm về tội TCTS trong đó quy
định riêng biệt về TCTS xã hội chủ nghĩa và TCTS riêng của công dân. Tuy
nhiên, các quy định trên vẫn còn nằm tản mạn nhiều văn bản, quy định vẫn

chưa cụ thể, rõ ràng gây khó khăn khi áp dụng.
1.2.2. Quy•r định
của Bộ••
luật Hình sự• năm 1985 về tội
trộm
cắpÃT tài sản

9
9

BLHS năm 1985 là BLHS đầu tiên của nhà nước ta, có hiệu lực từ ngày

1/1/1986, đánh dấu một bước ngoặt to lớn trong lịch sử lập pháp hình sự của
đất nước. Trong BLHS năm 1985, tội TCTS xã hội chủ nghĩa được quy định
tại Điều 132, Chương 4 (có mức hình phạt cao nhất là tử hình) và tội TCTS

của cơng dân quy định tại Điều 155, Chương 6 của BLHS năm 1985 (có mức

hình phạt cao nhất là tù hai mươi năm).

14


iirv*

/on


J

_ 7- ?

7

A T.

'•

0. _

'T^Z^'T^O -- ~

c**

„L.9.

Điêu 132. J 01 ỈC1S xa nội cnu nghĩa 1. Người nao 1C1S xã nơi chú

nghĩa thì bị phạt cải tạo khơng giam giữ đến hai năm hoặc bị phạt tù từ sáu
tháng đến năm năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thỉ

bị phạt tù từ ba năm đến mười hai năm: a) Có tơ chức; b) Dùng thủ đoạn xảo

quyệt, nguy hiểm; c) Hành hung đê tâu thoát; d) Chiếm đoạt tài sản có giả trị

lỏn; đ) Tải phạm nguy hiểm. 3. Phạm tội trong trường họp đặc biệt nghiêm
trọng thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử

hình”[iữ\.

về tội TCTS của công dân đuợc quy định tại Điều 155 BLHS:
Diêu 155. Tội TCTS của công dãn

1. Người nào TCTS của người khác thì bị phạt cải tạo khơng giam giữ

đến 01 năm hoặc bị phạt tù từ 03 tháng đến 03 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường họp sau đây thì bị phạt tù từ 02

năm đến 10 năm: a) Có tổ chức; b) Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm;

hành hung để tẩu thoát; c) Chiếm đoạt tài sản cỏ giá trị lón hoặc gãy hậu quả

nghiêm trọng khác; d) Tái phạm nguy hiếm
3. Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ 07
năm đến 20 năm 'í [10]

Ngồi hình phạt tử hình, hình phạt tù (có thời hạn và chung thân), thì
nhà làm luật cịn quy định việc áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ,

nhằm mở rộng hơn nữa các chế tài hình sự áp dụng với người phạm tội, phù
hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm trong từng hành vi, thuận lợi cho việc
quyết định hình phạt.
Để phù hợp với tình hình thực tiễn, BLHS năm 1985 đã được Quốc hội
nước ta bốn lần sửa đổi, bổ sung (vào các năm 1989, 1991, 1992, 1997)

những lần sửa đổi, bổ sung này chủ yếu nhằm phục vụ cho cuộc đấu tranh đối

với một số loại tội phạm nhất định, trong đó bổ sung thêm quy định về một

15


tình tiêt định khung tăng nặng TNHS đơi với người phạm tội vào điêm b
khoản 2 Điều 155 tội TCTS của cơng dân, đó là “có tính chất chun

nghiệp

Tuy nhiên, trong thời gian này chưa có văn bản hướng dẫn cụ thế về

tình tiết phạm tội “có tỉnh chất chun nghiệp
Tóm lại, BLHS năm 1985 ra đời đã đánh dấu một bước phát triển trong
kỳ thuật lập pháp, lần đầu tiên trong lịch sử lập pháp, nhà nước ta đã xây

dựng được cơ sở pháp lý thống nhất đề truy cứu TNHS hành vi TCTS, góp

phần nâng cao ý thức trách nhiệm của công dân cũng như hiệu quả của công

tác đấu tranh chống tội phạm. Tuy nhiên, BLHS năm 1985 được ban hành
trong thời kỳ tập trung, quan liêu, bao cấp, có sự phân biệt rõ ràng trong việc

bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa và tài sản của công dân, và sau nhiều lần sửa
đổi, bổ sung thì BLHS năm 1985 đã khơng cịn là một chỉnh thể thống nhất;
đồng thời, quy định của BLHS về tội TCTS xã hội chủ nghĩa và cơng dân vẫn

cịn giàn đơn, chưa rõ ràng (chưa xác định ngay trong CTTP giá trị tài sản bị

chiếm đoạt để truy cứu TNHS), gây khó khăn trong việc áp dụng, địi hỏi phải
được sửa đổi một cách toàn diện.


1.2.3. Quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 về tội trộm cắp tài sản
BLHS năm 1999 có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 07 năm 2000. BLHS

năm 1999 đã gộp hai chương xâm phạm sở hữu trong BLHS năm 1985 thành
một chương và tội TCTS được quy định tại Điều 138.

Như vậy, so với BLHS năm 1985 thì BLHS năm 1999 đã có những sửa
đổi, bổ sung quan trọng về tội TCTS. Cụ thể:

77zw-

BLHS năm 1999 đã hợp nhất hai điều luật về tội TCTS xã

hội chủ nghĩa (Điều 132) và tội TCTS của công dân (Điều 155) của BLHS

năm 1985 thành một điều luật quy định về tội TCTS (Điều 138). Đồng thời,
để đáp ứng đường lối xử lý người phạm tội xâm phạm quyền sở hữu tài sản,
Điều 48 BLHS năm 1999 quy định tình tiết tăng nặng mới "Xâm phạm tài sản

nhà nước".
16


Thứ hai, khi quy định vê tội TCTS, BLHS năm 1999 đã định lượng giá
trị tài sản bị chiếm đoạt, người phạm tội có thể bị truy cứu TNHS theo các

khoản khác nhau của Điều 138 BLHS. Điều này tạo thuận lợi cho các chủ thể

áp dụng pháp luật khi định tội danh và quyết định hình phạt.


Thứ ba, BLHS năm 1999 quy định bốn khung hình phạt so với ba

khung hình phạt trước đây như quy định của Điều 132 và Điều 155 BLHS
năm 1985. Điều này giúp thu hẹp khoảng cách giữa mức tối đa và mức tối

thiểu của một khung hình phạt và tạo cơ sở pháp lý cho việc truy cửu TNHS
chuẩn xác hơn.
Thứ tư, Điêu 138 BLHS năm 1999 đã xác định ranh giới giữa trường
hợp hành vi vi phạm pháp luật hành chính với trường hợp phạm tội. Người

lấy tài sản của người khác có giá trị dưới 500.000 đồng và hành vi này khơng
gây hậu quả nghiêm trọng hoặc người đó chưa bị xừ lý hành chính về hành vi

chiếm đoạt
• hoặc
• chưa bị• kết án về tội
• chiếm đoạt
• tài sản thi chỉ bị• xử phạt
1 •

hành chính.
Thứ năm, BLHS năm 1999 quy định về hình phạt bổ sung bị phạt tiền

từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng.
Để phù hợp với tình hình phát triển kinh tế trong thời kỳ mới, BLHS
năm 1999 đã được sửa đổi, bổ sung một lần vào năm 2009, xác định lại ranh

giới giữa trường hợp hành vi vi phạm pháp luật hành chính với trng hp
2


ô ã

2

phm ti c thờ: Ngi lõy ti sn của người khác có giá trị dưới 2.000.000
\

-

-

-



đơng và hành vi này không gây hậu quả nghiêm trọng hoặc người đó chưa bị

xử lýe/ hành chính vê hành vi chiêm đoạt
hoặc
chưa bị• kêt án vê tội
chiêm đoạt




tài sản thì chi bị xử phạt hành chính.

Tóm lại, BLHS năm 1999 đã quy định về tội TCTS khá chặt chẽ, phù
hợp với tình hình phát triển thời điểm đó. Tuy nhiên, kể từ sau khi BLHS năm


17


1999 được ban hành, tình hình đât nước ta đã có những thay đơi to lớn vê mọi
mặt, việc thực hiện chiến lược cải cách tư pháp và chủ động hội nhập quốc tế
của Việt Nam, nhiều quy định của BLHS năm 1999 (trong đó có tội TCTS) đã

khơng cịn phù hợp, đòi hỏi cần được sửa đối.
1.2.4. Điểm mới của Bộ• luật
Hình sự
năm 2015 về tội
trộm
cắp
tài sản




ÃT

So với quy định của BLHS năm 1999, thì BLHS năm 2015 có những

điểm mới sau:
Thứ nhất, BLHS năm 2015 đã bỏ hình phạt tù chung thân, khung hình

phạt cao nhất tội này đến 20 năm tù. Quy định này nhằm góp phần tiếp tục thể
chế hỏa chủ trương, chính sách của Đãng về cải cách tư pháp được khẳng

định tại Nghị quyết số 49-NQ/TW cùa Bộ Chính trị.
Thứ hai, bãi bỏ tình tiết chiếm đoạt tài sản dưới 2.000.000 đồng nhưng

gây hậu quả nghiêm trọng là điều kiện cấu thành tội TCTS quy định tại khoản

1, Điều 138 BLHS năm 1999; bãi bỏ các tình tiết định khung (Gây hậu quả
nghiêm trọng, gây hậu quả rất nghiêm trọng, gây hậu quả đặc biệt nghiêm
trọng) quy định tại điểm d khoản 2, điểm b khoản 3 và điểm b khoản 4 Điều

138 BLHS năm 1999.
Thứ ba, về yếu tố cấu thành tội phạm, thì đồng thời với việc bổ sung

hai tình tiết định tội: c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã
hội; d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình

họ; tài sản là di vật, cổ vật, BLHS không quy định hành vi TCTS của người
khác cỏ giá trị dưới 2.000.000 đồng thuộc một trong các trường hợp sau đây

là phạm tội: Một là, đã bị xử phạt hành chính về hành vi tham ô tài sản hoặc
hành vi lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản, chưa hết thời hạn
được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính mà cịn vi phạm; Hai là, đã bị

kết án về tội tham ô tài sản hoặc tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt
tài sản, chưa được xóa án tích mà cịn vi phạm.

18


Thứ tư, bơ sung 01 tình tiêt định khung mới:

+ Khoản 2 bô sung tinh tiêt: Tài sàn là bảo vật qc gia.
+ Khoản 3 bơ sung tình tiêt: Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.
+ Khoản 4 bơ sung tình tiêt: Lợi dụng hồn cảnh chiên tranh, tình trạng


khẩn cấp.

1.3. Tội trộm cắp tài sản quy định trong pháp luật hình sự của một số
quốc gia trên thế giới

1.3.1. Tội trộm cãp tài sản quy định trong Bộ luật Hình sự Liên bang Nga
Trong Bộ luật hình sự Liên bang Nga, tội TCTS được quy định như

7. TCTS là bỉ mật chiêm đoạt tài sản của người khác thì bị phạt tiên
đến tám mươi nghìn rủp hoặc bằng lương hay bằng thu nhập khác của người

bị kết án đến sáu thảng, hoặc bị phạt lao động bắt buộc đến một trăm tám
mươi giờ, hoặc bị phạt lao động cải tạo từ sáu thảng đên một năm, hoặc bị

hạn chế tự do đến hai năm, hoặc bị phạt giam đến bốn tháng, hoặc bị phạt tù
đên hai năm.

2. Hành vi TCTS được thực hiện: a) bởi nhóm người cỏ bàn bạc từ
trước; b) kèm theo hành vi đột nhập trái pháp luật vào nhà hoặc kho khác; c)

kèm theo việc gây thiệt hại đáng kê cho công dân; d) từ quần áo, túi xách
hoặc đồ xách tay khác trên người bị hại thì bị phạt tiền đến hai trăm nghìn

rúp hoặc bằng lương hay bằng thu nhập khác của người bị kết ản đến mười
tám tháng, hoặc bị phạt lao động bắt buộc từ một trăm tám mươi giờ đến hai

trăm bốn mươi giờ, hoặc bị lao động cải tạo từ một năm đến hai năm, hoặc bị

phạt tù đến năm năm cỏ hoặc khỏng kèm theo hạn chế tự do đến một năm.

3. Hành vi trộm căp được thực hiện: a) Kèm theo hành vi đột nhập trải

pháp luật vào nhà ở; b) Từ ổng dẫn dầu mỏ, ổng dẫn các sản phẩm dầu mỏ,

ống dẫn ga; c) Ở mức độ nghiêm trọng thì bị phạt tiền từ một trăm nghìn đến
19


năm trăm nghìn rúp hoặc băng lương hay hăng thu nhập khác của người bị

kết án đến mười tám tháng hoặc bị phạt lao động bắt buộc từ một trăm tám

mươi giờ đến hai trăm bốn mươi giờ, hoặc bị phạt lao động cải tạo từ một
năm đến hai năm, hoặc bị phạt tù đến năm năm có hoặc khơng kèm theo bị

hạn
chế tự• do đến một
năm.



4. Hành vi trộm cắp được thực hiện: a) Bởi nhóm có tơ chức; b) Ở mức
độ đặc biệt lớn thì bị phạt tù từ năm năm đến mười năm có hoặc khơng kèm

theo phạt tiền đến một triệu rúp hoặc bằng lưcmg hay bằng thu nhập khác của

người bị kết án đen năm năm có hoặc khơng kèm theo bị hạn chế tự do đến
hai năm [8],

So sánh với quy định về tội TCTS tại Điều 173 BLHS năm 2015,

chúng ta thấy tội TCTS trong BLHS Liên bang Nga có những điểm giống và

khác nhau như sau:

* Những điểm giống nhau:
Thứ nhất, tội TCTS trong BLHS Liên bang Nga và BLHS Việt Nam

đều giống nhau ở những dấu hiệu định tội cơ bản: đều xâm phạm sở hữu của

người khác, đều có hành vi khách quan là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản
người khác, thực hiện tội phạm với lồi cố ý.
77zớ hai, tội TCTS trong BLHS Liên bang Nga và BLHS Việt Nam đều
sử dụng trị giá tài sản làm cơ sở đế xây dựng các cấu thành định khung tăng
nặng (nhưng BLHS Liên Bang Nga không quy định trị giá tài sản bị trộm cắp
làm dấu hiệu định tội như BLHS Việt Nam).

* Những điểm khác nhau:

ĨTií? nhất, BLHS Liên bang Nga đã làm rõ ngay hành vi TCTS trong
quy định cùa cấu thành cơ bản, còn BLHS Việt Nam không làm rõ hành vi

TCTS (quy định giản đơn). Chúng tôi cho rằng đây là một ưu điểm của BLHS

Liên bang Nga mà chúng ta nên tiếp thu và hoàn thiện BLHS Việt Nam theo
20


×