MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN............................................................................................. i
DANH MUC NHŨNG TÙ VIẾT TẮT......................................................... ii
MỤC LỤC........................................................................................................ iii
MỞ ĐÀU.......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1 KHÁI QUÁT CHUNG VÈ NUÔI CON NUÔI VÀ PHÁP
LUẬT VỀ NUÔI CON NUÔI TẠI VIỆT NAM............................................ 1
1.1. Khái quát chung về nuôi con nuôi............................................................... 1
1.1.1. Khái niệm nuôi con nuôi........................................................................... 1
1.1.2. Bản chất pháp lý và mục đích của việc ni con ni.............................5
1.1.3. Chính sách giải quyết việc nuôi con nuôi................................................ 6
1.1.4. Phân biệt với các hình thức ni dưỡng khác......................................... 8
1.2. Khái qt chung về pháp luật nuôi con nuôi tại Việt Nam........................ 9
1.2.1. Khái niệm về pháp luật nuôi con nuôi..................................................... 9
1.2.2. Sự cần thiết phải điều chỉnh việc nuôi con nuôi bằng pháp luật......... 12
1.3. Pháp luật về nuôi con nuôi của một số nước trên thế giới.......................19
1.3.1. Pháp luật nuôi con nuôi của Nhật Bản.................................................. 19
1.3.2. Pháp luật nuôi con nuôi tại Pháp........................................................... 20
1.3.3. Pháp luật về nuôi con nuôi của Trung Quốc.......................................... 21
CHƯƠNG 2 THỤC TRẠNG PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VÈ NUÔI
CON NUÔI Ở VIỆT NAM............................................................................ 25
2.1. Quy định pháp luật về nuôi con nuôi........................................................ 25
2.1.1. Điều kiện nuôi con nuôi......................................................................... 25
2.1.2. Thấm quyền giải quyết việc nuôi con nuôi............................................ 29
2.1.3. Thủ tục đăng ký nhận nuôi con nuôi..................................................... 31
2.1.4. Hệ quả pháp lý của việc nuôi con nuôi.................................................. 35
111
2.1.5. Quyền và nghĩa vụ của cha nuôi, mẹ nuôi và con nuôi.........................36
2.1.6. Chấm dứt nuôi con nuôi......................................................................... 42
2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về nuôi con nuôi ở Việt Nam...................... 46
2.2.1. về giải quyết việc nuôi con nuôi........................................................... 46
2.2.2. Đăng ký ni con ni thực tế............................................................... 49
2.3. Khó khăn, vướng mắc trong nuôi con nuôi ở Việt Nam và nguyên nhân... 53
2.3.1. Khó khăn, vướng mắc trong pháp luật điều chỉnh ni con ni ở Việt
Nam................................................................................................................... 53
2.3.2. Khó khăn, vướng mắc trong thực hiện pháp luật về nuôi con ni ở
Việt Nam........................................................................................................... 62
2.3.3. Ngun nhân của những khó khăn, vướng mắc..................................... 67
CHƯƠNG 3 ĐỀ XUẤT NHỮNG ĐỊNH HƯỚNG HỒN THIỆN PHÁP
LUẬT VÈ NI CON NI....................................................................... 71
3.1. Sự cần thiết sửa đổi, bổ sung Luật nuôi con nuôi...................................70
3.2. Kiến nghị hồn thiện pháp luật Việt Nam về ni con ni................. 73
3.2.1. Kiến nghị hồn thiện pháp luật về ni con nuôi của Việt Nam......... 73
3.2.2. Kiến nghị nâng cao hiệu quả thực hiện hồn thiện pháp luật về ni con
nuôi của Việt Nam............................................................................................ 80
KẾT LUẬN...................................................................................................... 86
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................. 86
iv
MỞ ĐÀU
1. Tính câp thiêt của đê tài
Ni con ni là hiện tượng xã hội phổ biến tại nhiều quốc gia và được
pháp luật của các nước điều chỉnh. Ở Việt Nam hiện nay, có rất nhiều gia
đình nhận những đứa trẻ mồ cơi, có hồn cảnh khó khăn làm con ni cho dù
giữa họ khơng có mối quan hệ huyết thống để giúp chúng có cuộc sống đầy
đủ, hạnh phúc hơn. Khơng chỉ có cơng dân ở trong nước mà cả người nước
ngồi cũng có quyền nhận trẻ em tại Việt Nam làm con nuôi nếu đáp ứng đủ
điều kiện theo quy định của pháp luật. Đế xác lập quan hệ cha, mẹ và con
giữa người nhận nuôi con ni và người được nhận làm con ni thì cần thực
hiện thủ tục đăng ký nhận con nuôi theo đúng quy định của pháp luật Việt
Nam. Việc thi hành pháp luật về nuôi con nuôi đã giúp cho nhiều đứa trẻ
được ni dưỡng, chăm sóc, giáo dục trong mơi trường gia đình. Đồng thời
góp phần giúp nhiều người, đặc biệt là những cặp vợ chồng hiếm con, phụ nữ
đơn thân được thực hiện quyền làm cha, mẹ.
Trong những năm vừa qua, kế từ khi Luật nuôi con 2010 được Quốc
hội khóa 12 kỳ họp thử 7 ban hành, nhiều văn bản QPPL quan trọng đã được
sửa đổi, bổ sung. Cụ thể Hiến pháp 2013 quy định về quyền trẻ em, Luật
HN&GĐ 2014, Luật hộ tịch 2014, BLDS 2015 và Luật trẻ em 2016. Đặc biệt
hơn, kể từ ngày 01 tháng 02 năm 2012 Việt Nam trở thành thành viên CƯLH
số 33 ngày 29 tháng 5 năm 1993 về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực
ni cịn ni quốc tế (dưới đây gọi là CƯLH). Đây là một bước tiến quan
trọng trong quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam, khẳng định quyết tâm
của Đảng và Nhà nước ta trong việc hồn thiện chính sách và hệ thống pháp
luật bảo đảm tính khả thi của Cơng ước.
Tuy nhiên vẫn cịn nhiều bất cập trong thực tiễn ni con nuôi tại Việt
Nam, một số quy định cùa Luật nuôi con nuôi đã bộc lộ những điểm hạn chế
1
nhất định dẫn đến việc một số lượng lớn trẻ em có HCĐB trong cộng đồng và
ngồi cộng đồng (tại các cơ sở trợ giúp xã hội) chưa được quan tâm tìm gia
đình thay thế thơng qua biện pháp ni con ni trong nước và ni con ni
có YTNN. Nhiều địa phương gần như không quan tâm tới việc thực hiện Luật
nên vẫn cịn tồn tại các trường hợp ni con nuôi thực tế mặc dù chế định
nuôi con nuôi thực
• tế quy
1 định
• tại
• Luật
• ni con ni đã hết hiệu
• lực
• thi hành
từ ngày 31/12/2015. Bên cạnh đó, vẫn cịn những trường hợp lợi dụng việc
nhận con ni để bóc lột sức lao động, lạm dụng tình dục, bạo hành, buôn bán
trẻ em... cần phải lên án và bảo vệ.
Vì vậy, việc nghiên cứu Luận văn “Pháp luật về nuôi con nuôi ở Việt
Nam ” là cần thiết nhằm làm rõ hơn những quy định pháp luật về Nuôi con
nuôi ở Việt Nam, đánh giá những kết quả đã đạt được cũng như những điểm
hạn chế trong thực tiễn áp dụng pháp luật. Từ đó đưa ra các kiến nghị, giải
pháp nhằm hồn thiện những thiếu sót, bất cập về pháp luật Nuôi con nuôi ở
Việt Nam. Kết quả nghiên cứu của luận văn có tính úng dụng và ý nghĩa sâu
sắc về lý luận và thực tiễn đối với việc sửa đổi, bổ sung Luật nuôi con ni.
2. Mục
đích và nhiệm
vụ• nghiên
cứu
•
•
CT
2.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích tổng quát của luận văn nhằm nghiên cứu, phân tích những
vấn đề lý luận về pháp luật điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi ở Việt Nam,
thực tiễn áp dụng pháp luật ở nước ta trong thời gian qua. Trên cơ sở đó, luận
văn đánh giá hiệu quả, mức độ hồn thiện và tính phù họp trong thực tiễn giải
quyết việc ni con ni. Từ đó đưa ra những giải pháp và kiến nghị hoàn
thiện pháp luật nhằm giải quyết những hạn chế, vướng mắc trong quá trình áp
dụng pháp luật về nuôi con nuôi ở nước ta hiện nay. Qua đó đảm bảo quyền
của trẻ em có HCĐB được CSTT thông qua biện pháp nuôi con nuôi trong
nước và ni cịn ni có YTNN.
2
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Đe thực hiện mục đích nghiên cứu, luận văn phải giải quyết được các
vấn đề sau:
Thứ nhất, luận văn cần làm sáng tỏ cơ sở lý luận chung pháp luật về
nuôi con nuôi, những vấn đề lý luận cơ bản của pháp luật điều chình việc ni
con ni trong nước và ni con ni có yếu tố ngước ngồi.
Thứ hai, luận văn phân tích thực tiễn giải quyết việc nuôi con nuôi ở nước
ta trong giai đoạn hiện nay. Trên cơ sở đó, luận văn đánh giá hiệu quả, mức độ
hồn thiện và tình phù hợp trong thực tiễn giải quyết việc nuôi con nuôi.
Thứ ba, luận văn nghiên cứu, phát hiện những vướng mắc, bất cập
trong thực tiễn áp dụng pháp luật về nuôi con ni tại Việt Nam. Qua đó đưa
ra những kiến nghị hoàn thiện pháp luật về vấn đề này.
3. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn được giới hạn tập trung trong các văn
bản quy phạm pháp luật như: Hiến pháp 2013, Bộ luật dân sự năm 2015, Luật
Nuôi con nuôi năm 2010, Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, Luật hộ tịch
2014, Luật trẻ em 2016 và một số Nghị định, Thông tư hướng dẫn khác có
liên quan. Ngồi ra, trong q trình nghiên cứu, Luận văn mở rộng phạm vi
nghiên cứu pháp luật về nuôi cịn ni của một số nước như Pháp, Tây Ban
Nha, Hịa Kì và Canada.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đe đạt được các mục tiêu nghiên cứu mà luận văn đặt ra, trong quá
trình nghiên cứu luận văn đã sử dụng những phương pháp nghiên cứu cơ
bản sau:
- Phương pháp luận của chủ nghĩa Mac - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước về hồn thiện pháp luật về
ni con ni trong mối quan hệ với pháp luật về dân sự, HN&GĐ và trẻ em.
3
- Phương pháp phân tích, tơng họp: được sử dụng chủ yêu trong các
phần của Luận văn. Cụ thể phương pháp này sử dụng để phân tích và hệ
thống hóa các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành về ni con ni. Qua
đó khái qt hóa thực trạng hồn thiện pháp luật và thực tiễn áp dụng trong
hoạt động cho nhận con nuôi ở Việt Nam. Trên cơ sở đó, đưa ra nhũng đề
xuất, kiến nghị phù hợp.
- Phương pháp thống kế số liệu: được sử dụng nhằm đánh giá kết quả
giải quyết việc ni cịn ni trong nước và ni con ni có YTNN trong
giai đoạn nghiên cứu từ năm 2016 đến hết năm 2020, đánh giá mối tương
quan giữa việc nuôi con nuôi trong nước và nuôi con ni có YTNN.
- Phương pháp đánh giá, so sánh: được sử dụng để đưa ra ý kiến nhận
xét quy định của pháp luật hiện hành có hợp lý hay khơng, đồng thời nhìn
nhận trong mối tương quan so với quy định liên quan hoặc pháp luật của các
nước khác trên thế giới.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Với tính chất là một đề tài nghiên cứu một cách khá tồn diện, có hệ
thống các vấn đề về cơ sở lý luận của pháp luật về nuôi con nuôi và thực tiễn
thực hiện pháp luật pháp luật nuôi con nuôi, kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ
mang lại một số đóng góp mới như sau:
Thứ nhất, trên cơ sở nghiên cứu, phân tích làm rõ một số vấn đề tồn tại
về mặt lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật về nuôi con nuôi từ đó đề xuất
một số kiến nghị về phương hướng xây dựng và áp dụng pháp luật.
Thứ hai, khẳng định trên cơ sở khoa học về mối quan hệ biện chứng
giữa lý luận và thực tiễn trong việc tuân thủ, thi hành, áp dụng luật nuôi con
nuôi trên địa bàn cả nước. Thơng qua đó, góp phần tăng cường hiệu quả quản
lý nhà nước trong lĩnh vực nuôi con nuôi trong giai đoạn hiện nay.
4
Thứ ba, góp phân nâng cao nhận thức cho người dân, cho các cán bộ
nhà nước có thấm quyền trong lĩnh vực nuôi con nuôi những hiểu biết pháp
luật về nuôi con nuôi, đặc biệt là quan hệ giữa cha mẹ ni với con ni; góp
phần ổn định các quan hệ xã hội dân sự, phục vụ tích cực cho đời sống xã hội
trên cơ sở xây dựng nhà nước pháp quyền.
Thứ tư, kết quả đạt được cùa luận văn góp phần làm rõ hơn những quy
định của pháp luận hiện hành về nuôi con nuôi tại Việt Nam. Luận văn có thể
•
JL
A
•
•
••
•
là tài liệu tham khảo hữu ích đối với sinh viên, đội ngũ giảng viên trong việc
nghiên cứu các vấn đề liên quan đến pháp luật về nuôi con ni.
Ngồi ra, những giãi pháp hồn thiện, xây dựng pháp luật về ni con
ni ở Việt Nam cịn là cơ sở quan trọng để các cơ quan chức năng trong
phạm vi, thẩm quyền của mình sửa đổi, bổ sung, hồn thiện pháp luật trong
lình vực về ni con ni tại Việt Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: khái quát chung về nuôi con nuôi và pháp luật về nuôi con
nuôi tại việt nam
Chương 2: thực tiễn pháp luật hiện hành về ni con ni ớ việt nam
Chương 3: Khó Khăn, Vướng Mắc Trong Nuôi Con Nuôi ở Việt Nam
Và Một Số Kiến Nghị Hoàn Thiện
5
CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NUÔI CON NUÔI VÀ PHÁP LUẬT VỀ
NUÔI CON NUÔI TẠI VIỆT NAM
1.1. Khái quát chung về nuôi con nuôi
1.1.1. Khái niệm nuôi con nuôi
Nuôi con ni là một hiện tượng xã hội đã có từ xa xưa và ngày càng
phát triển vì nhiều mục đích khác nhau, có thể nhằm đáp ứng các nhu cầu, lợi
ích vật chất như cần người thờ tự, người chăm sóc lúc tuổi già, cần người lao
động hoặc xuất phát từ lịng nhân đạo, cám thơng, chia sẻ với những trẻ em
khuyết tật, trẻ em có hồn cảnh khó khăn... Hiện tượng này thể hiện mối quan
hệ giữa cha, mẹ và con phát sinh dựa trên sự kiện nhận nuôi con nuôi. Để đảm
bảo quyền lợi của bên nhận nuôi cũng như quyền lợi của trẻ được nuôi pháp
luật đã thể chế quan hệ xã hội này thành quan hệ pháp luật. Vấn đề con nuôi
liên quan không chỉ đến các quan hệ gia đình, quan hệ dân sự mà nó cịn liên
quan đến những vấn đề chính trị- xã hội rộng lớn khác. Dưới sự điều chỉnh cụ
thể của các quy phạm pháp luật thì ni con ni diễn ra theo một trình tự,
thủ tục nhất định khơng cịn mang tính tự phát, tùy tiện như trước đây. Ngay
từ thịi La Mã cổ đại đã hình thành chế định pháp luật về nuôi con nuôi. Cho
đến ngày nay, khái niệm nuôi con nuôi theo đa số các nước trên thế giới là
việc xác lập quan hệ cha mẹ và con giữa người nhận nuôi con nuôi và người
được nhận làm con nuôi. Và dù khác nhau thế nào, nuôi con ni ở các nước
đều có chung một số đặc điểm như sau:
Thứ nhất, nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ cha mẹ và con giữa
người nhận nuôi con nuôi và người được nhận làm con nuôi, bảo đảm cho
người nhận làm con nuôi được trông nom, nuôi dưỡng và giáo dục phù hợp
với đạo đức xã hội. Giữa người nhận nuôi con nuôi và người được nhận làm
con ni có đây đủ các qun và nghĩa vụ của cha, mẹ và con theo quy định
của pháp luật. Ni con ni được hình thành trong mơi trường gia đình,
nhằm tạo lập một gia đình mới nhờ vào chức năng ni dưỡng và qua đó tạo
lập quyền và nghĩa vụ ràng buộc giữa các thành viên trong gia đình.
Thứ hai, nuôi con nuôi là hiện tượng xã hội liên quan đến trẻ em, đối
tượng còn non nớt về thể chất và trí tuệ cần được bảo vệ, chăm sóc đặc biệt,
do đó được pháp luật của hầu hết các nước điều chỉnh. Nhiều nước đã từ lâu
ban hành một đạo luật riêng về nuôi con nuôi.
Ớ nước ta, vấn đề con nuôi cũng đã được quy định trong pháp luật từ
thời phong kiến, tiêu biểu là trong bộ Quốc triều hình luật và Hồng Việt luật
lệ. Hai Bộ luật này thể hiện rõ nét phong tục, tập quán truyền thống của người
Việt Nam về gia đình và quy định điều chình quan hệ ni con ni trong thời
kỳ đó. Sau này, vấn đề con nuôi cũng đã được Luật nuôi con nuôi 2010 và
nhiều văn bản QPPL khác điểu chỉnh; qua đó bảo đảm quyền được ni dưỡng,
chăm sóc trong mơi trường gia đình đối với trẻ em có hồn cảnh đặc biệt.
Khái niệm ni con trước đây theo một cách nào đó đã được đề cập
trong các tài liệu liên quan. Cụ thể, nuôi con nuôi theo Từ điển bách khoa
tồn thư về các mơn khoa học
xã hội
là một
thực
tiễn xã hội
được
thể chế hóa,
•
•
•
•
•
•
theo đó một cá nhân thuộc về một gia đình hay một nhóm mang tính chất gia
đình do sinh ra tiếp nhận nhưng mối liên hệ mới mang tính chất gia đinh và
những mối liên hệ này được xã hội coi như ngang bằng với những mối liên hệ
ruột thịt và thay thế một phần hoặc tồn bộ những mối liên hệ đó. Hay theo
Từ điển bách khoa Việt Nam tập 3 của Nhà xuất bản từ điển bách khoa, Hà
Nội, năm 2003, thì: “Ni con nuôi là việc một người (người nuôi) nhận nuôi
người khác (con ni) nhằm tạo ra những tình cảm gắn bó giữa hai người, bảo
đảm cho người con nuôi được thương u, ni dưỡng, chăm sóc, giáo dục
tốt. Việc nhận ni con nuôi do Uỷ ban nhân dân xã/phường/thị trấn (UBND
2
câp xã) nơi người nuôi và của con nuôi công nhận và ghi vào sô hộ tịch.
Thông qua sự kiện pháp lý này giữa người nuôi và con nuôi phát sinh các
quyền và nghĩa vụ như giữa cha mẹ đẻ và con đẻ”1 Hay khi bình luận về Luật
Hơn nhân và gia đình năm 2000, tập thể tác giả có nhận định rằng nuôi con
nuôi là “việc xác lập quan hệ cha, mẹ và con giữa người nhận nuôi con nuôi
và người được nhận làm con nuôi, dựa trên ý chí chủ quan của các chủ thể
tham gia quan hệ nuôi con nuôi”.2
Tuy nhiên, chỉ khi Luật nuôi con nuôi năm 2010 ra đời thì khái niệm
trên đã chính thức được Luật định rõ nhằm tạo ra cách hiểu chung, thống nhất
về con ni và cha, mẹ ni. Theo đó, Luật nuôi con nuôi năm 2010 khái
niệm về con nuôi và cha, mẹ nuôi như sau: “Nuôi con nuôi là việc xác lập
quan hệ cha, mẹ và con giữa người nhận con nuôi và người được nhận làm
con nuôi. Cha mẹ nuôi là người nhận con nuôi sau khi việc ni con ni
được cơ quan nhà nước có thám quyền đăng kỹ. Con nuôi là người được nhận
làm con nuôi sau khi việc nuôi con nuôi được cơ quan nhà nước có thâm
quyền đăng kỷ.”
Ta có thể xem xét khái niệm ni con ni nói trên dưới hai góc độ:
góc độ xã hội và góc độ pháp lý.
* Dưới góc độ xã hội
Ni con ni là một
xã hội
• hiện
• tượng
•
• hình thành một
• cách tự• nhiên
trong đời sống của con người, nó xuất hiện và tồn tại từ lâu trong lịch sử, thể
hiện sự gắn bó giữa con người với nhau trên cơ sở vì lợi ích chung, nhằm đáp
ứng nhu cầu thiết yếu của con người và mang tính nhân đạo sâu sắc. Khi một
cá nhân được tiếp nhận vào một gia đình và tạo ra những liên hệ mới mang
1 Từ điến bách khoa Việt Nam, tập 3, 4 (2003), Hội đồng quốc gia chỉ đạo biên soạn từ điển bách khoa Việt
Nam, Hà Nội, tr. 316.
2 Tập thể tác giả (2000), Viện nghiên cứu khoa học pháp lý, Bình luận khoa học Luật Hơn nhân và gia đình
Việt Nam, (2), tri 80
3
tính chât gia đình mới, thay thê một phân hoặc tồn bộ mơi liên hệ ruột thịt
trước đây, những quan hệ mang tính chất gia đình này có giá trị như mối quan
hệ huyết thống và được xã hội thừa nhận.
Quan hệ ni con ni có thể tồn tại dưới nhiều hình thức như ni con
ni theo phong tục tập quán, nuôi con nuôi lập tự, nuôi con nuôi trên danh
nghĩa, ni con ni lấy phúc...Mặc dù các hình thức nuôi con nuôi này tồn
tại và xác lập các quyền và nghĩa vụ giữa cha, mẹ và con, nhưng các hình
thức trên đều khơng được pháp luật ghi nhận. Các hình thức ni con ni
này trên thực tế đã hình thành quan hệ cha, mẹ và con, giữa họ đã tồn tại tình
cảm u thương, chăm sóc, nhưng quan hệ nuôi dưỡng này thường chỉ tồn tại
trên danh nghĩa giữa bên nhận nuôi và bên được nhận nuôi chứ không có ý
nghĩa về mặt pháp luật. Vì vậy, về ngun tắc những hình thức ni con ni
nói trên khơng được công nhận về mặt pháp lý mà chỉ mới đáp ứng được nhu
cầu về tình cảm giữa người nhận ni và người được nhận ni.
Như vậy, dưới góc độ xã hội thì ni con ni là việc xác lập quan hệ
cha mẹ và con trên thực tế giữa người nhận nuôi và người được nhận nuôi
nhằm đáp ứng những nhu cầu về tình cảm và lợi ích giữa người nhận ni và
người được nhận ni.
* Dưới góc độ pháp lý
Dưới góc độ pháp lý, ni con ni là một hình thức pháp lý nhằm xác
lập quan hệ cha mẹ và con hợp pháp giữa người nhận con nuôi và người được
nhận làm con nuôi, mà không liên quan đến quan hệ huyết thống sinh học
giữa hai bên”2. Theo quy định hiện hành, gia đình nhận trẻ em làm con ni
được gọi là gia đình thay thế, vì lợi ích tốt nhất của con nuôi, bảo đảm cho
con nuôi được nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục trong mơi trường gia đình
phù hợp.
4
1.1.2. Băn châtpháp lý và mục đích của việc ni con nuôi
1.1.2.1. Bản chat pháp lý của nuôi con nuôi
Trong bất cứ xã hội nào tồn tại quan hệ nuôi con ni thì con ni đều
“là con của người khác nhưng được một người hoặc người là vợ chồng nhận
làm con đề ni dưỡng, chăm sóc, giáo dục như con đẻ”. Dưới góc độ pháp
lý, ni con ni là một hình thức pháp lý nhàm xác lập quan hệ cha mẹ và
con hợp pháp giữa người nhận con nuôi và người được nhận làm con nuôi,
mà không liên quan đến quan hệ huyết thống sinh học giữa hai bên”, “nuôi
con nuôi vừa là một sự kiện pháp lý” vừa là một “quan hệ pháp luật”3. Ni
con ni cịn có tính nghĩa dưỡng. “Nghĩa dưỡng là một hành vi pháp lý tạo
nên giữa hai người những mối quan hệ về phụ hệ hay mẫu hệ có tính giả tạo
và dân sự. Ni con ni được hình thành trong mơi trường gia đình, nhằm
tạo lập một gia đình mới nhờ vào chức năng ni dưỡng và qua đó tạo lập
quyền và nghĩa vụ ràng buộc giữa các thành viên trong gia đình.
Việc nuôi con nuôi bao gồm tập họp các sự kiện pháp lý. Chỉ khi nào
hội tụ đủ các sự kiện này quan hệ nuôi con nuôi mới phát sinh hiệu lực pháp
lý. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền chỉ có thể cơng nhận việc ni con ni
khi các bên đương sự thể hiện rõ rằng ý chí của mình đồng thời đáp ứng đầy
đủ các điều kiện cần thiết của việc ni con ni. Nói cách khác, cơ quan nhà
nước có thẩm quyền chỉ có thể cơng nhận việc nuôi con nuôi khi các sự kiện
cấu thành đã hội tụ đầy đú và được liên kết lại với nhau tại thời điểm phát
sinh quan hệ pháp luật về nuôi con ni. Vì vậy, có thế nói dưới góc độ pháp
lý nuôi con nuôi là sự kiện pháp lý.
Điều kiện nuôi con nuôi bao gồm các điều kiện về nội dung và điều
kiện về hình thức. Hai điều kiện này có mối quan hệ với nhau và tạo ra hiệu
lực pháp lý của quan hệ ni con ni. Vì vậy, sự kiện pháp lý làm phát sinh
quan hệ pháp luật ni con ni khi nó đáp ứng được các yếu tố sau: các điều
5
kiện vê chủ thê của việc nuôi con nuôi; sự thê hiện ý chí của người nhận ni
con ni, ý chí của cha mẹ đẻ hoặc người giám hộ của trẻ em được cho làm
con ni, ý chí của bản thân người nhận con nuôi (điều kiện về nội dung) và ý
chí của nhà nước cơng nhận việc xác lập quan hệ ni con ni (điều kiện về
hình thức).
7.7.2.2. Mục đích của ni con ni
Trên thế giới, việc ni con ni được tiếp cận dưới góc độ là chính
sách chăm sóc, bảo vệ trẻ em có HCĐB, vì lợi ích tốt nhất của trẻ em chứ
khơng phải vì lợi ích của người nhận con ni. Ĩ trong nước, kể t3ừ khi Luật
trẻ em có hiệu lực thi hành biện pháp ni con ni ngày này được tiếp cần
dưới góc độ là biên pháp CSTT dành cho trẻ em có HCĐB........ Các ĐUQT
\
A
>
f
vê nuôi con nuôi mà Việt Nam là thành viên đêu đê cao nguyên tăc ưu tiên
nuôi con nuôi trong nước, ni con ni có YTNN là giải pháp thay thế cuối
cùng3. Việc ni con ni thể hiện tính nhân đạo sâu sắc, tình yêu thương,
tinh thần, trách nhiệm và mối quan hệ tương thân, tương ái, giúp đỡ lẫn nhau
giữa con người với con người. Ớ Việt Nam hiện nay, có rất nhiều gia đình
nhận những đứa trẻ mồ cơi, bị bị rơi hoặc có hồn cảnh khó khăn làm con
ni cho dù giữa họ khơng có mối quan hệ huyết thống để giúp đỡ chúng có
mái ấm gia đình, được chăm sóc và phát triển trong điều kiện tốt nhất.
Theo Điều 2 Luật nuôi con nuôi quy định về mục đích ni con ni:
“Việc ni con ni nhằm xác lập quan hệ cha, mẹ và con lâu dài, bền vững,
vì lợi ích tốt nhất của người được nhận làm con nuôi, bảo đảm cho con nuôi
được nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trong mơi trường gia đình ”.
1.1.3. Chính sách giải quyết việc ni con ni
Trên phương diện chính sách, Luật ni con ni đã thống nhất việc
chính sách ni con ni trong nước và ni con ni có YTNN, theo đó phải
3 Nguyễn Phương Lan, Cơ sở lý luận và thực tiễn cũa chế định pháp lý v'ê nuôi con nuôi ở Việt Nam. Luận án
tiến sĩ luật học, 2006, tr.10
6
ưu tiên nuôi con nuôi trong nước trước khi giải qut việc ni con ni nước
ngồi, khuyến khích việc ni con nuôi đối với những trẻ em bị bỏ rơi, trẻ em
mồ cơi và trẻ em có HCĐB khác, nhà nước bảo hộ quyền ni cịn ni và
quyền được nhận làm con ni, khuyến khích hỗ trợ nhân đạo cho việc chăm
sóc trẻ em có HCĐB, con ni có quyền được biết về nguồn gốc của mình và
khuyến khích con ni là người Việt Nam ở nước ngồi về thăm quê hương
đất nước. Các chính sách này được bảo đảm thực hiện thông qua các quy định
của Luật nuôi con nuôi, cụ thể như sau:
- Khi giải quyết việc nuôi con nuôi cần tôn trọng quyền cũa trẻ em
được sống trong mơi trường gia đình gốc. Việc ni con ni phải bảo đảm
quyền và lợi ịch hợp pháp của người được nhận làm con nuôi và người nhận
con nuôi, tự nguyện, bình đẳng, khơng phân biệt nam nữ, khơng trái pháp luật
và đạo đức xác hội. Chỉ cho làm con ni người nước ngồi khi khơng thể tìm
được gia đình thay thế ở trong nước (Điều 4 Luật Nuôi con ni 2010).
- Thứ tự ưu tiên lựa chọn gia đình thay thế được thực hiện như sau:
(1) Cha dượng, mẹ kế; cố, cậu, dì, chú, bác ruột cùa người được nhận làm
con nuôi; (2) Công dân Việt Nam thường trú ở trong nước; (3) Người nước
ngoài thường trú ở Việt Nam; (4) Cơng dân Việt Nam định cư ở nước
ngồi; (5) Người nước ngoài thường trú ở nước ngoài. (Điều 5 Luật nuôi
con nuôi 2010).
- Nhà nước bảo hộ quyền ni cịn ni và quyền được nhận làm con
ni theo quy định của Luật Nuôi con nuôi và các quy định khác của pháp
luật có liên quan (Điều 6 Luật Ni con ni 2010).
- Nhà nước khuyến khích tổ chức, cá nhân hỗ trợ nhân đạo cho việc
nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em có HCĐB. Việc hồ trợ nhân đạo
không được ảnh hưởng đến việc cho nhận con nuôi (Điều 7 Luật nuôi con
nuôi 2010).
7
- Nhà nước khuyên khích nhận trẻ em bị bỏ rơi, trẻ em mơ cơi, trẻ em
có HCĐB làm con ni (khoản 4 Điều 8).
- Con ni có quyền được biết về nguồn gốc cùa mình. Khơng ai được
cản trở con ni được biết về nguồn gốc cùa mình. Nhà nước khuyển khích,
tao điều kiện cho con ni là người Việt Nam ở ngước ngoài về thăm quê
hương, đất nước (Điều 11 Luật Nuôi con nuôi 2010).
- UBND cấp xã, Sở Tư pháp và Bộ Tư pháp có trách nhiệm tìm gia
đình thay thế cho trẻ em bị bỏ rơi, trẻ em mồ cơi khơng có người ni dưỡng
hoặc trẻ em có cha mẹ đẻ, người thân thích nhưng khơng có khả năng ni
dưỡng (Điều 15 Luật ni con ni 2010).
1.1.4. Phân biệt với các hình thức ni dưỡng khác
Có thể nói ni con ni là hình thức có những ưu thế vượt trội và
được khuyến khích áp dụng bởi những đặc trưng nhất định của nó so với
những hình thức ni dưỡng khác, cụ thể như sau:
Hình thức ni dưỡng trẻ em tại các cơ sở nuôi dưỡng trẻ em có hồn
cảnh đặc biệt là một hình thức phổ biến nhất để chăm sóc, bảo vệ trẻ em.
Hình thức này thường có quy mơ và mang tính tập thể, đây là điềm khác biệt
lớn nhất so với hình thức ni con ni. Việc ni con ni “mang tính chất
cá nhân và riêng tư”4, bởi vì sự chăm sóc, u thương của gia đình cha mẹ
ni là hướng tới một cá nhân trẻ em cụ thể, đứa trẻ được sự quan tâm, chăm
sóc thường xuyên, được thừa nhận là một thành viên của gia đình. Trong một
số trường hợp một người hoặc hai người là vợ chồng có thể nhận nhiều đứa
trẻ làm con nuôi, nhưng những đứa trẻ này vẫn có tình cảm gia đình, có quan
hệ cha mẹ và con, quan hệ anh chị em với nhau. Điều đó mang lại cho đứa trẻ
sự tự tin, tình u thương, đảm bảo cho đứa trẻ được phát triển bình thường
mà sự nuôi dưỡng trong các cơ sở nuôi dưỡng khơng thể có được.
4 Sớ Tư pháp Hà Nội (2003), “Cơng tác giải quyết cho người nước ngồi nhận trẻ em Việt Nam tại Hà Nội
làm con nuôi”, Tham luận hội thảo tại Hà Nội.
8
Hình thức giám hộ được quy định tại Điêu 46 BLDS, theo đó, cá nhân,
pháp nhân được luật quy định, được ủy ban nhân dân cấp xã cử, được Tòa án
chỉ định
hoặc
được
lựa
chọn
theo quy
tại
khoản 2 Điều 48 của BLDS để
•
•
•
•
•
JL •/ định
•
•
thực hiện việc chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người chưa
thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận
thức, làm chủ hành vi. Trong quan hệ giám hộ, người giám hộ khơng có nghĩa
vụ ni dưỡng mà chỉ có nghĩa vụ chăm sóc, giáo dục người được giám hộ và
việc chăm sóc này chủ yếu bằng tài sản của người được giám hộ, giữa họ
khơng có quan hệ cha mẹ và con. Trong khi đó, trong quan hệ ni con ni,
giữa các bên có quan hệ cha mẹ và con và nghĩa vụ nuôi dưỡng là nghĩa vụ
bắt buộc đối với các bên.
Với sự yêu thương, chăm sóc của gia đình nhận ni có ý nghĩa lớn đối
với việc phát hiện và phát triển khả năng của trẻ. Trẻ em sống trong gia đình
mới sẽ tự tin và khơng bị mặc cảm với số phận. Mặt khác điều đó có tác động
tích cực đến việc hồn thiện nhân cách của trẻ.
1.2. Khái quát chung về pháp luật nuôi con nuôi tại Việt Nam
1.2.1. Khái niệm về pháp luật nuôi con nuôi
Quan hệ nuôi con nuôi đã được điều chỉnh từ rất lâu trong lịch sử pháp
luật thế giới, từ thời La Mã cổ đại đã hình thành chế định về pháp luật nuôi
con nuôi. Ớ Việt Nam vấn đề nuôi con nuôi cũng đã được quy định trong
pháp luật từ thời phong kiến mà tiêu biểu là bộ Quốc triều hình luật và Hồng
việt luật lệ, mặc dù hai bộ luật này mang bản chất giai cấp phong kiến song
vẫn chứa đựng nhiều yếu tổ tiến bộ.
Trong lĩnh vực quan hệ gia đình, bộ Quốc triều hình luật đã điều chỉnh
các quan hệ như quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ và con cái,
giữa các thân thuộc khác như: quan hệ giữa vợ cả-vợ lẽ và nhà chồng, anhchị-em...Việc nuôi con nuôi được quy định tại các Điều 380, 381, 506 theo
đó việc nhận ni con nuôi phải được lập thành văn bản và phải đối xử như
9
con đẻ, ngược lại, con ni phải có nghĩa vụ như con đẻ đơi với cha mẹ ni.
Bộ Hồng việt luật lệ được ban hành dưới triều Nguyễn, đã có những
quy định về nghĩa tử và nghĩa dưỡng. Tử hệ nghĩa dưỡng là một tử hệ giả tạo
(hay nhân tạo) được thiết lập bởi ý chí của các cá nhân trong những hoàn cảnh
và thể thức được luật pháp chuẩn nhận, nó cũng phát sinh những tương quan
pháp lý tương tự như trong tử hệ tự nhiên, nhưng theo các điều kiện nhất định
như: có thể ni một người đồng tông hay khác họ, trường hợp nếu biết rõ
cha mẹ đẻ của dưỡng tử thì việc nhận dưỡng tử phải được cha mẹ đẻ của nó
ưng thuận...
Dưới thời Pháp thuộc, đất nước ta bị chia làm ba kỳ là Nam kỳ, Bắc kỳ,
và Trung kỳ. Thực dân Pháp đã ban hành Bộ dân luật giản yếu Nam kỳ áp
dụng ớ Nam kỳ và ba thành phố Hà Nội, Hải Phòng, Đã Nằng; Bộ dân luật
Bắc kỳ được ban hành để thi hành trên toàn Bắc kỳ thay cho Bộ luật Gia Long
và Bộ luật dân sự Trung kỳ để thi hành trên tồn Trung kỳ. về quan hệ gia
đình, các bộ luật này đã quy định về vấn đề nuôi con ni. Trong đó quy định
khá cụ thể về hình thức (thể thức) của việc nhận con nuôi; về điều kiện lập
con nuôi; về quan hệ giữa con nuôi với gia đình cha mẹ đẻ; về quyền và nghĩa
vụ của cha mẹ nuôi và con nuôi. Đây là một trong những điểm tiến bộ được
ghi nhận trong Bộ Dân luật Bắc kỳ và Dân luật Trung kỳ là đã có những điều
khoản quy định về nghĩa vụ của cha mẹ với con cái nói chung và con ni nói
riêng rất tiến bộ. Với những điều khoản này, các Bộ Dân luật thời kì này đã
đánh dấu một bước tiến mới trong việc đề cao quyền con người đối với trẻ em
nói chung và trẻ em được nhận làm con ni nói riêng trong gia đình Việt
Nam dưới thời Pháp thuộc. Ngoài nghĩa vụ cơ bản như bất kỳ triều đại nào
trước đó là cha mẹ ni có nghĩa vụ ni nấng, chăm sóc, dạy bảo con ni,
Điều 193 Dân luật Bắc kỳ và Điều 192 Dân luật Trung kỳ còn nói rõ “cha mẹ
ni phải đối đãi con ni cũng như con đẻ”; ngược lại người con nuôi đối
10
với cha mẹ nuôi phải chịu các nghĩa vụ và phận sự như con đẻ;... Luật cũng
quy định chế tài đối với người đứng nuôi nếu đế con nuôi phải thiếu thốn,
hoặc đối đãi tàn nhẫn thì tịa đệ nhị cấp có thể tun án tước bỏ người đứng
ni (Điều 201 Bộ Dân luật Bắc kỳ và Điều 200 Bộ Dân luật Trung kỳ). Việc
quy định chế tài này cũng là một điếm tiến bộ đáng kể trong pháp luật nuôi
con nuôi thời kỳ này.
Sau cách mạng Tháng 8 năm 1945, tại Hiến pháp đầu tiên năm 1946,
Nhà nước Việt Nam đã công nhận và bảo vệ tất cả các quyền của cơng dân về
chính trị, kinh tế, văn hóa trong đó có quyền được chăm sóc ni dưỡng của
trẻ em, Điều 14 Hiến pháp ghi nhận “... trẻ em được săn sóc về mặt giáo
dưỡng”. Những quy định về ni con ni bước đầu mang tính “khai phá” là
các quy định cơ sở. Đen Hiến pháp năm 1959 là cơ sở pháp lí quan trọng để
điều chỉnh quan hệ gia đình trong thời kì này, sau đó Luật HN&GĐ cũng đã
được ban hành vào ngày 29/12/1959, Luật HN&GĐ năm 1959 là đạo luật đầu
tiên của nhà nước ta điều chỉnh vấn đề nuôi con nuôi. Tuy nhiên, vấn đề nuôi
con nuôi mới chỉ được quy định rất sơ sài bởi một điều luật (Điều 24). Ở miền
Bắc, Chính phủ Việt Nam đã ban hành Nghị định số 04 ngày 16/01/1961 kèm
theo Điều lệ về đăng kí hộ tịch. Ngày 21/06/1961, Bộ Nội vụ ban hành Thông
tư số 05/NV hướng dẫn thi hành Điều lệ về đăng kí hộ tịch nói trên. Ở miền
Nam, cũng trong giai đoạn này, chính quyền Ngụy Sài Gòn đã ban hành Bộ
Dân luật ngày 20/12/1972.
Sau khi đất nước thống nhất, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nước ta bước
sang một thời kỳ mới. Luật HN&GĐ năm 1986 ra đời và đã ghi rõ mục đích
của việc ni con ni là “nhằm gắn bó tình cảm giữa người nuôi và con nuôi
trong quan hệ cha mẹ và con cái, bảo đảm người con nuôi chưa thành niên
được ni dưỡng, chăm sóc và giáo dục tốt” (Điều 34); Nhà nước Việt Nam
ln “khuyến khích việc nhận các trẻ em mồ côi làm con nuôi” (Điều 38).
11
Luật cũng đã quy định điêu kiện vê con nuôi và nhận nuôi con nuôi, thủ tục
công nhận việc nuôi con nuôi, quyền lợi và nghĩa vụ của các bên trong vấn đề
nuôi con nuôi...
Đến Luật HN&GĐ năm 2000 đã dành hẳn một chương (Chương VIII)
quy định về con nuôi. Song các vấn đề liên quan đến nuôi con nuôi còn được
quy định tản mát trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau, hai khung pháp lý
về nuôi con nuôi trong nước và ni con ni có yếu tố nước ngoài hầu như
riêng rẽ, làm cho cơ chế thực hiện pháp luật về nuôi con nuôi thiếu đồng bộ
và thống nhất. Do đó, để khấc phục các hạn chế này Luật Ni con ni đã
được Quốc hội Khóa XII, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 17/6/2010 đã quy định
một cách chi tiết, đầy đủ quan hệ nuôi con nuôi.
Từ sự phân tích trên có thể hiểu pháp luật ni con nuôi là hệ thống tông
họp các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành, điều chỉnh việc xác lập,
thay đổi, chẩm dứt các quyền và nghĩa vụ pháp lý giữa người nhận nuôi, người
được nhận nuôi và các chủ thê khác cỏ liên quan trong việc hình thành quan hệ
cha mẹ và con giữa người nhận nuôi và người được nhận làm con nuôi.
1.2.2. Sự cần thiết phải điều chỉnh việc nuôi con nuôi bằng pháp luật
Đe đảm bảo trật tự và ổn định xã hội, nhà nước nào cũng cần đến các
công cụ, phương tiện điều chỉnh hành vi và các quan hệ xã hội của con người
nhằm đưa các hành vi của cá nhân, tổ chức vào những khn khổ nhất định,
theo những tiêu chí, ngun tắc nhất định nhằm trật tự hóa các mối quan hệ xã
hội. về nguyên tắc, pháp luật chỉ điều chỉnh những quan hệ xã hội quan trọng,
có liên quan đến lợi ích chính đáng của cá nhân, lợi ích cơng cộng, lợi ích của
quốc gia.5 Do quan hệ cha, mẹ và con giữa người nhận con nuôi và người
được nhận làm con nuôi là quan hệ cha, mẹ và con đặc biệt, phát sinh trên cơ
sở ý chí, tình cảm giữa người nhận nuôi và người được nhận nuôi, quan hệ
5 Đại học Quốc gia Hà Nội, Khoa Luật (2005), Giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, Nhà xuất
bản Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
12
này được tạo lập một cách có chủ định mà không dựa trên cơ sở sinh học
huyết thống tự nhiên nên cần có sự điều chỉnh bằng pháp luật. Quan hệ giữa
cha mẹ nuôi với con nuôi không chỉ đơn thuần là việc đem lại cơm no, áo ấm
cho trẻ mà nó cịn là giúp cho trẻ có một gia đình thực thụ, được cha mẹ ni
chăm sóc, đùm bọc, bảo vệ, chính vì vậy mà pháp luật quổc tế và pháp luật
của mỗi quốc gia đều có nhũng quy định cụ thể và rõ ràng để điều chỉnh về
vấn đề nuôi con nuôi nhằm bảo đảm được quyền cơ bản của trẻ em.
Chế định nuôi con nuôi được các quốc gia và cộng đồng quốc tế quan
tâm đặc biệt vì nó là sự bảo vệ về pháp lý rất cần thiết nhằm đảm bảo những
lợi ích tốt nhất cho những trẻ em có hồn cảnh đặc biệt khó khăn cần được sự
chăm sóc từ phía gia đình và xã hội. Ớ Việt Nam pháp luật điều chỉnh quan hệ
nuôi con ni được hình thành từ lâu và được quy định trong Hiến pháp, Bộ
luật Dân sự, Bộ luật Hình sự, Luật Hơn nhân và gia đình và các vãn bản quy
phạm pháp luật khác. Sự điều chinh thống nhất việc ni con ni và tăng
cường trách nhiệm của tồn xã hội trong việc giúp đỡ những trẻ em có hồn
cảnh đặc biệt để các em được chăm sóc, ni dưỡng và giáo dục trong mơi
trường gia đình thay thế, hịa nhập với cộng đồng và có điều kiện phát triển
thành người có ích cho xã hội là tất yếu, đồng thời cịn bảo vệ quyền và lợi
ích của cha mẹ nuôi, giúp họ ổn định tư tưởng và yên tâm trong việc ni
dưỡng, chăm sóc con ni như con đẻ. Ngồi ra, cịn thể hiện sự tơn trọng các
cam kết quốc tế của Việt Nam khi tham gia Công ước của Liên Hợp Quốc về
quyền trẻ em năm 1989 và Công ước Lahay năm 1993 về bảo vệ trẻ em và
hợp tác trong lĩnh vực con nuôi quốc tế. Do đó, cần phải có hành lang pháp lý
ổn định cho việc bảo đảm quá trình giải quyết cho trẻ em làm con ni theo
đúng tinh thần nhân đạo, vì lợi ích tốt nhất của trẻ em; ngăn ngừa và chống
các hành vi mua bán trẻ em hoặc lợi dụng việc ni con ni nhằm mục đích
trục lợi khác.
13
Trong những năm qua, pháp luật vê nuôi con nuôi của Việt Nam đã thê
hiện chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về
công tác bảo vệ trẻ em, vì lợi ích tốt nhất của trẻ em, tạo cơ sở pháp lý chặt
chẽ, minh bạch, góp phần đấu tranh phịng chống hiện tượng mua bán trẻ em
làm con nuôi hoặc lợi dụng việc nuôi con ni để trục lợi; góp phần quan
trọng trong việc bảo đảm thực hiện quyền trẻ em được chăm sóc, ni dưỡng
và giáo dục trong mơi trường gia đình.
Sự điều chỉnh bằng pháp luật việc nuôi con nuôi xuất phát từ những đặc
điếm khách quan và bản chất cùa quan hệ ni con ni, từ u cầu phải bảo vệ
lợi ích chính đáng của các bên trong quan hệ ni con ni, do đó, việc điều
chỉnh bằng pháp luật việc ni con nuôi là cần thiết bởi những lý do sau đây:
Thứ nhất: Quan hệ nuôi con nuôi là quan hệ cha mẹ và con phát sinh
trên cơ sở ỷ chỉ của các chủ thê mà không phải phát sinh một cách tự nhiên từ
quan hệ huyết thống.
Quan hệ cha mẹ và con giữa người nhận con nuôi và người được nhận
làm con nuôi là quan hệ cha, mẹ và con đặc biệt, các chủ thể trong quan hệ
pháp luật nuôi con nuôi bao gồm cha, mẹ đẻ; cha, mẹ nuôi và con nuôi. Quan
hệ này phát sinh dựa trên ý chí, tình cám giữa các bên chù thể, được tạo lập
một cách có chủ định. Việc ni con ni phải được thực hiện trên tinh thần
•
•
•
JL
*
*
*
tự nguyện, các chủ thể liên quan đến việc cho, nhận con nuôi phải thể hiện ý
chí của mình một cách tự nguyện và trung thực. Tất cả phải xuất phát từ sự
chủ động, từ yếu tố tình cảm, nhu cầu thiết thực, có suy nghĩ kĩ càng trước khi
đi đến quyết định. Việc có xác lập quan hệ cha mẹ con hay không là do chính
bản thân các chủ thể của quan hệ này quyết định trên cơ sở hoàn toàn tự
nguyện, chủ động và hiếu biết đầy đủ về hậu quả pháp lí của nó.
Vì khơng phải là một quan hệ tự nhiên nên các bên chủ thể phải có các
điều kiện, khơng như quan hệ giữa cha mẹ đẻ và con đẻ hình thành một cách
tự nhiên bằng con đường huyết thống, sự gắn bó tình cảm và mối liên hệ giữa
14
cha mẹ đẻ với con đẻ là quy luật tự nhiên có tính bên vững, khơng thê thay
đổi bởi nguồn gốc huyết thống. Trong khi đó ni con ni là việc đưa một
đứa trẻ vào một mơi trường gia đình với bố mẹ nuôi, không phải bố mẹ ruột
của trẻ theo nguyên tắc nhất định.
Vì vậy, pháp luật cần quy định những điều kiện cần thiết, cơ bản nhất
phải có đối với người nhận nuôi và người được nhận nuôi và con nuôi, đề việc
nuôi con nuôi được thực hiện đúng, bảo đảm việc xác lập quan hệ cha mẹ và
con lâu dài, bền vững, đồng thời bảo đảm tạo được mơi trường gia đình an
tồn cho trẻ, trẻ được hưởng sự nuôi dưỡng, giáo dục tốt nhất.
Thứ hai: Mục đích của việc ni con ni là xác lập quan hệ cha mẹ và
con, hảo vệ quyền cơ bản của trẻ em
Việc nuôi con nuôi, trước hết phải xuất phát từ mục đích là vì lợi ích
của người được nhận làm con ni. Lợi ích tốt nhất đối với trẻ em được nhận
làm con nuôi phải xem xét trong mọi mặt cuộc sổng của trẻ em, liên quan đến
suốt cuộc đời của trẻ, do đó cần phải cân nhắc một cách tồn diện về lợi ích
của trẻ và là yếu tố có tính quyết định đến việc cho, nhận con nuôi. Quyết
định cho, nhận con nuôi nhằm mang lại cho trẻ được nhận làm con ni một
mái ấm gia đình, được u thương, ni dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Đồng
thời việc nuôi con nuôi cũng xuất phát từ nhu cầu tình cảm của người nhận
ni, nhằm thiết lập quan hệ tình cảm gắn bó giữa cha, mẹ và con cái. Bên
cạnh ý nghĩa tạo mái ấm gia đình cho trẻ em, việc ni con ni cịn góp phần
đáp ứng nhu cầu chính đáng của vợ chồng nhận con ni, nhất là những cặp
vợ chồng vô sinh, hiếm con; phụ nữ có hồn cảnh khó khăn, sống đơn thân.
Xuất phát từ ý nghĩa xã hội và mục đích nhân đạo của việc ni con
ni, nên càn phải có pháp luật điều chỉnh cụ thế, phải quy định rõ mục
đích của việc nuôi con nuôi, nhằm tránh những hành vi lạm dụng việc ni
con ni để vi phạm quyền trẻ em. Ví dụ: buôn bán trẻ em, sử dụng trẻ em
15
vào những hoạt động phi pháp, trái đạo đức hoặc ni con ni vì mục đích
trục lợi...
Điều 2 Luật Ni con ni 2010 đã chỉ rõ mục đích của ni con nuôi
là: “Việc nuôi con nuôi nhằm xác lập quan hệ cha, mẹ và con lâu dài, bền
vững, vì lợi ích tốt nhất của người được nhận làm con nuôi, hảo đảm cho con
ni được ni dưỡng, chăm sóc, giáo dục trong mơi trường gia đình".
Thứ ba: Trong quan hệ nuôi con nuôi luôn tồn tại ba mối quan hệ cơ
bản: Quan hệ cha mẹ nuôi với con nuôi, con nuôi với cha mẹ đẻ, cha mẹ đẻ
và cha mẹ ni.
Kể từ thời điểm được nhận làm con ni thì giữa cha mẹ ni và con
ni có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ như giữa cha mẹ đẻ và con đẻ. Cụ thể
là: Cha mẹ có nghĩa vụ và quyền thưong yêu, trông nom, nuôi dưỡng, đại diện
theo pháp luật, bồi thường thiệt hại do con chưa thành niên, con đã thành niên
mất năng lực hành vi dân sự gây ra theo quy định của Bộ luật dân sự. Con có
nghĩa vụ và quyền chăm sóc, ni dưỡng cha mẹ, nghiêm cấm con có hành vi
ngược đãi, hành hạ, xúc phạm cha mẹ ...Giữa cha mẹ nuôi và con ni có
quyền thừa kế của nhau.
Ngồi các quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi, người con
được cho làm con ni khơng chấm dứt hồn tồn quan hệ với cha mẹ đẻ.
Con ni vẫn có quyền thừa kế của cha mẹ đẻ và ngược lại, cha mẹ đẻ vẫn có
quyền thừa kế của con đã cho làm con ni. Quy định này tồn tại từ Quốc
triều hình luật, cho đến tận ngày nay đều có quy định con ni vẫn có quyền
thừa kế tài sản của cha mẹ đẻ.6
Người đã được nhận làm con nuôi đã thiết lập quan hệ nuôi dưỡng với
cha nuôi, mẹ nuôi nhưng khơng vì thế mà quan hệ huyết thống với các thành
viên khác trong gia đình cha mẹ ruột bị mất đi. Do vậy, việc kết hôn giữa
6 Nguyễn Phương Lan (2011), “Hệ quá pháp lý của việc nuôi con nuôi theo Luật Nuôi con nuôi Việt Nam”,
Luật học, (10).
16
người con nuôi và những người thân thuộc trong mối quan hệ huyết thống vẫn
bị cấm trong phạm vi ba đời.
về quan hệ giữa cha mẹ đẻ và cha mẹ ni: Trong q trình thực
hiện
việc
cho,7 nhận
con ni thì cha mẹ• đẻ và cha mẹ• ni có mổi liên hệ•
•
•
•
với nhau trong việc thỏa thuận thực hiện một số quyền theo quy định của
pháp luật như: thỏa thuận về việc thay đổi phần khai về cha, mẹ từ cha, mẹ
đẻ sang cha, mẹ nuôi trong Giấy khai sinh và sổ đăng ký khai sinh của con
nuôi hoặc thỏa thuận giữ lại một số quyền và nghĩa vụ khác phù hợp với
quy định của pháp luật.
Vi vậy, việc quy định, điều chỉnh quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể là
cần thiết, đảm bảo sự ổn định, bền vững lâu dài của quan hệ nuôi con nuôi,
cũng như bảo đảm quyền, lợi ích chính đáng của các bên chủ thể, mà trước
hết là của trẻ em được nhận nuôi.
Thứ tư: Việc nuôi con ni, đặc biệt là việc ni con ni có yếu tổ
nước ngoài cần phải được điều chinh bằng pháp luật
Ke từ khi Việt Nam thực hiện công cuộc đối mới đất nước, quan hệ
quốc tế ngày càng được mở rộng, giao lưu về mọi mặt giữa công dân Việt
Nam với người nước ngồi ngày càng phát triển, thì các quan hệ về hơn nhân
và gia đình của cơng dân Việt Nam với người nước ngồi, trong đó có các
quan hệ nuôi con nuôi cũng ngày càng phát triển. Việc ban hành các văn bản
pháp luật nhằm tạo cơ sở pháp lý an toàn, vững chắc cho việc giải quyết và
quản lý nhà nước trong các lĩnh vực này là điều cần thiết nhằm ngăn chặn,
phòng ngừa, xử lý những hành vi lợi dụng việc nuôi con nuôi đế mua bán,
chiếm đoạt trẻ em. Quan hệ ni con ni có yếu tổ nước ngồi có thể có
nguy cơ dẫn đến những hành vi xâm phạm nghiêm trọng quyền của trẻ em,
bời nhũng hành vi mua bán trẻ em nhằm mục đích trục lợi. Do đó, việc quy
định cụ thể các điều kiện, thủ tục, quy trình chặt chẽ trong tồn bộ q trình
xác lập, thực hiện việc ni con ni, cũng như những chế tài cần thiết khi có
17
hành vi vi phạm là cân thiêt.
Thứ năm: Đảm bảo sự phù hợp và tương thích với luật pháp quốc tế
Nuôi con nuôi là một vấn đề quan trọng không chỉ trong hệ thống pháp
luật của nhiều nước mà còn thể hiện rất rõ trong pháp luật quốc tế. vấn đề
nuôi con nuôi được các quốc gia và cộng đồng quốc tế quan tâm đặc biệt vì
nó là sự bảo vệ về pháp lý rất cần thiết nhằm đảm bảo những lợi ích tốt nhất
cho những trẻ em có hồn cảnh đặc biệt khó khăn cần được sự chăm sóc từ
phía gia đình và xã hội. Chính vì vậy, vấn đề nuôi con nuôi được nhiều quốc
gia trên thế giới quan tâm, tuy mỗi nước có những quy định khác nhau về
trình tự, thủ tục giải quyết việc ni con ni, nhưng đều có chung một mục
đích đó là nhằm đảm bảo lợi ích tốt nhất cho trẻ em.
Việt Nam đã tham gia các Công ước quốc tế đa phương, ký kết các điều
ước quốc tế song phương nhằm tạo ra một cơ chế hợp tác quốc tế chặt chẽ
giữa Việt Nam với các nước liên quan về lĩnh vực nuôi con nuôi, đảm bảo cho
trẻ em được nhận làm con ni có đủ điều kiện được hưởng những gì tốt đẹp
nhất, cũng như tạo thuận lợi hơn về mật thủ tục cho cha mẹ nuôi trong lĩnh
vực này, đồng thời hạn chế đến mức tối đa những hiện tượng tiêu cực có thể
xảy ra trong lĩnh vực hết sức nhạy cảm này. Do đó, việc làm cho pháp luật
Việt Nam hài hồ với thơng lệ quốc tế cũng như pháp luật của nhiều nước về
nuôi con nuôi là việc làm cần thiết, nhằm đảm bảo tốt nhất lợi ích của trẻ em
Việt Nam làm con ni người nước ngồi.
Thứ sáu: Quy định các quy phạm pháp luật về nuôi con nuôi là cơ sở
pháp lỷ đế giải quyết các tranh chấp phát sinh, cũng như có cơ sở pháp lý đề
xử lỷ những hành vi vi phạm trong lĩnh vực nuôi con nuôi
Các quy định của pháp luật về nuôi con nuôi là cơ sở pháp lý để giải
quyết một cách hợp tình họp lý, phù họp với thực trạng khách quan của quan
hệ nuôi con nuôi và bảo vệ được quyền và lợi ích chính đáng của các bên khi
18