MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục bảng
MỞ ĐẦU............................................................................................................. 1
Chương 1: MỘT SỐ VÁN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN KHÔNG BUỘC
PHẢI ĐUA RA LỜI KHAI CHỐNG LẠI CHÍNH MÌNH HOẶC BUỘC
PHẢI NHẬN MÌNH CĨ TỘI CỦA NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI......................... 10
1.1. Khái niệm quyền khơng buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình
hoặc
buộc
phải nhận
mình có tội
của người bị• buộc
tội
.................................. 10
•
•
JL
•
•
•
•
1.1.1. Khái niệm "người bị buộc tội”................................................................... 10
1.1.2. Khái niệm "lời khai chổng lại chính mình của người BBT”.................. 13
1.1.3. Khái niệm "nhận mình có tội của người BBT”........................................ 16
1.2. Nội dung và hình thức thể hiện................................................................ 20
1.2.1. Nội dung.........................................................................................................20
1.2.2. Hình thức thê hiện........................................................................................ 24
1.3. Cơ sở ghi nhận và ý nghĩa......................................................................... 26
1.3.1. Cơ sở ghi nhận.............................................................................................. 26
1.3.2. Ỷ nghĩa...................................................................................................28
1.4. Hậu quả pháp lý của hành vi thực hiện hoặc không thực hiện quyền
khơng buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận
mình có tội của người bị buộc tội.................................................................... 33
Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH sự VỀ
QUYỀN KHƠNG BUỘC PHẢI ĐƯA RA LỜI KHAI CHỐNG LẠI CHÍNH
MÌNH HOẶC BUỘC PHẢI NHẬN MÌNH CĨ TỘI CỦA NGƯỜI BỊ BUỘC
TỘI.................................................................................................................... 36
2.1. Quy định của pháp luật TTHS Việt Nam vê qun khơng buộc phải đưa
ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của người bị
buộc tội.............................................................................................................. 36
2.1.1. Quyền không buộc phải đưa ra lời khai tự buộc tội chính mình theo quỵ
định của pháp luật TTHS Việt Nam.....................................................................36
2.1.2. Các quy định đảm bảo quyền khơng buộc phải đưa ra lời khai tự buộc
tội chính mình........................................................................................................... 45
r
ĩ
r
\
r
ỉ
\
2.2. Quy định của pháp luật qc tê và một sô quôc gia trên thê giới vê quyên
không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận
mình có tội......................................................................................................... 57
.
»
K
K
z
9
z
9
9
Chương 3: TH ực TIÊN THI HÀNH VÀ CÁC GIAI PHÁP ĐAM BAO THI
HÀNH ĐÚNG QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH sự VIỆT
NAM VỀ QUYỀN KHÔNG BUỘC PHẢI ĐUA ra lời khai CHỐNG
LẠI CHÍNH MÌNH HOẶC BUỘC PHẢI NHẬN MÌNH CĨ TỘI CỦA
NGUỜI bị buộc tội.....................................................................................68
3.1. Thực tiễn thi hành các quy định của BLTTHS Việt Nam về quyền không
buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có
tội của người bị buộc tội................................................................................. 68
3.1.1. Thực trạng.................................................................................................... 68
3.1.2. Nguyên nhân của nhũng hạn chế............................................................... 76
3.2. Các yêu cầu và giải pháp đảm bào thi hành đúng quy định của BLTTHS
về quyền không buộc phài đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc
phải nhận mình có tội của người bị buộc tội.................................................... 80
3.2.1. Các yêu cầu đảm bảo thi hành đúng quy định của BLTTHS về quyền
không buộc phải đưa ra lời khai tự buộc tội chính mình................................... 80
3.2.2. Các giải pháp đảm bảo thi hành đủng quy định của BLTTHS về quyền
không buộc phải đưa ra lời khai tự buộc tội chính mình của người bị buộc tội 86
KẾT LUẬN..................................................................................................... 103
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................... 105
DANH MỤC CÁC TỪ VIÉT TẮT
Từ viết tắt
Tiếng Việt
BBT
Bi• bc
• tơi
•
BLHS
Bơ• lt
• hình sư•
BLTTHS
Bộ luật tố tụng hình sự
THTT
Tiến hành tố tụng
TNHS
Trách nhiêm
• hình sư•
TTHS
Tố tụng hình sự
VAHS
Vu• án hình sư•
VKS
Viên
• kiểm sát
XHCN
Xã hội chủ nghĩa
DANH MỤC BẢNG
STT
01
Số hiêu
•
Bảng 1.1
Nội dung
Trang
Phạm vi nội dung trình bày lời khai của
những người tham gia tố tụng
14
Hình thức thể hiện cùa quyền không buộc
02
Bảng 1.2
phải đưa ra lời khai tự buộc tội chính mình
của người bị buộc tội trong TTHS
26
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quyền con người là một vấn đề được sự quan tâm rất lớn trong mọi thời đại
ở bất kỳ lĩnh vực nào của xã hội, nhất là trong thời đại tiến bộ và hiện đại như hiện
nay. Là một lĩnh vực có mối liên hệ trực tiếp đến quyền con người, tư pháp hình sự
đặt ra u cầu khơng ngừng hồn thiện, giải quyết đúng đắn VAHS đồng thời bảo
vệ tối đa quyền con người, quyền và lợi ích họp pháp của cá nhân, tố chức. Trong
hoạt động TTHS, quyền con người có nguy co bị xâm phạm nhất và để lại hậu quả
nghiêm trọng về vật chất, thể chất và tinh thần, nhất là với nhóm chủ thể tham gia tố
tụng là người BBT, bao gồm người bị bát, người bị tạm giừ, bị can, bị cáo. Do đó,
việc ghi nhận, tơn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền và lợi ích họp pháp của người
BBT trong quá trình chứng minh tội phạm, giải quyết VAHS có ý nghĩa hết sức
quan trọng góp phần xây dựng, phát triển nền tư pháp tiến bộ, công bằng, văn minh,
tránh làm oan, sai người vô tội, tránh bỏ lọt tội phạm. Nhận thức sâu sắc được yêu
cầu đó mà Hiến pháp năm 2013 đã hiến định rõ ràng và đầy đú các quyền cơ bản
của người BBT trong đó nhấn mạnh: “Người BBT được coi là khơng có tội cho đến
khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tịa án đã có
hiệu lực pháp luật” và khẳng định trách nhiệm tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm thuộc
về các cơ quan và người có thẩm quyền THTT. BLTTHS năm 2015 đã thể chế hóa
thành các quy định cụ thể tại các điều luật từ Điều 59 đến Điều 62.
Ngoài các quy phạm đã được ghi nhận trong BLTTHS năm 2003 như quyền
trình bày lời khai; quyền bào chữa (tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa);
quyền được thơng báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ; quyền đưa ra tài liệu, đồ
vật, yêu cầu; quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có
thẩm quyền THTT;... BLTTHS năm 2015 đà bổ sung thêm quy định quyền không
buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội.
Đây là một trong nhừng điểm mới nổi bật trong quy định của BLTTHS năm 2015
về quyền của người BBT so với BLTTHS năm 2003, cũng như cả tiến trình lịch sừ
phát triên pháp luật TTHS Việt Nam trước khi BLTTHS năm 2015 có hiệu lực thi
hành, phản ánh một bước tiến lớn trong nhận thức, tư duy pháp lý tiến bộ, đáp ứng
yêu cầu và mục tiêu đề ra của công cuộc cải cách tư pháp theo Nghị quyết 49/2005
cùa Bộ chính trị: “Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm
minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phụng sự nhân dân, phụng sự tổ quốc
Việt Nam XHCN”. Quyền không buộc phải đưa ra lời khai tự buộc tội chính mình
được ghi nhận trực tiếp trong BLTTHS năm 2015 thực chất còn là sự nội luật hóa
quy đinh tại điểm g khoản 3 Điều 14 Cơng ước quốc tế về các quyền dân sự và
chính trị năm 1966 (International Covenant on Civil and Political Rights, 1966 -
ICCPR 1966) mà Việt Nam đã ký kết gia nhập vào ngày 24/9/1982 thể hiện sự nỗ
lực thực hiện hiệu quả các cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên nhằm nâng
cao trách nhiệm, nghĩa vụ chứng minh tội phạm, tôn trọng và bảo vệ quyền lợi hợp
pháp cùa người BBT cũng như giảm thiểu, hạn chế tối đa nguy cơ xâm phạm đối
với nhóm người này trong khi thi hành công vụ.
Sự ghi nhận “quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình
hoặc buộc phải nhận mình có tội” cùng với các quyền khác của người BBT đã làm
vững chắc hơn “bức tường thành pháp lý” của người BBT trong khuôn khồ pháp
luật TTHS Việt Nam. Ở một khía cạnh khác, vẫn đang tồn tại sự tranh luận về quan
điểm cần thiết hay không cần thiết phải ghi nhận quyền này trong BLTTHS năm
2015 ngay cả trước và sau khi Bộ luật có hiệu lực thi hành hoặc nhận thức đồng
nhất nó với quyền im lặng trong pháp luật TTHS của một số quốc gia trên thế giới.
Quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận
mình có tội cùa người BBT về lý luận và thực tiễn chưa được tiếp cận toàn diện,
đầy đủ và thống nhất dưới “hệ quy chiếu” pháp lý TTHS Việt Nam hiện hành.
Chính vì những lí lẽ trên đã đặt ra yêu cầu cần thiết để học viên lựa chọn đề tài:
“Quyền không buộc phải đua ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải
nhận mình có tội của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự” làm đề tài luận vãn
thạc sĩ của mình nhằm góp phần làm sâu sắc hơn lý luận về quyền của người BBT
2
cũng như đảm bảo, tôn trọng và bảo vệ quyên và lợi ích hợp pháp của người BBT
trong hoạt động TTHS trên thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cún
Quyền khơng buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc nhận mình
có tội của người BBT được ví như “bình cũ rượu mới” khi mà pháp luật quốc tế và
nhiều quốc gia trên thế giới đã sớm thừa nhận là một bộ phận cấu thành của quyền
của người BBT thì quyền này đang cần phải quy định cụ thể hon trong pháp luật
TTHS Việt Nam. Hầu hết những quốc gia ghi nhận quyền không buộc phải đưa ra
lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội đều pháp điển hóa
dưới tên gọi là “quyền ỉm lặng” (The right to silence) hoặc “Đặc quyền chống lại
sự tự buộc tội” (The privilege against self-incrimination). Không hiếm các nghiên
cứu, bài viết khoa học nước ngoài liên quan đến “đặc quyền chống lại sự tự buộc
tội”, có thể kể đến như: Origins of the Fifth Amendment: The privilege against self
incrimination của Leonard w. Levy xuất bản năm 1968; The privilege against self
incrimination and Criminal justice của Andrew Choo, 2013; Silence and the
privilege against self-incrimination trích trong Mục 8 Chương II tác phẩm The
Internationalisation of Criminal Evidence: Beyond the Common law and Civil law
traditions của John D. Jackson và Sarah j. Summers xuất bản năm 2012; Rectitude
Rights and Legitimacy: Reassesing and Reforming the privilege against selfincrimination in English law của Ian H. Denis, Tạp chí luật Israel, SỐ 1-3/1997;...
ở phạm vi nghiên cứu trong nước, nội dung nghiên cứu về quyền khơng
buộc phải đưa ra lời chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội được đề cập nhiều
•
X
•
•
X
•
•
•
• X
trong các nghiên cứu liên quan đến quyền của người BBT và quyền bào chữa của
nhóm người này trong hoạt động TTHS như: Báo vệ các quyền của người BBT
(người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can và bị cáo) trong Luật TTHS Việt Nam của
ThS. Lê Tiến Quân, 2019; Quyền và nghĩa vụ pháp lý của người BBT trong Luật
TTHS Việt Nam của ThS. Đinh Hải Ninh, 2017; Bảo đảm quyền con người của
người BBT trong hoạt động chứng minh buộc tội của VKS của tác giả Nguyễn Hừu
Hậu, Tạp chí kiểm sát, số 12/2015; Quyền bào chữa trong TTHS Việt Nam hiện nay
3
của TS. Luật sư Nguyên Trọng Hải, 2017;... Có thê thây, vì là nội dung thuộc vân
đề nghiên cứu mang tính vi mơ - “người tí hon đứng trên đơi vai của kẻ khổng lồ”
nên quyền không buộc đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận
mình có tội mới chỉ dừng lại ở mức độ đề cập và phân tích sơ lược trong mối quan
hệ với quyền của người BBT cũng như quyền bào chữa của họ.
Với đa số quan điểm cho ràng quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống
lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội mặc dù khơng dùng thuật ngữ
quyền im lặng nhưng đã thể hiện nội hàm của quyền im lặng thì quyền này được
nghiên cứu độc lập như là quyền im lặng được pháp luật TTHS của nhiều quốc gia
trên thế giới ghi nhận: Trực tiếp ghi nhận quyền im lặng cho người BBT trong Luật
TTHS Việt Nam của tác giả Lê Huỳnh Tấn Duy, Tạp chí Khoa học pháp lý, số
3/2015; “Quyền ỉm lặng” trong pháp luật quốc tế, pháp luật của một sổ quốc gia và
Việt Nam cùa TS. Vũ Công Giao và ThS. Nguyễn Minh Tâm, Tạp chí Nhà nước và
pháp luật, số 3/2015; Nguồn gốc, bản chất, phạm vi áp dụng của “quyền im lặng”
trong TTHS của tác giả Võ Văn Tài, Tạp chí Luật học, số 11/2015; Quyền im lặng
trong TTHS của ThS Nguyền Vũ Linh Giang, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số
12/2016; Đảm bảo quyền im lặng trong TTHS Việt Nam của ThS. Trịnh Thị Hằng,
Hội thảo khoa học “Bảo đảm quyền con người trong hoạt động TTHS”, 2017;...
Liên quan đến tranh luận về điểm mới của Dự luật TTHS năm 2015 về
quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải chống
lại chính mình, theo như nguyên Viện trường VKS nhân dân tối cao Nguyễn Hịa
Bỉnh đã lý giải: Theo ngơn ngữ thơng dụng gọi đó là quyền im lặng. Nhưng phải
hiểu cho đủng nội hàm của quyền này. Nội hàm của nó là người bị bắt, người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo không buộc phải nhận tội, không buộc phải đưa ra lời khai
chống lại chính mình. Như vậy, quyền khơng buộc phải đưa ra lời khai chống lại
chính mình hoặc
buộc
phải nhận
mình có tội
mặc dù thể hiện
nội
hàm của quyền
•
•
JL
•
••
•
•
±9/ im
lặng nhưng không đồng nhất với quyền im lặng. Việc tiếp cận và nghiên cứu quy
định cùa pháp luật TTHS Việt Nam về quyền không buộc phải đưa ra lời khai
chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của người BBT với tên gọi
4
thông dụng là quyền im lặng chưa thực sự thỏa đáng, dề gây đánh đồng, nhầm lẫn là
quyền im lặng dù về hình thức đã có sự phân biệt bằng dấu ngoặc kép (“quyền im
lặng”). Nhưng không thể phủ nhận các nghiên cứu kể trên đã ít nhiều đề cập được
một số hạn chế, bất cập trong quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành cũng như
trong áp dụng, thi hành trên thực tiễn liên quan đến “quyền im lặng” được thừa
nhận phù hợp với điều kiện lịch sử, văn hóa pháp lý và mơ hình TTHS Việt Nam.
Những bài viết, cơng trình nghiên cứu liên quan đến quyền khơng buộc phải
đưa ra lời khai chống lại chính mình, hoặc buộc phải nhận mình có tội đem lại
nguồn tham khảo hết sức giá trị để tác giả của luận văn xây dựng và hoàn thiện
những vấn đề lý luận và thực tiễn về quyền này đúng với tên gọi pháp lý được thừa
nhận mà khơng phải nấp bóng dưới danh xưng tương tự quyền im lặng - “quyền im
lặng”.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cún
•
•
•
3.1. Mục đích nghiên cứu
Kế thừa có chọn lọc những giá trị của các cơng trình nghiên cứu trước đây,
luận văn hướng tới mục đích nghiên cứu là góp phần làm sâu sắc thêm vấn đề lý
luận và thực tiễn về quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình
hoặc buộc phải nhận mình có tội của người BBT theo quy định của pháp luật
TTHS Việt Nam, đồng thời phân tích những bất cập, vướng mặc tồn tại trong ghi
nhận và thực thi áp dụng quyền này. Qua đó, đề xuất các giải pháp nhằm đảm bảo
thi hành đúng quy định của pháp luật về quyền không buộc phải đưa ra lời khai
chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của người bị buộc tội trong
hoạt động TTHS.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Đe đạt được mục đích nghiên cứu đã đề ra, luận văn tiến hành giải quyết
những nhiệm vụ cụ thể sau:
- Tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện một số vấn đề lý luận về quyền không
buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của
5
người BBT như khái niệm, nội dung, hình thức thê hiện, hậu quả pháp lý cũng như
cơ sở, ý nghĩa lý luận và thực tiễn.
- Phân tích, đánh giá quy định của pháp luật TTHS Việt Nam liên quan đến
quyền khơng buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận
mình có tội của người BBT, đồng thời phân tích, so sánh với quy định của pháp luật
mrpy TO
r
r
___________________ s
___
r
r
1_
r
TTHS quôc tê và một sô quôc gia trên thê giới.
A
~
__________ _
A____________________________________ A
- Nghiên cứu thực tiễn thi hành quy định của pháp luật TTHS liên quan đến
quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận
mình có tội của người BBT trong hoạt động TTHS.
- Trên cơ sở kết quả nghiên cứu các vấn đề trên, đề xuất các giải pháp nhằm
đảm bảo thực thi đúng quy định của pháp luật TTHS về quyền không buộc phải đưa
ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của người BBT.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cún
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là một số vấn đề lý luận về quyền khơng
buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của
người BBT theo quy định của pháp luật TTHS Việt Nam và thực tiễn thi hành.
Đồng thời, nghiên cứu, so sánh với pháp luật TTHS quốc tế và một số nước trên thế
giới về quyền này.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu một số vấn đề lý luận; quy định của pháp luật
TTHS Việt Nam về quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình
hoặc buộc phải nhận mình có tội từ năm 2003 đến nay, trong đó có sự so sánh điểm
mới giữa quy định trong BLTTHS nãm 2015 với BLTTHS nãm 2003 và thực tiễn
thi hành quy định của BLTTHS năm 2015 có liên quan đến vấn đề này. Bên cạnh
đó, luận văn cịn phân tích, so sánh với quy định hiện hành của pháp luật TTHS
quốc tế và một số quốc gia trên thế giới để đúc rút kinh nghiệm trong hoàn thiện
pháp lý về quyền của người BBT nói chung, quyền khơng buộc phải đưa ra lời khai
chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội nói riêng.
6
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.7. Cơ sở lý luận
Luận văn vận dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
cùa chủ nghĩa Mác - Lênin , tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, đường lối của
Đảng và nhà nước về pháp luật, cải cách tư pháp về quyền con người. Từ đó khẳng
định quyền khơng buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải
nhận mình có tội là một quyền hợp pháp, chính đáng của người BBT, góp phần bảo
đảm hoạt động TTHS được tiến hành đúng đắn, khách quan, quyền và lợi ích hợp
pháp của người BBT được bảo vệ, tôn trọng, tránh làm oan, sai người vơ tội. Việc
thể chế hóa quyền khơng buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc
phải nhận mình có tội thành một quy phạm trực tiếp trong BLTTHS năm 2015 đã
phản ánh sự phát triển tiến bộ của nền tư pháp hiện đại, khẳng định bảo vệ quyền
con người và phòng, chống tội phạm là một thể thống nhất trong mục tiêu của hoạt
động TTHS.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn vận dụng các phương pháp tống hợp, thống kê, phân tích, đánh giá,
so sánh,... của nghiên cứu khoa học pháp lý để làm sáng tỏ nội dung nghiên cứu ở
mỗi chương, trong đó:
- Phương pháp tống họp và phân tích tài liệu đối với các cơng trình nghiên
cứu, các bài viết khoa học của nhiều nhà nghiên cứu uy tín trong nước và nước
ngồi cũng như các quy định quốc tế liên quan đến quyền khơng buộc phải đưa ra
lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội làm nền tảng vững
chắc để xây dựng nên hệ thống cơ sở lý luận tại Chương 1.
- Phương pháp lịch sử, phân tích và so sánh trong quy định của BLTTHS
năm 2015 với BLTTHS năm 2003, giữa quy định của pháp luật TTHS Việt Nam
với quy định của pháp luật TTHS quốc tế và một số quốc gia về quyền không buộc
phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của
người BBT tại Chương 2.
7
- Phương pháp điêu tra, phân tích và đánh giá trong thực tiên thi hành quy
định cùa pháp luật về quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình
hoặc buộc phải nhận mình có tội trong hoạt động TTHS. Từ đó, phân tích và tổng
hợp xây dựng các đề xuất nhằm bảo đảm thi hành đúng quy định của pháp luật
TTHS Việt Nam về quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình
hoặc buộc phải nhận mình có tội của người BBT.
- Phương pháp chuyên gia được sử dụng xuyên suốt trong luận văn thơng
qua việc tham khảo, lĩnh hội những ý kiến đóng góp, trao đổi quý giá của một số
nhà nghiên cứu pháp luật để đảm bảo tính khoa học và chuyên sâu của các nội dung
nghiên cứu trong luận văn.
6. Ý nghĩa của luận văn
Nghiên cứu thành công đề tài: “Quyền khơng buộc phải đưa ra lời khai
chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của người bị buộc tội trong
tố tụng hình sự" sẽ góp phần cung cấp một số vấn đề lý luận có liên quan về người
BBT, quyền của nhóm người này; giải quyết những bất cập phát sinh trong quy định
của pháp luật TTHS và thực tiễn thi hành nhằm góp phần bảo đảm quyền và lợi ích
hợp pháp của người BBT trong hoạt động TTHS, hạn chế oan, sai người vô tội,
nâng cao hiệu quả phòng, chống tội phạm, xây dựng nền tư pháp hiện đại vững
mạnh, trong sạch, công bằng.
Luận văn cùng với các cơng trình nghiên cứu khác góp phần hồn thiện hệ
thống lý luận về quyền con người nói chung, quyền của người BBT nói riêng trong
hoạt động TTHS. Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu
tham khảo cho những người nghiên cứu luật pháp hoặc hoạt động thực tiễn điều tra,
truy tố, xét xử VAHS.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài Phần mờ đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận
văn có kết cấu gồm 03 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về quyền không buộc phải đưa ra lời khai
chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của người bị buộc tội
8
Chương 2: Quy định của pháp luật tơ tụng hình sự Việt Nam vê không buộc
phái đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phái nhận mình có tội của
người bị buộc tội
Chương 3: Thực tiền thỉ hành và các giải pháp đảm bảo thi hành đủng quy
định của Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam về quyền khơng buộc phải đưa ra lời
khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội của người bị buộc tội
9
Chương 1
MỘT SỔ VẤN ĐÈ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN KHÔNG BUỘC PHẢI ĐƯA RA
LỜI KHAI CHĨNG LẠI CHÍNH MÌNH HOẶC BUỘC PHẢI NHẬN MÌNH
CĨ TỘI CỦA NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI
1.1. Khái niệm quyền khơng buộc phải đưa ra lịi khai chống lại chính
mình hoặc
nhận
bị• buộc
• buộc
• phải
>
• mình có tội
• của người
”
• tội
•
1.1.1, Khái niệm “người bị buộc tơi”
“Người BBT” là thuật ngữ pháp lý được ghi nhận lần đầu tiên tại khoản 1
Điều 31 Hiến pháp năm 2013: ’’Người BBT được coi là khơng có tội cho đến khi
được
• chứng minh theo trình tự• luật
• định
• và có bản án kết tội
• của Tịa án đà có hiệu
•
lực pháp luật.” và được cụ thể hóa trong một số quy định của BLTTHS năm 2015.
Theo điểm đ khoản 1 Điều 4 BLTTHS năm 2015, thuật ngữ “người BBT” được giải
thích: “Người BBT gồm người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.” Như vậy,
pháp luật TTHS Việt Nam vẫn chưa xây dựng được định nghĩa pháp lý thống nhất
đối với khái niệm “người BBT” mà chỉ dừng lại ờ hình thức liệt kê các chủ thể BBT
có địa vị pháp lý tương ứng với mỗi giai đoạn TTHS khác nhau. Tuy nhiên, có thể
suy ra một số vấn đề liên quan đến nội hàm của khái niệm “người BBT” như sau:
Thứ nhất, người BBT là những người tham gia tố tụng có địa vị pháp lý khác
nhau được xác định thông qua các quyết định tố tụng của cơ quan, người có thấm
quyền THTT theo từng giai đoạn TTHS khác nhau như lệnh bắt, quyết định tạm
giữ, quyết định khởi tố bị can, quyết định truy tố, quyết định đưa vụ án ra xét xử,...
Chẳng hạn, theo quy định của pháp luật TTHS hiện hành, tư cách bị can được xác
lập kề từ khi có quyết định khởi tố bị can và tư cách bị cáo được xác lập kể từ khi
có quyết định đưa vụ án ra xét xử của Tịa án có thẩm quyền. Quyền và nghĩa vụ
pháp lý cùa người BBT tham gia TTHS với địa vị pháp lý cụ thể là người bị bắt,
người bị tạm giữ, bị can hoặc bị cáo cũng được phản ánh dựa trên các quyết định tố
tụng này.
Thứ hai, người BBT chưa phải là người phạm tội và được coi là khơng có tội
trong suốt q trình giải quyết VAHS. Chỉ đến khi cơ quan và người có thẩm quyền
10
THTT chứng minh được tội phạm theo trình tự luật định và Tịa án có thâm qun
xét xử ra bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật thì mới có thể khẳng định người
BBT là người phạm tội. Người BBT thuộc diện đối tượng bị tình nghi đã thực hiện
hành vi nguy hiểm cho xã hội mà BLHS quy định là tội phạm và cơ quan, người có
thấm quyền THTT buộc phải áp dụng biện pháp ngăn chặn, cường chế theo luật
định đề xác định sự thật khách quan của VAHS, làm rõ có hay khơng có tội phạm
xảy ra trên thực tiễn. Sự tình nghi từ phía cơ quan, người có thẩm quyền THTT phải
dựa trên căn cứ pháp lý cùng những tình tiết, sự vật được phản ánh khách quan trên
thực tế đủ để lập luận rằng người BBT có thể đã thực hiện hành vi có dấu hiệu
phạm tội do BLHS quy định. Mặc dù là chủ thể BBT nhưng trong quá trình xác
định sự thật khách quan của vụ án từ khởi tố, điều tra, truy tố đến xét xử, cơ quan,
người có thấm quyền THTT phải làm rõ đầy đủ, toàn diện các chứng cứ gỡ tội và
buộc tội, chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội cũng như các tình
tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ TNHS của người BBT.
Thứ ba, tồn tại hai quan điểm khác nhau khi xác định người BBT chỉ là
người (thế nhân) hay là người hoặc pháp nhân thương mại bị tình nghi thực hiện tội
phạm. Từ đó dẫn đến sự khác nhau khi xây dựng khái niệm “người BBT”.
Giáo trình Luật TTHS Việt Nam của Trường Đại học Luật, Đại học Huế xuất
bản năm 2020 định nghĩa khái niệm “người BBT”: “ “Người BBT” là người bị cơ
quan có thấm quyền áp dụng các biện pháp tố tụng nhằm bảo đảm cho việc truy
cứu TNHS trong bản án. ”[5, tr.86] Đồng quan niệm người BBT chỉ là người (thể
nhân), khi nghiên cứu đề tài luận văn thạc sĩ luật học của mình, ThS. Lê Tiến Quân
đã đưa ra khái niệm người BBT trong TTHS như sau: “Người BBT trong TTHS là
người bị xác định bởi quyết định tố tụng của cơ quan có thâm quyền với tư cách là
người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo theo quy định của pháp luật khi có
căn cứ cho rằng người đó đã thực hiện hành vi có dấu hiệu phạm tội, hoặc người
đỏ đã gây ra hành vi được pháp luật hình sự xác định là tội phạm và những dấu
hiệu của hành vi đó được cơ quan THTTđưa ra theo thủ tục luật định. ”[22, tr.ll]
11
Trong bài viêt “Vê người BBT theo quy định của Bộ luật TTHS Việt Nam
năm 2015” được đăng tải trên tạp chí điện tử Nghiên cứu lập pháp, tác giả viết:
“Người BBT là người hoặc phảp nhãn thương mại mà cơ quan, người có thẩm
quyền, bằng quyết định tố tụng, xác lập tư cách của họ là người hị giữ trong trường
họp khẩn cấp, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo theo quy định của pháp
luật tố tụng hình sự khi có căn cứ cho rằng họ đã thực hiện hành vi có dấu hiệu tội
phạm, hoặc đã thực hiện hành vi phạm tội. ”[ 17] Tác giả bài viết đã lý giải rằng việc
xác định người BBT là người hoặc pháp nhân thương mại còn tùy thuộc vào tư cách
pháp lý cụ thể của họ khi tham gia TTHS là người bị bẳt, người bị tạm giữ, bị can
hoặc bị cáo. Nếu người BBT có tư cách pháp lý là người bị bắt, người bị tạm giữ thì
họ khơng thể là pháp nhân thương mại vì biện pháp ngăn chặn khơng được áp dụng
với pháp nhân thương mại. Nhưng nếu người BBT là bị can, bị cáo thì theo quy
định tại khoản 1 Điều 60 và khoản 1 Điều 61 BLTTHS năm 2015 thì bị can và bị
cáo có thể là người hoặc pháp nhân thương mại, bởi lẽ có thể áp dụng hoặc khơng
áp dụng biện pháp ngăn chặn với bị can và bị cáo.
Khi xây dựng khái niệm “người BBT” tác giả luận văn theo quan điếm người
BBT chỉ là người (thể nhân) bởi lẽ người BBT và chủ thể BBT là hai thuật ngữ
không đồng nhất. Sự khác nhau của hai khái niệm này tương tự như người phạm tội
và chủ thể của tội phạm. Chủ thể BBT là người hoặc pháp nhân thương mại BBT.
Do vậy, người BBT là một dạng chủ thể BBT. Quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 4
BLTTHS năm 2015 phản ánh địa vị pháp lý cụ thể của người BBT trong từng giai
đoạn tố tụng là người bị bắt, người bị tạm giừ, bị can hoặc bi cáo.
Từ những nội dung đã được phân tích ở trên, tác giả luận văn đưa ra khái
niệm người BBT như sau:
Người BBT là người (cá nhân) có năng lực TNHS bị CO' quan, người có thẩm
quyền áp dụng biện pháp tố tụng đê đảm bảo cho việc phòng ngừa, ngăn chặn tội
phạm, truy cứu TNHS khi có đủ căn cứ theo luật định xác định người đó cỏ thế đã
thực hiện tội phạm hoặc hành vi có dấu hiệu tội phạm mà BLHS quy định là tội
phạm. Ngiỉời bị buộc tội tham gia tố tụng có địa vị pháp lý cụ thể là người bị bắt,
12
người bị tạm giữ, bị can hoặc bị cáo được pháp luật quy định tương ứng với từng
giai đoạn tố tụng nhất định.
1.1.2. Khái niệm “lời khai chống lại chính mình của người BBT"
Lời khai là một trong những nguồn chứng cứ quan trọng được ghi nhận tại
điểm b khoản 1 Điều 87 BLTTHS năm 2015 nhằm chứng minh tội phạm, xác định
sự thật khách quan của VAHS:
Điều 87. Nguồn chúng cứ
ỉ. Chứng cứ được thu thập, xác định từ các nguồn:
b, Lời khai, lời trình bày;
Lời khai là lời trình bày được xác lập bằng miệng hoặc bằng văn bản cùa
những người tham gia tố tụng được cơ quan, người có thẩm quyền THTT thu thập,
xác minh theo trình tự, thủ tục luật định về những vấn đề cần phải chứng minh trong
VAHS cũng như các tình tiết khác có liên quan đảm bảo cho việc giải quyết đúng
đắn VAHS. Lời khai trong TTHS bao gồm lời khai của bị can, bị cáo; lời khai của
người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi
tố, người phạm tội tự thú, đầu thú, người bị bắt, bị tạm giữ; lời khai của bị hại, lời
khai người tố giác, báo tin về tội phạm; lời khai của người làm chứng, người chứng
kiến, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đển vụ án và lời khai của nguyên đơn,
bị đơn dân sự được quy định từ Điều 91 đến Điều 98 BLTTHS năm 2015.
Lời khai của những người
tham gia tố tụng:
Cơ sở pháp lý
Điều 98 BLTTHS
Bi can. bi cáo
•
si
năm 2015
Phạm vi nội dung
trình bày trong lịi khai
Những tình tiết của vụ án
Người bị giữ trong trưòng
hợp khẩn cấp, người bị
tố giác, người bị kiến nghị
khởi tố, người phạm tội
Điều 95 BLTTHS
năm 2015
tự thú, đầu thú, người bị
13
Những tình tiết liên quan
đến việc bị tình nghi
thưc
• hiên
• tơi
• pham
1 •
bắt, bị tạm giữ
Những tình tiết về nguồn tin
Điều 92 BLTTHS
Bi hai
•
•
năm 2015
về tội phạm, vụ án, mối quan
hệ với người
BBT và trả lời những câu
hởi đàt
e ra
Người tố giác, báo tin
Điều 96 BLTTHS
về tội phạm
năm 2015
Những tình tiết liên quan
đến việc tố giác, báo tin về
tội phạm
Những gì biết về nguồn tin
về tội phạm, về vụ án,
Điều 9 ỉ BLTTHS
Người làm ch ứng
năm 2015
nhân thân của người BBT, bị
hại, mối quan hệ với người
bị buộc tội, bị hại, người làm
chứng khác và trả lời những
câu hỏi đăt
• ra
Điều 97 BLTTHS
Người chúng kiến
năm 2015
Nhừng tình tiết đã chứng
kiến trong hoạt động
tố tụng
Nhừng tình tiết trực tiếp liên
Người có quyền lợi, nghĩa vụ
Điều 94 BLTTHS
liên quan đến vụ án
năm 2015
Điều 93 BLTTHS
Nguyên đơn, bị đơn dân sự
năm 2015
quan đến quyền lợi, nghĩa vụ
của mình
Những tình tiết liên quan
đến việc bồi thường thiệt hại
do tội phạm gây ra
Bảng 1.1 : Phạm vi nội dung trình bày trong lời khai cùa những người tham
gia tô tụng
14
Lời khai của người tham gia tô tụng khi đặt trong địa vị pháp lý cụ thê sẽ thê
hiện nội dung, ý nghĩa, giá trị khác nhau và được phản ánh chủ quan dựa trên nhận
thức, ý chí của người tham gia tố tụng trong mối liên quan nhất định với VAHS.
Chẳng hạn, lời khai của bị can, bị cáo thể hiện thái độ thừa nhận hay phủ định hành
vi phạm tội; lời khai của bị hại thể hiện sự thiệt hại về thế chất, tinh thần, tài sản
hoặc danh dự, nhân phẩm, uy tín do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra; lời khai
của người làm chứng thể hiện nhận thức cá nhân về những tình tiết liên quan đến
nguồn tin về tội phạm, về vụ án;... Chình vì vậy, trong quá trình giải quyết VAHS,
cơ quan, người có thẩm quyền THTT phải thu thập lời khai của những người tham
gia tố tụng theo trình tự, thủ tục luật định. Đồng thời, tiến hành đánh giá, xác minh
đầy đủ, toàn diện lời khai của những người tham gia tố tụng với nhau và với những
chứng cứ, tài liệu, đồ vật đã phát hiện, thu thập được để xác định, làm rõ những vấn
đề còn mâu thuẫn liên quan đến tình tiết, chứng cứ của vụ án và đảm bảo giá trị
pháp lý của lời khai khi được sử dụng làm căn cứ giải quyết VAHS.
Trong TTHS, người BBT là những người tham gia tố tụng có địa vị pháp lý
trung tâm, là hạt nhân của chu trình tố tụng nên lời khai của nhóm người này đóng
vai trị quan trọng nhưng khơng phải là duy nhất đối với cơ quan, người có thẩm
quyền THTT trong chứng minh tội phạm và giải quyết những vấn đề khác liên quan
cần làm rõ trong vụ án. Vai trò quan trọng của lời khai của người BBT được thể
hiện qua nội dung, giá trị pháp lý cùa lời khai đó. về mặt nội dung, lời khai của
người BBT là lời trình bày của người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can hoặc bị cáo về
những tình tiết liên quan đến việc họ bị tình nghi thực hiện tội phạm hoặc những
tình tiết của vụ án. về mặt giá trị pháp lý, chỉ những lời khai của người BBT có thật
và được thu thập theo đúng trình tự, thủ tục luật định mới được dùng làm chứng cứ
trong vụ án. Lời khai của người BBT không phải là chứng cứ duy nhất để chứng
minh sự thật vụ án, xác định người BBT có tội hay vơ tội mà phải được xem xét,
đánh giá trong tổng thể thống nhất của vụ án, phản ánh rõ ràng tính khách quan và
liên quan với các tình tiết, chứng cứ, tài liệu khác cùa vụ án.
15
Người BBT phải chịu trách nhiệm hoàn toàn vê lời khai đã trình bày với cơ
quan, người có thẩm quyền THTT trong quá trình giải quyết vụ án bởi lẽ rất dề dần
đến một hậu quả pháp lý bất lợi cho người BBT từ lời khai của họ, khiến họ có
nguy cơ bị truy cứu TNHS, bị kết án là người phạm tội. Lời khai của người bị bắt,
người bị tạm giữ, bị can hoặc bị cáo chứa đựng nội dung dẫn đến hậu quả pháp lý
bất lợi cho chính người đó được gọi là lời khai chống lại chính mình của người
BBT, khiến họ thành nhân chứng của chính mình ngay cả khi họ tự nguyện khai báo
hoặc khai báo gian dối, thậm chí là bị ép buộc.
Tóm lại, lời khai chống lại chính mình của người BBT là lời trình bày được
xác lập bằng miệng hoặc bằng vãn bản của những người tham gia tổ tụng có địa
vị pháp lý cụ thế là người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can hoặc bị cáo chửa đựng
nội dung liên quan đến tình tiết, chứng cứ, tài liệu của vụ án có thê dẫn đến hậu
quả pháp lý bất lợi cho người đó, khiến người BBT có nguy cơ bị truy cứu TNHS.
Lời khai chống lại chính mình của người BBT chỉ được coi là chứng cứ chứng
minh trong VAHS khi được cơ quan, người có thâm quyền THTT thu thập, xác
định theo trình tự, thủ tục luật định và phù hợp với những chứng cứ khác của vụ
án. Khơng được dùng lời khai chống lại chính mình của người bị buộc tội làm
chứng cứ duy nhất đê xác định người đó có tội.
1.1.3. Khái niệm “nhận mình có tội của người BBT"
Giải quyết VAHS là quá trình đấu tranh phòng ngừa, chăn ngặn và xử lý tội
phạm diễn biến đầy phức tạp của cơ quan, người có thẩm quyền THTT để chứng
minh tội phạm, đưa tội phạm còn ẩn nấp trong bóng tối ra ngồi ánh sáng, xác định
toàn diện, khách quan sự thật vụ án, làm rõ người BBT có tội hay vơ tội. Ĩ giai
đoạn khởi tố, điều tra, truy tố hoặc xét xử, người BBT có thể có hành vi “nhận mình
có tội”, tức người đó thừa nhận rằng bản thân họ đã thực hiện tội phạm hoặc hành vi
có dấu hiệu tội phạm mà BLHS quy định là tội phạm trong một VAHS nhất định
mà người đó bị tình nghi là người phạm tội. Hành vi nhận mình có tội của người
BBT khơng thể là sự im lặng hay cái gật đầu mà phải được thế hiện rõ ràng dưới
dạng hành động nói, được xác lập bàng miệng hoặc bằng văn bản. Việc nhận mình
16
có tội có thê liên trước hoặc liên sau nội dung trình bày vê diên biên thực hiện tội
phạm; bị hại; thiệt hại do hành vi mà người BBT gây ra hoặc đe dọa gây ra; thời
gian, địa điểm; nguyên nhân, điều kiện; mục đích và động cơ phạm tội nhằm khẳng
định tính có căn cứ của hành vi nhận tội của người BBT. Một người sẽ bị tình nghi
đã thực hiện tội phạm, buộc phải tham gia vào hoạt động tố tụng với địa vị pháp lý
cụ thể là người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, bị áp dụng biện pháp tố tụng,
bị hạn chế một số quyền cơng dân nhất đinh khi người đó thừa nhận rằng mình đã
thực hiện tội phạm trước cơ quan, người có thẩm quyền THTT. Nếu có đủ chứng cứ
chứng minh người đó đã phạm tội như đã nhận tội trước đó thì họ buộc phải bị truy
cứu TNHS, bị Tịa án có thẩm quyền kết án là người phạm tội và thi hành bản án
hình sự.
Như vậy, khái niệm nhận mình có tội của người BBT có thê được hiểu là
hành vi thẻ hiện sự thừa nhận được xác lập hằng lời nói hoặc vãn bản của những
người tham gia tổ tụng có địa vị pháp lý cụ thể là người bị bắt, người bị tạm giữ, bị
can hoặc bị cáo rằng người đó đã thực hiện tội phạm hoặc hành vi có dấu hiệu tội
phạm được BLHS quỵ định là tội phạm được cơ quan, người có thâm quyền tiến
hành THTT thu thập, xác định theo trĩnh tự, thù tục luật định trong quá trình giải
quyết VAHS.
Ớ mồi giai đoạn của hoạt động TTHS, hành vi nhận mình có tội của người bị
buộc tội được thể hiện dưới những hình thức cụ thề như:
Người BBT chủ động tự thú, đầu thú. Theo đó, người BBT đã tự nguyện
khai báo với cơ quan, tổ chức về hành vi phạm tội của mình trước khi hành vi phạm
tội của người đó bị phát hiện (tự thú), hoặc đã tự nguyện ra trình diện và khai báo
với cơ quan có thẩm quyền về hành vi phạm tội của chính mình ngay sau khi tội
phạm bị phát hiện (đầu thú).
Giai đoạn điều tra, người BBT trình bày rõ những tình tiết của vụ án mà
người đó đang bị tình nghi thực hiện tội phạm, đồng thời thừa nhận tính hợp pháp
của những chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội của họ mà cơ quan điều tra đã
phát hiện, thu thập được.
17
Giai đoạn truy tô, người BBT đông ý vê tội danh và những nội dung liên
quan đến tội danh xác định người đó là người có tội trong bán cáo trạng mà VKS
dùng để truy tố bị can trước Tòa án.
Giai đoạn xét xử, người BBT trả lời những câu hỏi có nội dung là làm làm rõ
tình tiết, chứng cứ trong vụ án của Hội đồng xét xử, VKS, người bào chữa của bị
hại theo khuynh hướng khẳng định người thực hiện hành vi phạm tội chính là họ.
Trong lời nói sau cùng, người BBT thừa nhận tội danh trong bản luận tội của VKS
tại phiên tòa xét xử.
Một số vấn đề liên quan đến hành vi nhận mình có tội của người BBT đã
được đề cập đến tại khoản 2 Điều 98 BLTTHS năm 2015 khi quy định về lời khai
của bị can, bị cáo:
Điều 98. Lòi khai của bị can. bị cáo
2. Lời nhận tội của bị can, bị cáo chỉ có thề được coi là chứng cứ nếu phù
hợp với những chứng cứ khác của vụ án. Không được dùng lời nhận tội của bị can,
bị cáo làm chứng cứ duy nhất đê buộc tội, kết tơi.
Thứ nhất, người BBT có thể thừa nhận hoặc khơng thừa nhận là họ có tội
trong vụ án mà họ bị tình nghi phạm tội bởi trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc
về các cơ quan, người có thẩm quyền THTT và người BBT có quyền nhưng khơng
buộc phải chứng minh là mình vơ tội. Trường hợp người BBT khơng nhận mình có
tội nhưng cơ quan, người có thấm quyền THTT có đủ các chứng cứ hợp pháp xác
định người BBT đã thực hiện tội phạm thì Tịa án vẫn có quyền ra bản án kết tội,
truy cứu TNHS với người đó theo quy định của pháp luật.
Thứ hai, trong giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, khơng được coi
hành vi khơng nhận mình có tội của người BBT là tình tiết tăng nặng TNHS, buộc
họ phải chịu mức hình phạt nặng hơn mặc dù có đù chứng cứ để xác định người đó
là người phạm tội. Đồng thời, cũng không được coi sự nhận tội của người BBT là
căn cứ duy nhất đế buộc tội, kết tội người đó, bởi lẽ sự thật khách quan, bản chất
của vụ án không chỉ được chứng minh duy nhất bởi sự nhận tội của người đó mà là
tổng thể các chứng cứ trong vụ án. Thực tế đã có khơng ít trường hợp người BBT
18
“tự nguyện” nhận mình có tội nhăm nhận tội thay cho người khác hoặc bị đe dọa,
bức cung, dùng nhục hình, tra tấn buộc phải nhận là mình có tội. Những vụ án được
giải quyết chỉ hoàn toàn dựa trên sự nhận tội của người BBT để kết tội, buộc tội ắt
dẫn đến hệ lụy nghiêm trọng là làm oan, sai người vô tội, bỏ lọt tội phạm, khiến
nhân dân dần mất niềm tin vào hoạt động tư pháp nước nhà.
Thứ ba, người BBT thừa nhận người đó đã thực hiện tội phạm hoặc hành vi
có dấu hiệu tội phạm mà BLHS quy định là tội phạm chỉ được coi là chứng cứ trong
VAHS khi được co quan, người có thẩm quyền TTHS thu thập, xác định theo trình
tự, thủ tục luật định và phải phù hợp với các chứng cứ khác của vụ án. Kết quả cuối
cùng của quá trình giải quyết VAHS khơng phải là hành vi nhận mình có tội của
người BBT mà phải là làm sáng tỏ các vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án để
giải quyết đúng đắn, khách quan VAHS, không làm oan, sai người vô tội, không bỏ
lọt tội phạm, bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp cùa con người, cơng dân. Cơ
quan, người có thẩm quyền THTT khơng có quyền ép buộc người BBT phải nhận
mình có tội nhưng khuyến khích và ghi nhận thái độ tích cực hợp tác điều tra, làm
rõ tội phạm, thành khẩn khai báo, nhận tội của người BBT trong hoạt động TTHS.
Kịp thời ăn năn hối cải, sớm nhận mình có tội là căn cứ hợp pháp đề người BBT
được hưởng tình tiết giảm nhẹ TNHS khi quyết định hình phạt theo quy định tại
điểm s khoản 1 Điều 50 BLHS năm 2015 nếu người đó thực sự đã phạm tội.
Từ những nghiên cứu về khái niệm “người BBT”, “lời khai chống lại chính
mình của người BBT” và “nhận mình có tội của người BBT”, khái niệm “quyền
không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình
có tội của người BBT trong TTHS” có thể được hiểu như sau:
Quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải
nhận mình có tội của người BBT trong TTHS là hành vi tố tụng của những người
tham gia tổ tụng có địa vị pháp lý cụ thê là người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can
hoặc bị cáo được pháp luật quy định trong quá trình giải quyết VAHS mà theo đỏ
họ được tự do ý chí trĩnh bày lời khai, trình bày ý kiến và không thê bị ép buộc, đe
dọa, cưỡng bức dưới mọi hình thức trái pháp luật để phải trình bày những tình tiết,
19
chứng cứ, tài liệu của vụ án hoặc trả lời các câu hỏi của chủ thề THTT mà người
đó cho rằng có thê dẫn đến hậu quả pháp lỵ bất lợi, khiến họ cổ nguy cơ bị truy cứu
TNHS hoặc
đã thực
hiện
tội
hoặc
hành vi có dấu hiệu
tội
•
Xphải thừa nhận
•
•
•
•
2phạm
•
•
•
•
phạm mà BLHS quy định là tội phạm trong VAHS nhất định mà họ đang bị tình
nghi phạm tội. Sau đây gọi tắt là quyền khơng buộc phái lời khai tự buộc tội chính
mình của người BBT trong TTHS.
1.2. Nội dung và hình thức thể hiện
1.2.1. Nội dung
Quyền không buộc phải đưa ra lời khai tự buộc tội chính mình là quyền hàm
chứa của quyền im lặng (The right to silence) đã được công nhận trong Luật nhân
quyền quốc tế và pháp luật TTHS của nhiều nước trên thế giới. Nếu tiếp cận dưới
góc độ nghĩa hẹp, có thế coi quyền khơng buộc phải đưa ra lời khai tự buộc tội
chính mình là quyền im lặng. Theo đó, trong giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố hoặc
xét xử, những người tham gia tố tụng có tư cách pháp lý cụ thể là người bị bắt,
người bị tạm giữ, bị can hoặc bị cáo được hồn tồn tự do, tự chủ trong việc trình
bày lời khai, trình bày ý kiến trước cơ quan, người có thẩm quyền THTT. Người
BBT khơng thể bị ép buộc, cưỡng ép, đe dọa dưới mọi hình thức, biện pháp trái
pháp luật như mớm cung, bức cung, ép cung, tra tấn, dùng nhục hình,... để phải đưa
ra lời khai, lời nhận tội trái với ý chí, mong muốn của người đó. Đồng thời, họ có
thể trình bày hoặc khơng trình bày những tình tiết, chứng cứ, tài liệu của vụ án cũng
như trả lời các câu hỏi của cơ quan, người có thẩm quyền THTT nếu như bản thân
họ cho rằng việc đó sẽ dẫn đến hậu quả pháp lý bất lợi, gây ảnh hưởng tiêu cực đến
quyền, lợi ích hợp pháp cùa họ, khiến họ có nguy cơ bị truy cứu TNHS.
Quyền không buộc phải đưa ra lời khai tự buộc tội chính mình khơng phải là
quyền tuyệt đối, người BBT có thể thực hiện hoặc khơng thực hiện (từ bở) quyền
này trong bất kỳ điều kiện, hoàn cảnh nào ờ các giai đoạn tố tụng nếu họ cho rằng
việc đó là cần thiết. Thực hiện hoặc khơng thực hiện quyền không buộc phải đưa ra
lời khai tự buộc tội chính mình hồn tồn phụ thuộc vào sự tự nguyện của người
BBT mà khơng có gì ép buộc, ngăn cản. Không thể coi việc thực hiện quyền này
20
của người BBT là biêu hiện của sự chông đôi, ngoan cơ, thiêu hợp tác trong q
trình giải quyết VAHS mà nến nhìn nhận là sự phịng vệ cần thiết và tự nhiên của
người BBT để tránh tự buộc tội chính mình khi bị tình nghi phạm tội. Khơng nhận
tội hoặc im lặng, khơng trình bày những tình tiết, chứng cứ, tài liệu của vụ án cũng
như tù’ chối trả lời các câu hỏi của cơ quan, người có thẩm quyền THTT nếu như
bản thân người BBT cho rằng việc đó sẽ dẫn đến hậu quả pháp lý bất lợi cho họ
không thể là căn cứ để xác định người BBT có tội hay vơ tội. Lời nhận tội, lời khai
chứa đựng nội dung liên quan đến tình tiết, chứng cứ, tài liệu của vụ án có thể dẫn
đến hậu quả pháp lý bất lợi cho người BBT có thể là chứng cứ chứng minh nếu
được thu thập, xác định theo trình tự, thủ tục luật định và phù hợp với những chứng
cứ khác của vụ án. Mặc dù, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can hoặc bị cáo lựa
chọn không thực hiện quyền không buộc phải đưa ra lời khai tự buộc tội chính mình
nhưng cơ quan, người có thẩm quyền THTT vẫn phải tiến hành xác minh, đánh giá
lời khai, lời nhận tội của họ trong mối quan hệ tồng thể với toàn bộ các chứng cứ
của vụ án. Không được dùng lời khai, lời nhận tội của người BBT làm chứng cứ
duy nhất để buộc tội, kết tội họ.
Quyền không phải đưa ra lời khai tự buộc tội chính mình là quyền phái sinh
của ngun tắc suy đốn vơ tội (Điều 13 BLTTHS năm 2015) và nguyên tắc xác
định sự thật của vụ án (Điều 15 BLTTHS năm 2015) trong TTHS. Xuất phát từ nội
hàm của ngun tắc suy đốn vơ tội mà trình bày lời khai, trình bày ý kiến được ghi
nhận là quyền, khơng phải là nghĩa vụ của người BBT. Do đó, họ hoàn toàn được tự
chủ, độc lập khi đưa ra lời khai và không thể bị ép buộc phải nhận tội hoặc khai báo
những tình tiết có thế gây bất lợi về mặt pháp lý cho họ. Người BBT tự nguyện khai
báo, nhận tội hoặc im lặng, không khai báo, từ chối trả lời các câu hỏi của cơ quan,
người có thẩm quyền THTT khơng làm ảnh hưởng đến hoạt động chứng minh tội
phạm, xác định sự thật khách quan của vụ án trong TTHS bởi trách nhiệm chứng
minh tội phạm không phải thuộc về người BBT mà là chú thể THTT. Lời khai, lời
nhận tội cũng như sự im lặng, không nhận tội của người BBT không được coi là căn
cứ duy nhất để xác định có tội hay vô tội, buộc tội hay gỡ tội mà phải căn cứ vào
21