LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận vãn là công trình nghiên cứu của riêng tơi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, vỉ dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chỉnh xác,
tin cậy và trung thực. Tơi đã hồn thành tất cả các mơn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tơi có thê
bảo vệ Luận vãn.
Tôi xin chăn thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Trương Anh Minh
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
LỜI CAM ĐOAN............................................................................................... i
DANH MỤC CÁC TÙ VIẾT TẮT................................................................ iv
DANH MỤC CÁC BẢNG................................................................................ V
MỞ ĐẦU.............................................................................................................1
~
X
X
X
X
~
r
X
Chưong l.MỘT sõ VÁN ĐẼ CHUNG VÊ TỘI LỢI DỤNG CÁC QUYÊN
Tự DO DÂN CHỦ XÂM PHẠM LỢI ÍCH CỦA NHÀ NƯỚC, QUYỀN,
LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA TỔ CHỨC, CÁ NHÂN TRONG LUẬT HÌNH
sự VIỆT NAM.................................................................................................. 9
1.1. Khái niệm, đặc điểm của tội lợi dụng các quyền tự do, dân chủ xâm phạm
lợi ích của Nhà nước, quyền lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân................. 9
1.2. Khái quát lịch sử lập pháp liên quan đến quy định của pháp luật hình sự
Việt Nam về tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà
nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân......................................... 17
1.3. Tội lợi dụng các quyền tự do, dân chủ xâm phạm lợi ích của nhà nước,
quyền, lợi ích họp pháp của tổ chức, cá nhân trong pháp luật hình sự một số
nước trên thế giới.............................................................................................. 20
KÉT LUẬN CHƯONG 1.............................................................................. 24
Chương 2 QUY ĐỊNH VỀ TỘI LỢI DỤNG CÁC QUYỀN Tự DO DÂN
CHỦ XÂM PHẠM LỢI ÍCH CỦA NHÀ NƯỚC, QUYÈN, LỢI ÍCH
HỢP PHÁP CỦA TỔ CHỨC, CÁ NHÂN TRONG Bộ LUẬT HÌNH sụ
2015 VÀ THỰC TIỄN XÉT xử................................................................... 26
X
r
2.1. Các dâu hiệu định tội và định khung cùa tội lợi dụng các quyên tự do dân
chủ xâm phạm lợi ích của nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tố chức, cá
nhân theo Bộ luật Hình sự 2015......................................................................... 26
• •
11
2.2. Phân biệt Tội lợi dụng các quyên tự do, dân chủ xâm phạm lợi ích cùa
Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân với một số tội phạm
khác trong luật hình sự Việt Nam...................................................................... 33
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2...............................................................................55
Chương 3. MỘT SÓ YÊU CẢU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU
QUẢ ÁP DỤNG.............................................................................................. 57
3.1. Một số yêu cầu nâng cao hiệu quả áp dụng............................................... 57
3.2. Một sổ giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng............................................. 61
KÉT LUẬN CHƯƠNG 3................................................................................71
KẾT LUẬN...................................................................................................... 73
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................... 76
111
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẤT
BLHS
: Bơ• lt
• Hình sư•
TNHS
: Trách nhiêm
• hình sư•
XHCN
: Xã hội chủ nghĩa
VKSND
: Viên
• Kiểm sát nhân dân
IV
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Sô liệu xét xử sơ thâm tội lợi dụng các quyên tự do dân chủ xâm
phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân từ
năm 2015 đến năm 2019.................................................................................... 42
Bảng 2.2. Tỷ lệ (%) sổ vụ án và số bị cáo của tội lợi dụng các quyền tự do dân
chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá
nhân với nhóm tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính................................ 43
r
y
r
9
Bảng 2.3. Sơ liệu vê hình phạt do Tịa án xét xử câp sơ thâm tuyên phạt các bị
cáo về tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước,
quyền, lợi ích họp pháp của tổ chức, cá nhân từ năm 2015 đến năm 2019.... 43
V
MỎ ĐẦU
1. Tính câp thiêt của đê tài
Quyền con người nói chung và các quyền tự do, dân chủ nói riêng là
giá trị phố qt được cơng nhận trên tồn thế giới với lịch sử hình thành lâu
đời và khơng hề bằng phẳng. Sau Chiến tranh thế giới thứ II, các quyền tự do,
dân chủ đã được thừa nhận trong các văn kiện quan trọng như Hiến chương
Liên hợp quốc (24/10/1945), Tun ngơn tồn thế giới về quyền con người
(10/12/1948) và Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị và Cơng ước
quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa (1966). Ờ Việt Nam, ngay từ
Hiến pháp 1946, Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hịa đã quy định cơng dân
Việt Nam có quyền tự do ngôn luận, tự do xuất bản, tự do tổ chức và hội
họp,... Các quyền tự do dân chủ tiếp tục được ghi nhận trong các bản Hiến
pháp tiếp theo: Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980, Hiến pháp 1992 và Hiến
pháp 2013. Hiến pháp 2013 đã quy định mọi người đều có quyền tự do tín
ngưỡng, tơn giáo; cơng dân có quyền tự do đi lại và cư trú, quyền tự do ngơn
luận, tự do báo chí, tiếp cận thơng tin, hội họp, lập hội, biểu tình, quyền tham
gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan
nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước,... Các văn bản quy
phạm pháp luật cũng đã cụ thể hóa các quy định trong Hiến pháp để đưa các
quy định này vào thực tiễn cuộc sống như: Luật Tín ngưỡng, Tơn giáo 2016;
Luật Báo chí 2016; Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và bầu cử đại biểu Hội
đồng nhân dân 2015,...
Cùng với việc khẳng định và ghi nhận các quyền tự do dân chú, để bão
vệ lợi ích của cộng đồng, nhà nước ta cũng đặt ra các giới hạn trong việc thực
hiện các quyền tự do dân chủ. Theo Khoản 4 Điều 15 Hiến pháp 2013: “Việc
thực hiện quyền con người, quyền công dân không được xâm phạm lợi ích
I
quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.” Việc này cũng
phù họp với thông lệ quốc tế, theo Khoản 2 Điều 29 Tuyên ngôn quốc tế về
nhân quyền 1948: “Trong khi thực hiện những quyền tự do của mình, ai cũng
phải chịu những giới hạn do luật pháp đặt ra để những quyền tự do của người
khác cũng được thừa nhận và tôn trọng, những địi hỏi chính đáng về đạo lý,
trật tự cơng cộng và an lạc chung trong một xã hội dân chủ cũng được thỏa
mãn.” Trong thời gian qua, rất nhiều đối tượng đã lợi dụng các quyền tự do
dân chủ để xâm phạm đến quyền và lợi ích chính đáng của cá nhân, tổ chức
trong xã hội. Có thể kể đến một số hành vi điển hình như lợi dụng quyền tự
do ngôn luận để viết, đăng tải và chia sẻ bài viết, hình ảnh có nội dung xun
tạc các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; xúc phạm
Đảng, Nhà nước, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; đăng
tải các bài viết có nội dung kêu gọi người dân tham gia biểu tình trái pháp
luật... Những hành vi này đã và đang tạo ra những ảnh hưởng tiêu cực đến uy
tín và vai trò lãnh đạo của Đảng, hoạt động quản lý của các cơ quan nhà
nước,... Do đó, hành vi lợi dụng quyền tự do, dân chủ xâm phạm lợi ích Nhà
nước, quyền, lợi ích họp pháp của tổ chức cá nhân là nguy hiếm cho xã hội,
cần được ngăn chặn và xử lý kịp thời. Bên cạnh đó, cùng với sự phát triển của
công nghệ thông tin, mạng xã hội, các trang chia sẻ trực tuyến,... tính chất
nguy hiểm của những hành vi này ngày càng gia tăng.
Trên bình diện khoa học luật hình sự, nhiều vấn đề lý luận liên quan
đến việc xác định các quyền tự do, dân chủ; hành vi lợi dụng các quyền tự do,
dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức,
cá nhân; việc quy định hành vi này trong BLHS cũng như vấn đề trách nhiệm
hình sự chưa được quan tâm, giải quyết thòa đáng. Trên thực tế, hiện tình tiết
định khung “gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự” quy định tại khoản 2
Điều 331 BLHS 2015 (sữa đổi, bổ sung năm 2017) chưa được hướng dẫn cụ
thể dẫn đến nhiều cách hiểu và áp dụng khác nhau trên thực tế. Ngoài ra, việc
2
phân định giữa hành vi lợi dụng các quyên tự do, dân chủ xâm phạm lợi ích
Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức cá nhân với các hành vi có
nhiều điếm tương đồng trong một số tội phạm khác như tội làm, tàng trừ, phát
tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (Điều 111 BLHS 2015), tội phá hoại
chính sách đồn kết (Điều 116 BLHS 2015) cũng gặp nhiều khó khăn, cần có
nghiên cứu chuyên sau về vấn đề này.
Vì những lý do kể trên, học viên đã lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Tội
lọi dụng các quyền tự do dân chií xâm phạm lọi ích của Nhà nước,
quyền, lọi ích hợp pháp tổ chức, cá nhân trong luật hình sự Việt Nam”
làm luận văn thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cún
Tội lợi dụng các quyền tự do, dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước,
quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân đã được nghiên cứu trong một số
giáo trình giảng dạy, sách bình luận khoa học BLHS như: Giảo trình luật hình
sự Việt Nam (Phần các tội phạm - Quyển 2), do GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa
chủ biên, NXB. Công an nhân dân, Hà Nội, 2019; Giáo trình luật hình sự Việt
Nam (Phần các tội phạm - Quyển 2), do Đại học Luật Thành phố Hồ Chí
Minh biên soạn, NXB. Hồng Đức, Hồ Chí Minh, 2016; Bình luận khoa học
Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) do TS. Trần Văn
Biên và TS. Đinh Thế Hưng đồng chủ biên, NXB. Hồng Đức, tháng 8/2017;
Bình luận khoa học Phần các tội phạm Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa
9
•
9
9
9
9
9
z
•
đơi, bơ sung năm 2017 do Luật gia Nguyễn Ngọc Điệp, NXB. Thế giới, tháng
12/2017; Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đôi, bô sung
năm 2017 (phần các tội phạm) quyên 2, do GS.TS Nguyễn Ngọc Hòa chủ
biên, NXB Tư pháp, Hà Nội, 2018; Bình luận khoa học Bộ luật hình sự (hiện
hành) (sửa đổi, bổ sung năm 2017), do TS. Nguyền Đức Mai chủ biên, NXB.
3
Chính trị qc gia Sự thật, 2018. Các cơng trình nghiên cứu này chỉ dừng lại
ở mức độ khái quát, phân tích các vấn đề lý luận cơ bản, đưa ra một số dấu
hiệu pháp lý đặc trung của tội lợi dụng các quyền tự do, dân chù xâm phạm
lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân; chưa đưa
ra được nghiên cứu tống thể về những vấn đề lý luận, lịch sử hình thành và
phát triển quy định pháp luật, phân tích thực tiễn áp dụng và đề ra những kiến
nghị hoàn thiện về lập pháp cũng như các giải pháp nhàm nâng cao hiệu quả
áp dụng quy định của BLHS liên quan đến tội phạm này.
Năm 2014, tác giả Bùi Xuân Hạ (Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà
Nội) trong Luận văn Thạc sĩ Luật học với đề tài Tội lợi dụng các quyền tự do
dân chủ xâm phạm lợi ích của nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức,
cơng dân trong Luật Hình sự Việt Nam đã nghiên cứu một cách khá toàn diện
về tội phạm này tuy nhiên nghiên cứu của tác giả Bùi Xuân Hạ được thực
hiện trên cơ sở BLHS 1999, ngoài ra điều kiện kinh tế - xã hội trong đó có sự
phát triển của công nghệ thông tin nên nhiều vấn đề, kết luận trong luận văn
khơng cịn phù hợp với quy định của BLHS hiện hành cũng như thực tiền áp
dụng quy định của pháp luật trên thực tế.
3. Mục
đích và nhiệm
vụ• nghiên cứu
•
•
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn có mục đích bổ sung những vấn đề lý luận, thu thập và phân
tích thực trạng áp dụng pháp luật liên quan dến tội lợi dụng các quyền tự do,
dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tố chức,
cá nhân. Trên cơ sở đó đề xuất những nội dung cụ thể nhằm hoàn thiện các
quy định pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của BLHS đối với
tội phạm này.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực
hiện
mục
đích trên,X luận
văn đặt
ra các nhiệm
vụ• nghiên
cứu sau:
•
•
•
•
•
•
4^2
4
- Làm sáng tỏ khái niệm, đặc điêm của tội lợi dụng các quyên tự do dân chủ
xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích họp pháp của tổ chức, cá nhân;
- Làm sáng tỏ thực trạng pháp luật và thực tiễn xét xử tội lợi dụng các
quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp
của tổ chức, cá nhân;
- Tìm ra một số hạn chế, bất cập cũng như nguyên nhân của những hạn
chế, bất cập này trong thực tiễn xét xử đối với tội lợi dụng các quyền tự do
dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức,
cá nhân trên địa bàn toàn quốc.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cún
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là tội lợi dụng các quyền tự do dân
chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích họp pháp của tổ chức, cá
nhân quy định trong Bộ luật Hình sự 2015.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về tội lợi dụng
các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp
pháp của tổ chức, cá nhân dưới góc độ pháp lý hình sự. Đồng thời phân tích
thực tiễn xét xử với loại tội phạm này trên địa bàn toàn quốc trong thời gian
từ năm 2015 đến 2019.
5. Phương pháp luận và phưong pháp nghiên cứu
Việc nghiên cứu luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận
của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tường Hồ Chí Minh, quan điếm của Đảng và
Nhà nước về đấu tranh, phịng chống tội phạm, chính sách hình sự đối với tội
lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi
ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân cũng như thành tựu của các ngành khoa
học pháp lý như: lý luận chung về nhà nước pháp luật, luật hình sự, tội phạm
học,...
5
Luận văn sử dụng kêt họp các phương pháp nghiên cứu: lịch sử, thơng
kê, logic, so sánh, phân tích, tổng hợp để lập luận, làm sáng tỏ những luận
chứng, quan điểm khoa học về vấn đề nghiên cứu. Phân tích các văn bân quy
phạm pháp luật của Nhà nước có liên quan, những số liệu thống kê, tổng kết
hàng năm trong các báo cáo của Tòa án nhân dân tối cao liên quan đến tội lợi
dụng các quyền tự do, dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích
hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Tham khảo ý kiến một số chuyên gia, nhà
khoa học nghiên cứu và giảng dạy trong lĩnh vực pháp luật hình sự, tham
khảo các cơng trình trong và ngồi nước về vấn đề nghiên cứu.
6. Những đóng góp mói về mặt khoa học của luận văn
Đây là cơng trình chun khảo trong khoa học luật hình sự Việt Nam
nghiên cứu một cách có hệ thống và có tính đồng bộ những vấn đề lý luận và
thực tiễn về tội lợi dụng các quyền tự do, dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà
nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân ở cấp một một luận văn
thạc sĩ luật học. Luận văn có những đóng góp mới sau:
- Làm sáng tỏ những nội dung về lý luận đối với tội lợi dụng các quyền
tự do, dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của
tổ chức, cá nhân: khái niệm, các dấu hiệu pháp lý đặc trưng, so sánh, phân
biệt với các loại tội phạm khác có những đặc điểm tương đồng.
- Làm rõ quá trình hình thành và phát triển của pháp luật hình sự Việt
Nam quy định về tội lợi dụng các quyền tự do, dân chủ xâm phạm lợi ích của
Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tố chức, cá nhân.
- Nghiên cứu những quy định cụ thể của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa
đổi, bổ sung 2017), từ đó so sánh với quy định liên quan trong luật hình sự
một sổ nước trên thế giới, từ đó đánh giá và rút ra nhận định.
- Trên cơ sở phân tích thực tiễn xét xử, luận văn đã đề xuất một số giải
pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự về tội lợi dụng các
6
quyên tự do, dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyên, lợi ích hợp
pháp của tố chức, cá nhân cũng như các giải pháp khác nhằm bảo đảm áp
dụng đúng quy định của pháp luật hình sự đối với tội phạm này trong tình
hình hiện nay.
7. Ỷ nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Ý nghĩa lý luận: kết quả nghiên cứu sẽ bổ sung, đóng góp giải quyết
một số vấn đề về mặt lý luận như: khái niệm, ý nghĩa của việc quy định tội lợi
dụng các quyền tự do, dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích
hợp pháp cùa tố chức, cá nhân.
- Ý nghĩa thực tiễn: luận văn đưa ra những giải pháp hoàn thiện các quy
định của pháp luật hình sự và các giải pháp khác nhằm nâng cao hiệu quả áp
dụng các quy định của pháp luật hình sự đối với tội lợi dụng các quyền tự do,
dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích họp pháp của tố chức,
cá nhân.
Ngồi ra, luận văn cịn là tài liệu tham khảo có giá trị cho cơng tác
nghiên cửu, giảng dạy pháp luật hình sự về tội lợi dụng các quyền tự do, dân
chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích họp pháp của tổ chức, cá
nhân; làm tài liệu nghiên cửu cho các cơ quan lập pháp trong hoạt động xây
dựng, pháp điển hóa pháp luật hình sự, người tiến hành tố tụng trong thực tiễn
điều tra, truy tố, xét xử đối với loại tội phạm này.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
cùa luận văn gồm 3 chương. Cụ thể:
Chương 1. Một số vấn đề chung về tội lợi dụng các quyền tự do dân
chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích họp pháp của tổ chức, cá
nhân trong luật hình sự Việt Nam
7
Chương 2. Quy định vê tội lợi dụng các quyên tự do dân chủ xâm phạm
9
>
__
lợi ích cùa Nhà nước, qun, lợi ích hợp pháp của tơ chức, cá nhân trong Bộ
luật hình sự 2015 và thực tiễn xét xử
Chương 3. Một sô giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định của Bộ
luật hình sự 2015 đối với tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi
ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tố chức, cá nhân
8
Chuông 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI LỢI DỤNG CÁC QUYỀN Tự DO
DÂN CHỦ XÂM PHẠM LỢI ÍCH CỦA NHÀ NƯỚC, QUYỀN,
LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA TƠ CHỨC, CÁ NHÃN TRONG
LUẬT HÌNH SỤ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm, đặc điểm của tội lọi dụng các quyền tự do, dân chủ xâm
phạm lọi ích của Nhà nước, quyền lợi ích họp pháp của tổ chức, cá nhân
Khái niệm tự do trong triết học được xem là một giá trị cao quý, cơ bản
của nhân loại. Theo nhà triết học John Locke (1632-1704) “Tự do là khả
năng con người có thế làm bất cứ điều gì mà mình mong muốn mà khơng gặp
bất kỳ cản trở nào". Như vậy tự do ở đây chỉ là khả năng của con người. Còn
nhà triết học G.w Friedrich Hegel (1770-1831) thì cho rằng: “Tự do là cái tất
yếu được nhận thức”. Như vậy, ở đây tự do không chỉ là nhận thức mà cả ở
hành động. Tuy nhiên, theo Hegel, muốn có tự do thì trước hết phải nhận thức
được cái tất yếu, cái quy luật. Người ta nhận thức được quy luật đến đâu thì
hành động tự do được bảo đảm đến đấy.
Các tác giả Nguyễn Ngọc Hà, Trần Thị Bích Huệ trong bài viết “Tính
tương đối của tự do” đăng trên tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 03 2018 đưa ra quan điểm: “Tự do là một thuộc tính đặc biệt chỉ có ở con người
có ý thức. Người tự do có khả năng tự lựa chọn để làm hay khơng làm một
việc nào đó theo ý thích của mình mà không bị ép buộc bởi người khác; người
không tự do (hay người nơ lệ) khơng có khả năng như vậy. Tự do là một giá
trị cao quý, là mục tiêu và động lực của sự phát triển xã hội. Tuy nhiên, tự do
có tính tương đối. Con người càng nhận thức được nhiều tính tất yếu của tự
nhiên, và càng ít bị sự cưỡng bức bởi người khác, thì càng có nhiều tự do. Khi
cịn nhà nước và pháp luật, một số người khơng cỏ tự do vì bắt buộc phải thực
9
hiện pháp luật một cách không tự nguyện. Khi nhà nước và pháp luật mât đi
thì tự do của mồi người mới là điều kiện cho tự do của tất cả mọi người.
Nhung ngay cả khi nhà nước và pháp luật mất đi, mồi người vẫn khơng có tự
do hồn tồn vì vẫn phải từ bở tự nguyện một phần ý thích riêng để tuân theo
các quy tắc đạo đức của xã hội. Con người khơng bao giờ có tự do tuyệt đối.”
Theo Từ điển tiếng Việt, khái niệm “tự do” ở dạng từ loại danh từ được
hiểu theo các nghĩa sau: (1) Là phạm trù triết học chỉ khả năng biểu hiện ý
chí, làm theo ý muốn của mình trên cơ sờ nhận thức được quy luật phát triển
của tự nhiên và xã hội. (2) Trạng thái một dân tộc, một xã hội và các thành
viên không bị cấm đốn, hạn chế vơ lí trong các hoạt động xã hội - chính trị.
(3) Trạng thái khơng bị giam cầm hoặc không bị làm nô lệ. (4) Trạng thái
không bị cấm đốn, hạn chế vơ lý trong việc làm nào đó. Ớ dạng từ loại tính
từ, khái niệm “tự do” được hiểu theo các nghĩa: (1) Có các quyền tự do về xã
hội - chính trị. (2) Khơng bị lực lượng ngoại xâm chiếm đóng. (3) Khơng bị
cấm đốn, hạn chế vơ lí trong việc làm cụ thế nào đó. (4) Khơng có những sự
ràng buộc, hạn chế về những mặt nào đó, đối lập với những trường họp thơng
thường khác. [28, tr. 1375]
Như vậy, có thê hiêu “tự do ’’là khả năng con người được làm theo ỷ
muon của bản thân mình; khơng phụ thuộc vào mong muon và ỷ chỉ của
người khác.
Cùng với “tự do”, “dân chủ” cũng là một khái niệm có lịch sử phát
triển lâu đời. Thuật ngữ “dân chủ” theo Anh ngữ là Democracy (thuật ngữ
được ghép bởi hai từ Demos và Cratia) nghĩa là quyền lực đám đông. Được
tạo nên bởi những người Hy Lạp tại thành Athens cổ đại để mô tả hệ thống tự
trị thành bang của họ vào thế kỷ thứ V trước Công nguyên. “Dân chủ” đã trải
qua những thăng trầm thời Trung cổ và tiếp tục được các học giả tư sản
nghiên cứu và khẳng định tính đúng đắn của mình. John Loke (1632 - 1704)
10
cho rằng: “Dầu rằng quyền lực lập pháp được đặt trong tay một người hay
nhiều người... nó khơng thể độc đốn với tính mạng và tài sản của dân chúng.
Quyền lực này chính là quyền mà dân chúng trao gửi cho các nhà làm luật.
Quyền đó khơng thề lớn hơn quyền vốn có của dân chúng.” Jacques Russeau
(1712 - 1778), một triết gia lớn của nền dân chủ tư sản Pháp đã nói: “Con
người sinh ra, bẩm sinh có quyền tự do nhưng ở đâu cũng đều mất tự do, và vì
quyền tự do ấy, các nhà nước mới ra đời, mọi cá nhân đều muốn được tôn
trọng và thừa nhận vị thế của họ như là một sinh mệnh có quyền quyết định.
Dân chủ từ trong lịch sử, trên phương diện học thuật, được hiểu như quyền
lực của “đám đông dân chúng” [3, tr. 77]. về dân chù, Chủ tịch Hồ Chí Minh
cũng có quan điểm độc đáo khi cho rằng: “Nước ta là một nước dân chủ, bao
nhiêu lợi ích là vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều là của dân, chính quyền từ xã
đến Chính phủ trung ương đều do dân cử ra.” [14, tr. 563]. Theo Từ điển tiếng
Việt, khái niệm “dân chủ” ở dạng từ loại tính từ được hiểu theo các nghĩa: (1)
Có tính chất của chế độ dân chủ, nhằm thực hiện chế độ dân chủ. (2) (Phương
thức công tác) tôn trọng và thực hiện quyền mọi người tham gia bàn bạc và
quyết định các công việc chung. Ở dạng loại danh từ được hiểu theo nghĩa:
Chế độ dân chủ hoặc quyền dân chủ. [28, tr. 324]
Như vậy, một cách chung nhất có thể hiểu “dân chủ ” là trạng thái xã
hội mà trong đó mọi quyền lực nhà nước thuộc về nhản dãn, xuất phát từ
nhân dân; hoạt động vì lợi ích của nhân dãn.
Liên quan đến quyền tự do, dân chủ và giới hạn của quyền này, trong
cuốn Bàn về Tinh thần pháp luật, Moutesquieu đã viết:
Thực ra trong các nước dân chủ, nhân dân có vẻ làm được mọi điều
mình muốn. Nhưng tự do chính trị tuyệt đối khơng phải muốn làm gì thì làm.
Trong một nước có luật pháp, tự do chỉ là có thể là được làm những cái nên
làm và không bị ép buộc làm những điều không nên làm. cần ghi nhớ thế nào
11
là độc lập và thê nào là tự do. Tự do là quyên làm tât cả những điêu mà luật
pháp cho phép. Nếu cơng dân làm điều trái luật thì anh ta khơng cịn được tự
do nữa, vì nếu anh ta tự do làm thì mọi người đều được làm trái luật cả. [13,
tr. 135, 136]
Theo Từ điển Luật học, “Quyền” là khái niệm khoa học pháp lý để chỉ
nhũng điều mà pháp luật công nhận và đảm bảo thực hiện đối với cá nhân, tố
chức để theo đó cá nhân được hưởng, được làm, được địi hỏi mà khơng ai
được ngăn cản, hạn chế. Dấu hiệu đặc trưng thứ nhất của quyền là phải cỏ sự
ghi nhận về mặt pháp lí và được bảo đảm thực hiện bởi các quy định pháp
luật; thứ hai là phải có sự thừa nhận về mặt xã hội, gắn liền với chủ thề cá
nhân, được cụ thể trong thực tế đời sống thông qua các quan hệ xã hội cụ thể
của cá nhân trong một cộng đồng nhất định. Theo đó, quyền của cá nhân được
phát sinh, tăng hay giảm tùy theo từng thời điểm của quá trình tồn tại và phát
triển của xã hội. Quyền phải gắn với phạm vi quyền, nghĩa vụ và năng lực của
cá nhân và phải chịu tác động trong phạm vi giới hạn của pháp luật hay vùng
lãnh thổ nhất định. [17, tr.648]. Ở nước ta hiện nay, quyền tự do, dân chủ
được thể chế hóa tại Hiến pháp và các đạo luật như Luật báo chí 2016; Luật
tín ngưỡng, tơn giáo 2016, Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội
đồng nhân dân 2015,...Theo các văn bản này, quyền tự do, dân chủ có thể
chia thành các nhóm như sau: (1) Nhóm quyền tự do cá nhân: quyền tự do
ngôn luận, tự do báo chí; quyền tự do lập hội, biểu tình theo quy định pháp
luật; quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo; quyền tự do đi lại và cư trú,... (2)
Nhóm quyền dân chủ về về chính trị: quyền bầu cử, ứng cử vào Quốc hội và
Hội đồng nhân dân; quyền khiếu nại, tố cáo,... (3) Nhóm quyền tự do, dân
chủ về kinh tể, văn hóa, xã hội: quyền làm việc, lựa chọn nghề nghiệp, việc
làm và nơi làm việc; thành lập và gia nhập cơng đồn; tự do kinh doanh,...
Như vậy, quyền tự do, dân chủ là những quyền được pháp luật thừa
12
nhận và đảm bảo đê con người được làm theo ỷ muôn và nhu câu của bản
thân, đê công dân được làm chủ quyền lực Nhà nước, đồng thời các quyền
này ln có các giới hạn đê đảm bảo việc hưởng dụng quyền của những
người khác, mức độ giới hạn phụ thuộc vào ỷ chỉ Nhà nước, phù hợp với hoàn
cảnh kinh tế - xã hội ở mỗi thời diêm nhất định.
Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) không đưa ra
định nghĩa riêng về tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích
của Nhà nước, quyền, lợi ích họp pháp của tổ chức, cá nhân. Trong Bộ luật
Hình sự chỉ đưa ra định nghĩa chưng về tội phạm quy định tại khoản 1 Điều 8
như sau:
"Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ
luật Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân
thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vỏ ỷ, xâm phạm độc lập, chủ quyền,
thống nhất, tồn vẹn lãnh thơ Tơ quốc, xám phạm chế độ chỉnh trị, chế độ
kinh tế, nền văn hóa, quốc phịng, an ninh, trật tự, an tồn xã hội, quyền, lợi
ích họp pháp của tô chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp
pháp của cơng dãn, xám phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã
hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lỷ hình sự.”
Đồng thời đưa ra các dấu hiệu pháp lỷ của tội lợi dụng các quyền tự do
dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức,
cá nhân tại khoản 1 Điều 331 Bộ luật Hình sự:
“ Người nào lợi dụng các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do
tín ngưỡng, tơn giáo, tự do hội họp, lập hội và các quyền tự do dân chủ khác
xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tơ chức, cá
nhãn, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc
phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.”
13
Từ quy định của Bộ luật Hình sự, ta có thê rút ra các đặc điêm của tội
phạm này như sau:
Thứ nhất, hành vi lợi dụng quyền tự do dân chù xâm phạm lợi ích của
Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân trước hết là hành vi
do con người thực hiện và có tính nguy hiểm cho xã hội. Tính nguy hiếm cho
xã hội được thể hiện ở việc hành vi này gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại
đáng kể cho các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ, trong trường hợp
này là lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp cùa tố chức, cá nhân.
Việc xác định tính nguy hiềm cho xã hội cần căn cứ vào tình hình phát
triển của xã hội và yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm trong từng thời
kỳ cụ thể. Tại Việt Nam, theo Chỉ thị số 41/2004/CT-TTg ngày 02/12/2004
của Thủ tướng Chính phủ về “tăng cường cơng tác bảo vệ, đấu tranh về nhân
quyền trong tình hình mới” nêu rõ:
Cuộc đấu tranh chống các thế lực phản động, thù nghịch lợi dụng vấn
đề dân chủ, nhân quyền còn diễn biến phức tạp và lâu dài. Trong thời gian tới,
các thế lực phản động, thù nghịch sẽ gia tăng thực hiện âm mưu “diễn biến
hịa bình”, bạo loạn lật đổ nhằm xóa bỏ vai trị lãnh đạo của Đảng và chế độ
xã hội chữ nghĩa ở nước ta, trong đó lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền, tôn
giáo, dân tộc là một trong những mũi tấn công chủ yếu. [02, tr. 61]
Thứ hai, hành vi lợi dụng quyền tự do dân chù xâm phạm lợi ích của
Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân phải được quy định
trong Bộ luật Hình sự. Điều 8 BLHS 2015, đã quy định: “Chỉ người nào hoặc
pháp nhân thương mại nào phạm một tội đã được Bộ luật hình sự quy định
mới phải chịu trách nhiệm hình sự.” Như vậy, chỉ có BLHS mới được quy
định hành vi nguy hiếm cho xã hội nào bị coi là tội phạm, khơng có văn bản
nào khác được quy định về vấn đề này. Hành vi lợi dụng các quyền tự do
ngôn luận, tự do báo chí, tự do tín ngưỡng, tơn giáo, tự do hội họp, lập hội và
14
các quyên tự do dân chủ khác xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyên, lợi ích
hợp pháp của tố chức, cá nhân đã được nhà làm luật mô tả tại Điều 331 BLHS
2015 nếu phù hợp với các điều kiện khác theo quy định của BLHS 2015 sẽ bị
coi là tội phạm.
Thứ ba, hành vi lợi dụng quyền tự do dân chù xâm phạm lợi ích của
Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tố chức, cá nhân phải do người có
năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện.
Theo Giáo trình Luật Hình sự (Phần chung) của Khoa Luật, Đại học
Quốc gia Hà Nội, năng lực TNHS đã được định nghĩa là: “khả năng của một
người ở thời điểm thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội nhận thức được
tính nguy hiểm cho xã hội cùa hành vi mà mình thực hiện và điều khiển được
hành vi đó.”[ll,tr. 186]
BLHS 2015 không quy định cụ thể năng lực trách nhiệm hình sự là gi,
mà chỉ quy định tuổi chịu trách nhiệm hình sự (Điều 12) và tình trạng khơng
có năng lực trách nhiệm hình sự (Điều 21). Từ các quy định của BLHS, ta có
thể nhận thấy một trong những điều kiện để hành vi lợi dụng các quyền tự do
ngơn luận, tự do báo chí, tự do tín ngưỡng, tôn giáo, tự do hội họp, lập hội và
các quyền tự do dân chủ khác xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích
hợp pháp của tố chức, cá nhân trở thành tội phạm là hành vi này phải do
người đạt đủ độ tuổi luật định và không ở trong tình trạng khơng có năng lực
trách nhiệm hình sự hay nói cách khác là có đủ năng lực nhận thức và điều
khiển hành vi của mình thực hiện.
Thứ tư, người thực hiện hành vi lợi dụng quyền tự do dân chủ xâm
phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân phải
có lỗi. Theo tác giả Đinh Văn Quế trong cuốn Bình luận Khoa học Bộ luật
Hình sự năm 2015 Phần thứ nhất - Những quy định chung: “Lồi là thái độ tâm
lý cùa một người hoặc một pháp nhân thương mại đối với hành vi nguy hiểm
15
cho xã hội và hậu quả cùa hành vi đó dưới hình thức cơ ý hoặc vơ ý.” [29] Lơi
là một trong những thuộc tính cơ bản của tội phạm, là yếu tố bắt buộc để hành
vi lợi dụng các quyền tự do ngơn luận, tự do báo chí, tự do tín ngưỡng, tơn
giáo, tự do hội họp, lập hội và các quyền tự do dân chủ khác xâm phạm lợi ích
của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tố chức, cá nhân trở thành tội
phạm và người thực hiện hành vi này phải chịu trách nhiệm hình sự về hành
vi do mình thực hiện. Đối với tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm
lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tố chức, cá nhân, người
phạm tội ý thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội và nhận thức
được hậu quả nguy hiểm sẽ xảy ra; mặt khác mong muốn hậu quả xảy ra hoặc
tuy không mong muốn nhưng có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra, do đó lồi
của người thực hiện hành vi này là lỗi cố ý.
Thứ năm, hành vi thỏa mãn tất cả các đặc điềm trên “phải bị xử lý hình
sự'. Đây là một điểm mới của định nghĩa tội phạm theo BLHS 2015 so với
BLHS năm 1999. Tuy không phải là một đặc điểm thuộc về bản chất của tội
phạm nhưng có mối quan hệ mật thiết với tội phạm, chỉ có hành vi phạm tội
“phải bị xử lý hình sự”, khơng có tội phạm thì cũng khơng bị xử lý hình sự.
“Phải bị xử lý hình sự” nghĩa là hành vi lợi dụng quyền tự do dân chù xâm
phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân do
tính chất nguy hiểm của mình bị đe dọa bị xử lý hình sự. Điều này khơng có
nghĩa là trong mọi trường hợp, hành vi phạm tội ln ln phải chịu biện
pháp xừ lý hình sự trong đó có hình phạt và các biện pháp tư pháp, vẫn có
những trường hợp người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự, được miễn
hình phạt, được miễn chấp hành hình phạt,... theo quy định của BLHS.
Qua phân tích các đặc điểm trên, có thể rút ra khái niệm tội lợi dụng
các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp
pháp của tồ chức, cá nhân như sau: Tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm
16
phạm lợi ích của Nhà nước, quyên, lợi ích họp pháp của tô chức, cá nhãn là
hành vi lợi dụng các quyền tự do ngôn luận, tự do bảo chỉ, tự do tín ngưỡng,
tơn giáo, tự do hội họp, lập hội và các quyền tự do dãn chủ khác xâm phạm
lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tơ chức, cá nhân; do người
đủ ti chịu
trách nhiệm
hình sự• và có năng
trách nhiệm
hình sự• cố V thực
•
•
(_? lực
•
•
•
hiện; đirợc quy định trong BLHS và phải bị xử lý hình sự.
1.2. Khái quát lịch sử lập pháp liên quan đến quy định của pháp luật
hình sự• Việt
Nam về tội
lợi
dụng
các quyền
tự• do dân chủ xâm 1phạm
lọi
•
•
•
•
CT
> V
•
•
ích của Nhà nước, quyền, lợi ích họp pháp của tố chức, cá nhân
Quá trình phát triển các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội
lợi dụng các quyền tự do dân chù xâm phạm lợi ích của nhà nước, quyền, lợi
ích hợp pháp của tố chức, cá nhân gắn liền với quá trình hình thành và phát
triển của Nhà nước và pháp luật Việt Nam từ năm 1945 đến nay. Sau khi
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được khai sinh vào năm 1945, Nhà nước
đã the hiện sự quan tâm đối với việc bảo vệ các quyền tự do dân chù của
người dân, đồng thời kiên quyết đấu tranh với việc lợi dụng các quyền này để
thực hiện hành vi chống đối Nhà nước, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp
của tổ chức, cá nhân và xã hội. Cùng với sự phát triển và hoàn thiện của Nhà
nước và pháp luật cũng như sự thay đối cùa đời sống kinh tế - xã hội, các quy
định về tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của nhà nước,
quyền, lợi ích hợp pháp của tồ chức, cá nhân ngày càng hồn thiện, góp phần
bảo vệ an ninh, trật tự an toàn xã hội, chế độ xã hội chủ nghĩa cũng như đáp
ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm.
Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước khi ban
hành Bộ luật hình sự năm 1985: Từ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, trong
điều kiện phải chống lại thù trong, giặc ngồi sau đó tiến hành hai cuộc kháng
chiến chống Pháp và chống Mỹ, Nhà nước vẫn luôn dành sự quan tâm cho
17
việc ban hành các văn bản khăng định các quyên tự do dân chủ găn liên với
các quy định để chống lại việc lợi dụng các quyền này xâm phạm lợi ích của
nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Có thể kể đến hai văn
bản tiêu biểu là: sắc lệnh số 282/SL của Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ
cộng hòa ngày 14/12/1956 kèm theo Luật về chế độ báo chí và Pháp lệnh số
5-LCT/HDDNN7 của Hội đồng Nhà nước ngày 27/11/1981 quy định việc xét
và giải quyết các khiếu nại, tổ cáo của công dân.
Sắc lệnh số 282/SL tại Điều 4 quy định: “Quyền tự do ngơn luận của
nhăn dãn trên báo chí được đảm bảo”, đồng thời cũng quy định tại Điều 9
những điều báo chí phải tuân theo để quyền tự do ngơn luận trên báo chí được
sử dụng một cách đúng đắn như: Không được tuyên truyền chống pháp luật
của Nhà nước, không được cổ động nhân dân không thi hành hoặc chống lại
những luật lệ và những đường lối chính sách cùa Nhà nước,...; không được
tuyên truyền phá hoại sự nghiệp củng cố hồ bình, thực hiện thống nhất, hồn
thành độc lập và dân chủ của nước Việt Nam, làm giảm sút tinh thần đồn
kết, ý chí phấn đấu của nhân dân và bộ đội; Không được tuyên truyền chia rẽ
dân tộc, gây thù hằn giữa nhân dân các nước, làm tổn hại tinh hữu nghị giữa
nhân dân nước ta với nhân dân các nước bạn,...; không được tiết lộ bí mật
quốc gia; khơng được tun truyền dâm ơ, trụy lạc, đồi bại. Theo Điều 13 sắc
lệnh 282/SL báo chí nào vi phạm Điều 9 sẽ bị trừng phạt như sau: “tuỳ theo
lỗi nặng nhẹ mà bị cảnh cáo, tịch thu ấn phàm, đình bản tạm thời, đình bản
vĩnh viền, hoặc bị truy tổ trước tồ án, có thể bị phạt tiền từ mười vạn đồng
(100.000 đ) đến một triệu đồng (1.000.000 đ), hoặc người chịu trách nhiệm bị
phạt tù từ một tháng đến hai năm, hoặc cả hai hình phạt đó. Nếu xét đirơng sự
phạm vào những luật lệ khác, toà án sẽ chiếu theo những luật lệ ấy mà trừng
phạt thêm.”
18
Pháp lệnh sô 5-LCT/HDDNN7 tại Điêu 1 quy định: “Công dân có quyên
khiếu nại và tổ cáo vói hất cứ cơ quan nào của Nhà nước về những việc làm trái
chính sách, pháp luật của cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, văn hoả, xã hội, và
đơn vị vũ trang nhãn dãn (dưới đây gọi tắt là cơ quan và tổ chức), hoặc của bất
cứ cá nhân nào thuộc
các cơ quan
và tơ chức đó làm thiệt
hại
đến lợi
ích của
•
Jr
•
•
•
Nhà nước, của tập thế và quyền lợi chính đáng cùa cơng dãn.” Đồng thời tại
Điều 33 quy định: “Người nào lợi dụng quyền khiếu nại và tố cáo, cố ỷ xuyên tạc
sự thật, vu cáo người khác hoặc vu cảo cơ quan, tơ chức thì tuỳ theo mức độ nhẹ
hoặc nặng mà bị phạt tù từ ba tháng đến ba năm.”
Đến năm 1985, BLHS lần đầu được ban hành tuy nhiên chưa có điều
khoản quy định về hành vi lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi
ích của nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến trước khi Bộ
luật hình sự năm 2015 được ban hành: Ngày 12/8/1991, Luật sửa đổi, bổ
sung BLHS năm 1985 đã được Quốc hội thông qua và tại khoản 14 Điều 2
Luật này làn đầu tiên quy định tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm
phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân là
một tội phạm trong BLHS Việt Nam. Điều khoản này quy định:
"Bổ sung một số điều mới như sau:
Điều 205a. Tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của
Nhà nước, của tổ chức xã hội hoặc của công dân.
Người nào lợi dụng các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tín
ngưỡng, quyền hội họp, lập hội hoặc các quyền tự do dân chủ khác xâm phạm
lợi ích của Nhà nước, của tổ chức xã hội hoặc của cơng dân, thì bị phạt cảnh cáo,
cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến ba năm".
Đen BLHS năm 1999, tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm
lợi ích của Nhà nước, của tổ chức xã hội hoặc của công dân đã được sửa đổi
và quy định tại Điều 258 BLHS năm 1999:
19
“Điêu 258. Tội lợi dụng các quyên tự do dân chủ xâm phạm lợi ích cùa
Nhà nước, quyền, lợi ích họp pháp của tố chức, công dân
1. Người nào lọi dụng các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do
tín ngưỡng, tơn giáo, tự do hội họp, lập hội và các quyền tự do dân chủ khác
xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cơng
dân, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ
sáu tháng đến ba năm.
2. Phạm tội trong trường hợp nghiêm trọng thì bị phạt tù từ hai năm đến
bảy năm.”
So với quy định tại Điều 205a Luật sửa đổi, bổ sung BLHS 1991, Điều
258 BLHS năm 1999 có một số thay đổi như sau:
- Bổ sung cụm từ "quyền, lợi ích hợp pháp” và thay đổi cụm từ "tổ
chức xã hội hoặc của công dán” thành cụm từ "tổ chức, công dãn” để làm rõ
đối tượng tội phạm xâm phạm.
- Khoản 1 Điều 258 BLHS năm 1999 cũng quy định thêm hành vi lợi
dụng quyền tự do tôn giáo trong khi Điều 205a BLHS 1985 chưa quy định rõ
hành vi lợi dụng quyền này.
- Bổ sung khoản 2 quy định khung hình phạt từ hai năm đến bảy năm với một
tình tiết là yếu tố định khung hình phạt: Phạm tội trong trường hợp nghiêm trọng.
- Sửa đổi hình phạt áp dụng: Tại Điều 205a Luật sửa đổi, bổ sung
BLHS 1991 chỉ quy định một khung hình phạt: "phạt cảnh cáo, cải tạo không
giam giữ đến hai năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến ba năm”, Điều 258
BLHS 1999 đã quy định 02 khung hình phạt: "phạt cảnh cảo, cải tạo không
giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm” và "phạt tù từ
hai năm đến bảy năm”.
1.3. Tội lợi dụng các quyền tự do, dân chủ xâm phạm lợi ích của nhà
nước, quyền, lại ích họp pháp của tổ chức, cá nhân trong pháp luật hình
sự một số nước trên thế giói
Bộ luật Hình sự Liên bang Nga: Qua nghiên cứu Bộ luật Hình sự Liên
20