Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Quản lý nhân lực tại trung tâm dữ liệu nhà nước hà nội (luận văn thạc sỹ luật)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (25.49 MB, 101 trang )

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tơi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được cơng bố trong

bất kỳ cơng trình nào khác. Các số liệu, vỉ dụ và trích dẫn trong

Luận văn đảm bảo tính chỉnh xác, tin cậy và trung thực. Tơi đã
hồn thành tất cả các mơn học và đã thanh tốn tất cả các nghĩa vụ

tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Tơi xin chân thành cảm ơn!

NGƯỜI CAM ĐOAN

Hồng Mạnh An


MỤC LỤC
Trang

Trang phụ bìa

Lời cam đoan
Mục lục

Danh mục các từ viết tắt

MỞ ĐÀU.......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VÁN ĐÈ LÝ LUẬN VÈ PHÁP LUẬT VÈ
CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ...................................................................... 13


1.1.

Một số khái niệm................................................................................. 13

1.1.1. Khái niệm chính phủ điện từ................................................................. 13
1.1.2. Phân biệt khái niệm Chính phủ điện tử và Chính phủ số.................... 19
1.1.3. Khái niệm pháp luật về chính phủ điện tử........................................... 23
1.2.

Hệ thống văn bản pháp luật về Chính phủ điện tử........................ 25

1.3.

Yêu cầu pháp luật về chính phủ điện tử.......................................... 26

1.4.

Kinh nghiệm của một số quốc gia về pháp luật về Chính phủ

điện tủ’................................................................................................... 29
1.4.1. Kinh nghiệm của HànQuốc...................................................................29
1.4.2.

Cộng hòa liên bangĐức...................................................................... 30

1.4.3. Cộng hòa Pháp...................................................................................... 31
1.4.4. Bài học và lợi thế trong công cuộc xây dựng CPĐT tại Việt Nam....... 31

CHƯƠNG 2: THựC TRẠNG PHÁP LUẬT VÈ CHÍNH PHỦ ĐIỆN


TỬ TẠI VIỆT NAM.......................................................................... 34
2.1.

Pháp luật về Chính phủ điện tủ’........................................................ 34

2.1.1. Quy định chung về ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt

động cơ quan nhà nước........................................................................ 34
2.1.2. Quy định về một số nội dung cụ thể trong ứng dụng công nghệ
thông tin trong cơ quan nhà nước........................................................ 49


2.2.

về việc thực hiện pháp luật về Chính phủ điện tử....................... 69

2.2.1. ưu điểm................................................................................................. 69
2.2.2. Hạn chế................................................................................................. 72

CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP HỒN THIỆN PHÁP LUẬT VÈ CHÍNH

PHỦ ĐIỆN TỬ TẠI VIỆT NAM........................................................ 79
3.1.

Bổi cảnh tiếp tục hoàn thiện pháp luật về Chính phủđiện tử.......79

3.1.1. Quan điểm của Đảng về phát triển Chính phủ điện tử....................... 79
3.1.2. Triển khai Văn kiện Đại hội XIII của Đảng........................................ 82
3.1.3. Tác động của Cách mạng cơng nghiệp 4.0.......................................... 84
3.2.


Các giải pháp hồn thiện pháp luật về Chính phủ điện tử.......... 86

KÉT LUẬN...................................................................................................... 90

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................... 92


DANH MỤC CÁC TÙ VIẾT TẮT

CMCN 4.0: Cách mạng công nghiệp lần thứ tư
CNTT:

Cơng nghệ thơng tin

CPĐT:

Chính phủ điện tử

CPS:

Chính phủ số

CQNN:

Cơ quan nhà nước

CSDL:

Cơ sở dữ liêu



CSDLQG:

Cơ sở dữ liệu quốc gia

DLQG:

Dữ liệu quốc gia

DN:

Doanh nghiệp

DVC:

Dịch vụ công

DVCTT:

Dịch vụ công trực tuyến

ICT:

Công nghệ thông tin và truyền thông

LHQ:

Liên hợp quốc


TSLCD:

Truyền số liệu chun dùng

TTHC:

Thủ tuc
• hành chính

UBND:

ủy ban nhân dân


MỞ ĐẦU
1. Tính câp thiêt của đê tài
Trong những năm qua, Chính phủ ln quan tâm, coi trọng phát triển

ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT), xây dựng CPĐT và đã đem lại một số

kết quả nhất định. Trong đó, chỉ số phát triển CPĐT của Liên hợp quốc được
đánh giá dựa trên 3 tiêu chí: dịch vụ cơng trực tuyển; hạ tầng viễn thông và

nguồn nhân lực. Theo đánh giá năm 2016, chỉ số phát triển CPĐT của Việt

Nam tăng 10 bậc so với năm 2014 (xếp vị trí 89/193).

về triển khai hạ tầng CNTT trong cơ quan nhà nước, tính đến tháng 07
năm 2018 đã có 17 bộ, cơ quan ngang bộ và 49 tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương đã triển khai mạng diện rộng, trong đó đã kết nối tới trên 80% số


đơn vị thuộc, trực thuộc các bộ, ngành và trên 75% các sở, ngành, quận/huyện
các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; tỷ lệ cán bộ, cơng chức được trang

bị máy tính phục vụ công việc đạt 90,95% ở Trung ương, 97,14% ở các sờ,
ban, ngành cấp tỉnh và 90,87% ở ủy ban nhân dân (UBND) cấp huyện.

về phần mềm ứng dụng CNTT, hàng loạt các hệ thống đã được triển
khai đồng loạt: hệ thống phần mềm quản lý văn bản và điều hành đã được

triển khai tại 100% các Bộ, ngành, địa phương. Có 18 bộ, ngành và 46 tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương triển khai hệ thống quán lý văn bản và điều

hành dùng chung giúp cho việc gửi, nhận văn bản điện tử liên thông giữa các
cơ quan, đơn vị. 15 Bộ, ngành và 44 tỉnh, thành phố đã triển khai sử dụng chữ
ký số chuyên dùng và tích hợp với hệ thống quản lý văn bản, điều hành. Các

Bộ, ngành có 98,8% cán bộ, cơng chức được cấp và thường xuyên sữ dụng

hộp thư điện tử và đối với các tỉnh, thành phố tỷ lệ này trên 82%.

Ngoài ra việc xây dựng các cơ sở dữ liệu quốc gia (CSDLQG) làm nền
tảng cho xây dựng CPĐT (CPĐT), hiện nay, đã triển khai: Cơ sở dữ liệu quốc

gia về đăng ký kinh doanh, Cơ sở dữ liệu quốc gia về thủ tục hành chính....

1


Đang triên khai các Cơ sở dữ liệu quôc gia vê dân cư, Cơ sở dữ liệu Đât đai


quốc gia, Cơ sở dữ liệu quốc gia về Bảo hiểm, Cơ sở dữ liệu quốc gia về Tài
chính. Bên cạnh đó, các Bộ, ngành, địa phương đã tãng cường xây dựng cơ sở

dữ liệu chuyên ngành để phục vụ công tác quản lý của mình.

Bên cạnh những kết quả đạt được nêu trên, việc ứng dụng CNTT, xây
dựng CPĐT còn nhiều hạn chế: Chỉ số phát triển CPĐT năm 2016 tăng 10

bậc so với năm 2014 tuy nhiên trong hơn 15 năm qua Việt Nam luôn ở mức

trên dưới 100, mức trung bình thấp của Bảng xếp hạng.

về cơ chế, chính sách hồ trợ xây dựng CPĐT, chưa có quy định về kết
nối, chia sẻ dữ liệu trong hoạt động của cơ quan nhà nước; thiếu các quy định
cụ thể về văn thư, lưu trữ điện tử, giá trị pháp lý của văn bàn điện tử và các
văn bản quy định việc sử dụng các văn bản điện tử trong giao dịch hành

chính, thanh tốn. Các chính sách ưu đãi thúc đẩy phát triển, ứng dụng CNTT
chậm được triển khai nhất là cơ chế ưu đãi về thuế.

Một số cơ quan, người đứng đầu chưa trực tiếp chỉ đạo, điều hành hoạt
động ứng dụng CNTT, xây dựng CPĐT hoặc công tác chỉ đạo thiếu quyết liệt,

chưa gương mẫu. Bên cạnh đó, cán bộ, cơng chức một số nơi vần có thói quen
làm việc dựa trên giấy, ngại dùng công nghệ do sợ mất quyền kiểm sốt, mất

vai trị và khi cơng khai, minh bạch sẽ bị giám sát. Bộ phận kỳ thuật có tâm lý

cục bộ, khơng liên thơng, chia sẻ thông tin, dữ liệu, muốn tự làm hết từ mua

máy tính đến phần mềm....

Các cơ sở dữ liệu quốc gia, hệ thống thông tin cốt lõi tạo nền tảng ứng
dụng CNTT, phát triển CPĐT chậm được triển khai; các hệ thống thông tin,
cơ sở dữ liệu đã được triển khai thiếu sự kết nối, chia sẻ.

Dịch vụ công trực tuyến tuy có tăng về sổ dịch vụ nhưng dịch vụ cơng
trực tuyến mức độ 3, 4 cịn rất thấp (mức độ 3 khoảng 10%; mức độ 4 khoảng

2%). Dịch vụ công trực tuyến nhất là ở các địa phương triển khai riêng lẻ,

2


chưa đồng bộ dẫn đến trùng lắp, khó có khả năng kết nối, chia sẻ. Các dịch vụ

mức độ 3, mức độ 4 có hiệu quà chưa cao, chưa có hồ sơ trực tuyến hoặc số

lượng hồ sơ trực tuyến cịn thấp (năm 2017 tỷ lệ dịch vụ có hồ sơ trực tuyến
cùa các Bộ, ngành mức độ 3 chiếm 39,93%; mức độ 4 chiếm 55,16%; các
tỉnh, thành phố mức độ 3 chiếm 11,46%; mức độ 4 chiếm 12,11%).

Để thúc đẩy ứng dụng CNTT, xây dựng CPĐT, nâng cao chất lượng

phục vụ người dân, doanh nghiệp và hiệu quả hoạt động, quản lý, điều hành
của các cơ quan trong hệ thống hành chính nhà nước, Chính phủ, Thủ tướng

Chính phũ đã có nhiều giải pháp chỉ đạo, điều hành, trong đó tập trung tiếp

tục hồn thiện mơi trường pháp lý cho việc thúc đẩy ứng dụng CNTT, phát


triển CPĐT như xây dựng, ban hành một số văn bản về kết nối, chia sẻ dừ
liệu, ưu đãi thúc đẩy phát triển, ứng dụng CNTT ban hành một số văn bản

giúp tháo gỡ khó khăn, bất cập trong cơng tác quản lý, đầu tư ứng dụng

CNTT sử dụng nguồn vốn ngân sách nhà nước.

Bên cạnh đó, thành lập ủy ban quốc gia về CPĐT trên cơ sở kiện toàn
ủy ban Quốc gia về ứng dụng CNTT do Thủ tướng Chính phủ làm Chủ tịch
Úy ban. Các Bộ trưởng, thủ trường cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính

phủ và Chủ tịch ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
trực tiếp chỉ đạo, ưu tiên nguồn lực, tăng cường phối hợp xây dựng CPĐT.
Triển khai các giải pháp công nghệ tập trung vào phát triển nền tảng

công nghệ CPĐT phục vụ chỉ đạo, điều hành cùa Chính phù, Thủ tướng
Chính phủ như Khung kiến trúc CPĐT phiên bản 2.0. Tập trung đẩy mạnh

xây dựng và hoàn thiện các cơ sở dữ liệu quốc gia; xây dựng nền tảng tích
hợp, chia sẻ dữ liệu.
Chính phủ đã phân cơng rất rõ ràng, giao nhiệm vụ cụ thể cho từng

cơ quan, Bộ ngành, địa phương tích cực triển khai các dịch vụ cơng mức
độ 3, mức độ 4. Đấy nhanh q trình xây dựng, hồn thiện cổng Dịch vụ

cơng quốc gia.

3



Trước bơi cảnh q trình xây dựng, phát triên CPĐT nhanh và mạnh

mẽ ở nước ta như hiện nay thì bất kể với vai trò là các tố chức, doanh nghiệp
hay với vai trị là một cơng dân thì việc cần có một cái nhìn bao qt về

khung pháp lý đối với lĩnh vực này là điều hết sức cấn thiết. Vì vậy, tác giả đã
lựa
chọn
đề tài “Pháp
luật
về Chính Xphủ điện
tử tại
Việt
Nam hiện
nay ” làm


JL






đề tài luận văn tốt nghiệp cao học ngành luật.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
CPĐT là vấn đề khơng mới, tuy nhiên, dưới góc độ nghiên cứu, các vấn


đề về CPĐT nói chung, khung pháp lý về CPĐT chủ yếu được quan tâm,
nghiên cứu dưới các bài viết đăng trên các tạp chí chuyên ngành, có ít các đề

tài, sách tham khảo về vấn đề này, cụ thể:
2.1. Nhóm các đề tài, sách tham khảo
- Nguyễn Thị Quế Anh, Vũ Công Giao, Vũ Ngọc Anh, Nguyễn Thị

Minh Hà (2019), Chính phủ mở, CPĐT và quản trị nhà nước hiện đại, sách
tham khảo, Nhà xuất bản Hồng Đức, 2019. Cuốn sách đã tập hợp các bài
tham luận nghiên cứu về Chính phủ mở, CPĐT và mối quan hệ của các mơ

hình này với vấn đề quản trị nhà nước hiện đại.
- Nguyễn Sỳ Anh (2018), Mô hình CPĐT - Kinh nghiệm thế giới và đề
xuất đoi với Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội, đề tài nghiên cứu khoa

học, TS. Nguyễn Thị Thuận hướng dẫn. Đề tài đã trình bày những vấn đề lý
luận về mơ hình CPĐT. Phân tích mơ hình CPĐT của một số quốc gia trên

thế giới và thực trạng xây dựng, triển khai mơ hình CPĐT tại Việt Nam trong

thời gian qua. Đưa ra kiến nghị nhằm phát triển và vận hành mơ hình này ở
nước ta trong tương lai.
- Bộ Tư pháp (2020), Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư và những vấn
đề pháp lỷ đặt ra cho việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam

(Kỷ yếu hội thảo Quốc gia), Nxb Tư pháp. Kỷ yếu tập họp các bài viết nhận

4



diện những vân đê pháp lý đặt ra từ cuộc Cách mạng cơng nghiệp 4.0 và tác

động của nó tới hệ thống pháp luật Việt Nam; trên cơ sở đó xác định hướng
tiếp cận, các định hướng và giải pháp lớn nhằm từng bước xây dựng, hoàn

thiện khung pháp lý thuận lợi cho đổi mới sáng tạo, ứng dụng thành tựu của
Cách mạng công nghiệp 4.0, đồng thời thúc đẩy khoa học cơng nghệ phát

triển, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, người dân và doanh

nghiệp; kiếm sốt rủi ro và phịng, chống hiệu quả các vi phạm pháp luật.
2.2. Nhóm các bài tạp chí

- Đồ Hồng Ánh (2020), Đẩy mạnh xây dựng CPĐT ở Việt Nam trong
điều kiện mới, tạp chí Quản lý nhà nước, số 7, tr.107-110. Bài viết phân tích

vai trị của CPĐT tại Việt Nam trong điều kiện mới. Từ đó đề xuất một sổ
kinh nghiệm nhằm hoàn thiện vấn đề này.

- Nguyễn Thị Thanh Nga (2020), Phát triển trí tuệ nhân tạo trong xây
dựng CPĐT, tạp chí Quản lý nhà nước, số 7, tr. 36-40. Bài viết phân tích về

các đặc tính cơ bản lợi ích và nguy cơ thách thức của trí tuệ nhân tạo (AI).

Trên cơ sở đó, đề xuất một sổ kiến nghị phát triển AI nhằm góp phần xây
dựng CPĐT ờ nước ta hiện nay.

- Nguyễn Xuân Văn (2020), Tăng cường ứng dụng trí tuệ nhân tạo
(AI) trong xây dựng CPĐT ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, Tạp chí
Thanh tra, số 5, tr. 41-43. Bài viết làm rõ thực trạng và đưa ra các giải pháp

nham đay mạnh ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong xây dựng CPĐT tại Việt
Nam trong thời gian tới.

- Hoàng Thị Kim Chi (2020), Xây dựng CPĐT ở Việt Nam - kết quả
bước đầu và những vấn đề cần tiếp tục đẩy mạnh, tạp chí Tổ chức nhà nước,
Số 12, tr. 13-16. Bài viết trình bày tầm quan trọng cùa việc phát triển ứng

dụng công nghệ thông tin trong hoạt động cùa cơ quan nhà nước, xác định
đây là động lực góp phần thúc đẩy cơng cuộc đổi mới tạo khả năng đi tắt, đón
đầu để từng bước thắng lợi sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố.

5


- Tập đồn Bưu chính Viễn thơng Việt Nam (2019), Hoàn thiện pháp
luật thủc đẩy phát triển CPĐT ở Việt Nam qua góc nhìn doanh nghiệp,
Thơng tin Khoa học Pháp lý, số chuyên đề 4, tr. 52-57. Chuyên đề đã khái

quát hiện trạng, nhu cầu triển khai vận hành CPĐT tại Việt Nam; những vấn

đề đặt ra đối với việc hồn thiện hành lang pháp lí trong triển khai, vận hành

CPĐT tại Việt Nam.

- Nguyễn Thị Kim Chung (2019), Hoàn thiện chính sách, pháp luật đê
thúc đẩy phát triển CPĐT, tạp chí Quản lý nhà nước, số 8, tr. 29-33. Bài viết

nêu kết quả và những hạn chế bất cập của hệ thống chính sách pháp luật nhằm

phát triển CPĐT tại Việt Nam. Đưa ra giải pháp hồn thiện chính sách pháp


luật, khung pháp lí đồng bộ cho việc xây dựng, triển khai CPĐT.
- Nguyễn Văn Phương, Nguyễn Phú Hiến (2019), Xây dựng CPĐT,
chính phủ sổ ở 'Việt Nam, tạp chí Tổ chức nhà nước, số 1, tr. 56-59. Bài viết

phân tích, đánh giá chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước và

kết quả đạt được về xây dựng CPĐT qua từng giai đoạn; một số giải pháp xây

dựng, phát triền CPĐT, chính phủ số trong thời gian tới.

- Nguyễn Thị Hương, Nguyễn Xuân Cường (2019), Xu hướng phát
triển CPĐT của thế giới và gợi mở cho Việt Nam, Tạp chí Tổ chức nhà nước,
Số 6, tr. 75-79. Bài viết nêu xu hướng phát triển CPĐT. Kinh nghiệm của
những quốc gia đứng đầu về xây dựng CPĐT năm 2018 và những kết quã,
hạn chế trong việc xây dựng CPĐT tại Việt Nam.

- Hoàng Thị Kim Chi (2019), Đảnh giả của Liên Hiệp quốc về CPĐT
tại Việt Nam giai đoạn 2014 - 2018, Tạp chí Quản lý nhà nước, số 3, tr. 89-

91. Bài viết đã phân tích những đánh giá của Liên Hiệp quốc về chỉ số phát

triển CPĐT (EGDI) tại Việt Nam giai đoạn 2014-2018. Nêu định hướng phát

triển CPĐT trong thời gian tới nhằm xây dựng các đô thị thông minh, xã hội
số và nền kinh tế số.

6



- Nguyễn Huy Phịng (2018), Cách mạng cơng nghiệp 4.0 và những tác
động đến xây dụng CPĐT ở nước ta, Tạp chí Quản lý nhà nước, số 3/2018, tr.

101 - 105. Bài viết đã nêu ưu thế, đặc trưng của cuộc Cách mạng công nghiệp

4.0; xây dựng CPĐT trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0; Một sổ
giải pháp đấy mạnh xây dựng CPĐT trong bối cảnh tác động cách mạng 4.0.

- Phạm Tiến Luật (2018), Những thách thức trong xây dựng CPĐT ở
Việt Nam, tạp chí Quản lý nhà nước, số 1/2018, tr. 102 - 105. Bài viết đã

phân tích CPĐT là một mục tiêu chiến lược nước nào cũng hướng tới. Việt
Nam đang giai đoạn hình thành, còn khoảng cách khá xa với các nước trên thế

giới. Đây là thách thức, là động lực để Chính phủ, người dân, doanh nghiệp

trên con đường tiến tới CPĐT đạt hiệu quả cao. Tác giả đề xuất các nhóm giải
pháp cho vấn đề trên.

- Ngô Thành Can (2018), Phát triển CPĐT hướng tới hoạt động quản
lý nhà nước minh bạch, hiệu lực, hiệu quả, tạp chí Tổ chức nhà nước, số

10/2018, tr. 7-10. Bài viết đã phân tích xây dựng CPĐT, ứng dụng CNTT

trong quản lý nhà nước, hướng tới chính phủ số, nền kinh tế số là một chủ
trương lớn cần được đẩy mạnh triển khai. Thời gian qua chúng ta đã đạt được

một số thành công trong ứng dụng CNTT vào quản lý nhà nước song càn có
những giải pháp mạnh để phát triển CPĐT trong thời gian tới.


- Trần Thị Minh Tuyết (2018), Xây dựng CPĐT - bước phát triển tất
yếu trong quá trình cải cách hành chính, tạp chí Lý luận Chính trị, số 4/2018,

tr. 70 - 75. Bài viết nêu việc xây dựng CPĐT thành xu thế tất yếu của mọi
quốc gia trong quá trình hội nhập. Ớ Việt Nam, yêu cầu cải cách hành chính
càng làm vấn đề xây dựng CPĐT trở nên cấp thiết, đẩy nhanh quá trình xây

dựng CPĐT hướng tới một nền hành chính hiện đại, đáp ứng yêu cầu phát

triển của đất nước là nhiệm vụ cấp bách hiện nay.
- Lê Văn Điệu (2017), Hồn thiện cơng tác quản lý nhà nước về hạ

7


tầng thông tin trong xây dụng CPĐT ở Việt Nam, tạp chí Quản lý nhà nước,

Số 12/2017, tr. 102 -105. Bài viết nêu việc xây dựng CPĐT đóng vai trị quan

trọng trong chiến lược cải cách hành chính, đổi mới tố chức, hoạt động của bộ
máy nhà nước; những bất cập trong công tác quản lý nhà nước và các nhóm
giải pháp cho vấn đề trên.

- Trần Thiết (2016), Lợi ích cơ bản từ CPĐT ở một số quốc gia, Tạp
chí Xây dựng Đảng, số 9/2016, tr. 63 - 65. Bài viết đã nêu kinh nghiệm xây
dựng và vận hành CPĐT ở một số nước: Mỹ, Singapore,Trung Quốc; lợi ích
cơ bản trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, đối nội, đối ngoại, an ninh - quốc

phòng, trật tự an tồn xã hội.


- Ngun Văn Phương (2016), ưng dụng cơng nghệ thông tin trong
hoạt động của cơ quan nhà nước, hướng tới CPĐT, tạp chí Tơ chức Nhà
nước, Số 1/2016, tr. 28 - 30. Bài viết nêu và phân tích vấn đề ứng dụng công

nghệ thông tin trong hoạt động của cơ quan nhà nước, hướng phát triển CPĐT

là xu thế tất yếu, là mơ hình phố biến cùa nhiều quốc gia; những kết quả đạt

được, hạn chế và nguyên nhân.

- Nguyễn Hải Đăng (2016), Xây dựng CPĐT hướng tới chính phủ kiến
tạo, phát triên và hội nhập, tạp chí Tổ chức nhà nước, số 10/2016, tr. 47 - 51.

Bài viết nêu ý nghĩa, vai trò cùa CPĐT trong bối cảnh xây dựng Chính phù
kiến tạo, phát triển ở nước ta; q trình ứng dụng cơng nghệ thơng tin nhằm

xây dựng CPĐT tại một số lĩnh vực trọng điểm thời gian qua; những vấn đề

đặt ra trong xây dựng CPĐT nhằm hướng tới Chính phủ kiến tạo, phát triển.

- Nguyễn Nhật Nam (2016), CPĐT ở Xinh - ga - po - kinh nghiệm cho
Việt Nam, Tạp chí Quản lý nhà nước, số 3/2016, tr. 108 - 110. Bài viết nêu

những thành công của Xinh-ga-po trong hơn 35 năm qua đã triển khai nhiều
chương trình chiến lược phát triển cơng nghệ thơng tin và truyền thơng trong
đó có CPĐT và tin học hóa quản lý hành chính, từ đó nêu một số kinh nghiệm

cho Việt Nam.

8



- Nguyễn Thị Tâm (2015), An tồn thơng tin trong CPĐT, Tạp chí
Quản lý nhà nước, số 12/2015, tr. 90 - 93. Bài viết đã nêu những vấn đề
chung về CPĐT; phân tích lộ trình phát triển CPĐT tại Việt Nam và vấn đề an

tồn thơng tin trong CPĐT tại Việt Nam.

- Truông Hồ Hải (2015), CPĐT - cầu nổi giữa Chính phủ với doanh
nghiệp và cơng dân, Tạp chí Quản lý nhà nước, số 2/2015, tr. 92 - 95. Bài

viết khái quát về CPĐT. Phân tích thực trạng phát triển CPĐT tại Việt Nam
hiện nay về cơ sở pháp lý, nguồn nhân lực, hạ tầng công nghệ thông tin. Đe

xuất phương hướng và giải pháp phát triển hoạt động này ở nước ta.

- Đỗ Hữu Thùy Dương (2015), CPĐT và phương tiện truyền thông xã
hội - Những công cụ hiệu quả trong cơng cuộc chong tham nhũng, Tạp chí
Thanh tra, số 5/2015, tr. 39 - 40. Bài viết tìm hiểu những tác động tiềm năng
của thông tin và công nghệ thông tin, đặc biệt là CPĐT và phương tiện truyền
thông xã hội trong việc minh bạch và giảm tham nhũng.

- Nguyễn Thị Thu Hương (2015), Những thách thức trong xây dựng
CPĐT ở Việt Nam, tạp chí Quản lý nhà nước, số 1/2015, tr. 83 - 85. Bài viết
nêu những cơ hội phát triển của CPĐT tại Việt Nam; những thách thức trong

phát triển CPĐT hiện nay: nhận thức và hiểu biết về cơng nghệ thơng tin, cải

cách hành chính, hợp tác giữa các cơ quan, đào tạo kỹ năng cho cán bộ; đề
xuất các giải pháp phát triển CPĐT tại Việt Nam.


- Vũ Tấn Cương (2015), Xây dựng khung kiến trúc CPĐT, tạp chí Quán
lý nhà nước, số 4/2015, tr. 91 - 94. Bài nêu vai trò của khung kiến trúc CPĐT và

nhũng lợi ích của nó, một số khung kiến trúc phổ biến như khung Zachman,
TOGAF và những vấn đề đặt ra khi xây dựng khung kiến trúc CPĐT quốc gia.

Như vậy, một số vấn đề lý luận về CPĐT nói chung, pháp luật về CPĐT
nói riêng đã được quan tâm, nghiên cứu, tuy nhiên, mới chỉ tập trung nghiên

cứu vào những vấn đề chung nhất, khái quát nhất về CPĐT và pháp luật về

9


CPĐT và cũng chủ yêu dưới hình thức là các bài báo đăng trên tạp chí chun

ngành, chưa có cơng trinh nghiên cứu một cách toàn diện về thực trạng pháp

luật về CPĐT nói chung, trong đó, đánh giá về thực trạng pháp luật ứng dụng
CNTT và truyền thông trong hoạt động của Chính phủ và mối quan hệ cơ bản
của Chính phủ với cơng dân, doanh nghiệp và chính quyền các cấp, trong đó,

đánh giá ưu, nhược điếm của khung pháp luật này, từ đó đưa ra một số định

hướng, giải pháp hồn thiện Pháp luật về CPĐT nói chung, việc ứng dụng

CNTT trong hoạt động của Cơ quan nhà nước trong thời gian tới.

3. Mục

vụ• nghiên
cún
• đích và nhiệm

<_*
3.1. Mục đích

Luận văn làm rõ một số vấn đề lý luận và pháp luật về CPĐT, từ đó

đề xuất một số định hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về CPĐT tại

Việt Nam trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ

- Làm rõ một số vấn đề lý luận về pháp luật về CPĐT, cụ thể làm rõ
khái niệm, đặc điểm của CPĐT, từ đó so sánh với Chính phủ số; làm rõ
khái niệm và thống nhất trong nhận thức về pháp luật về CPĐT và các vấn
đề có liên quan.

- Đánh giá thực trạng pháp luật nói chung và pháp luật về pháp luật về
CPĐT nói riêng, trong đó tập trung đánh giá về thực trạng pháp luật ứng dụng

CNTT và truyền thơng (ICT) trong hoạt động của Chính phủ và mối quan hệ
cơ bản của Chính phủ với cơng dân, doanh nghiệp và chính quyền các cấp,

trong đó, đánh giá ưu, nhược điểm của khung pháp luật này.

- Đưa ra một số định hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về CPĐT
nói chung, việc ứng dụng CNTT trong hoạt động của hệ thống cơ quan nhà
nước trong thời gian tới.


10


4. Đôi tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đoi tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là hệ thống pháp luật về Chính phủ

điện tử, trong đó tập trung đánh giá các quy định về ứng dụng CNTT và
truyền thơng (ICT) trong hoạt động của Chính phủ và mối quan hệ cơ bản của
Chính phủ với cơng dân, doanh nghiệp và chính quyền các cấp hướng tới việc

xây dựng CPĐT tại Việt Nam.

4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vì về nội dung: Các quy định của pháp luật Việt Nam về ứng
dụng CNTT và truyền thông (ICT) trong hoạt động cơ quan nhà nước thuộc
Chính phủ và mối quan hệ cơ bản của Chính phủ với cơng dân, doanh nghiệp

và chính quyền các cấp.

- Phạm vi về khơng gian: Lãnh thổ Việt Nam.
- Phạm vi về thỏi gian: từ năm 2005 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cún

- Cơ sở lý luận: Các nội dung nghiên cứu của Luận văn được nghiên
cứu trên cơ sở chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước về ứng dụng
cơng nghệ thơng tin nói chung, xây dựng CPĐT nói riêng.

- Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng tồng hợp nhiều biện

pháp như: phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh để tìm hiểu về thực trạng về

phát luật về CPĐT tại Việt Nam hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn góp phần làm rõ những vấn đề cơ bản của hệ thống pháp luật

về CPĐT tại Việt Nam hiện nay.

Qua phân tích lý luận cơ bản đối với pháp luật về CPĐT và thực trạng

triển khai tại Việt Nam, luận văn đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả trong việc thực hiện công tác xây dựng khung pháp luật và đẩy mạnh việc

triển khai CPĐT tai Viêt Nam.

11


7. Ket cấu của luận văn

Ngoài Phần mở đầu, Phần kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn có cơ cấu ba chương như sau:
Chương ỉ'. Một số vấn đề lý luận về pháp luật về CPĐT.

Chương 2: Pháp luật về CPĐT tại Việt Nam.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật về CPĐT tại Việt Nam.

12



Chương 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ
PHÁP LUẬT VÈ CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỦ
1.1. Một sơ khái niệm

1.1.1. Khái niệm chính phủ điện tử
Cơng nghệ thơng tin và truyền thơng (ICT) đóng vai trị ngày càng

quan trọng trong cuộc sống hàng ngày của con người, làm biển đổi sâu sắc
cách thức làm việc, giải trí và thay đối các nguyên tắc tiến hành kinh doanh.
Trên bình diện Chính phủ, các ứng dụng ICT hứa hẹn việc cung cấp hàng hoá

và dịch vụ công cho người dân sẽ trở nên tốt hon không chỉ thông qua việc cải
tiến các thủ tục và cách thức quản lý của chính phủ mà cịn qua việc xác định

lại các khái niệm truyền thống về quyền công dân và dân chủ.

Ảnh hưởng của ICT đối với xã hội là rất sâu rộng nhưng lại không
đồng đều. Một mặt, ICT thúc đẩy quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế công
nghiệp sang nền kinh tế tri thức. Mặt khác, ICT có rất ít hoặc hầu như khơng

có ảnh hưởng tới cuộc sống của người dân tại nhiều nước trên thế giới. Sự

cách biệt đáng kể về ảnh hưởng của ICT trên khắp thế giới hiện nay đã cho
thấy q trình phát triển khơng đồng đều của nền kinh tế. Nó cũng chỉ ra vai
trị quan trọng của Chính phủ trong thế kỷ thơng tin [49, tr.6]. Công nghệ

thông tin và truyền thông là nền tảng quan trọng để xây dựng CPĐT, tiến tới
xây dựng Chính phủ số. ứng dụng ICT thành cơng trên nhiều phương diện


góp phần quan trọng trong xây dựng thành công CPĐT.
Từ những năm 2000, Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm, coi trọng phát

triển ứng dụng CNTT trong hoạt động của cơ quan nhà nước, xác định đây là
động lực góp phần thúc đẩy công cuộc đổi mới tạo khả năng đi tắt, đón đầu để
thực hiện thắng lợi sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Ngày nay, ứng dụng CNTT trong hoạt động của cơ quan nhà nước

13


(CQNN), phát triên CPĐT, hướng tới Chính phủ sơ (CPS), nên kinh tê sô và
xã hội số là xu thế tất yếu, là mơ hình phổ biến của nhiều quốc gia. Xây dựng
CPĐT, CPS trở thành nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của bất cứ Chính phủ

nào. Chính thủ điện tử cho phép người dân tương tác, nhận được các dịch vụ từ
Chính phủ 24 giờ một ngày, 07 ngày một tuần, tăng tính minh bạch, giảm chi

phí, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Chính phủ, góp phần làm giảm
tiêu cực, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng.

Trên phương diện quốc tế, các vấn đề pháp lý về CPĐT nói chung, về
khái niệm CPĐT đã nhiều tổ chức quốc tế đề cập, cụ thể:

Theo Ngân hàng Thế giới (World Bank):
CPĐT là việc các cơ quan Chính phủ sử dụng một cách có hệ thống

cơng nghệ thơng tin - truyền thông để thực hiện quan hệ với công

dân, doanh nghiệp và các tổ chức xã hội. Nhờ đó giao dịch của các
cơ quan Chính phủ với cơng dân và các tổ chức sẽ được cải thiện,

nâng cao chất lượng. Lợi ích thu được sẽ là giảm thiểu tham nhũng,

tăng cường tính cơng khai, sự tiện lợi, góp phần vào sự tãng trưởng
và giảm chi phí.

Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD):
CPĐT (E-Govemment) là việc Chính phủ sử dụng các công nghệ
thông tin và truyền thông (ICT), đặc biệt là Internet, như một công

cụ để đạt được hiệu quả tốt hơn.

Hiệp định Khung E-ASEAN, mặc dù không đưa ra khái niệm CPĐT,
tuy nhiên đã đưa ra khuyến nghị về phát triển CPĐT tại các quốc gia thành

viên ASEAN tham gia hiệp định cụ thể như sau:
1 - Các nước thành viên sẽ sử dụng ICT để cải thiện việc cung cấp

và chuyển giao các dịch vụ của Chính phủ. 2- Các nước thành viên

sẽ từng bước cung cấp hàng loạt các dịch vụ công và tiến hành các

14


giao dịch trực tuyến bằng việc sử dụng ICT để tạo thuận lợi cho
việc liên kết giữa khu vực tư nhân và Chính phủ, đồng thời nâng
cao tính minh bạch. 3- Các nước thành viên sẽ tiến tới tăng cường


họp tác liên chính phủ bằng việc: đẩy mạnh việc sử dụng các
phương tiện điện tử trong việc mua sắm hàng hóa và dịch vụ, và tạo

thuận lợi cho việc di chuyển tự do hơn đối với hàng hóa, thơng tin
và con người trong nội bộ ASEAN [29, Điều 9].

Theo Sally Katzen, Phó Giám đổc điều hành cơ quan quản lý ngân sách
thời Tổng thống Bill Clinton:

CPĐT là việc người dân và doanh nghiệp có thể truy cập thơng tin
và sử dụng dịch vụ Chính phủ 24/24 giờ, 7 ngày mỗi tuần. CPĐT
chủ yếu dựa vào các cơ quan Chính phủ sử dụng Internet và công

nghệ tiên tiến khác đề nhận và cung cấp thông tin, dịch vụ dề dàng

hơn, nhanh hơn, hiệu quả hơn và rẻ hơn [60].
Đây là một định nghĩa ngắn gọn nhưng lại chỉ ra được sự khác biệt giữa
CPĐT và chính phủ truyền thống. Nội dung về CPĐT được khái niệm nêu
nhanh chóng trờ thành mục tiêu trong chiến lược xây dựng CPĐT của nhiều

quốc gia, khiến nó trở thành khái niệm dễ hiểu và được trích dần nhiều nhất.
Tại Việt Nam, khái niệm về CPĐT đã được một số nhà nghiên cửu

quan tâm, trong đó, quan điểm được phổ biến được nhiều tác giả ghi nhận,
viện dẫn đó là: “CPĐT là Chính phủ ứng dụng CNTT nhằm nâng cao hiệu

lực, hiệu quả hoạt động của Cơ quan nhà nước, tăng cường công khai, minh

bạch thông tin, cung cấp dịch vụ công tốt hơn cho người dân và doanh

nghiệp” [3, tr. 156]. Hoặc cũng có tác giả cho rằng: CPĐT là thuật ngữ chỉ
"Sự hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước được ứng dụng một cách có

hiệu quả những thành tựu của khoa học, công nghệ thông tin, điện tử để điều
hành các lĩnh vực của đời sống xã hội cần có sự tham gia của nhà nước và

15


cung ứng đây đù, khân trương, liên tục với chi phí thâp các dịch vụ cơng cho

mọi tổ chức, cá nhân thông qua các phương tiện thông tin điện tử [50].
Bên cạnh đó, CPĐT cũng được tiếp cận, hiểu theo nhiều nghĩa phụ

thuộc vào mức độ ứng dụng CNTT vào hoạt động quản lý cơng, khả năng ưu

tiên về chính sách, và khả năng ứng dụng CNTT của từng chính phủ cụ thể.

Theo nghĩa rộng thì CPĐT là việc sử dụng Internet (online-trực tuyến) trong
các hoạt động tương tác giữa chính phủ với các bộ phận khác nhau trong xã

hội hoặc chỉ đơn giản là nâng cao năng lực ứng dụng CNTT cùa nhân viên
hành chính thuộc bộ máy cơng. Theo nghĩa cụ thể hơn thì CPĐT là việc sử
dụng CNTT, mà đặc biệt là Internet, như là một công cụ để hỗ trợ nhằm đạt

đến một chính phủ hoạt động hiệu quả nhất.

Như vậy, nhìn chung, các khái niệm về CPĐT đều coi đó là việc ứng
dụng thành tựu khoa học CNTT vào điều hành của Chính phủ và tưong tác


của Chính phủ đối với các thành tố khác trong xã hội như công dân, doanh
nghiệp... nhằm phân phối dịch vụ trực tiếp tới khách hàng không giới hạn

thời gian. Sự ra đời của CPĐT là một cuộc cách mạng trong tiến trình phát

triển hành chính cơng. CPĐT sẽ làm thay đổi phương thức sản xuất và cung
ứng dịch vụ công nhằm phục vụ người dân tốt hơn. CPĐT cũng đặt ra những

thách thức lớn hơn bao giờ hết, đặc biệt là sự biến đổi không ngừng với tốc độ
nhanh về công nghệ khiến các dự án công nghệ trong khu vực công luôn đứng

trước nguy cơ lạc hậu.
Trong phạm vi luận văn, tác giả tiếp cập khái niệm CPĐT dưới góc độ

ứng dụng CNTT và truyền thơng (ICT) trong Chính phủ, trong đó, tập trung

vào hoạt động điều hành của Chính phủ. Theo đó, tác giả đồng ý với quan

điểm cho rằng: CPĐT là Chính phủ sử dụng ICT như mạng diện rộng (WAN),
internet và các phương tiện di động để liên hệ với các công dân, doanh

nghiệp và bản thân các CO' quan của Chính phủ [56], Các dịch vụ của CPĐT

16


thơng thường bao gơm các nhóm dịch vụ: G2C - Chính phủ cung câp thơng

tin và dịch vụ cho người dân; G2B - Chính phủ cung cấp thơng tin và dịch vụ
cho doanh nghiệp; G2G - Cung cấp thông tin và các dịch vụ liên quan giữa

các cơ quan Chính phủ với nhau; G2E - Chính phủ cung cấp các thông - dịch

vụ cho cán bộ, công chức, viên chức.

Từ đó, có thể rút ra một số đặc điểm chung về CPĐT như sau:

Thứ nhất, CPĐT là Chính phủ sử dụng CNTT và truyền thơng để tự

động hóa và triến khai các thủ tục hành chính thuộc chức năng, nhiệm vụ của
Chính phủ.

Thứ hai, CPĐT cho phép cơng dân có thể truy cập, thực hiện các thủ

tục hành chính thơng qua các phương tiện điện tử như internet, điện thoại di

động, truyền hình tương tác ...
Thứ ba, CPĐT là Chính phủ làm việc với người dân 24/24 giờ, 7 ngày
mỗi tuần, 365 ngày mỗi năm và người dân có thể thụ hưởng các dịch vụ công
dù họ ở bất cứ đâu.

Với nhận thức trên, nền tảng cơ sở của CPĐT là việc ứng dụng ICT và
được sử dụng để giải quyết các mối quan hệ cơ bản của Chính phủ trong hoạt

động của mình là với cơng dân, doanh nghiệp và chính quyền các cấp.
Các nghiên cứu đã cho thấy vai trị tích cực của CPĐT bao gồm [8, tr. 335]:
(i) Thúc đẩy người dân tham gia trực tuyến với chính phủ như tìm kiếm thơng
tin của CPĐT, giao dịch kinh doanh trực tuyến và đóng góp đầu vào chính

sách công [55]. Khả năng tiếp cận từ xa các dịch vụ cơng cũng như tham gia
vào các hoạt động chính trị cao sẽ tiếp cận được với nhóm yếu thế, thu hẹp


bất bình đẳng xã hội [57, tr.5O]; (ii) Giảm chi phí, tăng chất lượng và thời
gian phục vụ của dịch vụ công bởi việc cung cấp trực tuyến 24/24h, giảm thời
gian và cơng sức của nhân viên chính phủ, từ đó tăng hiệu quả của dịch vụ

cơng [53, tr.82]; (iii) Tạo môi trường kinh doanh tốt hơn thông qua việc cải

17


thiện mơi trường tương tác giữa chính phủ và doanh nghiệp, đặc biệt là doanh
nghiệp vừa và nhỏ... .

Với nhận thức CPĐT là Chính phũ sử dụng ICT trong giao tiếp với

công dân, doanh nghiệp và với các cơ quan của mình, Báo cáo của cơ quan
thuộc Liên hợp quốc đã xác định các yếu tố có vai trị quan trọng quyết định

sự hình thành và phát triển của CPĐT bao gồm [54, tr.23]: (1) Yếu tố chính trị

và quyết tâm của chính phủ. CPĐT là một hình thức hồn toàn khác biệt so
với sự vận hành truyền thống của các chính phủ, do đó, việc xây dựng CPĐT

cần đến quyết tâm chính trị và có mục tiêu, định hướng rõ ràng, có kế hoạch
sử dụng các nguồn lực để thực hiện nhiệm vụ cũng như có cơ chế phối hợp
chặt chẽ giữa các bộ phận trong quá trình thực hiện; bên cạnh đó, sự nhận
thức và chuyển đổi tư duy từ nền hành chính lấy cơng dân làm trung tâm cũng

cần được chuyển đồi sang tư duy thúc đẩy công dân và doanh nghiệp tự nhận


thức và thực hiện quyền của mình; (2) Khung pháp lý: Sử dụng ICT trong

hoạt động của Chính phủ là thay đối hồn tồn giao thức thực hiện dịch vụ

công từ giấy tờ sang văn bản điện tử. Điều này đặt ra các vấn đề về tính pháp

lý của các văn bản điện từ, định danh điện tử cho công dân, doanh nghiệp và
các cơ quan cùa Chính phủ cũng như các vấn đề về bảo mật thông tin, nguyên
tắc sử dụng dừ liệu cá nhân ... Khung pháp lý phải được xây dựng để làm cơ

sở cho sự lan tỏa của các dịch vụ công trên nền táng công nghệ; (3) Cơ quan

điều phối dự án CPĐT phải đủ mạnh và có khả năng điều phối hoạt động hiệu
quả; (4) Nhân lực: phương thức giao tiếp mới đòi hỏi năng lực từ hai phía, về

phía chính phủ là kỳ năng và năng lực của bộ máy hành chính cơng thiết lập
và vận hành CPĐT, về phía cơng dân và doanh nghiệp là khả năng sử dụng và
khai thác các giá trị từ CPĐT phục vụ cho nhu cầu của mình; (5) Nguồn tài
chính: Mặc dù CPĐT khơng tốn nhiều chi phí nhưng với các nước đang phát

triển thì đây là một vấn đề đáng quan tâm. Kinh nghiệm một số quốc gia cho

18


thây việc hợp tác với khu vực tư nhân trong hoạt động này cũng đem lại
những hiệu quả đáng kể như ở trường hợp của Estonia; (6) Truyền thông:

công việc này nhằm đảm bảo những người được thụ hưởng CPĐT hiểu rõ
những lợi ích và vai trị của CPĐT trong việc đáp ứng các nhu càu của họ


cũng như khả năng khai thác CPĐT để đóng góp vào hoạt động xã hội, đồng
thời, truyền thơng cũng thúc đẩy các nhóm yếu thế thực hiện được quyền của

mình; (7) Điều kiện về công nghệ; (8) Yêu cầu về dữ liệu.
1.1.2. Phân biệt khái niệm Chính phủ điện tử và Chính phủ so
Chính phủ số được cơng nhận là một sáng kiến quan trọng đối với cải

cách hành chính cơng, giúp tăng cường sự minh bạch bên cạnh việc tiết kiệm

thời gian,chi phí và cơng sức của cả người dân và chính quyền, được đề cập
trong bài phát biểu của Thú tướng Nguyễn Xn Phúc [52], Các Chính phủ

trên tồn thế giới liên tục phải đối mặt với những thách thức trong việc cải
thiện khả năng tiếp cận và chất lượng dịch vụ cơng với hiệu quả tốt hơn và chi

phí thấp hơn cho người dân và doanh nghiệp. Trong nhiều năm qua, “CPĐT”
được kỳ vọng như một đóng góp quan trọng nhằm giải quyết những thách

thức này. Các Chính phủ được coi là tiên phong về “CPĐT” hiện đã bắt tay

vào giai đoạn tiếp theo của hành trình chuyển đổi của họ - thường được gọi là
“Chính phủ số”. Giai đoạn tiếp theo này được dựa trên nền tảng hiệu quả của

các chương trình đầu tư và những chuyển đổi đạt được trong các giai đoạn
trước của CPĐT vừa tiếp tục phát triển các quy định mới, trong đó tập trung
vào nguyên tắc dịch vụ số phải là cách thức chính đế cung cấp các dịch vụ

của chính phủ - hay còn được gọi là “Mặc định số”. Đe đạt được điều này, các
chính phủ đi tiên phong trong lĩnh vực này trên thế giới đang có kế hoạch


chuyển đổi tồn bộ chuồi cung cấp dịch vụ (công) thông qua việc thiết kế dịch
vụ lấy người dùng làm trung tâm để người dân được sử dụng các dịch vụ

(công) số mà người dân mong muốn; khai thác các công nghệ di động phổ

19


biến; chuyển đổi tồn bộ các quy trình giao dịch sang kỳ thuật số; ra quyết định

chính sách dựa trên dừ liệu hành chính thay vi văn bản (hành chính); sử dụng

nhất quán các dịch vụ dùng chung trong toàn chính phủ; đổi mới khung kiến
trúc CNTT của Chính phủ; nâng cấp cơ sở hạ tầng CNTT và chuyển dịch nhất

qn sang điện tốn đám mây; và phát triển mơ hình lãnh đạo và quản trị mới.

Theo Tồ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD), Chính phủ số
(Digital Government) là việc sử dụng các công Hồ số, như một phần thiết yếu

trong các chiến lược hiện đại hóa Chính phú để tạo ra các giá trị cơng. Q
trình này dựa trên một hệ sinh thái Chính phủ số bao gồm các tác nhân liên

quan đến Chính phủ, các tổ chức phi Chính phủ, doanh nghiệp, tổ chức xã hội
và người dân, thúc đẩy sự tạo ra và truy cập dữ liệu, dịch vụ và nội dung

thông qua sự tương tác với Chính phũ. Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế

(OECD) cũng đã phân biệt rõ giữa CPĐT (nơi công nghệ được ứng dụng để

cải tiến hiệu quả các q trình hiện hữu) và Chính phủ số (nơi các dịch vụ
được hình thành ý tưởng và cung cấp theo những cách đổi mới và sáng tạo

nhờ có sự hồ trợ của các công nghệ hiện đại).

Báo cáo sơ bộ về khảo sát CPĐT mới nhất năm 2018 của Liên hiệp

quốc [58] cũng đề cập cả 2 khái niệm Chính phủ số và CPĐT, nhưng ranh
giới giữa 2 khái niệm này vần còn tương đối mờ, một vài chồ gần như khơng

có sự phân biệt. Tuy nhiên, có một điếm mới là trong báo cáo này, Liên hiệp

quốc đã đưa ra một khung phương pháp luận mới để đánh giá CPĐT của các
nước, yêu cầu các nước phải có các ưu tiên về Chương trình chuyển đổi số
(Digital Agenda) và các nguyên tắc về Chính phủ số (Digital Gov. Principles).

Khung phương pháp luận mới gắn liền với các mục tiêu trong Chương trình
2030 của Liên hiệp quốc về phát triển bền vững. Đồng thời, báo cáo này cũng

đưa ra khái niệm khung Chính phủ so (digital government framework) bao

quát các vấn đề và lĩnh vực khác nhau liên quan đến việc cung cấp dịch vụ

công trực tuyến cho người dân, doanh nghiệp.

20


Trong quan điêm vê xây dựng CPĐT, Liên hiệp quôc coi Chính phủ sơ


như đây là giai đoạn phát triển tiếp theo của CPĐT, thế hiện qua việc đổi tên
bộ phận chịu trách nhiệm đánh giá và xuất bản báo cáo về CPĐT thành Ban

Các tổ chức cơng và Chính phủ số. Tuy vậy, Liên hiệp quốc chưa đưa ra sự
phân biệt chính thức, rõ ràng về nội hàm của 2 khái niệm này như OECD, có
những chỗ cịn đồng nhất 2 khái niệm.

Ngân hàng Thế giới, tổ chức lớn nhất tồn cầu về đấu tranh chống đói
nghèo và nâng cao mức sống cùa người dân các nước đang phát triển cũng có

quan điềm tương tự OECD. Trong một báo cáo phối hợp thực hiện cùng
Chính phù Nga năm 2016 mang tên “Chính phủ sổ năm 2020: viễn cảnh cho
nước Nga” [59], Ngân hàng Thế giới đã nhắc lại và nhất trí với quan điểm về

Chính phủ số của hãng Gartner (Mỹ) được nêu dưới đây, đồng thời đi sâu

phân tích và đưa ra những khuyến nghị cấp cao dành cho Chính phủ Nga (các
đặc trưng chính của Chính phủ số theo quan điểm của Ngân hàng Thế giới.

Ngân hàng Thế giới kết luận rằng nước Nga cũng như các nước khác, đều sẽ
phải đối diện những thách thức về việc tạo ra một hệ thống mới nhằm giám
sát việc ứng dụng CNTT - truyền thơng (ICT) vào hành chính cơng, trong bối

cảnh tìm ra mơ hình trường thành phù hợp của Chính phủ số.
Trong bản báo cáo năm 2016 về các xu hướng cơng nghệ của Chính

phủ cần lưu ý [62], hãng Ovum đã kết luận các biện pháp của CPĐT truyền

thống đang dần trở nên lỗi thời, và các tổ chức đang ngày càng có nhu cầu


triến khai Chính phủ số. Báo cáo cũng cho rằng các mơ hình trưởng thành của
Chính phủ số sẽ thay đổi theo quan điểm về phạm vi quyền hạn pháp lý Chính

phủ. Một số tổ chức của Chính phủ đang nỗ lực tăng cường giao tiếp với

người dân, còn một số khác vẫn đang vật lộn tìm cách cải tiến, nâng cấp các
quy trình và hệ thống xử lý nội bộ. Như vậy, Chính phủ số dựa vào việc sử
dụng và tái sử dụng các dữ liệu hoạt động, dữ liệu thống kê địa lý và phân tích

21


×