MỤC LỤC
Trang
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các các chữ viết tắt
MỞĐẰU................................................................................................................ 1
Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỘI PHẠM CHƯA HỒN
THÀNH TRONG LUẬT HÌNH sự VIỆT NAM......................................... 7
1.1. Khái niệm, nội dung và ý nghĩa của các giai đoạn trong tội phạm
chưa hoàn thành.................................................................................................. 7
1.1.1. Khái niệm và cơ sở phân chia các giai đoạn thực hiện tội phạm........... 7
1.1.3. Ý nghĩa của các giai đoạn trong tội phạm chưa hoàn thành................. 13
1.2. Khái niệm, đặc diễm, hình thức của hành vi chuẩn bị phạm tội.... 13
1.2.1. Khái niệm và đặc điếm của hành vi chuẩn bị phạm tội......................... 13
1.2.2. Các hình thức của hành vi chuẩn bị phạm tội..........................................17
1.3. Khái niệm, đặc điểm, hình thức của hành vỉ phạm tội chưa đạt....19
1.3.1. Khái niệm và đặc điếm của hành vi phạm tội chưa đạt..........................19
•
•
1
•
•
•
1.3.2. Các hình thức của hành vi phạm tội chưa đạt......................................... 22
1. 4. Quy định về tội phạm chưa hoàn thành trong luật hình sự một số
nước trên thế giới.............................................................................................. 23
1.4.1. Trong Bộ luật hình sự Liên Bang Nga năm 1996................................... 23
1.4.2. Trong Bộ luật hình sự Cộng hịa dân chú nhân dân Trung Hoa năm
1979, sửa đổi bổ sung năm 2005....................................................................... 27
1.4.3. Trong Bộ luật hình sự Cộng hịa liên bang Đức năm 1998, sửa đổi bồ
sung năm 2009.................................................................................................... 29
KẾT LUẬN CHƯONG 1................................................................................. 32
Chương 2. TỘI PHẠM CHU A HOÀN THÀNH TRONG LUẬT HÌNH
Sự VIẸT NAM THựC ĐỊNH VÀ VẤN ĐÈ TRÁCH NHIỆM HÌNH sự
Đồi vịi TỘI PHẠM CHU A HỒN THÀNH TRONG BỌ LUẬT
HÌNH Sự NẰM 2015................................................................
34
2.1. Tội
chưa hồn thành trong“ luật
hình sự• Việt
Nam thực
định
34
•
>phạm
•
•
•
•
•
2.1.1. Trong Bộ luật hình sự năm 1985............................................................ 34
2.1.2. Trong Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009............... 36
2.1.3. Trong Bộ luật hình sự năm 2015.............................................................. 39
2.2. Vấn đề trách nhiệm hình sự đoi vói tội phạm trong giai đoạn chuẩn
bị phạm tội trong Bộ luật hình sự năm 2015.................................................42
2.2.1. Cơ sở, điều kiện và nguyên tắc xác định trách nhiệm hình sự đối với tội
phạm trong chuân bị phạm tội............................................................................42
2.2.2. Quyết định hình phạt đối với tội phạm trong chuẩn bị phạm tội.........44
2.3. Vấn đề trách nhiệm hình sự đối vói tội phạm trong giai đoạn phạm
tội chưa trong Bộ luật hình sự năm 2015...................................................... 45
•
ơ
•
e
•
2.3.1. Cơ sở, điều kiện và nguyên tắc xác định trách nhiệm hình sự đối với tội
phạm trong phạm tội chưa đạt............................................................................45
2.3.2. Quyết định hình phạt đối với tội phạm trong phạm tội chưa đạt.......... 48
KÉT LUẬN CHƯƠNG 2................................................................................. 51
Chương 3. THựC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH VỀ TỘI PHẠM
CHU A HỒN THÀNH TRONG MỘT SĨ BẢN AN VÀ NHŨNG klÉN
NGHỊ HỒN THIỆN PHÁP LUẬT HÌNH sự........................................... 53
3.1. Thực tiễn áp dụng các quỵ định về tội phạm chưa hoàn thành trong
một số bản án..................................................................................................... 53
3.1.1. Đánh giá chung.......................................................................................... 53
3.1.2. Thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 về tội
phạm chưa hoàn thành trong một số bàn án...................................................... 55
3.2. Sự cần thiết ciía việc hồn thiện các quy định của Bộ luật hình sự
Việt Nam về tội phạm chưa hồn thành.......... .'................. '......’................... 71
3.3. Những kiến nghị hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự Việt
Nam về tội phạm chưa hoàn thành................................................................. 74
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3................................................................................. 79
KẾT LUẬN CHUNG........................................................................................ 80
DANH MỤC CƠNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ.............................................. 82
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................... 83
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
STT
Từ viết tắt
Ngun nghĩa
1
BLHS
BƠ• lt
• hình sư•
2
NXB
Nhà xuất bản
3
TAND
Tịa án nhân dân
4
TNHS
Trách nhiêm
• hình sư•
5
TTHS
Tố tụng hình sự
6
VKSND
Viên
• kiểm sát nhân dân
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết cùa việc nghiên cứu đề tài
Tội phạm là một hiện tượng xã hội - pháp lý gắn liền với sự ra đời của
Nhà nước và pháp luật cũng như đời sống con người. Trong tồn tại xã hội, tội
phạm chính là hành vi nguy hiểm, là một hiện tượng xà hội tiêu cực xâm hại tới
lợi ích của Nhà nước, đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Do vậy, Nhà
nước sử dụng pháp luật để đấu tranh phát hiện, ngăn chặn kịp thời các hành vi
nguy hiểm cho xẫ hội, xử lý người thực hiện tội phạm.
Tội
• phạm
I • được
• thực
• hiện
• các bước Xphát triển theo một
• trinh tự• nhất định
•
thế hiện bằng các hành vi cụ thể, quá trình này chính là các giai đoạn phạm tội.
Trong khoa học pháp lý, việc nghiên cứu về các giai đoạn phạm tội có ý nghĩa
hết sức quan trọng trong việc xác định tính nguy hiểm của hành vi, phân hóa
trách nhiệm hình sự để từ đỏ xác định được tội danh chính xác và áp dụng hình
phạt tương xứng.
Các giai đoạn thực hiện tội phạm được thể hiện dưới dạng tội phạm chưa
hoàn thành (với hai giai đoạn nhỏ là chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt) và tội
phạm hoàn thành. Trong thực tiễn xét xử, các tội phạm được xử lý chủ yếu là tội
phạm hồn thành, chỉ có một số ít trường hợp tội phạm chưa hồn thành. Bởi vì,
tội phạm chưa hồn thành xảy ra và là điều kiện tiền đề để tội phạm hồn thành,
nếu có thể ngăn chặn được tội phạm từ những giai đoạn đầu tiên thì sẽ giảm bớt
được tính nguy hiểm, hậu quả đáng tiếc do tội phạm gây ra. Chính vì vậy, việc
nghiên cứu về tội phạm chưa hoàn thành thật sự rất cỏ ý nghĩa trong cơng tác
đấu tranh phịng ngừa tội phạm, ngăn chặn các hành vi nguy hiểm có thể xảy ra.
Hiện nay các cơ quan tư pháp đã thực hiện việc đánh giá 15 năm về việc
thực hiện Nghị quyết số 48/NQ-TW ngày 24/5/2005 của Bộ chính trị “ke chiến
lược xãy dựng và hoàn thỉện hệ thống pháp luật Việt nam đến năm 2010, định
hướng đên năm 2020" và Nghị quyêt sô 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ
chính trị “Kể chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020". Theo đó, đánh giá một
cách khách quan và toàn diện nhất trong hoạt động thực tiễn của các co quan tư
pháp cũng như là những điểm cịn bất cập của luật hình sự tác động trực tiếp đến
quyền, lợi ích của Nhà nước và cá nhân.
Trong khoa học luật hình sự, giai đoạn tội phạm chưa hoàn thành được
chia thành hai giai đoạn: chuấn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt. Bộ luật hình sự
năm 2015 (sừa đổi bổ sung năm 2017) hiện hành có quy định về chuẩn bị phạm
tội và phạm tội chưa đạt tại 02 Điều luật. Chính vì vậy, cần có những đánh giá
khái quát được những điếm mới mà Luật quy định và những tồn tại hạn chế
trong việc áp dụng trên thực tiễn. Đồng thời, cần đánh giá được những đóng góp
cửa những quy định mới, tiến bộ của Bộ luật hình sự năm 2015 trong cơng cuộc
cải cách tư pháp.
Trên cơ sở những phân tích trên đây, tơi chọn đề tài “T0Z phạm chưa hồn
thành trong<2 Luật
hình sự• Việt
Nam" làm luận
văn thạc
sĩ luật
học
cho mình.
•
•
•
•
•
•
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài về “7ợz‘ phạm chưa hồn thành trong Luật hình sự Việt
Nam" với mục tiêu là dựa trên nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về tội
phạm chưa hoàn thành, chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt trong luật hình
sự, đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về tội phạm chưa hồn thành để
từ đó thấy được những phần còn tồn tại, hạn chế trong các quy định của pháp
luật và đưa ra được một số kiến nghị.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Đe thực
hiện
mục
đích nghiên
cứu nêu trên cần thực
hiện
các nhiệm
vụ•
•
•
•
4-2
•
•
•
nghiên cứu sau:
2
1) Nghiên cứu, làm rõ khái niệm pháp lý vê các khái niệm tội phạm chưa
hoàn thành, chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt đề xây dựng khái niệm, nội
dung, đặc điểm của từng khái niệm và chỉ ra cơ sở của việc quy định về chuẩn bị
phạm tội và phạm tội chưa đạt trong luật hình sự Việt Nam.
2) Phân tích, đánh giá các quy định pháp luật Việt Nam về tội phạm chưa
hoàn thành qua các giai đoạn lịch sử lập pháp để rút ra nhận xét.
3) Nghiên cứu, so sánh BLHS Việt Nam với BLHS một số nước (Liên
bang Nga, Cộng hòa dân chủ nhân dân Trung Hoa, Cộng hòa Liên bang Đức)
quy định về tội phạm chưa hồn thành, trên cơ sở đó rút ra bài học kinh nghiệm
về lập pháp hình sự trong quá trình xây dựng BLHS năm 2015 về tội phạm chưa
hồn thành.
4) Phân tích, làm rõ thực trạng áp dụng các quy định về tội phạm chưa
hoàn thành trong thực tiễn xét xử ở nước ta để đánh giá thành cơng và hạn chế,
từ đó chỉ ra các ngun nhân cơ bản.
5) Đưa ra yêu cầu, kiến nghị hoàn thiện quy định BLHS năm 2015 về tội
phạm chưa hoàn thành, cũng như đề xuất một số giải pháp bảo đảm áp dụng chế
định này.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận về tội phạm chưa
hoàn thành, quan điểm của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm
2017) và Bộ luật hình sự một số nước về các giai đoạn phạm tội, về tội phạm
chưa hoàn thành và thực tiễn áp dụng pháp luật trong thời gian qua ở nước ta.
3.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đề tài nghiên cứu trên cơ sở lý luận, diễn giải các khái niệm pháp lý, đặc
điếm của tội phạm chưa hoàn thành, chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt.
3
Quy định vê chuân bị phạm tội, phạm tội chưa đạt trong luật hình sự, vân đê xác
định trách nhiệm hình sự của người phạm tội. Việc nghiên cứu đánh giá tỉnh
hình xác định và áp dụng các quy định về tội phạm chưa hoàn thành trong thực
tiễn xét xử của TAND các cấp. về thời gian nghiên cứu, luận văn nghiên cứu
thực tiễn thi hành (áp dụng) pháp luật hình sự về tội phạm chưa hồn thành của
các tịa án các cấp trên phạm vi cả nước trong giai đoạn sau khi BLHS năm 2015
có hiệu lực thi hành (ngày 01/01/2018).
4. Cơ sở lý luận, phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Co’ sỏ’ lý luận
Cơ sở lý luận của luận văn là quan điếm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điếm của Đảng và Nhà nước ta về Nhà nước và pháp
luật, về đấu tranh phịng, chống tội phạm, về tính nhân đạo của pháp luật. Bên
cạnh đó, dựa trên cơ sở của khoa học pháp lý trong các cơng trình nghiên cứu
của một số nhà nghiên cứu khoa học luật hinh sự Việt Nam và các văn bản pháp
luật.
4.2. Phương pháp luận
Cơ sở phương pháp luận của luận văn là phép biện chứng duy vật, các
quan điểm tư tưởng về xây dựng nhà nước pháp quyền, cải cách tư pháp, tính tối
thượng của pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con người, của cơng
dân. Trong q trình nghiên cứu, luận văn sử dụng đồng bộ các phương pháp
tiếp cận như phương pháp phân tích, tổng hợp, logic và so sánh.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng một số phương pháp tiếp cận để làm sáng tỏ về mặt
khoa học của vấn đề tương ứng, cụ thể:
4
Chương 1: Sử dụng phương pháp phân tích, tơng hợp, so sánh các cơng
trình nghiên cứu có liên quan; đánh giá, so sánh với các quy phạm, cách lập pháp
của một số nước khác trên thế giới.
Chương 2: Sừ dụng nguồn tài liệu thứ cấp, sử dụng phương pháp phân
tích, đánh giá, đối chiếu nhằm đánh giá được những mặt tồn tại, hạn chế trong
thực tiễn áp dụng pháp luật về tội phạm chưa hoàn thành.
Chương 3: Tổng hợp và xây dựng được các quan điểm, kiến nghị.
5. Những điểm mói và đóng góp của luận văn
Luận văn là cơng trình nghiên cứu độc lập dựa trên kết quà nghiên cứu,
phân tích, đánh giá về mặt lý luận và thực tiễn của một giai đoạn phạm tội - tội
phạm chưa hồn thành. Bên cạnh đó, do Bộ luật hình sự năm 2015 có hiệu lực
thi hành từ 01/01/2018 nên đên nay chưa có nhiêu nghiên cứu quy định vê tội
phạm chưa hoàn thành trên cơ sở đánh giá sự thay đơi, tính mới. Chính vậy, đê
r
1
tài này sẽ có một sô diêm mới như sau:
__
_
_
.
a
_
r
\
Thứ nhât,7 làm rõ khái niệm,
hàm và vân đê trách nhiệm
hình sự• của tội
•
X nội
•
•
•
phạm chưa hoàn thành, của chuân bị phạm tội và phạm tội chưa đạt;
Thứ hai, đánh giá các bản án hình sự, quan điểm của những người áp dụng
pháp luật để đưa ra được cái nhìn thực tế trong thực tiễn áp dụng quy định về
chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt;
Thứ ba, tổng kết về mặt lý luận, thực tiễn về những vấn đề có liên quan và
đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật.
Ngoài ra, luận văn sẽ đi sâu vào nghiên cứu, hoàn thiện cái nhìn tống quan
về thực tiễn áp dụng pháp luật về tội phạm chưa hồn thành thơng qua một số
bản án đã được tuyên trong thực tiễn xét xừ. Đưa ra một số tồn tại, bất cập trong
việc áp dụng pháp luật trong thực tiễn hoạt động của các cơ quan tư pháp về áp
dụng tội phạm chưa hoàn thành. Do đó, luận văn sẽ là nguồn tài liệu tham khảo
5
cần thiết trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử nhằm đảm bảo việc đánh giá
đúng hành vi tội phạm đã thực hiện, xác định mức độ trách nhiệm hỉnh sự và áp
dụng mức hình phạt có căn cứ, đúng quy định, tương xứng với hành vi phạm tội
đã được thực hiện.
Bên cạnh đó, luận văn cũng sẽ là một nguồn tài liệu tham khảo cho các
sinh viên đại học, học viên cao học, các nghiên cứu sinh ở các cơ sở đào tạo về
luật trong cả nước.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài các phần Mở đầu, Kết luận, Phụ lục và Danh mục tài liệu tham
khảo, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1. Một số vấn đề lý luận về tội phạm chưa hồn thành trong luật
hình sự Việt Nam
Chương 2. Tội phạm chưa hoàn thành trong pháp luật hình sự việt nam
thực định và vấn đề trách nhiệm hình sự đối với tội phạm chưa hồn thành theo
•
•
•
•
9
1
•
Bộ luật hình sự năm 2015.
Chương 3. Thực tiễn áp dụng các quy định về tội phạm chưa hoàn thành
trong một số bản án và những kiến nghị hoàn thiện pháp luật hỉnh sự.
6
Chương 1
MỘT SÓ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÈ TỘI PHẠM CHU A HỒN THÀNH
TRONG LUẬT HÌNH sụ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm, nội dung và ý nghĩa của các giai đoạn trong tội phạm
chưa hoàn thành
1.1.1. Khái niệm
và cơ sở phân
chia các giai đoạn
thực
hiện
tội
phạm
•
1
•
•
•
•
>
•
Điều 2 BLHS năm 2015 quy định rõ “Chỉ người nào phạm một tội đã
được BLHS quy định mới phải chịu TNHS”. Do đó, trách nhiệm hình sự chỉ
được
đặt
ra trên cơ sở hành vi được
thực
hiện
thỏa mãn các dấu hiệu
của cấu
•
•
•
•
•
•
thành tội phạm được quy định trong luật hình sự. Tuy nhiên, các quy định trong
phần các tội phạm của BLHS năm 2015 chỉ quy định cấu thành tội phạm đà hoàn
thành. Tức là, các trường hợp được quy định đà thỏa màn đầy đủ các yếu tố cấu
thành về mặt hành vi, thể hiện đầy đủ các dấu hiệu được quy định. Trong khi đó,
thực tiễn xảy ra các trường hợp mà hành vi xâm hại đến các quan hệ xã hội được
luật hình sự bảo vệ nhưng chưa hoàn thành hết về mặt hành vi khách quan được
quy định. Do vậy, luật hình sự có quy định về các trường hợp phải truy cứu
TNHS trong trường hợp tội phạm chưa hồn thành nhằm mục đích giải quyết
đầy đủ các nhu cầu khách quan đặt ra trong thực tiễn xét xừ.
Ở Việt Nam cũng như ở nhiều nước khác, trong khoa học Luật hình sự đều
thống nhất quan điểm các giai đoạn thực hiện tội phạm là các bước của quá trình
cố ý thực hiện tội phạm. Thực tiễn xét xử ở Việt Nam từ trước đến nay khơng
thừa nhận có giai đoạn chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt với những tội
phạm với lỗi vô ý và cố ý gián tiếp. Trong các tài liệu nghiên cứu cho thấy, quan
điểm phổ biến nhất là cho rằng: vấn đề các giai đoạn thực hiện tội phạm chỉ đặt
ra đối với tội cố ý trực tiếp. Các bước trong quá trình thực hiện tội phạm do cố ý
7
và bao gôm: chuân bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và phạm tội hoàn thành. Việc
phân chia các giai đoạn phạm tội trong luật hình sự thể hiện ý chí chủ quan của
người làm luật đối với diễn biến khách quan của hành vi phạm tội xảy ra trong
thực tế, do vậy căn cứ vào tính chất giai cấp mà việc phân chia các giai đoạn
phạm tội trong luật hinh sự của các nước cũng không giống nhau [10, tr. 214].
Trong lý luận luật hình sự cũng thừa nhận một hành vi phạm tội trải qua
các bước: xuất hiện ý định phạm tội, chuấn bị phạm tội và thực hiện tội phạm.
•
J
•
1
•
*7
•
•
1
•
•
•
•
1
•
Đối với hình thức phạm tội với lỗi vơ ý thì người thực hiện khơng nhận thức
được tính chất nguy hiểm của hành vi, không thấy trước hậu quả của hành vi
hoặc tự tin cho rằng hậu quả nguy hiểm sẽ khơng xảy ra. Vì vậy, trong q trình
thực hiện tội phạm do vơ ý sẽ khơng xác định được mục đích của người thực
hiện tội phạm nên sẽ không thề trải qua các bước của hành vi phạm tội như đã
nêu ở trên. Do đó, phải khẳng định rằng các giai đoạn thực hiện tội phạm chỉ là
các giai đoạn thực hiện cố ý.
Trong khoa học Luật hình sự trên thế giới nói chung và Việt Nam nói
riêng việc phân chia các giai đoạn thực hiện tội phạm vẫn còn tồn tại nhiều quan
điểm khác nhau. TSKH.GS. Lê Cảm đã tổng kết rất cụ thể trong về các quan
niệm về các giai đoạn thực hiện trong khoa học Luật hình sự Liên Bang Nga. Cụ
thể:
1) Các giai đoạn chuẩn bị và trực tiếp thực hiện tội phạm cố ý, được phân
biệt với nhau theo tính chất (nội dung) của những hành vi đã được thực hiện và
thời điếm chấm dứt xử sự có tính chất tội phạm (B.V.Zdravomxlov);
2) Các giai đoạn nhất định của việc chuấn bị và việc thực hiện tội phạm cố
/
•
•
•
•
•
•
*
•
A
•
ý, được phân biệt với nhau theo tính chất của những hành vi được thực hiện và
thời điểm chấm dứt hành vi ấy (X.G.Kelina);
8
3) Các giai đoạn của việc chuân bị và trực tiêp thực hiện tội phạm được
quy định trong luật và được phân biệt với nhau theo tính chất và nội dung của
hành vi người phạm tội, cũng như mức độ kết thúc hành vi phạm tội
(E.F.Pobegailo); v.v... [11, tr. 412]
Trong khoa học Luật hình sự Việt Nam, các nhà nghiên cứu, các học giả
cũng đưa ra các quan điểm về khái niệm giai đoạn thực hiện tội phạm trong khoa
học luật hình sự khác nhau, cỏ quan điểm cho rằng “các bước trong quá trình
thực hiện tội phạm bao gồm chuân bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và tội phạm
chưa hoàn thành” [14, tr. 176]. Theo GS.TS. Nguyễn Ngọc Hịa và GS.TS. Đỗ
Ngọc Quang thì các giai đoạn thực hiện tội phạm là các bước trong quá trình cố
ý thực hiện tội phạm bao gồm chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và tội phạm
hoàn thành.
Theo TS. Trịnh Tiến Việt quan niệm: "Các giai đoạn phạm tội được hìêu
là những bước trong quá trình thực hiện tội phạm do cố ý, phản ánh mức độ
nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội ở từng thời điểm, bao gồm: chuẩn bị
phạm tội, phạm tội chưa đạt và tội phạm hoàn thành " [31, tr. 156].
về khái niệm khoa học này, TSKH.GS. Lê Cảm cho rằng: “các giai đoạn
thực hiện tội phạm là các bước phát triển theo một trình tự nhất định mà tội
•
•
/
•
/
•
•
•
•
•
phạm trải qua, được thê hiện bằng việc thực hiện các dấu hiệu thuộc mặt khách
quan của cấu thành tội phạm tương ứng và bằng mức độ khác nhau của việc thể
hiện sự cổ ý phạm tội cùa chủ thê ” [11, tr. 412].
Việc phân chia các giai đoạn phạm tội dựa trên diễn biến khách quan của
quá trình thực hiện tội phạm cụ thể mà cơ sở chính là hành vi và hậu quả của tội
1
•
•
•
X
•
•
•
X
•
phạm. Chính vì vậy, theo quan điểm của chúng tôi, khái niệm về giai đoạn thực
hiện tội phạm của TSKH.GS. Lê Cảm đưa ra rất khoa học, phù hợp với thực tiễn.
9
Q trình thực hiện tội phạm phải được tính băt đâu từ khi có quyêt định
thực hiện tội phạm, qua chuẩn bị, bắt đầu thực hiện và thực hiện hoàn thành tới
•
•
•
1
•
X
1
• X
•
•
••
khi tội phạm thực sự kết thúc [25]. Quá trình này được phân định thành các giai
đoạn chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và tội phạm hồn thành. Tuy trong
BLHS chưa có điều luật nào quy định rõ tội phạm chưa hoàn thành được định
nghĩa như thế nào, nhưng trong lý luận hình sự thống nhất quan điểm tội phạm
chưa hoàn thành được thế hiện bằng hai giai đoạn là chuẩn bị phạm tội, phạm tội
chưa đạt.
Chính vậy đưa đến quan điểm thống nhất rằng, các giai đoạn thực hiện tội
phạm bao gồm 02 dạng: 1) Tội phạm chưa hoàn thành với 02 giai đoạn - chuấn
bị phạm tội và phạm tội chưa đạt; 2) tội phạm hồn thành.
Luật hình sự được xây dựng thành phần chung về các tội phạm và phần
các tội phạm. Trong phần chung về các tội phạm có quy định về chuẩn bị phạm
tội và phạm tội chưa đạt tại hai điều luật cụ thể, Điều 14 về chuẩn bị phạm tội,
•
1
•
•
•
•
•
•
X
♦
JL
•
•
X
Điều 15 về phạm tội chưa đạt. Trong phần các tội phạm quy định rõ các trường
hợp tội phạm hoàn thành. Chính vỉ vậy cho ta thấy, tuy khơng nêu rõ về định
nghĩa hay khái niệm về tội phạm chưa hoàn thành và tội phạm hoàn thành nhưng
cũng đã khẳng định các giai đoạn thực hiện tội phạm bao gồm: tội phạm chưa
hoàn thành (với hai giai đoạn cụ thế là chuấn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt)
và tội phạm hồn thành. Trong đó, chuẩn bị phạm tội là giai đoạn đầu tiên, kế
tiếp là phạm tội chưa đạt, cuối cùng là tội phạm hồn thành. Có thể nói, cách
phân chia về các giai đoạn thực hiện tội phạm như vậy thế hiện tính họp lý cao
về khoa học và thực tiễn.
Khoản 2 Điều 8 BLHS nêu rõ “Những hành vi tuy có dấu hiệu của tơi
phạm nhưng tính chất nguy hỉêm cho xã hội khơng đảng kê thì khơng phải là tội
10
phạm và được xử ỉỷ băng các biện pháp khác”. Do vậy, việc quy định rõ chuân
bị phạm tội và phạm tội chưa đạt chính là cơ sở để đánh giá tính chất, mức độ
của hành vi nguy hiểm cho xã hội làm căn cứ để việc truy cứu trách nhiệm hình
sự một cách chính xác, đúng quy định pháp luật.
Theo quan điếm của chúng tôi bất kỳ một tội phạm do cố ý nào đều là
hành vi nguy hiểm cho xã hội bị Luật hình sự cấm và có sự thống nhất giữa mặt
khách quan và mặt chủ quan, nên việc phân chia các giai đoạn thực hiện tội
phạm có ý nghĩa rất quan trọng trong việc xác định trách nhiệm hình sự.
1.1.2. Khái niệm
và đặc
điếm CO’ bản của tội
phạm
chưa hồn thành
•
•
•
<
♦
Dù đà trải qua 03 lần pháp điển hóa nhưng trong BLHS vẫn chưa có các
quy phạm chung đề cập đến khái niệm tương ứng với hai dạng tội phạm: tội
phạm chưa hoàn thành và tội phạm hoàn thành. Đồng thời, chưa đưa ra hai khái
niệm pháp lý về hai giai đoạn của tội phạm chưa hoàn thành là chuẩn bị phạm tội
và phạm tội chưa đạt. Tuy nhiên, trong khoa học Luật hình sự có nhiều quan
điểm khác nhau về khái niệm hai giai đoạn của tội phạm chưa hồn thành. Có
quan điểm cho rằng:
Các giai đoạn thực hiện tội phạm bao gồm các mức độ thực hiện tội phạm
cố ý từ thấp đến cao: chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và tội phạm hoàn
thành. Tội phạm hoàn thành tuy được thừa nhận là một giai đoạn thực hiện tội
•
A
2
•
•
•
•
•
phạm nhưng luật hình sự Việt Nam không quy định cụ thể thế nào là giai đoạn
tội phạm hoàn thành [24].
Theo TSKH.GS. Lê Cảm, tội phạm chưa hoàn thành là hành vi chuẩn bị
phạm tội và phạm tội chưa đạt [11, tr. 412].
Hiện nay, cũng có rất nhiều nhà nghiên cứu khoa học đưa ra các khái niệm
về tội phạm chưa hồn thành. Tơi nhất trí với khái niệm về tội phạm chưa hoàn
11
thành của TSKH.GS. Lê Cảm. Bởi lẽ, khái niệm này mang tính phơ qt nhât,
đảm bảo thể hiện trọn vẹn nhất đặc điểm của giai đoạn phạm tội này, tuy khơng
đi sâu bóc tách từng đặc điểm cụ thể nhưng bao quát được thế nào là giai đoạn
phạm tội chưa hoàn thành.
Nếu xuất phát từ khái niệm các loại cấu thành tội phạm, có thể cho rằng
chuẩn bị phạm tội hay phạm tội chưa đạt cần được hiểu là hai giai đoạn phạm tội
gắn liền với tất cả những trường hợp tội phạm hoàn thành của các tội phạm cụ
thế, trừ trường họp đặc biệt Luật không quy định giai đoạn đó [20].
Hiện nay, luật hình sự chưa đưa ra khái niệm đầy đủ về tội phạm chưa
hoàn thành. Chúng tôi cho rằng, cần thiết phải ghi nhận khái niệm đầy đủ về tội
phạm chưa hoàn thành trong BLHS. Cụ thể hơn, đó là bổ sung thêm 01 Điều luật
về khái niệm tội phạm chưa hoàn thành trong Chương “Tội phạm” được đặt
trong Phần chung cùa BLHS. Theo đỏ, cũng đưa ra khái niệm về tội phạm hoàn
thành để làm rõ cơ sở phân chia các giai đoạn phạm tội.
Từ khái niệm pháp lý về tội phạm chưa hoàn thành, có thể khái qt được
tội phạm chưa hồn thành mang một số đặc điểm sau:
1) Tội phạm được thực hiện khi chuẩn bị phạm tội hoặc phạm tội chưa đạt;
•
z
JL
•
•
•
•
•
1
•
•
•
JL
•
•
được diễn ra trước khi tội phạm được hồn thành.
•
•
1
•
•
2) Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội một cách cố ý, đã chuẩn
bị thực hiện hoặc đã thực hiện một hay một số hành vi nào đó tác động, xâm hại
•
•
•
•
•
•
•
'
J
•
trực tiếp đến khách thể mà luật hình sự bảo vệ tuy nhiên bị dừng lại do các
nguyên nhân khách quan làm cho tội phạm không được thực hiện đến cùng.
Có quan điểm cho rằng, tội phạm chưa hồn thành có thể do ngun nhân
chủ quan của người phạm tội. Tuy nhiên, quan điếm trên là chưa chính xác. Bởi
lẽ, tội phạm dừng lại, chưa hồn thành vì “nguyên nhân ngoài ý muốn của người
12
phạm tội” chính là dâu hiệu pháp lý băt buộc của tội phạm chưa hoàn thành. Nêu
tội phạm dừng lại bởi ý thức chủ quan của người phạm tội cho rằng không cần
thực hiện thêm bất kỳ hành vi khách quan nào và dừng hậu quả nguy hiểm của
hành vi phạm tội thì đây thuộc trường hợp tự ý nửa chừng chấm dứt tội phạm.
3) Hậu quả của hành vi có thể chưa xảy ra hoặc đà có hậu quả nhưng chưa
đến mức được quy định trong cấu thành tội phạm tại các điều luật cụ thể.
4) Lỗi của người thực hiện hành vi phạm tội là lỗi cố ý trực tiếp với mục
đích hồn thành hành vi phạm tội đề đạt được hậu quà nhưng hậu quả không xảy
ra như dự định của người phạm tội.
1.1.3. Ý nghĩa của các giai đoạn trong tội phạm chưa hoàn thành
Từ định nghĩa khoa học về tội phạm chưa hồn thành, có thể khẳng định:
cơ sở đề phân biệt các giai đoạn thực hiện tội phạm với nhau chính từ tính chất
của những hành vi được thực hiện với hình thức lỗi cố ý và thời điểm chấm dứt
hành vi đó [11, tr. 412]. Trong thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự cho thấy, quá
trinh thực hiện tội phạm thể hiện theo các thang bậc có tính chất, mức độ nguy
hiểm cho xã hội khác nhau từ nhẹ cho đến nặng. Do đó, việc phân chia các giai
đoạn phạm tội thành tội phạm chưa hoàn thành và tội phạm hoàn thành có ý
nghĩa rất quan trọng trong việc đánh giá đúng tính chất, mức độ của hành vi
nguy hiểm cho xã hội, làm căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự và áp dụng
mức hình phạt tương xứng.
1.2. Khái niệm, đặc điểm, hình thức của hành vi chuẩn bị phạm tội
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của hành vi chuẩn bị phạm tội
Hành vi cố ý thực hiện tội phạm ngoài các giai đoạn chuấn bị phạm tội,
phạm tội chưa đạt và tội phạm hồn thành thì cịn có ỷ định phạm tội. Ý định
A
•
•
•
•
A
*
•
A
•
•
•
phạm tội là trường hợp một người trước khi thực hiện tội phạm thi những dự
13
định phạm tội trong tư tường, suy nghĩ của người này được biêu lộ ra bên ngồi
dưới nhiều hình thức khác nhau như: bằng lời nói, cử chỉ, chữ viết, hình vẽ, thái
độ,...hoặc cũng có thể khơng biểu hiện ra bên ngồi và khơng ai biết được [31].
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, tội phạm là hiện tượng xã hội
bao gồm một thể thống nhất các yếu tố khách quan và chủ quan, ý định phạm tội
mới chỉ thỏa mãn dấu hiệu chủ quan, chưa có các dấu hiệu khách quan nên
không thể coi là tội phạm. “Chuẩn bị phạm tội thường được hiểu một cách chung
nhất là giai đoạn thực hiện tội phạm mà trong đó người phạm tội có hành vi tạo
ra những điều kiện cần thiết cho việc thực hiện tội phạm” [24]. Chính vì vậy,
chuẩn bị phạm tội chính là giai đoạn đầu tiên của quá trình thực hiện tội phạm.
Theo quan điểm của chúng tơi, dưới góc độ khoa học Luật hình sự có thể
đưa ra định nghĩa khoa học của khái niệm này:
Chuẩn bị phạm tội là hành vi tìm kiếm hoặc sửa soạn công cụ, phương tiện
thực hiện tội phạm, cũng như tìm kiếm những người đồng phạm, cấu kết với
nhau hoặc cố ý tạo ra những điều kiện cần thiết khác để thực hiện tội phạm,
nhưng tội phạm đã khơng thực hiện đến cùng vì những ngun nhân ngoài ý
muốn của người phạm tội [11, tr.413].
Điều 14 BLHS năm 2015 quy định như sau: "Chuẩn hị phạm tội là tìm
kiếm, sửa soạn cơng cụ, phương tiện hoặc tạo ra những điều kiện khác đê thực
hiện tội phạm”. Như vậy, chuẩn bị phạm tội là giai đoạn đầu tiên của quá trình
thực hiện tội phạm do cố ý. Người phạm tội từ chỗ có ý định phạm tội, bằng ý
thức chủ quan của mình đã nảy sinh ý định thực hiện hành vi nguy hiếm cho xã
hội, từ đó dẫn đến bước (hay còn gọi là giai đoạn) chuẩn bị phạm tội.
Chuẩn bị phạm tội tức là chưa thực hiện hành vi cấu thành tội phạm (trừ
•
A
•
•
•
•
•
>
•
X
một số trường hợp đặc biệt), hành vi chưa tác động trực tiếp đến các quan hệ xã
14
hội được luật hình sự bảo vệ, nó chưa trực tiêp gây nguy hại cho khách thê của
luật hình sự, nhưng lại là tiền đề, điều kiện thuận lợi để tội phạm xảy ra một cách
dễ dàng. Theo quy định tại Bộ luật hình sự, các nhà làm luật đã định nghĩa ngắn
gọn, tương đối rõ ràng về giai đoạn chuẩn bị phạm tội.
Chuấn bị phạm tội là giai đoạn đầu của hành động phạm tội, là bước tiếp
theo để cụ thể hóa ý định phạm tội [33]. Nó xưất hiện sau khi người phạm tội
nảy sinh ý định thực hiện tội phạm. Mặc dù chuấn bị phạm tội chưa thực hiện
J
J
*
X
•
•
•
X
•
•
♦
•
hành vi được mơ tả trong cấu thành tội phạm mà chỉ có trong một số trường hợp
đặc biệt (đã được lưật hình sự quy định rõ), chưa tác động trực tiếp đến các quan
hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ, nhưng đó là giai đoạn chuẩn bị sẵn
những điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện tội phạm cụ thể và cũng là tiền đề
để tội phạm xày ra, từ đó thực hiện các bước tiếp theo của các giai đoạn thực
hiện tội phạm.
Từ những phân tích khoa học khái niệm, chuẩn bị phạm tội bao gồm
những đặc trưng cơ bản sau:
1) Là hành vi tìm kiếm hoặc sửa soạn cơng cụ, phương tiện thực hiện tội
phạm;
2) hoặc tìm kiếm người đồng phạm, có sự cấu kết với nhau để cùng thực
hiện tội phạm;
3) hoặc cố ý tạo ra những điều kiện cần thiết khác để thực hiện tội phạm;
4) hậu quả mong muốn không xảy ra nằm ngồi ý chí chủ quan của người
thực hiện hành vi phạm tội.
•
•
X
•
•
Có thể hiểu, chuẩn bị phạm tội là chuẩn bị sằn những điều kiện thuận lợi
cho việc thực hiện tội phạm cụ thế. Các hành vi như tìm kiếm, sửa soạn cơng cụ,
phương tiện, tìm kiếm đồng phạm, cấu kết với nhau; v.v... Hậu quả mà người
15
thực hiện hành vi phạm tội hướng đên là hậu quả nguy hiêm cho xà hội được luật
hình sự quy định nhưng đã khơng xảy ra trong thực tế.
Có thể nói, việc đi sâu nghiên cứu về chuẩn bị phạm tội là rất cần thiết và
có ý nghĩa vơ cùng quan trọng, mà qua đó xác định giai đoạn chuấn bị phạm tội
và phạm tội chưa đạt có ý nghĩa rất quan trọng trong việc truy cứu trách nhiệm
hình sự và quyết định hình phạt. Trong BLHS hiện hành, nhà làm luật nước ta
chỉ quy định các cấu thành tội phạm tương ứng với các tội phạm đã hoàn thành,
mà không quy định các cấu thành tội phạm tương ứng với giai đoạn chuấn bị
phạm tội. Do vậy, việc xác định đúng giai đoạn chuấn bị phạm tội là cơ sở cho
việc định tội. Việc xác định đúng giai đoạn chuẩn bị phạm tội là căn cứ để xác
định tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội.
Ờ giai đoạn chuẩn bị phạm tội thì tính chất, mức độ nguy hiểm cho xà hội
bao giờ cũng thấp hơn so với các giai đoạn như phạm tội chưa đạt hay tội phạm
hoàn thành. Việc xác định đúng giai đoạn chuẩn bị phạm tội có ý nghĩa quan
trọng trong quyết định hình phạt, qua đó, đảm bảo cho các cơ quan xét xử quyết
định hình phạt một cách cơng minh, đưa ra được quyết định hình phạt tương
xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội đối với người phạm tội.
Tóm lại, việc đi sâu nghiên cứu về giai đoạn chuấn bị phạm tội có ý nghĩa
quan trọng để đánh giá mức độ thực hiện tội phạm, từ đó đưa ra cơ sở xác định
phạm vi và mức độ trách nhiệm hình sự ở lĩnh vực lập pháp và áp dụng hình phạt
đối với những trường hợp cụ thể của giai đoạn chuẩn bị phạm tội, cũng như các
bước khác nhau của các giai đoạn thực hiện tội phạm trong luật hình sự Việt
Nam.
16
1.2.2. Các hình thức của hành vi chuân bị phạm tội
Chuẩn bị• phạm
thể hiện dưới hình thức lỗi cố ý trực
1 • tội
• là hành vi chỉ được
••
tiếp. Khi đó, người phạm tội nhận thức được những hành vi đang tiến hành nhằm
chuẩn bị cho việc thực hiện tội phạm, biết được được hậu quả hiểm cho xã hội có
•
•
•
•
•
1
X
•
•
•
1
•
•
thế xảy ra nếu tội phạm được thực hiện và mong muốn cho hậu q đó xảy ra.
Động cơ, mục đích và hành vi của người thực hiện hành vi chuẩn bị phạm tội là
thống nhất và rõ ràng nhằm đi đến mục tiêu là thực hiện trọn vẹn hành vi phạm
tội sau đó.
Hành vi chuấn bị phạm tội thể hiện dưới các hình thức:
•
1
•
•
•
1) Tìm kiếm cơng cụ, phương tiện thực hiện tội phạm: là hành vi của
người chưẩn bị phạm tội được thể hiện bằng việc mua hay bàng bất kỳ con
đường nào (hợp pháp, bất hợp pháp hoặc mượn tạm trong một thời gian nhất
định để có thề nhận được công cụ hay phương tiện thực hiện tội phạm.
2) Hành vi sửa soạn công cụ, phương tiện thực hiện tội phạm: là hành vi
cùa người chuẩn bị phạm tội được thể hiện bằng việc chế tạo (làm mới), sửa
sang, tân trang lại hoặc thay thế tỉnh trạng, kích thước của công cụ, phương tiện
để giúp cho việc thực hiện hoặc che giấu tội phạm, cũng như giúp người phạm
tội.
3) Hành vi cố ý tạo ra những điều kiện cần thiết khác để thực hiện tội
phạm như tổ chức, thành lập băng, nhóm tội phạm, soạn thảo kế hoạch, nghiên
cứu địa điểm phạm tội, thời gian, lộ trình, quy luật đi lại của nạn nhân... tức là
làm mọi công việc chuẩn bị cho việc thực hiện tội phạm.
•
4^2
•
•
•
•
•
•
X
•
Có quan điếm cho rằng, sự phân biệt hai giai đoạn chuẩn bị phạm tội và
phạm tội chưa đạt chỉ cần dựa vào thực tế người phạm tội đã bắt đầu thực hiện
X
•
•
•
•
X
•
•
•
•
•
hành vi khách quan được quy định trong cấu thành tội phạm hay chưa [25]. Tuy
17
nhiên, hành vi chuân bị phạm tội cũng chính là người phạm tội đã chuân thực
hiện một tội phạm, nên quan điểm này khơng được thừa nhận trong khoa học
hình sự.
Trong mặt khách quan, về nguyên tắc, hành vi chuẩn bị phạm tội là hành
vi nguy hiểm cho xã hội. Tuy nhiên, tính chất và mức độ nguy hiểm khơng cao
như giai đoạn phạm tội chưa đạt hay tội phạm hồn thành. Hành vi đó chưa tác
động trực tiếp đến các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ, chưa trực tiếp
gây nguy hại cho khách thế của luật hình sự, nhưng lại là tiền đề, điều kiện thuận
lợi để tội phạm xảy ra một cách dễ dàng, nhanh chóng và nó đã thực sự nguy
hiểm cho xã hội. Tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi chuẩn bị phạm tội được
quyết định bởi khách thể của tội phạm, thời gian giữa hành vi chuẩn bị phạm tội
và thời điểm bắt đầu thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được mô tả trong
cấu thành tội phạm, mức độ chuẩn bị...
Trên thực tế, có những khách thể của tội phạm, do tính chất đặc biệt quan
trọng cho nên chỉ cần có hành vi chuẩn bị phạm tội sẽ gây nguy hại rất lớn cho
xã hội. Ví dụ: Tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân (Điều 109 BLHS
năm 2015). Trong tội này, người nào chỉ cần có hành vi thực hiện các hoạt động
chuẩn bị như đề xướng chủ trưong, viết cương lĩnh, tuyên truyền lôi kéo, tập hợp
người vào tổ chức nhàm lật đổ chính quyền nhân dân thì tội phạm hồn thành.
Mặc dù, khi phân tích những hành vi thuộc mặt khách quan của tội này thì rõ
ràng đó là những hành vi chuẩn bị phạm tội, mang tính "chuẩn bị” chứ chưa phải
là tội phạm hoàn thành.
18
1.3. Khái niệm, đặc điêm, hình thức của hành vi phạm tội chưa đạt
1.3.1. Khái niệm
và đặc
điểm của hành vi >phạm
tội
chưa đạt
•
•
•
•
•
Phạm tội chưa đạt chỉ xảy ra đối với loại tội phạm được thực hiện với lỗi
•
•
•
J
±
•••
•
cố ý. Người phạm tội đã bắt đầu thực hiện hành vi phạm tội nhưng chưa thực
hiện trọn vẹn hay chưa hoàn thành tội phạm đó vì ngun nhân ngồi ý muốn
của người phạm tội [27]. Người phạm tội mong muốn hoàn thành hành vi phạm
tội, có hậu quả thỏa mãn các cấu thành tội phạm xảy ra nhưng người phạm tội đã
không vượt qua được các trở ngại khách quan để có thế thực hiện đến cùng hành
vi phạm tội.
Điều 15 BLHS năm 2015 quy
"Phạm
B định:
•
• tội
• chưa đạt
• là cổ V thực
• hiện
•
tội phạm nhưng khơng thực hiện được đến cùng vì những ngun nhân ngồi ý
muổn của người phạm tội". Như vậy, về mặt lý luận, chúng ta có thể hiểu, phạm
tội chưa đạt là giai đoạn tiếp theo sau của giai đoạn chuẩn bị phạm tội. Trong
giai đoạn phạm tội chưa đạt, người phạm tội sử dụng những điều kiện thuận lợi
cần thiết đã chuẩn bị để thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội (được quy định
trong mặt khách quan của cấu thành tội phạm), tuy nhiên vì những ngun nhân
ngồi ý muốn của người phạm tội nên tội phạm đã không được thực hiện đến
cùng.
về phương diện khách quan: từ chuấn bị phạm tội (ở giai đoạn trước),
người phạm tội đã bắt đầu thực hiện hành vi được mô tả trong cấu thành tội
phạm, khách thể của tội phạm đã bị đe dọa và bị xâm hại một cách trực tiếp.
JL
•
•
z
A
•
•
••
•
•
A
•
Hành vi phạm tội chưa đạt đã tác động trong chừng mực nhất định đã làm biến
đối các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Tội phạm khơng thực hiện đến
A
•
•••
e
•
*
A
*
4-2
•
•
cùng, hành vi chưa thỏa mãn đầy đủ những dấu hiệu của một cấu thành tội phạm
tương ứng được quy định trong từng tội phạm cụ thế, hoặc đã thỏa mãn nội dung
19
câu thành tội phạm những hậu quả nguy hiêm cho xã hội theo ý muôn của người
phạm tội chưa xảy ra. Hành vi đó chưa thể hiện đầy đủ tính nguy hiểm cho xã
hội. Hậu quả chưa xảy ra hoặc đã xảy ra nhưng không như người phạm tội mong
muốn. Hành vi chưa thỏa mãn đầy đủ những dấu hiệu của một cấu thành tội
phạm tương ứng là điểm cơ bản để phân biệt phạm tội chưa đạt với tội phạm
hồn thành.
Tội phạm khơng được thực hiện đến cũng là do những nguyên nhân khách
quan ngoài ý muốn của người phạm tội. Người phạm tội đang thực hiện hành vi
phạm tội thì bị phát hiện, ngăn chặn hoặc đã thực hiện xong hết hành vi những
hậu quả không xảy ra hoặc đà xảy ra nhưng không đúng như mong muốn. Việc
xác định xem tội phạm đã bắt đầu thực hiện hay chưa cần dựa vào khách thể của
•
•
A
•
•
•
•
tội phạm, tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi, loại hành vi, ý thức chủ quan
của người phạm tội và từng loại cấu thành tội phạm. Trong loại cấu thành tội
phạm hình thức, hành vi đi liền trước hành vi khách quan đã được quy định là
hành vi bắt đầu thực hiện tội phạm được quy định trong các cấu thành tội phạm
tương ứng.
về phương diện chủ quan: Phạm tội chưa đạt là hành vi được thực hiện
bằng lỗi cố ý trực tiếp. Mỗi hành vi được thực hiện đều có động cơ, mục đích
riêng. Người phạm tội nhận thức được hành vi mà mình thực hiện nguy hiểm cho
xã hội, nhìn thấy trước khả năng xảy ra hậu quả và mong muốn cho hậu quả đó
xảy ra nhưng hậu quả đó đã khơng xảy ra như mong muốn.
Từ phân tích khoa học khái niệm phạm tội chưa đạt cho thấy những đặc
trưng cơ bản sau:
1) Là hành vi cố ý trực tiếp thực hiện tội phạm;
20
2) Chủ thê đã thực hiện hành vi tác động trực tiêp vào khách thê của tội
phạm định thực hiện;
3) Tội phạm chưa được thực hiện đến cùng vì những nguyên nhân nằm
ngoài ý thức chủ quan của chủ thể.
4) Hậu quả của tội phạm chưa xảy ra hoặc người phạm tội đã gây ra hậu
quả nguy hiểm cho xã hội nhưng chưa phù hợp với hậu quả được quy định trong
cấu thành tội phạm.
Trong thực tiễn nghiên cứu cho thấy, các trường họp phạm tội chưa đạt
nhưng có tính chất, mức độ của các trường hợp phạm tội chưa đạt khơng giống
nhau. Do đó, càn cứ vào mức độ thực hiện hành vi mà người phạm tội dự định
thực hiện, có thể phân chia thành phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành và phạm tội
chưa đạt hoàn thành.
Phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành là trường hợp người phạm tội cố ý
thực
hiện
một
tội
nhưng chưa được
thực
hiện
hết các hành vi họ dự định
•
•
•
•
_Lphạm
•
•
•
•
9
9
9
làm hoặc chưa thực hiện được đến cùng hành vi nguy hiểm được mô tả trong cấu
thành tội phạm cơ bản do các nguyên nhân khách quan, nằm ngoài ý muốn.
Phạm tội chưa đạt hoàn thành là trường hợp người phạm tội cố ý thực hiện tất cả
các hành vi mà họ cho là cần thiết để đạt được mục đích mà họ dự định trước,
hành vi đã thỏa mãn các hành vi nguy hiếm được mô tả trong cấu thành tội phạm
nhưng do nguyên nhân ngoài ý muốn mà hậu quả của tội phạm chưa xảy ra.
Ngoài ra, căn cứ vào nguyên nhân dẫn đến phạm tội chưa đạt thì có thể
phân thành phạm tội chưa đạt vơ hiệu và những trường hợp chưa đạt khác [10, tr.
228]. Tuy nhiên, cách phân loại này ít khi được sử dụng trong thực tiễn.
Như vậy, có thể nói, việc nghiên cứu giai đoạn phạm tội chưa đạt có ý
nghĩa quan trọng cả về mặt lý luận cũng như thực tiễn, về mặt lý luận, giúp
21
chúng ta bô sung thêm, làm rõ vê mặt lý luận những vân đê vê tội phạm chua
hoàn thành để từ đó có thể đưa ra một mơ hình lý luận hoàn chỉnh về chế định
này. về mặt thực tiễn, nghiên cứu chế định phạm tội chưa đạt giúp cho những
người làm cơng tác áp dụng pháp luật có thể đánh giá mức độ thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội đế áp dụng pháp luật một cách chính xác, bảo đảm truy tố,
xét xử đúng người đúng tội và phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của
hành vi phạm tội. Ngoài ra, việc nghiên cứu chế định phạm tội chưa đạt, giúp ích
rất nhiều trong nhiệm vụ đấu tranh phòng chống tội phạm, ngăn ngừa việc xảy ra
các tội phạm nguy hiểm.
1.3.2. Các hình thức của hành vi phạm tội chưa đạt
Căn cứ vào mặt chủ quan của tội phạm thường gặp trong thực tiễn áp dụng
pháp luật hình sự, có các trường hợp phạm tội chưa đạt sau:
1) Phạm tội chưa đạt với lỗi cố ý khơng xác định, trong đó cãn cứ vào hậu
quả thực tế đà xảy ra đến đâu thì phải chịu TNHS đến đó, vi hậu quả xảy ra dù
đến mức độ nào cũng là do sự cố ý của người phạm tội mong muốn đạt được.
Đây là trường hợp phổ biến nhất.
Ví dụ: c lẻn vào nhà của chị X là hàng xóm với mục đích trộm cắp tài sản.
Do bị chị X phát hiện nên đã ôm, giữ, khống chế chị X khơng cho X chạy ra
ngồi báo tin. Đồng thời, c sử dụng tay lục tìm kiếm tài sản (tiền mặt) trong túi
trên người của X. Tuy nhiên, khi chưa kịp lấy tài sản thì bị phát hiện và bắt quả
tang. Trong trường hợp này, c vẫn phải chịu trách nhiệm về hành vi Cướp tài
sản.
2) Phạm tội chưa đạt với lỗi cố ý xác định (lựa chọn), trong đó TNHS chỉ
có thể có khi nào người phạm tội gây nên hậu quả ít nghiêm trọng hơn trong số
hai (hay nhiều hơn) hậu quả do người này mong muốn đạt được.
22