Tải bản đầy đủ (.pdf) (74 trang)

Tội làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người theo luật hình sự việt nam (trên cơ sở thực tiễn địa bàn thành phố hải phòng) (luận văn thạc sỹ luật học)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (17 MB, 74 trang )

MỤC LỤC
Trang

Trang phụ bìa
Lời cam đoan

Mục lục
Danh mục từ viết tắt

MỞ ĐẦU............................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: QUY ĐỊNH VÀ MỘT SỐ VÁN ĐÈ LÍ LUẬN CỦA
_____ X ___

_ _

~ __ ____ V_ ___________ , _ ___ ____

_

X

__

__ __

X

_

ZS.


PHÁP LUẬT HÌNH SỤ VIỆT NAM VẼ TỘI LẢM LẢY LAN
DỊCH BỆNH TRUYỀN NHIỄM NGUY HIỀM CHO NGƯỜI.... 9

1.1.

Quy định của pháp luật Việt Nam về tội làm lây lan dịch

bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người.......................................... 9
1.1.1.

Quy định của pháp luật Việt Nam thời kỳ phong kiến.......................... 9

1.1.2.

Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam trong BLHS 1985,
1999, 2015 về tội làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm

cho người................................................................................................ 12
1.2.

Một số vấn đề lý luận cùa tội làm lây lan dịch bệnh truyền

nhiễm nguy hiểm cho người................................................................ 15

1.3.

Tội làm lây lan dịch bệnh nguy hiếm cho người trong pháp
luật
hình sự• một
số nước trên thế <-7giói............................................. 26




1.3.1.

Pháp luật hình sự Liên BangNga.......................................................... 26

1.3.2.

Pháp luật hình sự Hy Lạp...................................................................... 27

1.3.3.

Pháp luật hình sự Nhật Bản.................................................................. 28

1.4.

Trách nhiệm
hình sự
của tội
làm lâylan dịch bệnh truyền




nhiêm nguy hiêm cho người theo quy định tại Điêu 240 BLHS.... 31
1.5.

Phân biệt tội làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm


cho người với tội phạm khác..............................................................34


1.5.1.

Phân biệt tội làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho

người với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác (Điều 134 BLHS 2015).............................................. 34

1.5.2.

Phân biệt tội làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho

người với tội vi phạm về quy định lao động, vệ sinh lao động, về
an tồn ở những nơi đơng người (Điều 295 BLHS 2015).................. 37

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1................................................................................... 41
CHƯƠNG 2: THỤC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH sụ

VÊ TỘI LÀM LẢY LAN DỊCH BỆNH TRUN NHIÊM
NGUY HIẾM NGƯỜI TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHĨ HẢI

PHỊNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ................................................ 43

2.1.

Thực trạng áp dụng quy định pháp luật hình sự về tội làm


lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiếm cho người trên địa
bàn thành phố Hăi Phịng................................................................... 43

2.2.

Một sổ kiến nghị về hồn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng

pháp luật hình sự về tội làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm
nguy hiểm cho người............................................................................52

2.2.1.

Một số kiến nghị về hoàn thiện pháp luật về tội làm lây lan dịch

bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người............................................ 52
2.2.2.

Giãi pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về tội làm lây lan
dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiếm cho người....................................58

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2................................................................................... 63
KẾT LUẬN.........................................................................................................65

DANH MỤC
• TÀI LIỆU
• THAM KHẢO....................................................... 68


DANH MỤC TỪ VIẾT TẲT


BLHS:

Bơ• lt
• hình sư•

CSĐT:

Cảnh sát điều tra

UBND:

ủy ban nhân dân


MỞ ĐẦU
1. Tính câp thiêt của đê tài nghiên cứu
Hiện nay, tồn cầu hóa, hội nhập hóa quốc tế đang diễn ra rất nhanh

mang lại rất nhiều lợi ích cho con người và cũng là sự phát triển tất yếu của

xã hội. Bên cạnh những ưu điểm đó, nó cũng mang đến những nhược điểm

ảnh hưởng nặng nề đến môi trường sống của chúng ta như hiện tượng nóng
lên tồn cầu kéo theo đó là một
đe dọa
• chuỗi các thiên tai và dịch
• bệnh

• trực


tiếp đến cuộc sổng con người. Các dịch bệnh mới, nhiều bệnh từ động vật
hoang dã truyền cho con người ngày càng trở nên nguy hiểm và đáng sợ hơn

bao giờ hết, có nguy cơ tử vong cao như dịch bệnh Ebola, MERS - CoV,
SARS - CoV và các biến thể của chúng.

Nguyên nhân khách quan đến từ môi trường tự nhiên đã khiến cho dịch

bệnh truyền nhiễm ngày càng trở nên nguyên hiểm. Đó là sự biến đổi liên tục
của vi sinh vật, vi-rút gây bệnh do sự biến đồi của khí hậu, q trình đơ thị

hóa, điều kiện vệ sinh mơi trường, sự di dân, dẫn đến xâm nhập, biến thể về

cơ cấu của các bệnh truyền nhiễm. Chính hành động cùa con người phá hoại
môi trường thiên nhiên, xâm phạm, phá hủy môi trường sống của các loài

động vật hoang dã cũng mà một phần nguyên nhân dẫn đến các dịch bệnh
truyền nhiễm lây lan. Bên cạnh đó, nguyên nhân chủ quan khiến cho dịch

bệnh lây lan mạnh mẽ giữa các quốc gia, lãnh thổ là do sự tự do giao lưu, trao
đối của công dân giữa các nước và sự hệ thống giao thơng đi lại thuận tiện,
nhanh chóng giữa các nước ở hầu hết các khu vực trên thế giới. Và một phần

nguyên nhân cũng đến từ ý thức chủ quan của một số bộ phận công dân

không tuân thủ quy định phịng dịch. Theo đó, cơng tác phịng chống dịch

bệnh địi hỏi phái có sự chặt chẽ giữa các liên ngành, liên quốc gia trong việc
phòng chống dịch bênh.


1


Do vậy, các biện pháp phịng chơng dịch bệnh ln phải cập nhật, băt

kịp với sự biến thể, lây lan nhanh chóng cùa dịch bệnh. Một trong các biện
pháp hiệu quả, tác động vào chính ý thức chủ quan của người dân đó là các

quy định của pháp luật về phịng chống dịch bệnh.
Trên nhu cầu đó, Bộ luật hình sự Việt Nam 2015 đã là một công cụ sắc
bén, có những biện pháp ngăn chặn ngay từ lúc đầu đối với những tội phạm

đưa nguồn bệnh vào nước ta. Các nhà làm luật đã xây dựng Điều 240 Bộ luật
hình sự đã đi sát được vào trọng tâm của loại tội phạm. Tuy nhiên, do sự thay
đổi môi trường sống khách quan xung quanh, sự biến đổi gen, biến đổi cơ chế

lây lan của các loại vi-rút gây bệnh nên đã có thể tạo ra nhiều lồ hổng trong
việc xử lý nhiều hành vi liên quan đến các loại dịch bệnh này, và pháp luật

cũng chưa có những quy định cụ thể để bắt kịp với những sự thay đổi tự nhiên
đó. Trước yêu cầu của thực tế, nhằm thực hiện tốt đảm bảo trong cơng tác

phịng, chống dịch và ngăn ngừa các loại tội phạm này một cách hiệu quả khi
dịch bệnh vẫn cịn đang diễn ra vơ cùng phức tạp, ảnh hưởng trực tiếp tới sức

khỏe con người, kinh tế, xã hội...

Từ những điều phân tích ở trên, học viên đã quyết định chọn đề tài

“7ợi làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người theo luật

hình sự Việt Nam (trên cơ sở thực tiễn địa bàn thành phố Hải Phịng)” để

làm đề tài hồn thiện luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu

Đã có nhiều những bài viết, bài nghiên cứu, các tài liệu tham khảo đã

đề cập tới tội làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người như
sau: Giáo trình “Tội phạm học” của PGS. Trịnh Tiến Việt và TS Nguyễn

Khắc Hải đồng chủ biên. “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về các tội làm

lây lan dịch bệnh nguy hiểm cho người, động vật, thực vật trong luật hình sự

Việt Nam” của luận văn thạc sĩ Trần Thị Kim Thanh. Bàn về tội “Làm lây lan

2


dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người” của Ths Nguyễn Văn Dũng
(Tòa án nhân dân Tam Kỳ, Quảng Nam). “Tội làm lây lan dịch bệnh truyền

nhiễm nguy hiêm cho người” của Đại úy, Ths Ngọ Duy Thi - Khoa Luật Học viện Cảnh sát nhân dân. “Những điếm mới, những bất cập của quy định
về tội làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người trong Bộ luật

hình sự 2015”. Tác giả Đào Phương Thanh. “Phân tích các vấn đề liên quan
đến dịch bệnh” của tác giả Minh Tiến. Tìm hiểu nội dung về “Tội làm lây lan

dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người tại điều 240 Bộ luật hĩnh sự
2015” của đồng tác giả cán bộ, chiến sĩ cơng an tỉnh Quảng Bình ....

Tuy nhiên do tình hình dịch bệnh Covid 19 đang diễn ra những năm

gần đây đã gây ra nhiều những diễn biến khó lường, vơ cùng phức tạp với rất
nhiều các biến chùng mới làm cho các tội phạm liên quan đến tội này vẫn bị

áp dụng thi hành luật một cách chồng chéo, gây khó khăn trong việc xử lý,
răn đe sao cho hiệu quả nhất. Qua tìm hiểu của học viên bằng nhiều nguồn

kênh khác nhau thì đã có 2 bài nghiên cứu khoa học trước đó về vấn đề này.
Thứ nhất là bài nghiên cứu khoa học cấp độ tốt nghiệp đại học khoa Luật Trường đại học cần Thơ với tên đề tài “Tội làm lây lan dịch bệnh truyền

nhiễm nguy hiểm cho người ở Việt Nam” của tác giả Trần Minh Muội. Thứ 2
là bài cấp độ bảo vệ Thạc sĩ của Trường đại học quốc gia Hà Nội - Khoa Luật

với tên đề tài “Một
• số vẩn đề lý luận và thực tiền về các tội làm lây lan dịch


bệnh nguy hiểm cho người, động vật, thực vật trong luật hình sự Việt Nam ”
của tác giả Trần Thị Kim Thanh. Tuy nhiên, hai bài nghiên cứu trên mới chỉ
dừng lại ở việc phân tích và làm rõ hơn về điều 240 Bộ luật hình sự 2015,

việc xoay quanh các bệnh lây nhiễm đến người, động vật, thực vật mà trọng

tâm là nghiên cứu về môi trường sống ờ xung quanh chúng ta chứ chưa đề cập
đến việc xử lý ngay lúc đầu nguồn của các loại dịch bệnh và các nguồn gốc
của lây truyền dịch bệnh, các nguồn lây nó như thế nào, có tác động từ sự vô

3



ý hay cố ý từ con người, hay việc lây nhiễm dịch bệnh nguy hiểm giữa người
với người, giữa những đồ vật, vật dụng có khả năng lây truyền bệnh truyền
nhiễm sang người ...?

Trên cơ sở nghiên cứu, khảo sát trên đây cho thấy, ở nước ta đã có

một số cơng trình cơ bản riêng về “Tội làm lây lan dịch bệnh nguy hiểm
cho người theo luật hình sự Việt Nam”. Còn đối với việc nghiên cứu sâu
sắc, chi tiết hơn, trọn vẹn hơn phù hợp hơn với tình hình dịch bệnh Covid

19 và các biến thể cùa chúng đang diễn ra vơ cùng phức tạp trên tồn thế
giới nói chung và Việt Nam mình nói riêng thì chưa có cơng trình nào đề
cập hay nghiên cứu tới.

Như vậy, trước tình hình của đại dịch Covid 19 trên tồn thế giới thì
học viên lại một lần nữa khẳng định việc nghiên cứu về đề tài “Tội làm lây

lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người theo luật hình sự Việt Nam
(trên cơ sở thực tiễn địa bàn thành phố Hải Phịng)” là thực sự Cần thiết,

khách quan, vơ cùng quan trọng để chống lại đại dịch trong giai đoạn hiện nay

và cho cả những dịch bệnh tương tự của tương lai sau này.
3. Mục
đích và nhiệm
vụ• nghiên
cứu





3.1. Mục đích nghiên cứu
- Thông qua việc nghiên cứu thêm, sâu sắc và chi tiết hơn về đề tài “7ọz
làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người theo luật hình sự

Việt Nam trên cơ sở thực tiễn tại thành pho Hải Phịng’’'’ mục đích của luận
văn là bổ sung thêm và làm rõ hơn những vấn đề mà các điều luật trước đó

chưa bắt kịp với dịch bệnh lan truyền, truyền nhiễm giữa người với người;
giữa đồ vật, vật dụng với người và các biện pháp trong phòng, chống dịch
bệnh,
bệnh
để đạt
được
lợi
ích cá nhân,/

z các tội iphạm lợi dụng tình hình dịch






tồ chức vi phạm pháp luật.... Đánh giá thực tế trong cơng tác phịng, chống

dịch tại Hải Phịng nói riêng và cả nước nói chung. Từ đó có các biện pháp cụ

4



thê hơn trong công tác xử lý tội phạm này, đáp ứng được mục tiêu kép vừa

phòng, chống dịch hiệu quả vừa ngăn chặn kịp thời các loại tội phạm này. Từ
đó, xây dựng và hồn thiện được lên nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Từ mục đích nghiên cứu được ở nêu trên, luận văn này có những nhiệm
vụ chủ yếu sau:

- Xây dựng khái niệm tội phạm làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm
nguy hiểm cho người trên cơ sở của điều 8 BLHS 2015 và phân tích ý nghĩa

cùa việc quy định các tội phạm này trong luật hình sự Việt Nam.
- Phân tích những dấu hiệu pháp lý hình sự (Khách thể, chủ thể, khách

quan, chù quan) và hình phạt của tội làm lây lan dịch bệnh nguy hiếm cho người
trong luật hình sự Việt Nam. Làm rõ những điểm mới của BLHS năm 2015 (sửa
đổi, bổ sung năm 2017) về tội làm lây lan dịch bệnh nguy hiểm cho người.

- Phân tích tội làm lây lan dịch bệnh nguy hiếm cho người trong pháp

luật một số nước trên thế giới;
- Nghiên cứu, đánh giá thực tiễn xét xử và định tội danh của tội làm lây

lan dịch bệnh nguy hiểm cho người trên địa bàn thành phố Hải Phòng, đồng
thời phân tích làm rõ một số tồn tại, hạn chế và các nguyên nhân cơ bản.

- Đề xuất giải pháp hoàn thiện quy định BLHS Việt Nam về tội làm lây

lan dịch bệnh nguy hiếm cho người và nâng cao hiệu quả áp dụng áp luật về
tội phạm này trên địa bàn thành phố Hải Phòng.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đổi tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là quy định pháp luật hình sự Việt

Nam về tội làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người và thực

tiễn của tình hình tội phạm này trên địa bàn thành phố Hải Phòng.

5


Phạm vi vê nội dung
Luận văn nghiên cứu và giải quyết những vấn đề mà đại dịch Covid-19
mang lại kết hợp với thực tế địa bàn thành phố Hái Phòng từ đó tìm ra được

ngun nhân cúa những tồn đọng, hạn chế chưa được giải quyết và có thể

kiến nghị những giải pháp hoàn thiện pháp luật, nâng cao hơn trong cơng tác
đấu tranh, phịng ngừa với tội phạm này.

Phạm vi về không gian và thời gian
Luận văn nghiên cứu thực tiễn tình hình tội làm lây lan dịch bệnh

truyền nhiễm nguy hiểm cho người trên địa bàn thành phố Hải Phòng từ năm


2018 đến năm 2021
5. Phương pháp luận và nghiên cứu

5.7. Phương pháp luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận khoa học của

chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những chủ trương, đường

lối của Đảng, Nhà nước ta về đấu tranh phịng, chống tội phạm nói chung
cũng như đấu tranh phòng chống tội làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy

hiểm cho người nói riêng. Phương pháp luận cũng dựa trên cơ sở những thành
tựu của các chuyên ngành khoa học pháp lý như: Lịch sử Nhà nước và pháp

luật; Lý luận chung về Nhà nước và Pháp luật; Tội phạm học; Luật tố tụng
hình sự ... và những luận điểm, luận chứng khoa học trong các cơng trình

nghiên cứu, sách chuyên khảo và các bài viết đăng trên báo, tạp chí của một
số nhà khoa học Luật hình sự Việt Nam và nước ngoài.

5.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể

Phương pháp nghiên cứu tài liệu’. Học viên sưu tầm, hệ thống, nghiên cứu
các văn bản pháp luật, các tài liệu, công trinh nghiên cứu liên quan đến tội làm

lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người.
Phương pháp phân tích, tơng hợp’. Thơng qua nghiên cứu các hồ sơ, tài

liệu, số liệu để phân tích, đánh giá, tổng hợp tìm ra nguyên nhân và giải pháp


6


phịng ngừa tình hình tội làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho
người trên địa bàn thành phố Hải Phịng và có thể áp dụng trên phạm vi cả nước.

Phương pháp chuyên gia'. Trong quá trinh làm luận văn, học viên trực

tiếp gặp gỡ, trao đổi với những điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán, để
nắm bắt những thuận lợi khó khăn trong q trình điều tra, truy tố, xét xử và
đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này.

Phương pháp nghiên cứu điển hình'. Tác giả nghiên cứu một số vụ án
liên quan đến tội làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người

trên địa bàn thành phố Hải Phòng nhằm làm rõ những vấn đề thực tiễn của

tình hình các tội phạm này.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài

6.1. Ỷ nghĩa lý luận của đề tài

Ket quả nghiên cứu của luận văn góp phần hồn thiện lý luận về tội làm

lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiếm người trong khoa học Luật hình sự
Việt Nam. Cụ thể, đã làm rõ các vấn đề chung về các tội này trong Luật hình sự
Việt Nam, phân tích khái qt các quy định của pháp luật quốc tế; làm sáng tỏ

các quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) về tội

làm lây lan dịch bệnh nguy hiểm cho người; phân tích thơng qua nghiên cứu

thực tiễn xét xử trên địa bàn thành phố Hải Phòng từ năm 2018 - 2021, qua đó
chỉ ra những mâu thuẫn, bất cập của các quy định hiện hành; các sai sót trong

q trình áp dụng các quy định đó, cũng như đưa ra nguyên nhân đế tìm giải
pháp khắc phục, nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự

về tội làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người, ở khía cạnh

lập pháp và việc áp dụng trong thực tiễn, đặc biệt một số giãi pháp gắn liền với
việc phòng, chống loại tội phạm này trên địa bàn thành phố Hải Phòng.
6.2. Ỷ nghĩa thực tiễn của đề tài

Luận văn cịn có thế sử dụng là tài liệu tham khảo, nghiên cứu và học

7


tập. Một sô đê xuât, kiên nghị của luận văn sẽ cung câp những luận cứ khoa
học phục vụ cho công tác lập pháp và hoạt động thực tiễn áp dụng BLHS Việt
Nam liên quan đến tội làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho

người, qua đó góp phần nâng cao hiệu quả cơng tác đấu tranh phịng, chống

các tội này hiện nay và sắp tới ở địa bàn thành phố Hải Phịng nói riêng và cà

nước nói chung.
7. Kết cấu ciia luận văn


Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 02 (hai) chương, cụ thể:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận và quy định của pháp luật Việt Nam

về tội làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiếm cho người.
Chương 2: Thực trạng áp dụng pháp luật hình sự Việt Nam về tội làm

lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm trên địa bàn thành phố Hải Phòng
và một số kiến nghị.

8


Chương 1
QUY ĐỊNH VÀ MỘT SỐ VẤN ĐÈ LÍ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT

HÌNH SỤ VIỆT NAM VÈ TỘI LÀM LÂY LAN DỊCH BỆNH

TRUYỀN NHIỄM NGUY HIÈM CHO NGƯỜI
1.1. Quỵ định của pháp luật Việt Nam về tội làm lây lan dịch bệnh

truyền nhiễm nguy hiểm cho người
1.1.1. Quy định của pháp luật Việt Nam thời kỳ phong kiến
Trong suốt chiều dài lịch sứ Việt Nam, một triều đại mới lên nắm

quyền là một lần các quy định về pháp luật được ban hành nhằm bảo vệ cho

triều đại ấy, đồng thời giải quyết được các vấn đề trong xã hội. Các văn bản
được ban hành trong xã hội phong kiến thì bộ Luật Hồng Đức (Quốc triều


hình luật) được cho là những bước đi đầu tiên về bão vệ quyền con người và
tội xâm phạm ảnh hưởng tới môi trường. Luật Hồng Đức là tên gọi thông

dụng của bộ Quốc triều hình luật hay Lê triều hình luật. Đây là bộ luật chính

thức của nhà nước Đại Việt thời Lê Sơ hiện cịn được lưu giữ đầy đủ. Quốc
triều hình luật trong cuốn sách A.341 có 13 chương, ghi chép trong 6 quyển

(5 quyển có 2 chương/quyển và 1 quyển có 3 chương), gồm 722 điều. Ngồi
ra, trước khi đi vào các chương và điều thì Quốc triều hình luật cịn có các đồ
biểu quy định về các hạng để tang và tang phục, kích thước và các hình cụ
(roi, trượng, gơng, dây sắt v.v). Quốc triều hình luật tập hợp các ưu điểm cùa

các văn bản pháp lý trước đó, xác định các vấn đề mà xã hội quan tâm.
- Trong chương Hộ hôn Điều thứ 11:
Trong kinh thành hay phường, ngõ và làng xóm có kẻ đau ốm mà

không ai nuôi nấng, nằm ở đường sá, cầu, điếm, chùa, qn, thì xã

quan ở đó phải dựng lều lên mà giữ gìn, săn sóc và cho họ cơm
cháo thuốc men, cốt sao cứu cho họ sống, không được bỏ mặc cho

9


họ rên ri khôn khô. Nêu không may mà họ chêt thì phải trình quan

trên và tùy tiện chơn cất, không được để phơi lộ thi hài, nếu trái
lệnh này, thì quan phường xã phải tội biếm hay bãi chức. Nếu người


ốm đau đến ở những chùa quán mà người trụ trì chùa qn khơng
trình lên quan biết và tùy tiện ni nấng, thì cũng phải phạt.

- Chương Trá ngụy, Điều thứ 28:
Thầy thuốc chữa bệnh cho người, mà cố ý dằng dai, hãm bệnh để

lấy tiền, thì phải biếm ba tư. Neu vì ốn thù riêng, hay là vì người
khác thuê mà bốc thuốc có vị độc, để cho người bệnh chết, thì bị

khép vào tội giết người.

- Chương Tạp luật:

Điều thứ 55:

Ngồi đường có thây người chết, bị thương tích, mà chưa bắt
được kẻ giết người, thì làng xã lân cận phải báo quan ti sở tại về
khám nghiệm và phải đem chơn; trái luật thì xử tội trượng hay tội
biếm (trang 120)

Điều thứ 56:
Khiêng thây người chêt đê vào nhà bỏ khơng của người ta, thì xử

tội biếm hay tội đồ.
Từ những điều luật ở trên ta có thể nhận thấy rằng Quốc triều hình luật
đã quan tâm bảo vệ những quyền cơ bàn của con người. Mặc dù bị hạn chế
bởi quan niệm giai cấp hẹp hòi, nhưng bộ luật này cũng đã đưa ra nhiều quy

định bảo vệ con người, trong đó có cà việc bảo vệ những những ở tầng lớp


dưới trong xã hội, như bảo vệ quyền dân chủ tự do của dân đinh, có nhiều
điều quy định các hình phạt cụ thế chống lại sự nơ tỳ hố đối với dân đinh, sự

quan tâm nhiều đến địa vị của người phụ nữ, quan tâm đến quyền lợi của họ.

10


- Đên chương Tạp Luật điêu 83 có quy định:
Những đường ngõ trong kinh thành (ở hương thôn cũng vậy)
nguyên có ngịi rãnh cho nước chãy, mà các quan chức và quân dân
sở tại cậy thế chiếm đắp làm ao hồ của mình, để cho nước mưa

khơng chảy thốt, tràn ra làm hại, thì xử tội biếm hay đồ; nếu làm
tổn hại những lúa má, hoa quả của quan hay dân, thì phải bồi
thường số thiệt hại.

Thời điếm này bộ luật đã có những bước đầu trong việc xác định tội
phạm về mơi trường nhưng vẫn chỉ có quy định về việc tác động, thay đồi kết

cấu môi trường cũ để mang lại lợi ích về cho bản thân mình. Đối tượng tập

trung vào quan chức và quân dân sở tại gây ảnh hường tới người dân. Hình
phạt thì xử tội biếm hay đồ. Neu ảnh hưởng tới người khác thì sẽ phải bồi
thường thiệt hại.

Đen thế kỷ XX, khi nước ta bị thực dân Pháp xâm lược, pháp luật nước

nhà tại thời điểm đó dần bị thay thế bởi các bộ hình luật riêng do thực dân
Pháp san định, ban bố và thi hành trên toàn lãnh thố Việt Nam, trong đó có


Hồng Việt hình luật. Hồng Việt hình luật là BLHS thi hành ở Trung kỳ năm
Bảo Đại thứ 8 (1933), được in ở nhà Đắc-Lập (Huế) bằng ba thứ chừ theo thứ
tự trước-sau là Pháp tự, Quốc ngữ và Hán tự. Sách dày 496 trang, gồm 424
điều, chia thành 29 chương, có chì Dụ ban bố cùa Hoàng đế Bảo Đại ngày

3/7/1933 và Nghị định của Toàn quyền Đông Dương Pasquier ngày 4/7/1933
về việc thi hành.

- Theo quyển XXI, Công luật, chương II, điều 3:
Phàm xâm chiếm các phố, ngõ, đường, lộ đế làm nhà cửa hoặc rào
làm vườn, phạt 60 trượng, bắt sửa sang lại như cũ (nơi bị phá hủy).

Đục tường vách của nhà cửa (nơi ở của mình) ra để đổ các đồ ơ uế

ra đường, phạt 40 roi. Đào tường để thông nước thì được miễn tội.

11


Đường đi lại ờ thành thị gọi là nhai hạng (ngõ phô). Đường đi lại ở

nơi thôn dã gọi là đạo lộ (đường lộ). Ngõ phố hay đường lộ cũng

đều là đất công, nếu xâm chiếm để làm nhà cửa hay rào thành vườn,
phạt 60 trượng, bắt phải dỡ đi, sửa sang lại như cũ. Đường xá phải

sạch sẽ để tiện việc đi lại. Nếu có nhà cửa ở gần đường mà đào
tường để đố các đồ ô uế ra đường, thì phạt 40 roi, bắt lấp lại. Điều


lệ: Đường xá ở trong ngoài kinh thành, nếu đem đào xới thành hốc
hoặc làm ứ tắc cổng rãnh, hay để mái nhà chìa ra ngồi, hoặc thả

súc vật làm hư hỏng chân thành và trong ngoài cống thành, hoặc

làm hỏng lan can và cổng các đường bàn cờ đều bắt đem hởi tội,
cùm 1 tháng rồi phát lạc.

So với bộ luật Hồng Đức thì luật Gia Long có phần hà khắc hơn nhưng

phần nội dung lại chi tiết hơn, rõ ràng hơn. Thể hiện được qua nhiều khía
cạnh khác nhau trong việc xâm phạm đến môi trường sống xung quanh.
Những quy định này, có giá trị cho hệ thống pháp luật đương đại trong việc

yêu cầu các bộ, ngành có liên quan phải xét xử nghiêm minh, tạo sự công

bang cho những người có tội và vơ tội, tránh gây phẫn uất trong dân chúng do
những vụ án oan

1.1.2. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam trong BLHS 1985,

1999, 2015 về tội làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiếm cho người
Trước khi có Bộ luật hình sự 1985, đất nước cịn tập trung khơi phục lại

kinh tế, hàn gắn nỗi đau do 2 cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân đế

quốc. Các vấn đề liên quan đến an toàn vệ sinh, dịch tễ chưa được chú trọng.
Trong giai đoạn này, tội làm lây lan dịch bệnh nguy hiểm cho người chưa

được quy định trong pháp luật hình sự cùng như các văn bản pháp luật khác.

Trong giai đoạn đổi mới 1985-1999, đất nước ta hội nhập, thoát khởi

12


tình trạng quan liêu bao câp, những vân đê vê mơi trường, an tồn vệ sinh

cộng đồng dần được chú trọng.
Bộ luật hình sự 1985 quy định: Tội vi phạm các quy định về bảo vệ

môi trường gây hậu quả nghiêm trọng:

1- Người nào vi phạm các quy định về giữ gìn vệ sinh cơng cộng,
về phịng ngừa và chống dịch bệnh, về bảo vệ môi trường gây hậu

quả nghiêm trọng, thì bị phạt cải tạo khơng giam giữ đến một năm
hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến hai năm.
2- Phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ một

năm đến năm năm [8, Điều 195].

Quy định trên cịn mang tính chất chung, chưa nêu rõ các biểu hiện
hành vi, yếu tố khách quan cấu thành tội phạm này, và chưa làm nổi bật
mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội đối với sức khỏe, tính mạng của

con người.
Bộ luật hình sự 1999, tại Điều 186 lần đầu tiên quy định: Tội làm lây

lan dịch bệnh nguy hiểm cho người được đưa vào luật. Qua đó cho thấy nhận
thức về tầm nguy hiếm của dịch bệnh đã được nâng cao và các phương án an

toàn vệ sinh dịch tệ đã được nâng cao, sức khỏe tính mạng của cộng đồng

được chú trọng quan tâm. Đặc biệt là trong giai đoạn đó Việt Nam và thế giới
phải đối mặt với những dịch bệnh nguy hiểm có tốc độ lây lan khủng khiếp

như dịch cúm gia cầm H5N1, dịch SARS ...
Điều 186 quy định: Tội làm lây lan dịch bệnh nguy hiểm cho người
1. Người nào có một trong các hành vi sau đây làm lây lan dịch

bệnh nguy hiểm cho người, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm:

a) Đưa ra khỏi vùng có dịch bệnh động vật, thực vật, sản phấm
động vật, thực vật hoặc vật phấm khác có khả năng truyền dịch
bệnh nguy hiểm cho người;

13


b) Đưa vào hoặc cho phép đưa vào Việt Nam động vật, thực vật
hoặc sản phẩm động vật, thực vật bị nhiễm bệnh hoặc mang mầm

bệnh nguy hiểm có khả năng truyền cho người;
c) Hành vi khác làm lây lan dịch bệnh nguy hiếm cho người.

2. Phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm
trọng, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười hai năm.

3. Người phạm tội cịn có thế bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến
một trăm triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc
làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm [9, Điều 186J.


So với quy định tại điều 186 BLHS 1985 thì đến BLHS năm 2015 (Điều
240) có một số thay đổi cơ bản như sau:

- về tội danh, điều 240 BLHS 2015 đã bổ sung thêm từ “truyền nhiễm”

vào tên tội, thành “Tội làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho
người” nhằm thế hiện mức độ nghiêm trọng hơn cho tội phạm này. Thống
nhất giữa BLHS và luật phòng, chống dịch bệnh truyền nhiễm. Trong đó,
“bệnh truyền nhiễm” là bệnh lây truyền trực tiếp hoặc gián tiếp từ người hoặc

từ động vật sang người do tác nhân gây bệnh truyền nhiễm. Tác nhân chính là
các virut, vi khuẩn ...
- Tại điểm a khoản 1, điều luật đã bồ sung thêm hành vi phạm tội “cho

phép” đưa ra khỏi vùng có dịch động, thực vật, sản phẩm của động thực vật
hoặc vật phẩm khác có khả năng truyền dịch bệnh nguy hiểm cho người là

hành vi phạm tội của người có chức vụ, quyền hạn.

- Điểm a khoản 1 Điều 240 đã bổ sung quy định “trừ trường hợp pháp

luật có quy định khác” đế loại trách nhiệm hình sự cho những trường hợp đưa
ra khởi vùng dịch các mẫu bệnh phẩm nhằm phục vụ nghiên cứu hoặc các

mục đích khác.

- Các dấu hiệu hậu quả “rất nghiêm trọng” được thay thế bang các hậu

14



quả cụ thể là dẫn đến phải công bố thuộc thẩm quyền của Chủ tịch UBND
hoặc Bộ trướng bộ y tế, Thủ tướng chính phủ hoặc “làm chết người”, làm chết

từ 2 người trở lên.
- Bên cạnh hình phạt tù có thời hạn. Điều luật cịn quy định hình phạt

tiền là hình phạt chính để Tịa án có thể lựa chọn áp dụng đối với người phạm
tội sao cho phù hợp.

1.2. Một số vấn đề lý luận cùa tội làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm
nguy hiếm cho người

Khái niệm tội làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người:
Ke thừa các nội dung hợp lí và cơ bản trong các quy định trước đây của

BLHS 1985,1999 và dựa vào cơ sở lí luận chung của khoa học luật hình sự,
Điều 8 BLHS 2015 quy định về khái niệm tội phạm như sau:

Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ
luật Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp

nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc

lập, chủ quyền, thống nhất, tồn vẹn lãnh thổ Tố quốc, xâm phạm
chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phịng, an ninh,
trật tự, an tồn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm

phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của cơng dân, xâm

phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà
theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự.

Quy định về khái niệm tội phạm trên đây thế hiện toàn diện các đặc
điểm cơ bản của tội phạm như: tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm, tính
có lỗi của tội phạm, tính trái pháp luật và tính chịu hình phạt của tội phạm.

Khơng chỉ thể hiện các đặc điểm của tội phạm, Điều 8 BLHS 2015 cịn

tạo khả năng, làm khn mẫu cho việc xây dựng các khái niệm về một tội

phạm cụ thể trong Phần các tội phạm của BLHS Việt Nam năm 2015. Các tội

15


phạm cụ thê được quy định trong Phân các tội phạm của BLHS Việt Nam
năm 2015 có thể được khái quát theo khuôn mẫu của Điều 8 của BLHS Việt
Nam năm 2015.

Trên cơ sở quy định tại Điều 8 và 240 BLHS năm 2015 và dựa vào lí
luận
khoa học
của luật
hình sự,
tội
làm lây lan dịch




• X có thể rút ra khái niệm




bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người như sau:

“Tội làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiêm cho người là hành
vi cố ỷ đưa ra hoặc cho phép đưa ra khỏi vùng có dịch bệnh động vật, thực
vật, sản phẩm động vật, thực vật hoặc vật phẩm khác có khả năng truyền dịch
bệnh nguy hiểm cho người; đưa vào hoặc cho phép đưa vào Việt Nam động
vật, thực vật hoặc sản phâm động vật, thực vật bị nhiễm bệnh hoặc mang

mầm bệnh nguy hiểm có khả năng lây truyền cho người hoặc các hành vi
khác làm lây lan dịch bệnh nguy hiểm cho người, do người có đủ năng lực
trách nhiệm hình sự thực hiện

Dựa vào dựa vào lí luận khoa học của luật hình sự và khái niệm về tội

làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người trên đây có thể xác

định các dấu hiệu pháp lí của tội tội làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy
hiểm cho người trong bốn yếu tố cơ bản của tội phạm là: Khách thể của tội

phạm, mặt khách quan của tội phạm, chủ thể của tội phạm và mặt chủ quan
của tội phạm.

* Các dấu hiệu pháp lỷ cấu thành tội phạm làm lây lan dịch bệnh
truyền nhiễm nguy hiểm cho người


- Khách thể cùa tội làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm

cho người
Khách thể của tội
phạm theo lí luận
khoa học luật
hình sự• là quan
hệ• xã

X*


A
9

hội
được
luật
hình sự• bảo vệ• khỏi sự• xâm hại
cùa tội
phạm.
Bất kì tội
phạm





A



A


nào được quy định tại Phần các tội phạm trong BLHS Việt Nam năm 2015

16


cũng đêu xâm hại đên một hoặc một sô quan hệ xã hội nhât định băng cách
gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho những quan hệ xã hội đó.

Thơng qua việc gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho khách thế
của tội phạm, tội phạm thể hiện được đầy đủ tính chất và mức độ nguy hiểm
cho xã hội.

Tại
Phần các tội
phạm
của BLHS Việt
Nam năm 2015,Z các tội
cụ•


JL



Aphạm


thể được sắp xếp một cách khoa học thành các chương dựa vào khách thể loại
cùa tội phạm. Tội làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người

được quy định tại chương: “Cức tội phạm về môi trường”
Tội làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người là một

trong các tội phạm xâm phạm đến sự an tồn về tính mạng và sức khỏe con
người. Điểm khác cơ bản đối với các tội xâm phạm trực tiếp đến sự an tồn về

tính mạng và sức khỏe con người được quy định tại Chương XII BLHS Việt
Nam năm 2015 là: Dấu hiệu “Làm lây lan dịch bệnh nguy hiểm cho người’’
chỉ như là một nguy cơ tiềm ẩn sự nguy hiểm đến tính mạng hoặc sức khỏe

con người, trong khi đó khách thể trực tiếp của làm lây lan dịch bệnh truyền
nhiễm nguy hiếm cho người vẫn là xâm phạm đến chế độ bảo vệ môi trường.

Tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm này cịn thể hiện ở chồ làm
giảm các lợi ích của môi trường trong sạch của xã hội, vi phạm đến quyền
được sổng trong môi trường của mồi người, gây thiệt hại và đe dọa gây thiệt

hại cho con người.
Nghiên cứu về khách thể của tội làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm
nguy hiểm cho người theo Điều 240 BLHS năm 2015 cũng cần phân tích và

chỉ ra đối tượng tác động của tội phạm.
Trong khoa học luật hình sự đối tượng tác động của tội phạm là bộ

phận của khách thế cùa tội phạm mà khi tác động đến bộ phận này tội phạm
gây thiệt hại cho khách thể của tội phạm.


17


Đối tượng tác động của tội làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy

hiểm cho người theo Điều 240 BLHS năm 2015 là động vật, thực vật, sản

phẩm động vật, thực vật hoặc vật phẩm đã bị nhiễm bệnh nguy hiểm cho
người có khả năng lây lan sang người.
Động vật là các loại chim, thú, gia cầm, các lồi tơm cá, các lồi cơn

trùng ... được gọi chung là sinh vật có cảm giác và tự vận động.

Sản phẩm động vật là thực phẩm được chế biến từ động vật hay nói
cách khác là sàn phẩm được hình thành từ động vật như thịt, xương, sữa, các
bộ phận từ động vật khác ...

Thực vật là các loại cây, rễ, cũ, hoa, lá, củ, hạt ... sản phẩm thực vật là
các loại sản phấm được chế biến từ thực vật như bột, dầu, nước ép các loại ...
Vật phẩm khác là bất kì vật gì bị nhiễm bệnh hoặc mang mầm bệnh

truyền nhiễm có khả năng lây bệnh cho người như cơng cụ giết mổ,bao bì
đóng gói, phương tiện tàng trừ, vận chuyến động vật, thực vật...
Trên đây là khách thể và đối tượng tác động cùa tội làm lây lan dịch

bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người, để xác định dấu hiệu pháp lý tiếp
theo của tội phạm cần tìm hiểu mặt khách quan của tội phạm.

- Mặt khách quan của tội làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy
hiểm cho người


Trên cơ sở quy định cụ thể trong Điều 240 BLHS Việt Nam năm 2015
về tội làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người cho thấy tội

làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người là loại tội phạm có
cấu thành tội
phạm
vật
chất,z theo khoa học
luật
hình sự• thì tội
phạm
có cấu

1



*

JL

thành tội phạm vật chất cần thiết phải có đủ các dấu hiệu về mặt khách quan

của tội phạm, đó là: Hành vi nguy hiểm cho xã hội, hậu quả nguy hiểm cho xã
hội và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả đó.

18



Dâu hiệu đâu tiên trong mặt khách quan của tội làm lây lan dịch bệnh
truyền nhiễm nguy hiểm cho người là hành vi nguy hiểm cho xã hội của tội

phạm. Điều 240 BLHS năm 2015 quy định 3 dạng hành vi của tội phạm tại

Khoản 1 cùa Điều luật:

a) Dạng hành vi khách qua thứ nhất của tội làm lây lan dịch bệnh
truyền nhiễm nguy hiểm cho người là: Đưa ra hoặc cho phép đưa ra khởi
vùng có dịch bệnh động vật, thực vật, sản phấm động vật, thực vật hoặc vật

phẩm khác có khả năng lây truyền dịch bệnh nguy hiểm cho người.
Dịch bệnh nguy hiểm là những loại dịch bệnh dễ lây nhiễm, dễ lan rộng
nhanh chóng từ người này sang người khác, từ vùng này sang vùng khác

trong cộng đồng. Dịch bệnh nguy hiểm cho người được hiểu là những căn
bệnh có khả năng gây tổn hại nặng cho sức khỏe người nhiễm bệnh và có khả

năng gây tử vong cao nhưng lại khó chừa trị trong hoàn cảnh hiện tại khi dịch
bệnh xẩy ra tại một hoặc một số địa bàn trong xã hội.


J














Danh mục các loại dịch bệnh nguy hiểm cho người do Bộ y tế quy định

và được cập nhật thường xuyên hang năm, các dịch bệnh trong danh mục của

Bộ y tế như: Dịch tả, bệnh đậu mùa, bệnh thương hàn, bệnh than, v.v ...
Vùng có dịch là khu vực (được giới hạn bởi đơn vị hành chính như một

địa danh, một địa phương, một vùng lãnh thổ ...) đang có dịch bệnh đã được

cơ quan có thẩm quyền cơng bố (ủy ban nhân dân các cấp, Bộ y tế hoặc Chủ

tịch nước) trên các phương tiện thông tin đại chúng.
Động vật, thực vật, sản phẩm động vật, thực vật hoặc vật phẩm khác có
khả năng truyền dịch bệnh là động vật, thực vật, sản phẩm động vật, thực vật
hoặc vật phẩm khác đã được cơ quan có thẩm quyền xác định khả năng truyền

dịch bệnh cho người và bị cấm đưa ra khởi nơi có dịch bệnh.

b) Dạng hành vi khách quan thứ hai của tội làm lây lan dịch bệnh

truyền nhiễm nguy hiểm cho người là: Đưa vào hoặc cho phép đưa vào lãnh

19



thồ Việt Nam động vật, thực vật hoặc sản phẩm động vật, thực vật bị nhiễm

bệnh hoặc mang mầm bệnh nguy hiểm có khả năng lây truyền cho người.
Nếu như hành vi đưa vào vào lãnh thổ Việt Nam động vật, thực vật
hoặc sản phẩm động vật, thực vật bị nhiễm bệnh hoặc mang mầm bệnh nguy
hiểm có khả năng lây truyền cho người có thể được thực hiện bời bất kì người

nào dù họ mang quốc tịch Việt Nam hay nước ngồi hoặc người khơng quốc

tịch thì hành vi “cho phép” đưa vào vào lãnh thổ Việt Nam động vật, thực vật
hoặc sản phẩm động vật, thực vật bị nhiễm bệnh hoặc mang mầm bệnh nguy
hiểm có khả năng lây truyền cho người chỉ có thể được thực hiện bởi người

có chức vụ, quyền hạn nhất định và họ phải mang quốc tịch Việt Nam.

c) Dạng hành vi khách quan thứ ba của tội làm lây lan dịch bệnh truyền
nhiễm nguy hiểm cho người là: bất kì một hành vi nào khác làm lây lan dịch

bệnh nguy hiểm cho người. Chúng có thể là một trong các hành vi sau: trốn
khỏi nơi cách ly của người theo quy định phải cách li để phịng bệnh; Khơng

tn thủ quy định về cách ly: như tự ý giao tiếp với người ngoài khu cách ly;

Từ chối, trốn tránh việc áp dụng biện pháp cách ly, cưỡng chế cách ly; Không
khai báo y tế, khai báo không đầy đủ hoặc khai báo gian dối.

Dấu hiệu thứ hai trong mặt khách quan của tội làm lây lan dịch bệnh

truyền nhiễm nguy hiểm cho người là hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Căn


cứ vào khoản 1 Điều 240 cho thấy hậu quả nguy hiểm cho xã hội của tội là

làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người là đã “làm lây lan
dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người

Điều này thể hiện trong

thực tiễn rằng đã có dịch bùng phát tại ít nhất một khu vực hoặc đơn vị

hành chính nhất định như: một xã, phường, thị trấn hoặc một huyện, quận
hoặc một tỉnh, thành phố ...

Dấu hiệu thứ ba trong mặt khách quan của tội làm lây lan dịch bệnh
truyền nhiễm nguy hiểm cho người là mối quan hệ nhân quả giữa một trong

20


các dạng hành vi khách quan và hậu quả của tội phạm, điêu này có nghĩa răng
hành vi khách quan của người phạm tội đã làm lây lan dịch bệnh nguy hiểm
cho người
tại
một
đơn vị• hành chính nhất định
hoặc
một
khu vực
lãnh thổ.
C/







Đế xác định dấu hiệu pháp lý khác của tội làm lây lan dịch bệnh truyền
nhiễm nguy hiểm cho người cần thiết phải nghiên cứu về chủ thể của tội phạm.

- Chủ thề của tội làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người

Chủ thể của tội phạm là một yếu tố không thể thiếu trong bốn yếu tố
cấu thành tội phạm. Chủ thể cùa tội làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy

hiểm cho người là con người cụ thể đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã

hội trong tình trạng có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt đủ độ tuổi chịu

trách nhiệm hình sự. Cũng như các tội phạm khác chủ thể của tội làm lây lan
dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người cũng phải đảm bảo dấu hiệu
chung như người đó phải có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ

tuối nhất định
khi họ• thực
hiện
hành vi khách quan
của tội
phạm.




1

1


Nói một cách khác thì chủ thể của tội làm lây lan dịch bệnh truyền
nhiễm nguy hiểm cho người là chủ thể bình thường, bao gồm đầy đủ hai

dấu hiệu chung là năng lực trách nhiệm hình sự và độ tuổi chịu trách nhiệm

hình sự.

về dấu hiệu chung thứ nhất: Chủ thể của tội làm lây lan dịch bệnh
truyền nhiễm nguy hiểm cho người là người có năng lực trách nhiệm hình sự,

năng^2 lực
trách nhiệm
hình sự• là điều kiện
cần thiết để có thể xác định
một






người là có lỗi khi thực hiện hành vi nguy hiếm cho xã hội, chỉ khi họ có đầy
đủ năng lực trách nhiệm hình sự thì họ mới có thể là chủ thể của tội phạm,


người có năng lực trách nhiệm hình sự là khi họ thực hiện hành vi nguy hiểm

cho xã hội có khả năng nhận thức được tính nguy hiếm cho xã hội của hành vi
và khả năng điều khiển được hành vi đó.

21


Khả năng điêu khiên được hành vi ở đây được hiêu đây đủ khả năng

kiềm chế được hành vi nguy hiểm cho xã hội đã thực hiện và khả năng lựa

chọn xử sự khác không nguy hiểm cho xã hội.

Người có năng lực trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam là
người đã đạt độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo Điều 12 BLHS năm 2015
và khơng thuộc trường hợp ở trong tình trạng khơng có năng lực trách nhiệm
hình sự được quy định tại Điều 21 BLHS năm 2015.

Theo quy định của Điều luật thi: “Người thực hiện hành vi nguy hiểm

cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả
năng nhận thức hoặc khả năng điều khiên hành vi của mình, thỉ khơng phải

chịu
trách nhiệm
hình sự


• ”.


Người bị bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác qua kết luận của giám
định pháp y mà vì mắc bệnh nên họ mất khả năng nhận thức hoặc khả năng

điều khiển thì dù họ có thực hiện hành vi khách quan của tội làm lây lan dịch

bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người theo Khoản 1 Điều 240 BLHS, họ
cũng không phải chịu trách nhiệm hình sự khi làm lây lan dịch bệnh truyền
nhiễm nguy hiểm cho người.

Ngồi bệnh tâm thần thì các bệnh khác phải là những loại bệnh do tính
chất của bệnh có ảnh hưởng đến hoạt động tinh thần cúa bệnh nhân.
về dấu hiệu chung thứ hai: Chù thể của tội làm lây lan dịch bệnh truyền

nhiễm nguy hiểm cho người là người đạt độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự.
Con người khơng phải khi sinh ra đã có sẵn năng lực trách nhiệm hình
sự, năng lực trách nhiệm hình sự là năng lực của sự tự ý thức, được hình
thành trong sự phát triển cùa cá thể cả về mặt tự nhiên và xã hội. Ở mồi người

binh thường đều có khả nãng hình thành và phát triển ý thức và tự ý thức,

nhưng phải trải qua quá trình giáo dục trong điều kiện của xã hội thì khả năng
đó mới trở thành hiên thưc.

22


×