MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục từ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU.............................................................................................................1
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐÈ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VÈ
TỘI CHO VAY LÃI NẠNG TRONG GIAO DỊCH DÂN sự...... 8
1.1.
Khái niệm và các đặc điếm cùa tội cho vay lãi nặng trong giao
dịch dân sự............................................................................................. 8
1.1.1.
Khái niệm tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự.........................8
1.1.2.
Đặc điểm của tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự.................11
1.2.
Các yếu tố cấu thành tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự.... 12
1.2.1.
Khách thể của tội phạm...................................................................... 12
1.2.2.
Chủ thể của tội phạm.......................................................................... 13
1.2.3.
Mặt chủ quan của tội phạm................................................................ 14
1.2.4.
Mặt khách quan của tội phạm................................................................14
1.3.
Thực trạng pháp luật hình sự về tội cho vay lãi nặng trong giao
dịch dân sự.......................................................................................... 20
Kết luận Chương 1......................................................................................... 28
CHƯƠNG 2: THỤC TIỄN XÉT xử VÀ MỌT SỐ GIÃI PHÁP
BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG TỘI CHO VAY LÃI NẶNG
TRONG GIAO DỊCH DÂN sự TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH
PHỐ HẢI PHÒNG........................................................................... 29
2.1.
Thực tiễn xét xử tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự
trên địa bàn thành phố Hải Phòng.................................................. 29
2.1.1.
Những kết quả đạt được..................................................................... 29
2.1.2.
Những hạn chế và nguyên nhân.........................................................40
2.2.
Những u cầu hồn thiện pháp luật hình sự về tội cho vay
lãi nặng trong giao dịch dân sự........................................................ 49
2.2.1.
Yêu cầu bảo vệ quyền con người, quyền công dân............................ 49
2.2.2.
Yêu cầu cải cách tư pháp..................................................................... 51
2.2.3.
Yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm, tạo môi trường xã hội ổn
định, an toàn, thuận lợi cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.... 52
2.2.4.
Yêu cầu hội nhập quốc tế.................................................................... 53
2.3.
Một số giải pháp băo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự
về tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự................................54
2.3.1.
Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về Tội cho vay lãi nặng trong giao
dịch dân sự............................................................................................ 55
2.3.2.
Các giải pháp về chuyên môn nghiệp vụ............................................ 58
2.3.3.
Các giải pháp khác.............................................................................. 61
Kết luận Chương 2.......................................................................................... 65
KÉT LUẬN...................................................................................................... 66
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................... 68
DANH MỤC TÙ VIẾT TẮT
BLDS:
Bơ lt dân sư
BLHSL:
Bơ lt hình sư
BLTTHS:
Bộ luật tố tụng hình sự
CQĐT:
Cơ quan điều tra
CVLN:
Cho vay lãi nặng
TAND:
Tịa án nhân dân
9
9
9
9
•
•
TANDTC: Tịa án nhân dân tối cao
VKSND:
Viên
• Kiểm sát nhân dân
DANH MỤC CÁC BẢNG
Sơ hiẽu
•
Tên bảng
Bảng 2.1
Số vụ án, bị can, bị cáo bị khởi tố, truy tố và xét xử về
Trang
tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự giai đoạn
2016 - 2020
Bảng 2.2
Thực tiễn xử lý hình sự về tội cho vay lãi nặng trong
giao dịch dân sự giai đoạn 2016 - 2020
Bảng 2.3
30
30
Tỷ lệ số vụ và bị cáo bị xét xử sơ thẩm về Tội cho vay
lãi nặng trong giao dịch dân sự trên địa bàn Hải Phòng
so với tổng số vụ án và bị cáo bị xét xử sơ thẩm trên
toàn quốc giai đoạn 2016 - 2020
Bảng 2.4
31
Tỷ lê xét xử sơ thẩm các vu án và bi cáo bi về Tôi cho
vay lãi nặng trong giao dịch dân sự trên địa bàn Hải
Phòng giai đoạn 2016 - 2020
Bảng 2.5
33
Những hình phạt được áp dụng đối với các bị cáo phạm
tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự ở Hải Phòng
giai đoạn 2016-2020
35
MỞ ĐÀU
1. Tính câp thiêt của đê tài
Vay mượn tài sản là hành vi khá phổ biến trong xã hội. Nhà nước ta
khuyến khích nhân dân cho nhau vay với tính chất tương trợ, giúp đỡ nhau
khắc phục khó khăn, xây dựng cuộc sống, ... Trong thực tiễn đời sống xã hội,
khi bản thân người đầu tư không đủ năng lực tài chính cho hoạt động sản
xuất, kinh doanh, đồng thời năng lực của hệ thống ngân hàng và các định chế
tài chính khác chưa đáp ứng được nhu cầu vay của người dân thì việc tìm đến
quan hệ vay - nợ là tất yếu. Tuy nhiên, pháp luật nước ta nghiêm cấm và
trừng trị nghiêm khắc hành vi cho vay lấy “lãi nặng” để bóc lột người khác.
Đó chính là lý do của việc Nhà nước ta quy định tội cho vay lãi nặng trong Bộ
luật hình sự từ rất sớm với những tiêu chí cụ thể để xác định tội danh. Hay nói
cách khác, chỉ khi cho vay lãi nặng đến mức “bóc lột” thì mới cần đến sự điều
chỉnh của pháp luật hình sự.
Đảng và Nhà nước ta ln ln nỗ lực tìm kiếm các giải pháp nhằm
đưa nền kinh tế nước nhà phát triển một cách tồn diện và hội nhập có hiệu
quả với nền kinh tế thế giới. Những giải pháp đưa ra và được thực hiện trên
thực tế đã thu được những kết quả khả quan, trong đó có những biện pháp quy
định về hoạt động cấp tín dụng, cho vay dân sự và sâu hơn là những quy định
ràng buộc về lãi suất. Việc điều chỉnh lãi suất hợp lí sẽ giúp phát triển nền
kinh tể. Tuy nhiên, hiện nay những quy định của pháp luật về hợp đồng vay
và đặc biệt là lãi suất cho vay có nhũng bất cập nhất định. Những bất cập đó
thể hiện ở chồ những quy định pháp luật này còn thiếu cụ thể, nhiều quy định
lỗi thời không phù hợp với thực tế, bộc lộ những khiếm khuyết khi được áp
dụng trong cuộc sống. Bên cạnh đó nền kinh tế của nước ta đang ngày càng
phát triển mạnh mẽ đem lại thành tựu lớn nhưng cũng kéo theo nhiều hệ luỵ
gây hậu quả nghiêm trọng cho sự phát triên của xã hội, một trong nhũng hệ
luỵ đó là tình hình tội phạm về kinh tế đang diễn biến phức tạp trong đó có
các tội phạm liên quan về “tín dụng đen”, đặc biệt là tội phạm cho vay lãi
nặng trong giao dịch dân. Cho vay lãi nặng hay còn được gọi bằng cái tên phổ
biến, dân dã hơn là tín dụng đen. Đây là khái niệm dùng để chỉ các dạng cho
vay tài sản không thông qua hệ thống ngân hàng, khơng có đăng ký kinh
doanh cũng như chưa được cấp phép và khơng chịu sự quản lý chính thức bởi
bất cứ cơ quan quản lý Nhà nước nào. Đây là hình thức cho vay với lãi suất
cao mà pháp luật nước ta không thừa nhận.
Trước yêu cầu của thực tế, Nhà nước đã ban hành những quy định pháp
luật nhằm quản lý nền kinh tế cũng như quản lý hoạt động cấp tín dụng, cho
vay, với nhiều điều luật quy định các tội phạm cùng những chế tài mang tính
răn đe. Tuy nhiên, lợi ích của kinh tế quá lớn đã làm xuất hiện nhiều tội phạm
trong đó có tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự xâm hại đến trật tự
quản lý của nhà nước. Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự không những
ảnh hưởng đến cuộc sống của người dân, mà còn làm ảnh hưởng đến nguồn
cấp tín dụng của ngân hàng, gây bất ổn xã hội, xâm hại tới trật tự xã hội, kìm
hãm sản xuất và ảnh hưởng tới những vấn đề xã hội khác.
Hái Phòng là thành phố cảng quan trọng, trung tâm công nghiệp, cảng
biển, đồng thời cũng là trung tâm kinh tế, văn hỏa, y tế, giáo dục, khoa học,
thương mại và công nghệ của Vùng duyên hải Bắc Bộ. Đây là 1 trong 5 thành
phố thuộc đô thị loại I tại Việt Nam. Hải Phòng là nơi có vị trí quan trọng về
kinh tế, xã hội, cơng nghệ thơng tin và an ninh, quốc phịng của vùng Bấc Bộ
và cà nước. Hải phòng là địa phương duy nhất miền Bắc hội tụ đủ 5 loại hình
giao thơng: Đường bộ, đường sắt, đường biến, đường thủy nội địa và đường
hàng không. Lợi thế này đã giúp thành phổ Cảng khơng chỉ đóng vai trị trung
tâm kinh tế của khu vực đồng bằng sông Hồng, vùng Duyên hải Bắc bộ mà
2
cịn là nhịp câu thơng thương với cả các nước trong khu vực, với tăng tiêm
lực kinh tế lớn, các hoạt động kinh doanh ở các mức độ từ nhỏ đến lớn đều
diễn ra hết sức sôi động. Kèm với đó là các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh
tế thì tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự có xu hướng tăng và diễn
biến ngày càng phức tạp gây thiệt hại nhiều mặt cho đời sống xã hội. Các cơ
quan tố tụng đã rất nồ lực trong công tác điều tra, truy tố, xét xử tội phạm, thu
được nhiều kết quả. Nhung do nhiều nguyên nhân chủ quan lẫn khách quan,
việc áp dụng các quy định của pháp luật hình sự để điều tra, truy tố, xét xử
hành vi cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự vẫn tồn tại những hạn chế, đòi
hỏi phải có thêm những giải pháp khắc phục. Do đó, việc nghiên cứu một
cách hệ thống, toàn diện tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự theo pháp
luật hình sự Việt Nam nhằm củng cố, phát triển về mặt lý luận, làm rõ bất cập
trong các quy định của pháp luật, bên cạnh đó chỉ ra những hạn chế, thiếu sót
trong q trình áp dụng pháp luật trên thực tiễn, trên cơ sờ đó kiến nghị
những giải pháp đàm bào áp dụng đúng quy định của Bộ luật hình sự về tội
phạm này là có tính cấp thiết. Với những phân tích nêu trên, học viên đã
chọn đề tài: “Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự theo Luật hình
sự Việt Nam (trên cơ sở thực tiễn địa bàn thành phố Hải Phòng) ” làm luật
văn thạc sỳ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu
Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự xảy ra tương đối phổ biến
trong đời sống xã hội. Dù vậy, tính đến thời điếm thực hiện đề tài này, chưa
có nhiều cơng trình khoa học chuyên nghiên cứu về tội phạm này dưới các
phương diện, cấp độ khác nhau.
- Nghiên cứu về lý luận: vấn đề được đề cập trong các giáo trình như:
Giáo trình Luật hình sự Việt Nam của Đại học Luật Hà Nội, Đại học Luật
TP.HCM, hay Giáo trình Luật hình sự Việt Nam do GS. TS. Võ Khánh Vinh
3
làm chủ biên, phát hành năm 2013 bởi Nhà xuât bẳn Khoa học xã hội. Tại các
văn bản trên, các nhà nghiên cứu đều làm sáng tỏ về mặt lý luận và quy phạm
pháp luật về Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự nhưng chỉ ở mức độ
khái qt, cơ bản nhất. Ngồi hệ thống giáo trình Luật hình sự, nghiên cứu
quy định của BLHS về Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự là các
cuốn bình luận khoa học BLHS của nhiều tác giả, tiêu biểu là cuốn Bình luận
khoa học BLHS năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 (phần các tội
phạm) do GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa làm chú biên, được Nxb. Tư pháp phát
hành năm 2018.
- Theo tìm hiếu của học viên, hiện tại chưa có cơng trình nghiên cứu
khoa học chuyên sâu về tội phạm cụ thể này mà chủ yếu các tác giả nghiên
cứu những khía cạnh khác nhau về Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân
sự trong các bài báo khoa học, như: bài viết “Tội cho vay lãi nặng - những
bất cập của Bộ luật Hĩnh sự và giải pháp khẳc phục ” của tác giả Nguyễn Văn
Hương, Tạp chí Tịa án nhân dân số 19 năm 2004; bài viết “về tội làm tiền
giả, tội tàng trữ tiền giả, tội phá hủy tiền tệ, tội cho vay nặng lãi ” của tác giả
Phạm Thanh Bình, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 132 năm 1999. Ngồi ra
có một sổ tác giả nghiên cứu về hành vi này ở góc độ luật dân sự hoặc nghiệp
vụ tài chính - ngân hàng. Có thể kể đến các bài báo, như: bài viết “Giải pháp
ngăn chặn hữu hiệu hoạt động tín dụng đen ” của tác giá Nguyễn Thanh Cai,
Tạp chí Tài chính số 706 tháng 6/2019; bài “Giãi pháp ngăn chặn tín dụng
đen’’ của tác giả Trần Thị Hồng Vân, Tạp chí Tài chính sổ 621 tháng
11/2015; bài “Phát triển tín dụng vi mơ - Giải pháp đẩy lùi "tín dụng đen" ở
Việt Nam ” của tác giả Bùi Diệu Anh, Tạp chí Tài chính số 630 tháng 4/2016;
... Như vậy, mặc dù có nhiều cồng trình khoa học đề cập đến Tội cho vay lãi
nặng trong giao dịch dân sự ở các phương diện, cấp độ và cách tiếp cận khác
nhau, song do mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu cùa các cơng trình đó
4
nên đến nay vẫn chưa có một cơng trình nghiên cứu một cách hệ thống, chuyên
sâu Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự theo quy định tại Điều 201
BLHS năm 2015 từ thực tiễn thành phố Hải Phịng. Vì vậy học viên nhận thấy
đề tài luận văn này khơng trùng lặp với các cơng trình nghiên cứu trước đây.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cúu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, quy định của pháp luật hình sự về Tội
cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự theo quy định của BLHS năm 2015
và thực tiễn áp dụng tại thành phố Hải Phòng trong những năm gần đây, luận
văn hướng tới mục đích xây dựng các giải pháp đảm bào áp dụng đúng quy
định của BLHS năm 2015 về tội phạm này trong thời gian tới, đồng thời đề
xuất một số ý tưởng mới trong hoàn thiện các quy định pháp luật có liên quan.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nhằm phục vụ cho mục đích đã đề ra, người viết tập trung vào các
nhiệm
vụ• sau:
•
+ Phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận về Tội cho vay lãi nặng trong
giao dịch dân sự; phân biệt với những tội phạm có dấu hiệu tương tự.
+ Bình luận, đánh giá các quy phạm pháp luật có liên quan đến Tội cho
vay lãi nặng trong giao dịch dân sự. Từ đó nêu lên những hạn chế, bất cập
trong thực tiễn áp dụng.
+ Khảo sát, đánh giá thực tiễn áp dụng quy định của BLHS năm 2015
về Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự của các cơ quan tiến hành tố
tụng hình sự (chủ yếu là TAND) tại thành phố Hải Phòng, rút ra và đánh giá
những kết quả đạt được, cũng như những hạn chế, thiếu sót và nguyên nhân.
+ Đề xuất, kiến nghị những giải pháp nhằm đảm bảo áp dụng đúng quy
định của pháp luật về Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự trong tương lai.
5
4. Đôi tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cúu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn bao gồm những vấn đề lý luận, quy
định của pháp luật hình sự Việt Nam về Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch
dân sự, thực tiễn áp dụng những quy định đó nhằm xử lý loại tội phạm này.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- về lý luận: Luận văn tập trung trong phạm vi hệ thống lý luận chuyên
ngành Luật hình sự và tố tụng hình sự.
- về thực tiễn: Luận vãn tập trung nghiên cứu thực tiễn định tội danh
và quyết định hình phạt đối với Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự,
chủ yếu ở giai đoạn xét xử.
- về khơng gian: Địa bàn thành phố Hải Phịng
- về thời gian: Từ năm 2016-2020
5. Phương pháp luận về phương pháp nghiên cún
5.1. Phương pháp luận
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà
nước về pháp luật và sử dụng pháp luật trong đấu tranh phịng, chống tội
phạm. Ngồi ra cịn dựa trên hệ thống lý luận chuyên ngành Luật hình sự
và tố tụng hình sự.
5.2. Các phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu như: phân tích,
tổng hợp, so sánh, thống kê,v.v để phân tích, đánh giá, giải quyết những vấn
đề được đặt ra.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Ỷ nghĩa lý luận'. Kết quả nghiên cứu của luận văn có thế góp phần làm
6
rõ thêm cho hệ thông lý luận chuyên ngành luật hình sự vê Tội cho vay lãi
nặng trong giao dịch dân sự.
- Ỷ nghĩa thực tiễn'. Kết quả nghiên cứu của luận vãn có thể tham khảo
trong thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự đấu tranh phịng, chống tội phạm
mà cụ thể là đấu tranh phòng, chống tội phạm cho vay lãi nặng trong giao
dịch dân sự. Luận văn cịn có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong học tập,
giảng dạy và nghiên cứu tại các cơ sở đào tạo chuyên ngành luật hình sự và tố
tụng hình sự.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Ket luận, Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn được cấu trúc thành 2 chương:
Chương 1. Một số vấn đề lý luận và pháp luật về Tội cho vay lãi nặng
trong giao dịch dân sự.
Chương 2. Thực tiễn xét xử và một số giải pháp đảm bảo áp dụng đúng
tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự trên địa bàn thành phố Hải Phòng.
7
Chương 1
MỘT SÓ VẤN ĐÈ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT
VỀ TỘI CHO VAY LÃI NẶNG TRONG GIAO DỊCH DÂN sự
Cho vay lãi nặng (CVLN) là khái niệm dùng để chỉ các dạng cho vay
tài sản không thông qua hệ thống ngân hàng, khơng có đăng ký kinh doanh
cũng như chưa được cấp phép và khơng chịu sự quản lý chính thức bởi bất cứ
cơ quan quản lý Nhà nước nào. Đây là hình thức cho vay với lãi suất cao mà
pháp luật nước ta không thừa nhận. Để chứng minh tội danh này, các cơ quan
tiến hành tố tụng phải chứng minh được đầy đủ các yếu tố cấu thành tội
phạm. Đảng và Nhà nước đã không ngừng đưa ra những chính sách, pháp luật
để điều tiết phát triển nền kinh tế theo hướng kinh tế thị trường, đồng thời đưa
ra những quy định cấm đối với các hành vi gây ảnh hưởng đến sự phát triển
bình thường của nền kinh tế. Để có cái nhìn khái qt các vấn đề lý luận của
tội CVLN trong giao dịch dân sự, sau đây tác giả phân tích làm rõ một số vấn
đề như: khái niệm, đặc điểm, các yếu tố cấu thành tội CVLN trong giao dịch
dân sự; và lịch sử phát triển của tội CVLN trong giao dịch dân sự.
1.1. Khái niệm
và các đặc
dịch
•
• điếm của tội
• cho vay
V lãi nặng
• ” trong
~ giao
”
•
dân sự
1.1.1. Khái niệm tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự
Để phát triển kinh tế nhằm nâng cao đời sống vật chất của người dân
thì việc đầu tư nguồn vốn để phát triển kinh tế đồng thời tìm kiếm nguồn vốn,
tài chính để phục vụ cho nhu cầu cuộc sống hàng ngày là gần như bắt buộc.
Với nguồn tài chính dồi dào nhằm để hồ trợ giúp đỡ cho người khác và tăng
nguồn thu nhập cho bản thân, nhiều cá nhân, tổ chức đã tận dụng nguồn vốn
của mình cho các chủ thể khác vay, mượn để sinh hoạt và sản xuất. Để hiểu
rõ thuật ngữ cho vay, người viết đưa ra một số khái niệm được chấp nhận
rộng rãi tại Việt Nam về cho vay như sau:
8
BLDS năm 2015 định nghĩa như sau vê hợp đông vay tài sản:
Hợp đồng vay tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên
cho vay giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải
hoàn trả cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng,
chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có
quy định (Điều 463).
Cịn đối với Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010, sửa đổi bổ sung năm
2017 thì cho vay:
Là hình thức cấp tín dụng, theo đó bên cho vay giao hoặc cam kết
giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích xác
định trong một thời gian nhất định theo sự thỏa thuận với ngun
tắc có hồn trả cả gốc và lãi (khoản 16 Điều 4).
Ngoài ra, theo Từ điển luật học thì cho vay được hiểu là:
Bên cho vay giao cho bên vay một khoản tiền hoặc vật cùng loại đế
làm sở hữu trong thời hạn hoặc các bên đã thỏa thuận. Cho vay có
thể có lãi hoặc khơng có lãi, người vay chỉ phải trả lãi nếu các bên
có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định” [10, tr.143].
Theo Từ điển Tiếng Việt thì cho vay là: “đưa tiền cho vay trong một
thời hạn nhất định rồi trả cả vốn lẫn tỷ suất lại”. Theo Từ điển Tường giải và
liên tưởng thì khái niệm cho vay là “tạm cho người khác sử dụng một khoản
tiền hoặc vật dụng và sẽ được hoàn lại theo thỏa thuận” [19]. Từ các khái
niệm pháp lý và khái niệm trong từ điển Việt Nam, tác giả đưa ra khái niệm
về cho vay như sau: Cho vay là việc một người (người cho vay) cho người
khác (người vay) sử dụng tài sãn thuộc sở hữu của mình trong một thời gian
xác định, sau đó người vay phải hồn trả tài sản đó cho bên người cho vay với
một khoản lãi suất theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật.
Giao dịch dân sự là một trong những vấn đề phổ biến và quan trọng
9
trong lĩnh vực dân sự bởi đây là phương tiện hữu hiệu đê thỏa mãn quyên và
lợi ích hợp pháp của các chủ thể. Do đó, làm rõ những vấn đề liên quan đen
hiệu lực của giao dịch dân sự luôn là nội dung then chốt của giao dịch dân sự,
góp phần đảm bảo hiệu quả thực thi của luật, quyền và lợi ích hợp pháp của
các bên có liên quan.
So với quy định tại Điều 163 BLHS năm 1999 thì tội CVLN trong giao
dịch dân sự được quy định tại Điều 201 BLHS năm 2015 đã cụ thể hơn, phù
hợp hơn với thực tiễn. Nếu Điều 163 BLHS năm 1999 quy định đối với hành
vi cho CVLN trong giao dịch dân sự là “cho vay với mức lãi suất cao hơn lãi
suất cao nhất mà pháp luật quy định từ mười lần trở lên có tính chun bóc
lột” thì Điều 201 BLHS năm 2015 quy định rõ ràng cụ thể hơn là “Người nào
trong giao dịch dân sự mà cho vay với lãi suất gấp 05 lần mức lãi suất cao
nhất quy định trong BLDS, thu lợi bất chính từ 30.000.000 đồng đến dưới
100.000.000 đồng”. Như vậy BLHS 2015 đã thay thế quy định về mức lãi
suất làm căn cứ xác định có hay khơng hành vi CVLN trong giao dịch dân sự
từ “lãi suất cao nhất mà pháp luật quy định” thành “lãi suất cao nhất quy định
trong BLDS”. Việc thay đổi này thu hẹp đáng kể phạm vi các quy định càn
đối chiếu với mức lãi suất thực tế mà người cho vay áp đặt lên người vay, từ
phạm vi toàn bộ hệ thống pháp luật thành BLDS. Thay đổi quan trọng khác là
yếu tố “có tính chuyên bóc lột” - vốn rất khó chứng minh trên thực tế - đã
được thay thế bằng “thu lợi bất chính” với quy định rõ ràng về định lượng.
Việc này góp phần khơng nhỏ trong việc đưa những đối tượng CVLN trong
giao dịch dân sự ra xử lý trước pháp luật.
Từ những phân tích trên thì khái niệm về tội CVLN trong giao dịch dân
sự được hiểu là hành vi do cá nhân từ 16 tuổi trờ lên cho chủ thể khác vay với
mức lãi suất gấp 05 lần mức lãi suất cao nhất quy định tại khoản 1 Điều 468
của BLDS, thu lời bất chính từ 30.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng
10
hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính vê hành vi này hoặc đã bị kêt án vê tội
này, chưa được xóa án tích mà cịn vi phạm được coi là tội phạm theo quy
định tại Điều 201 của Bộ luật hình sự.
1.1.2. Đặc điểm của tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự
Tội CVLN trong giao dịch dân sự có các đặc điểm cơ bản sau: Thứ nhất,
hầu hết các hành vi CVLN trong giao dịch dân sự đều nhằm vào lợi ích vật chất
là số tiền lãi mà họ nhận được trong việc cho vay lấy lãi và các đối tượng cho
vay với lãi suất rất cao, lãi suất cho vay gấp 05 lần mức lãi suất cao nhất quy
định trong BLDS (tại thời điềm nghiên cứu là 20%/năm của khoản vay).
Thứ hai, người cho vay thường lợi dụng hồn cảnh khó khăn, cấp
bách hoặc sự thiếu kiến thức của người vay đế ép người vay phải trả lãi
suất cao ngất ngưỡng nhằm thu hồi vốn nhanh và thu lợi bất chính rất lớn
từ việc cho vay đó.
Thứ ba, hành vi cho vay lấy lãi rất cao của các đối tượng cho vay được
thực hiện với nhiều hình thức khác nhau, tinh vi khó phát hiện, bởi việc cho
vay này không thông qua sự quản lý của cơ quan chức năng, hầu như là các
thỏa thuận ngầm. Hiện nay đã ghi nhận ngồi hình thức vay bằng giao kết hợp
đồng bằng văn bản như truyền thống, đã xuất hiện biến tướng của loại hình
tội phạm này là thông qua các ứng dụng trên di động - vốn rất dễ tiếp cận với
đa số người dân và đánh đúng vào tâm lý thích nhanh gọn của người vay.
Thứ tư, các hành vi CVLN trong giao dịch dân sự khi bị phát hiện
thường là đã xảy ra một khoảng thời gian dài khi con nợ khơng cịn khả năng
chi trả và khoản nợ gốc cộng nợ lãi đã lên tới con số có thể gấp nhiều chục
lần khoản vay ban đầu. Các đối tượng cho vay đã đe dọa và hành hung người
vay, con nợ và làm xuất hiện thêm một số loại tội phạm mới như: tội đe dọa
giết người, tội cổ ý gây thương tích, bắt giữ người trái pháp luật, tội cưỡng
đoạt tài sản, ...
11
Thứ năm, người CVLN trong giao dịch dân sự thường là các đôi tượng
sẵn sàng thực hiện hành vi vi phạm pháp luật, với mọi thủ đoạn phạm pháp để
đòi được nợ vì vậy khi cho vay chỉ cần tờ ghi nợ hoặc chi là lời nói. Với
những đối tượng này, vì lợi ích vật chất đem lại, họ sẵn sàng ép người đi vay
vào đường cùng, mặc cho hành vi của họ có vi phạm pháp luật hay khơng.
Đối tượng CVLN trong giao dịch dân sự thường khơng có đăng ký kinh
doanh, cũng như khơng có giấy phép kinh doanh nhưng họ vẫn cố ý thực hiện
hành vi cho vay trái pháp luật đó.
Thứ sáu, người CVLN trong giao dịch dân sự thường có mối quan hệ
rộng rãi, có kinh nghiệm, hiểu biết pháp luật, một số trường hợp thậm chí có
quan hệ với những người có quyền lực trong cơ quan nhà nước nên dễ thực hiện
hành vi cho vay và khó phát hiện hành vi CVLN trong giao dịch dân sự đó.
1.2. Các yếu tố cấu thành tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự
1.2.1. Khách thể của tội phạm
Khách thế của Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự cũng như
các tội phạm khác, đó là những “quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và
bị tội phạm xâm hại” [48], Cụ thể, khách thể mà hành vi phạm tội này hướng
đến là xâm phạm trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước mà cụ thế là trật tự
trong quản lý hoạt động tín dụng, qua đó xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp
pháp của người vay lãi. Trong thực tiễn, tội phạm này gây ảnh hưởng đến
người dân trong việc vay tài săn. sổ tiền người vay phải trả vượt quá rất lớn
so với số tiền theo lãi suất quy định của Nhà nước. Ngoài ra, khi người vay trả
nợ không đúng hạn hoặc mất khả năng trả nợ, các đối tượng dùng mọi thủ
đoạn để siết nợ, như hành hung, bắt cóc, xúc phạm, bơi nhọ danh dự, nhân
phẩm, đe dọa người vay và người thân của họ nhằm tạo sức ép buộc họ phải
bán nhà cửa, tài sản trả nợ cho chủ nợ. Vì vậy, trường họp người đi vay
12
không trả được nợ hoặc trả không đúng hạn do lãi suất quá cao thường dẫn
đến tâm lý hoang mang, lo sợ. Thậm chí, một số trường hợp mất khả năng trả
nợ đã bỏ trốn khởi địa phương đi nơi khác sinh sống.
Đối tượng tác động của Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự là
số tiền mà người phạm tội cho người khác vay để hưởng số tiền lãi vượt quá
lãi suất quy định.
1.2.2. Chủ thể của tội phạm
Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội phạm tội cho vay lãi
nặng trong giao dịch dân sự quy định tại Điều 201 BLHS năm 2015 (SĐ, BS
năm 2017) khi người đó có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi luật
định. Cụ thể, người phạm tội khơng bị mất năng lực trách nhiệm hình sự và
đạt độ tuồi từ đủ 16 tuồi trở lên, có khả năng nhận thức được tính chất nguy
hiểm cho xã hội của hành vi mình thực hiện và điều khiển được việc hành
động hay không hành động khi thực hiện hành vi đó ... Chủ thế cùa tội phạm
này không phải là chủ thể đặc biệt, bất cứ ai nếu thoả mãn các điều kiện quy
định của pháp luật đều có thể trở thành chủ thế của tội phạm này. Đối với tội
danh này, khung hình phạt cao nhất của tội danh này nằm ở khoản 2, theo đó:
“Phạm tội thu lợi bất chính từ 100.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tiền từ
200.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03
năm”. Đây là tội phạm ít nghiêm trọng nên theo quy định tại Điều 12 BLHS
năm 2015 (SĐ, BS năm 2017), thì người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi không
phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm này trong bất cứ trường hợp nào.
Trên thực tế, chủ thế thực hiện tội danh này thường là các đối tượng có tiền
án, tiền sự, lưu manh, côn đồ, hoặc các cá nhân, tổ chức núp bóng dưới các
hình thức trá hình là cơng ty cho vay tài chính, tiệm cầm đồ hoặc liên doanh,
liên kết với các tổ chức tín dụng để cho vay với lãi suất cao.
13
1.2.3. Mặt chủ quan của tội phạm
Trong khoa học pháp lý hình sự thì tội phạm là thể thống nhất của hai
mặt khách quan và chủ quan. Mặt chủ quan là nhũng hoạt động tâm lý bên
trong của người phạm tội và luôn gắn liền với các biểu hiện bên ngồi của tội
phạm, nó khơng tồn tại biệt lập mà luôn gắn liền với mặt khách quan của tội
phạm. Mặt chủ quan của tội phạm là nhận thức, thái độ cùa bản thân người
phạm tội đối với hành vi và hậu quả của hành vi nguy hiểm cho xã hội mà họ
thực hiện [56, tr. 180]. Mặt chủ quan của tội phạm bao gồm lồi, động cơ và
mục đích phạm tội, trong đó yếu tố lỗi là dấu hiệu bắt buộc, không thể thiếu
trong bất kỳ cấu thành của tội phạm nào. Trong Tội cho vay lãi nặng trong
giao dịch dân sự, tội phạm được thực hiện với lồi cố ý trực tiếp. Người cho
vay lãi nặng nhận thức được hành vi cùa mình là nguy hiểm cho xã hội và hậu
quả do mình gây ra nhưng vẫn thực hiện hành vi với mong muốn cho hậu quả
xảy ra là người đi vay phải trả một khoản lãi rất cao. Cụ thế là người cho vay
cố ý thực hiện hành vi “cho vay với lãi suất gấp 05 lần trở lên của mức lãi
suất cao nhất quy định trong Bộ luật Dân sự năm 2015, thu lợi bất chính từ
30.000.000 đồng...” của người đi vay.
Động cơ phạm tội là vụ lợi. Mục đích phạm tội khơng phải là dấu hiệu
bắt buộc của cấu thành tội phạm này. Tuy nhiên, người phạm tội này bao giờ
cũng nhằm mục đích thu lợi bất chính thơng qua hành vi cho vay lãi nặng.
1.2.4. Mặt khách quan của tội phạm
Hành vi khách quan của tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự
“Mặt khách quan của tội phạm là mặt bên ngoài cùa tội phạm, bao gồm
những biểu hiện của tội phạm diễn ra hoặc tồn tại bên ngoài thế giới khách
quan” [48, tr. 99]. Tội phạm cụ thể nào cũng đều phải có những biểu hiện bên
ngồi, nếu khơng có những biếu hiện bên ngồi thì khơng có những yếu tố
khác của tội phạm và cũng sẽ khơng có tội phạm. Cũng như các dấu hiệu khác
14
trong câu thành tội phạm, mặt khách quan chứa đựng trong quy định của pháp
luật [20], Mặt khách quan cùa tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự
được mô tả tại Điều 201 BLHS năm 2015 (SĐ, BS năm 2017):
Người nào trong giao dịch dân sự mà cho vay với lãi suất gấp 05 lần trở
lên cùa mức lãi suất cao nhất quy định trong Bộ luật Dân sự, thu lợi bất chính
từ 30.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành
chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà cịn vi
phạm, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo
không giam giữ đến 03 năm. Phạm tội mà thu lợi bất chính 100.000.000 đồng trở
lên, thì bị phạt tiền từ 200.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ
06 tháng đến 03 năm.
Mặt khách quan của tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự cũng
như của các tội phạm khác bao gồm: hành vi khách quan nguy hiểm cho xã
hội; hậu quà nguy hiểm cho xã hội do hành vi đó gây ra; mối quan hệ nhân
quả giữa hành vi và hậu quà; những điều kiện bên ngoài của việc thực hiện
hành vi phạm tội như công cụ, phương tiện, phương pháp, thủ đoạn thực hiện
tội phạm và thời gian, hoàn cảnh, địa điếm xảy ra tội phạm,...
Trong mặt khách quan, hành vi khách quan là biểu hiện cơ bản nhất và
là dấu hiệu bắt buộc. Những biểu hiện khác của mặt khách quan như công cụ,
phương tiện, địa điểm, thời gian phạm tội, ... chỉ có ý nghĩa khi có hành vi
khách quan. Bên cạnh đó, “những nội dung biêu hiện của mặt chủ quan là
lỗi, mục đích, động cơ cũng ln gắn với hành vi nguy hiềm cho xã hội cụ
thể”. Trong khoa học luật hình sự, “hành vi được hiểu là những “biêu hiện ”
của con người ra bên ngoài thế giới khách quan dưới những hình thức cụ thê
nhằm đạt những mục đích có chủ định và mong muốn
Theo quy định tại
Điều 201 BLHS năm 2015 (SĐ, BS năm 2017), hành vi khách quan của tội
cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự là “hành vi cho người khác vay (tiền,
15
vàng, ngoại tệ) với lãi suât gâp 05 lân trở lên của mức lãi suăt cao nhăt quy
định trong Bộ luật dân sự”. Hành vi cho vay có thể được thể hiện bằng nhiều
dạng khác nhau, người cho vay và người vay có thể thỏa thuận bằng một hợp
đồng viết, nhưng cũng có thể chỉ bàng một hợp đồng miệng. Nếu tồn tại hợp
đồng viết thường cũng chỉ đơn giản là giấy viết tay xác nhận việc vay nợ mà
không được công chứng. Hiện nay, trong một số trường hợp việc cho vay
được thực hiện một cách tinh vi hơn, người cho vay lợi dụng hồn cảnh khó
khăn của người vay để ép họ ký vào họp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất hay mua bán tài sản để khi đến hạn mà người vay chưa trả được số tiền
gốc và lãi thì người cho vay làm thủ tục sang tên quyền sử dụng đất hoặc tài
sản và bán tài sản đó. Thậm chí, hiện nay có những trưịng họp người cho vay
dùng những họp đồng đó để khởi kiện ra Tòa án để đòi nợ hay tố cáo người
vay tại cơ quan Công an. Tuy nhiên, hành vi này chỉ cấu thành tội phạm nếu
người phạm tội thu lợi bất chính từ 30.000.000 đồng trở lên hoặc đã bị xử
phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa
được xóa án tích mà cịn vi phạm. Theo quy định của pháp luật hình sự, yếu
tố quyết định để xác định hành vi nhằm định tội đối với tội cho vay lãi nặng
trong giao dịch dân sự là “Cho vay với lãi suất gấp 05 lần trở lên của mức lãi
suất cao nhất quy định trong BLDS”. Khoản 1 Điều 468 Bộ luật dân sự
(BLDS) năm 2015 quy định mức lãi suất trong hợp đồng vay như sau:
Lãi suất vay do các bên thỏa thuận. Trường họp các bên có thỏa thuận
về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận khơng được vượt quá 20%/năm của
khoản tiền vay, trừ trường họp pháp luật liên quan có quy định khác. Căn cứ
tình hình thực tế và theo đề xuất của Chính phù, ủy ban thường vụ Quốc hội
quyết định điều chỉnh mức lãi suất nói trên và báo cáo Quốc hội tại kỳ họp
gần nhất. Trường họp lãi suất theo thỏa thuận vượt quá lãi suất giới hạn được
quy định tại khoản này thì mức lãi suất vượt q khơng có hiệu lực.
16
Theo quy định này, Nhà nước cho phép các bên thỏa thuận lãi st vay
nhưng mức lãi suất đó khơng được vượt quá mức trần lãi suất tối đa là
20%/năm hoặc 1,666%/tháng (20%/l 2 tháng) của khoản tiền vay [35].
Như vậy, lãi suất cao nhất quy định trong BLDS là 20%/năm hoặc
1,666%/ tháng. Từ đó có thể hiểu, lãi suất gấp 05 lần trở lên của mức lãi suất
cao nhất quy định trong BLDS là lãi suất ở mức 100%/năm hoặc 8,33%/tháng
trở lên. Nếu hành vi cho vay được thực hiện với lãi suất vay ở mức này trở lên
thì có thể cấu thành tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự khi và chỉ khi
kết hợp với một trong ba yếu tố khác theo quy định tại Điều 201 BLHS năm
2015 (SĐ, BS năm 2017). Các yếu tố đó bao gồm: người phạm tội thu lợi bất
chính từ 30.000.000 đồng trở lên; người phạm tội đã bị xử phạt vi phạm hành
chính về hành vi này; người phạm tội đã bị kết án về tội này, chưa được xóa
án tích mà cịn vi phạm. Như vậy, ba hành vi cấu thành tội danh này sẽ là: cho
vay với lãi suất 100%/ năm hoặc 8,33%/tháng trờ lên và thu lợi bất chính từ
30.000.000 đồng trở lên; cho vay với lãi suất 100%/năm hoặc 8,33%/ tháng
trở lên mà trước đó đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này; cho vay
với lãi suất 100%/năm hoặc 8,33%/tháng trở lên mà trước đó đã bị kết án về
tội này, chưa được xóa án tích. Trong đó, khoản tiền thu lợi bất chính đe xác
định trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội là số tiền lãi thu được sau
khi trừ đi số tiền lãi tương ứng với mức lãi suất theo quy định của BLDS.
Trường họp người phạm tội thực hiện hành vi cho vay lãi nặng đối với nhiều
người thì khoản tiền thu lợi bất chính đề xác định trách nhiệm hình sự là tống
số tiền lãi mà người phạm tội thu được của tất cả nhũng người vay, nếu các
hành vi cho vay lãi nặng được thực hiện một cách liên tục, kế tiếp nhau về
mặt thời gian; tình tiết đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi cho vay
lãi nặng mà cịn vi phạm hiện tại cịn tương đối khó khăn để áp dụng vì chưa
có văn bản để quản lý và xem xét xử lý hành chính đối với hành vi cho vay lãi
17
nặng. Đây là một hạn chê trong quản lý nhà nước đơi với hoạt động tín dụng
phi chính thức này; “đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà cịn vi
phạm ” nghĩa là người thực hiện hành vi cho vay lãi nặng đã bị kết án về Tội
cho vay lãi nặng theo quy định tại Điều 163 BLHS năm 1999 (SĐ, BS năm
2009) hoặc Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự theo quy định tại Điều
201 BLHS năm 2015 (SĐ, BS năm 2017) chưa được xóa án tích theo quy
định tại các Điều 70, Điều 71 và Điều 72 BLHS.
Hiện nay, các đối tượng cho vay lãi nặng thường thực hiện thông qua
các đường dây một cách chuyên nghiệp, cho vay số tiền không lớn nhưng
thực hiện nhiều lần, cho nhiều người vay
Các đấu hiệu khác của mặt khách quan của tội cho vay lãi nặng
trong giao dịch dân sự
Ngoài những hành vi nguy hiểm cho xã hội thì mặt khách quan của tội
phạm này cịn có các dấu hiệu khác như phương tiện phạm tội, phương pháp,
thù đoạn, thời gian, địa điểm và hồn cảnh phạm tội. Các hình thức cho vay
lãi nặng có thể được biểu hiện qua nhiều dạng khác nhau, người cho vay và
người vay có thể bằng một hợp đồng viết (rất ít được thực hiện trên thực tế)
hoặc có thể cho vay tiền chỉ bằng một hợp đồng miệng hoặc chi ghi số tiền
vay vào sổ và người vay ký nhận. Nếu có biên nhận thì thường không ghi lãi
suất, không ghi thời gian vay mà chỉ ghi một ngày bao nhiêu tiền lãi, ví dụ:
vay 1.000.000 đồng thì lãi suất 5.000 đồng (tương đương lãi suất 180%/năm
hay 15%/ tháng) hoặc vay 8.000.000 đồng thì lãi suất 40.000 đồng (tương
đương lãi suất 180%/ năm hay 15%/tháng)...
Trên thực tế, người vay tiền chỉ cần một khoáng thời gian rất ngắn đã
có tiền mà khơng phải mất nhiều thời gian, thủ tục hết sức đơn giản chỉ cần
phô tô chứng minh nhân dân, hộ khẩu, bằng lái xe, giấy khai sinh, giấy đăng
18
ký kêt hơn, thẻ sinh viên, ... Ngồi ra, người vay không cân công chứng họp
đồng hay chứng minh thu nhập, khơng cần thế chấp tài sản, đang có nợ xấu ở
các cơng ty tài chính thì vẫn tiếp tục được vay. Đối với những khách hàng có
uy tín, trả tiền vay đúng hạn thì trong các lần vay tiếp theo các đối tượng này
sẽ cho vay với số tiền cao hon nhiều lần, áp dụng hình thức cho vay trả góp
với lãi suất rất cao. Đây là những ưu đãi cần thiết, dễ dàng cho những người
cần tiền kinh doanh, để đáo hạn khoản vay trước hoặc để tiêu dùng cá nhân
trong cuộc sống.
Một hình thức cho vay lãi nặng nữa mà hiện nay khá phổ biến là thông
qua các hình thức hụi, họ, biêu, phường. Phương pháp thủ đoạn cho vay lãi
nặng hiện nay được thực hiện hết sức tinh vi và phức tạp. Bên cho vay thường
hoạt động công khai dưới vở bọc của hoạt động kinh doanh được cấp phép
họp pháp như dịch vụ cầm đồ, cơng ty tư vấn đầu tư, dịch vụ tài chính với
những chiêu trị quảng cáo
nơỉ' khách hàng — ngân hàng", hồ trợ vay
vốn, cho vay tiêu dùng, cho thuê tài sản, thông qua việc in các tờ rơi quảng
cáo cho vay tiền rồi tiến hành đi treo, dán, thả trên các tuyến đường; sử dụng
mạng xã hội hoặc tạo ứng dụng phần mềm trên điện thoại nhằm mục đích
quảng cáo và cho vay tiền; tạo ra các ứng dụng chạy trên điện thoại di động
để cho vay tiền qua mạng như "Vaytocdo”, “Moreloan”, “VD online”... Các
đối tượng cho vay thường không thể hiện mức lãi suất cụ thể trên các hợp
đồng. Khi người vay không trả được nợ theo thỏa thuận, các đối tượng không
từ bở thủ đoạn nào để có thể địi tiền vay. Hành vi cho vay lãi nặng hiện nay
không chỉ tập trung vào các thành phố lớn, nơi kinh tế phát triến mà đã len lỏi
vào mọi ngóc ngách, từ thành thị tới nơng thơn với các ‘‘chân rết” ở khắp các
tỉnh thành trên cả nước. Thủ đoạn mà người phạm tội sử dụng thường là lợi
dụng hồn cảnh khó khăn đột xuất của người đi vay như bị thiệt hại do thiên
19
tai, bệnh tật hoặc những khó khăn khác cân gâp một sô tiên đê trang trải nên
người cho vay đã ép buộc để người đi vay phải chịu lãi suất rất cao, gấp nhiều
lần so với lãi suất do Nhà nước quy định.
1.3. Thực trạng pháp luật hình sự về tội cho vay lãi nặng trong giao
dịch dân sự
Thực hiện chính sách hình sự về Tội cho vay lãi nặng với những định
hướng, chủ trương của Đảng, Nhà nước trong việc sử dụng BLHS quy định
tội phạm và hình phạt để đấu tranh và phòng chống tội phạm về cho vay nặng
lãi hiện nay thì việc phải sửa đổi BLHS năm 1999 với tội danh cho vay lãi
nặng quy định tại Điều 163 thành Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự
tại Điều 201 BLHS năm 2015 (SĐ, BS năm 2017) với các dấu hiệu định tội
và định khung đã được cụ thể hóa theo hướng định tính làm căn cứ xác định
trách nhiệm hình sự là thực sự cần thiết.
Theo quy định tại khoản 1 điều 201 BLHS năm 2015 được sửa đổi bổ
sung năm 2017 thì:
Người nào trong giao dịch dân sự mà cho vay với lãi suất gấp 05 lần mức
lãi suất cao nhất quy định trong Bộ luật dân sự, thu lợi bất chính từ 30.000.000
đồng đến dưới 100.000.000 đồng hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về
hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà cịn vi
phạm, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng hoặc phạt cải
tạo không giam giữ đến 03 năm.
Trong đó, những điểm mới của Tội cho vay nặng lãi trong giao dịch
dân sự thể hiện ở một số nội dung sau:
Thứ nhất, về tên tội danh. BLHS hiện hành đã sửa tên tội danh thành
Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự mà không còn quy định chung
chung là Tội cho vay lãi nặng. Điều này xuất phát từ bản chất cho vay là quan
20
hệ giao dịch được xác lập theo quy định của pháp luật dân sự. Nêu quy định
tên tội danh như BLHS năm 1999 thì sẽ căn cứ theo mức lãi suất do ngân
hàng nhà nước công bố tại từng thời điểm hoặc theo Luật Các tổ chức tín
dụng trong khi quan hệ này mang bản chất là một quan hệ giao dịch dân sự.
Đây là điểm tiến bộ của nhà làm luật khi viện dẫn đúng và rõ ràng căn cứ
pháp luật để xác định mức lãi suất cao nhất.
Thứ hai, về dấu hiệu định tội. Quy định tại Điều 201 BLHS năm 2015
(SĐ, BS năm 2017) đã quy định rõ ràng và mang tính định lượng hơn so với
quy định mang tính định tính như trong BLHS năm 1999. Theo đó, quy định
trong BLHS năm 1999 là “cho vay với mức lãi suất cao hơn mức lãi suất cao
nhất mà pháp luật quy định từ mười lần trở lên có tính chất chun bóc lột ”
mà để chứng minh dấu hiệu này thì rất khó khăn nên BLHS năm 2015 (SĐ,
BS năm 2017) đã quy định cụ thể là:
Người nào trong giao dịch dân sự mà cho vay với lãi suất gấp 05 lần trở
lên của mức lãi suất cao nhất quy định trong Bộ luật Dân sự, thu lợi bất chính
từ 30.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng hoặc đã bị xử phạt vi phạm
hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích
mà cịn vi phạm.
Như vậy, quy định về dấu hiệu định tội đã có một số thay đổi: một là,
giới hạn lại phạm vi chỉ trong giao dịch dân sự; hai là, quy định về mức lãi
suất cao nhất đã được giảm xuống, mức lãi suất cho vay giảm xuống từ gấp
10 lần thành gấp 05 lần tuy nhiên phải đi kèm hậu quả là số tiền thu lợi bất
chính từ 30.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng; ba là, căn cứ để xác
định lãi suất cao nhất cũng đã được nêu một cách cụ thể và thống nhất là “quy
định trong Bộ luật Dân sự” mà không còn chung chung là “pháp luật quy
định” như trong BLHS năm 1999. Dựa trên quy định này, mức lãi suất được
xác định làm căn cứ tính lãi suất cao nhất được áp dụng một cách dễ dàng, rõ
21