Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

Pháp luật về đại diện của đương sự trong vụ án kinh doanh, thương mại qua thực tiễn áp dụng tại tỉnh đồng tháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (23.39 MB, 95 trang )

MỤC LỤC

Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt

Danh mục bảng

MỞ ĐẦU.............................................................................................................1
CHƯƠNG 1: NHŨNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐẠI DIỆN CỦA ĐƯƠNG

sự TRONG VỤ ÁN KINH DOANH, THƯƠNG MẠI...................... 6
1.1.

Khái niệm và đặc điểm của chế định đại diện.................................. 6

1.2.

Khái niệm và đặc điểm của tranh chấp kinh doanh, thương mại.... 11

1.3.

Khái niệm về đại diện của đương sự trong vụ án kinh doanh,









O

7

thương mại.......................................................................................... 14
1.4.

Đặc điểm của đại diện đương sự trong vụ án kỉnh doanh,






CT



CZ7



7

thương mại.......................................................................................... 17
1.5.

Phân loại đại diện của đương sự trong vụ án kinh doanh,









7

thương mại.......................................................................................... 19
1.6.

Ý nghĩa của đại diện đương sự trong vụ án kinh doanh,

thương mại.......................................................................................... 20

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1.................................................................................. 23
CHƯƠNG 2: THựC TRẠNG PHÁP LUẬT VÈ ĐẠI DIỆN CỦA

ĐƯƠNG Sự TRONG vụ ÁN KINH DOANH, THƯƠNG MẠI
TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY VÀ THựC TIỄN ÁP DỤNG TẠI

TỈNH ĐÒNG THÁP........................................................................... 24

2.1.

Pháp luật về đại diện của đương sự trong vụ án kinh doanh,
thương mại tại Việt Nam hiện nay................................................... 24
ã


2.1.1.

ã

ã

ã

ô/

iu kin lm i din ca ng s trong vụ án kinh doanh,
thương mại............................................................................................ 24


2.1.2.

Đại diện theo pháp luật của đương sự trong vụ án kinh doanh,

thương mại.......................................................................................... 30
2.1.3.

Người đại diện theo ủy quyền của đương sự trong vụ án kinh
doanh, thương mại.............................................................................. 38

2.1.4.

Thời hạn đại diện và phạm vi đại diện................................................ 40

2.1.5.


Quyền và nghĩa vụ của người đại diện đương sự trong vụ án kinh

doanh, thương mại................................................................................42
2.1.6.

Chấm dứt đại diện của đương sự trong vụ án kinh doanh,
thương mại......................................................................................... 48

2.1.7.

Hệ quả pháp lý việc chấm dứt đại diện của đương sự trong vụ án
kinh doanh, thương mại...................................................................... 52

2.2.

Thực
• tiễn thực hiện pháp luật về đại
• diện
• của đương” sự• trong
vụ án kinh doanh, thương mại trên địa bàn Tỉnh Đồng tháp........ 52

2.2.1. Việc xác định tư cách đương sự........................................................... 55
2.2.2.

Hình thức của văn bản ủy quyền......................................................... 60

2.2.3.

Quy định về quyền và nghĩa vụ của đại diện đương sự trong vụ


án kinh doanh, thương mại................................................................. 62
2.2.4.

Vấn đề thông báo chấm dứt người đại diện của đương sự..................67

2.2.5.

Nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc.................................... 69

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2................................................................................ 70
CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP

LUẬT VÈ ĐẠI DIỆN CỦA ĐƯƠNG sự TRONG vụ ÁN

KINH DOANH, THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM NÓI CHUNG
VÀ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐỒNG THÁP NÓI RIÊNG.................. 71

3.1.

Định hướng hoàn thiện pháp luật về đại diện của đương sự

trong vụ án kinh doanh, thương mại.............................................. 71

3.1.1.

Hoàn thiện pháp luật về đại diện của đương sự nhằm mục tiêu
đảm bảo quyền tự định đoạt của đương sự......................................... 71



3.1.2.

Hoàn thiện pháp luật vê đại diện của đương sự hướng tới mục
tiêu đảm bảo quyền tranh tụng tại Tòa án nham bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của đương sự............................................................ 72

3.2.

Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về

đại diện của đương sự trong vụ án kinh doanh, thương mại...... 74
3.2.1.

Kiến nghị hoàn thiện các quy định pháp luật...................................... 75

3.2.2.

Giải pháp nhàm nâng cao hiệu quả việc thực thi pháp luật về

người đại diện của đương sự trong vụ án kinh doanh, thương mại... 80
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3.................................................................................. 84

KẾT LUẬN...................................................................................................... 85
X

Q

TẢI LIỆU THAM KHÁO.............................................................................. 87



DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BLDS

: Bơ• lt
Dân sư•


BLTTDS : Bộ luật tố tụng dân sự
KDTM

: Kinh doanh, thương mại

TAND

: Tòa án nhân dân

TTDS

: Tố tụng dân sự


DANH MỤC BẢNG
C1 Ả / •
Sơ hìêu


Tên bảng

Bảng 2.1


TAND tỉnh Đồng Tháp đã giải quyết được một số

lượng tương đối lớn các vụ án kinh doanh thương mại
Bảng 2.2

Trang

54

Ti lệ giải quyết đối với các loại vụ, việc kinh doanh
thương mại trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp

54


MỞ ĐẦU

1. Tính câp thiêt của đê tài nghiên cứu
Trong nền kinh tế thị trường nhiều thành phần theo định hướng xã hội

chủ nghĩa, hệ thống pháp luật nước ta ngày càng được hồn thiện, đáp ứng tốt

hơn q trình phát triển và hội nhập quốc tế. Sự phát triển của các thành phần

kinh tế, sự gia tăng số lượng các doanh nghiệp tạo ra môi trường đầu tư kinh
doanh hấp dẫn nhưng cũng không kém phần phức tạp và cạnh tranh gay gắt.

Do sự chi phối của quy luật cạnh tranh và mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận của
các chủ thể tham gia thị trường, việc phát sinh tranh chấp giữa các chủ thể


kinh doanh là điều không thể tránh khỏi. Khi phát sinh tranh chấp, các bên lựa
chọn một cơ quan tài phán để phân định quyền và lợi ích của mình như Trung

tâm trọng tài hay Tịa án. Tuy nhiên, do chưa quen với các hình thức giải

quyết tranh chấp ngồi Tịa án nên các chù thể thường chọn Tòa án là cơ quan
giải quyết tranh chấp của mình.
Do tính chất của cơng việc cũng như tầm quan trọng của q trình giải

quyết tranh chấp, thơng thường các chủ thể trong tranh chấp không trực tiếp
tham gia tố tụng mà ủy quyền cho người có am hiểu về pháp luật thay mặt
đương sự thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích

hợp pháp của đương sự trước Tòa án. Nhận thức được tầm quan trọng, pháp

luật nước ta có những quy định về đại diện đương sự trong quá trình giải

quyết tranh chấp tại Tòa án. Chế định đại diện trong các tranh chấp KDTM đã
được quy định chính thức từ Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế

năm 1994, và được tiếp tục quy định trong BLTTDS 2004 và hiện nay là
BLTTDS 2015 vẫn có chế định đại diện của đương sự trong giải quyết tranh
chấp KDTM tại Tòa án.
Thực tiễn hoạt động xét xử trong những năm gần đây cho thấy, việc

1


quy định chê định người đại diện của đương sự là hêt sức cân thiêt, nhăm đảm


bảo hoạt động tranh tụng được diễn ra theo đúng trình tự, thủ tục pháp luật

quy định, kịp thời bảo vệ quyền và lợi ích họp pháp cho các bên đương sự. số

lượng các vụ việc có người đại diện cho đương sự tham gia vào q trình
TTDS ngày càng tăng và có tính chuyên nghiệp hơn. Tuy nhiên, trải qua thực

tiễn áp dụng, những quy định về người đại diện của đương sự trong TTDS đã
bộc lộ một số điểm bất cập, chưa cụ thể, thiếu tính thống nhất, có những vấn

đề cần thiết nhung chưa được luật hóa, do đó, cần thiết phải nghiên cứu một

cách toàn diện những quy định pháp luật về đại diện của đương sự trong việc
giải quyết án KDTM và thực tiễn áp dụng trong quá trình tố tụng tại Tịa án,
để từ đó chỉ ra những bất cập và kiến nghị những giải pháp hoàn thiện chế

định này trong TTDS tại Tòa án.
Xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn như đã được diễn giải, phân tích ở

trên và kinh nghiệm trong cơng tác của băn thân, tác giả quyết định chọn đề
tài "Pháp luật về đại diện của đương sự trong vụ án kinh doanh thương

mại qua thực tiễn áp dụng tại tỉnh Đồng Tháp" làm chủ đề nghiên cửu cho
luận văn của mình. Tác giả mong muốn thông qua việc nghiên cứu những vấn

đề lý luận và thực tiễn về chế định pháp luật đại diện của đương sự tại Tòa án

địa phương, để từ đó chỉ ra những bất cập và đề xuất những giải pháp cụ thể


góp phần hồn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định pháp luật

này, qua đó bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích họp pháp cho các đương sự trong
các vụ án tranh chấp KDTM tại Tịa án.
2. Mục
đích và nhiệm
vụ• nghiên
cứu



2.1. Mục đích nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu của luận văn là trên cơ sở nghiên cứu những vẫn

đề lý luận cơ bản và quy định pháp luật về đại diện của đương sự trong vụ án
KDTM qua thực tiễn áp dụng tại tỉnh Đồng Tháp, tác giả phân tích những quy

định pháp luật hiện hành, từ đó chỉ ra những bất cập trong quy định pháp luật

2


so với thực tiễn hoặc sự thiếu thống nhất giữa các quy định pháp luật có liên

quan và đề xuất một số kiến nghị nhàm hoàn thiện quy định pháp luật về đại
diện của đương sự trong vụ án KDTM.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, nhiệm vụ nghiên cứu của luận

văn được xác định cụ thể như sau:

- Nghiên cứu, phân tích, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận chung về đại
diện của đương sự trong vụ án KDTM.

- Nghiên cứu tồng quát về thực trạng áp dụng các quy định pháp luật về
đại diện đương sự trong án KDTM trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp. Nội dung
trong phần này đề cập thực trạng án K.DTM trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp. Nêu

ra những tồn tại và bất cập trong quá trình tồ chức thi hành pháp luật về đại
diện của đương sự trong vụ án KDTM.

- Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn, luận văn đề xuất định
hướng và một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về đại diện của

đương sự trong vụ án K.DTM tại Việt Nam nói chung và trên địa bàn tỉnh

Đồng Tháp nói riêng.

3. Tính mói và những đóng góp cũa đề tài
Luận văn nghiên cứu, đánh giá tồn diện về tình hình tổ chức thi hành
pháp luật về đại diện của đương sự trong vụ án KDTM qua thực tiễn áp dụng
tại tinh Đồng Tháp.

Luận văn đưa ra giải pháp nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về đại

diện của đương sự trong vụ án KDTM.
Cách tiếp cận của đề tài và hướng nghiên cứu của đề tài có những đóng

góp nhất định vào việc nghiên cứu pháp luật về đại diện của đương sự và tổ

chức thi hành trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp.

Ket quả nghiên cứu có thể sử dụng làm tài liệu phục vụ và nghiên cứu
cho sinh viên, học sinh, sử dụng làm tài liệu nghiên cứu cho một số tỉnh khác.

3


Kêt quả nghiên cứu cũng có thê sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các
nhà nghiên cứu, những nhà hoạch định chính sách và những ai quan tâm.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là quy chế pháp lý về chế định đại

diện của đương sự trong các vụ án KDTM.
4.2. Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi nghiên cứu là các quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam
về đại diện của đương sự trong vụ án KDTM, và việc tổ chức thi hành trên địa
bàn tỉnh Đồng Tháp từ năm 2016 đến năm 2020.
Tổng quan tài liệu

Trong những năm gần đây, vấn đề pháp luật về người đại diện đương

sự nói chung đã có nhiều tác giả quan tâm, tìm hiểu và nghiên cứu ở nhiều
góc độ, khía cạnh....một số tác giả cũng đã chọn đề tài pháp luật về người đại

diện đương sự làm đề tài nghiên cứu như: Vương Quốc Hải (2017), "Người


đại diện theo ủy quyền trong bộ luật tố tụng dân sự năm 2015”, Luận văn

Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội. Trần Thị Hường (2014),
"Người đại diện theo ủy quyền của đương sự trong tố tụng dân sự Việt Nam",
Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật, Trường Đại học Quốc gia Hà Nội.

Nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của người đại diện đương sự,
đã có nhiều tác giả quan tâm, tìm hiểu và nghiên cứu ở nhiều góc độ, khía

cạnh. Dưới góc độ pháp luật thì cho đến nay đã có một số tác giả công bố các
tác phẩm khoa học nghiên cứu một vấn đề, khía cạnh, bộ phận hay một số quy

định pháp luật đại diện đương sự chẳng hạn như PGS.TS. Ngô Huy Cương,

“Chế định đại diện theo quy định của pháp luật Việt Nam - nhìn từ góc độ
luật so sảnh ”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật (04/2009); ThS. Lý Văn Tốn,
"Sự tương thích của Bộ luật dân sự năm 2015 với Luật hơn nhân và gia đình

năm 2014 về đại diện giữa vợ và chồng khi một bên vợ, chồng khó khăn trong

4


nhận thức, làm chủ hành vi dân sự”, Tạp chí Kiêm sát, sơ 17, 2018; Phạm
Hồng Lâm, "Kinh nghiệm kiếm sát việc giải quyết vụ án dân sự về họp đồng

ủy quyền giao tài sản”, Tạp chí Kiểm sát, số Xn, 2017.
Những cơng trình nghiên cứu được nêu, chưa phải là một cơng trình
nghiên cứu chun sâu chế định pháp luật về đại diện của đương sự trong vụ


án KDTM tại Tòa án. Do vậy, với đề tài “Pháp luật đại diện của đương sự
trong vụ án kinh doanh, thương mại qua thực tiễn áp dụng tại tinh Đồng

Tháp ”, tác giả sẽ nghiên cứu trên cơ sở phân tích chuyên sâu về phạm vi, nội

dung về đại diện của đương sự trong vụ án KDTM tại Tòa án. Qua đó, đưa ra
giải pháp hồn thiện pháp luật và kiến nghị, đề xuất nhằm góp phần hồn
thiện pháp luật về đại diện của đương sự trong vụ án KDTM.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong luận văn, để giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu khoa học đã đặt

ra, tác giả đã vận dụng phương pháp luận về duy vật biện chứng, đồng thời
còn sứ dụng riêng rẽ và kết họp các phương pháp cụ thể như: phương pháp
phân tích, phương pháp so sánh, phương pháp thống kê, phương pháp tổng

hợp phù hợp với yêu cầu nghiên cứu ở từng chương, mục của luận văn.
6. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
cùa luận văn gồm 3 chương:

Chương 1: Những vấn đề lý luận về đại diện của đương sự trong vụ án

kinh doanh, thương mại.
Chương 2'. Thực trạng pháp luật về đại diện của đương sự trong vụ án

kinh doanh, thương mại tại Việt Nam hiện nay và thực tiễn áp dụng tại tỉnh

Đồng Tháp.

Chương 3: Định hướng và giãi pháp hoàn thiện pháp luật về đại diện
của đương sự trong vụ án kinh doanh, thương mại tại Việt Nam nói chung và

trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp nói riêng.

5


Chương 1
NHŨNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐẠI DIỆN CỦA ĐƯƠNG sụ
TRONG VỤ ÁN KINH DOANH, THƯƠNG MẠI

1.1. Khái niệm và đặc điêm của chê định đại diện

Dưới góc độ ngôn ngữ, đại diện là “một người hoặc cơ quan (ví dụ:
Văn phịng đại diện, cơ quan đại diện ngoại giao) thay mặt một người, một tổ

chức, một quốc gia, một tổ chức quốc tế, một tổ chức chính phù, một tổ chức
phi chính phủ với những nhiệm vụ quyền hạn cụ thể đế làm những cơng việc

nhất định vì lợi ích của người, cùa tố chức đã cử họ làm đại diện” [1, tr. 142].
Pháp luật dân sự của các nước trên thế giới có nhiều cách hiểu và định

nghĩa về đại diện khác nhau. Ví dụ, Điều 99 BLDS Nhật Bản năm 2005 quy
định về đại diện như sau: sự biểu lộ ý chí bởi người đại diện thể hiện rằng sự
biểu lộ ý chí đó được lập ra nhân danh người được đại diện trong phạm vi
thẩm quyền của người đại diện ràng buộc người được đại diện; các quy định
này được áp dụng với những sửa đổi thích hợp đối với bất kỳ sự biểu lộ ý chí

nào bởi người thứ ba tới người đại diện. Quy định này cho thấy: (1) việc trao

quyền đại diện khơng nhất thiết là một hợp đồng, có nghĩa là có thể bởi các

nguồn gốc hay căn cứ khác; (2) người đại diện không nhất thiết phải hành

động trong lĩnh vực xác lập hay thực hiện giao dịch dân sự; (3) yêu cầu ngưòi

đại diện phải thể hiện sự nhân danh người được đại diện [35].
Pháp luật Anh giải thích thuật ngữ đại diện (agency) được sử dụng đe

chỉ mối quan hệ tồn tại khi một người có thẩm quyền hoặc năng lực để tạo lập
mối quan hệ pháp lý giữa một người giữ vai trò là người được đại diện và

người thứ ba. Và nó được giải thích thêm là quan hệ đại diện xuất hiện bất kỳ
khi nào một người, được gọi là người đại diện (agent), có thẩm quyền hành

động nhân danh người khác, được gọi là người được đại diện (principal), và
bằng lòng hành động như vậy [35],

6


Tương tự, Luận thuyêt vê đại diện (lân thứ hai) của Hoa Kỳ định nghĩa:

“Đại diện là quan hệ ủy thác phát sinh từ việc biểu lộ sự ưng thuận bởi một

người với một người khác mà người sau này hành động nhân danh và phụ
thuộc vào sự kiểm soát của người trước, và sự ưng thuận bởi người sau hành

động như vậy” [35].
Theo pháp luật Hoa Kỳ, chế định đại diện có đặc điểm sau: thứ nhất, là


một quan hệ ưng thuận mà trong đó người đại diện đồng ý hay ít nhất bằng
hành động dưới sự chỉ dẫn hay kiếm soát của người được đại diện; thứ hai, là
một quan hệ ủy thác mà theo đó người đại diện đồng ý hành động cho và nhân

danh người được đại diện [35].
Chế định đại diện cũng được đề cập đến trong các văn bản mang tính

quốc tế như: Nguyên tắc hợp đồng thương mại quốc tế của Unidroit; Nguyên
tắc luật họp đồng Châu Âu; Luật thống nhất về thương mại của OHADA;
Công ước của Unidroit về đại diện trong mua bán hàng hố quốc tế; Cơng ước

Hague về luật áp dụng đối với đại diện. Với ỷ nghĩa và tầm quan trọng như

vậy, BLDS 2015 đã dành một chương riêng (Chương IX) đề quy định về đại
diện. Theo quy định tại khoản 1 Điều 134 BLDS 2015 thì: ‘‘Đại diện là việc

cá nhãn, pháp nhãn (sau đây gọi chung là người đại diện) nhãn danh và vì lợi

ích của cá nhân hoặc pháp nhân khác (sau đây gọi chung là người được đại
diện) xác lập, thực hiện giao dịch dãn sự".
Với quy định này, đại diện là một quan hệ pháp luật dân sự bao gồm

hai bên chủ thế là người đại diện và người được đại diện. Theo đó, người đại
diện nhân danh và vì lợi ích của người được đại điện đề xác lập, thực hiện
giao dịch dân sự trong phạm vi đại diện. Người đại diện có thể là cá nhân
hoặc pháp nhân. So với BLDS những năm trước đây đã bổ sung pháp nhân

cũng có thể là người đại diện. Người được đại diện là người tiếp nhận các hậu
quả pháp lí từ quan hệ do người đại diện xác lập, thực hiện đúng thẩm quyền


7


đại diện. Người được đại diện có thê là cá nhân khơng có năng lực hành vi,

chưa đủ năng lực hành vi nên theo quy định của pháp luật phải có người đại
diện trong quan hệ pháp luật. Cá nhân có đầy đủ năng lực hành vi có thể ủy
quyền cho người khác là đại diện theo ủy quyền của mình. Pháp nhân hoạt

động thơng qua hành vi của những người nhất định có thẩm quyền đại diện

cho chủ thể đó.

Quan hệ đại diện có thể được xác định theo quy định của pháp luật, có
thể được xác định theo ý chí cùa các chủ thể tham gia, thể hiện bằng giấy ủy
quyền hay hợp đồng ủy quyền. Trong phạm vi thẩm quyền đại diện, người đại

diện xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự, đem lại quyền và nghĩa vụ cho

người được đại diện [23, tr. 155],
Như vậy, theo tác giả đại diện là việc cá nhân, pháp nhân (người đại
diện) xác lập, thực hiện giao dịch trong phạm vi đại diện làm phát sinh,

thay đồi hoặc chấm dứt các quyền, nghĩa vụ dân sự của người khác (người
được đại diện).

* Đặc
điểm của quan hệ• đại
diện




Ngồi các đặc điểm của quan hệ pháp luật dân sự thì đại diện cịn có
những đặc điểm riêng như sau:

- Đại diện làm phát sinh hai mối quan hệ cùng tồn tại song song là quan
hệ giữa người đại diện và người được đại diện (quan hệ bên trong), quan hệ
giữa người đại diện và người thứ ba (quan hệ bên ngoài).
Quan hệ bên trong là quan hệ được hình thành giữa người được đại

diện và người đại diện. Quan hệ này được hình thành theo quy định của pháp

luật (đại diện theo pháp luật) hoặc từ hợp đồng (đại diện theo ủy quyền).
Người đại diện là cá nhân có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, nhân danh chủ

thể trong giao dịch thực hiện những hành vi theo quy định của pháp luật cho
phép hoặc theo nội dung được ủy quyền. Người được đại diện có thể là cá

8


nhân hoặc tơ chức có nhu câu ủy qun cho một cá nhân khác thay mình thực

hiện một cơng việc, một giao dịch dân sự nào đó [22, tr. 14],

Quan hệ bên ngoài là quan hệ được xác lập giữa người được đại diện và

người thứ ba. Quan hệ bên trong là tiền đề, là cơ sở cho sự xuất hiện và tồn tại
của quan hệ bên ngoài [22, tr. 14].


- Người đại diện xác lập quan hệ với người thứ ba là nhân danh người
được đại diện chứ không nhân danh bản thân họ. Trước khi giao dịch dân sự
được lập ra, người đại diện phải giới thiệu tư cách pháp lí của mình với người

thứ ba để người này hiểu hai vấn đề: thứ nhất ai sẽ là người trao đổi lợi ích
hay chịu trách nhiệm về hậu quả của giao dịch với họ; thứ hai là thẩm quyền

của người đại diện đến đâu.
Các quyền và nghĩa vụ do người đại diện thực hiện trong phạm vi thẩm
quyền đại diện với người thứ ba đều thuộc về người được đại diện. Người đại

diện có thể được hưởng những lợi ích nhất định từ người được đại diện do
thực hiện hành vi đại diện với người thứ ba, chứ khơng được hưởng bất kỳ lợi

ích gì từ người thứ ba.
Trong giao dịch do người đại diện nhân danh người được đại diện xác

lập thực hiện phát sinh với người thứ ba chứ không phải người được đại diện
là người trực tiếp xác lập và thực hiện giao dịch dân sự với người thứ ba.
Trường hợp người đại diện thực hiện đại diện vượt q thẩm quyền hoặc

khơng có thẩm quyền thì tùy vào từng trường hợp cụ thề, chủ thể của giao
dịch
dân sự• đó sẽ thayJ đổi. Người đại
diện
sẽ trở thành một
bên đại
diện








chịu trách nhiệm đối với hệ quả pháp lý của giao dịch đó.

- Người đại diện được chủ động trong việc xác lập giao dịch dân sự với
bên thứ ba trong phạm vi đại diện nhằm đảm bảo quyền lợi cao nhất cho

người được đại diện [22, tr.15].
Quyền lợi mà người đại diện thực hiện trong giao dịch với bên thứ ba là

9


nghĩa vụ mà pháp luật quy định hoặc giữa người đại diện và người được đại
diện đã thỏa thuận.

- Trong quan hệ đại diện, người được đại diện trực tiếp thu nhận các kết
quả pháp lý do hoạt động của người đại diện thực hiện trong phạm vi thấm
quyền đại diện mang lại [22, tr. 15],

Phạm
thực
• vi đại
• diện
• được
• hiểu là hành động


• hiện
• với tư cách một

người khác mà được sự đồng ý của họ.

Các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch dân sự do người đại diện
xác lập thực hiện với người thứ ba đều thuộc về người được đại diện, điều này
có nghĩa là quan hệ pháp luật dân sự phát sinh giữa người được đại diện và

người thứ ba, chứ không phải giữa người trực tiếp tiến hành xác lập giao dịch
dân sự - người đại diện với người thứ ba.
Trong trường hợp người đại diện thực hiện hành vi vượt quá phạm vi

đại diện thì người được đại diện sẽ khơng phải chịu trách nhiệm đối với phạm

vi vượt quá đó trừ khi người được đại diện đồng ý.
* Ỷ nghĩa của quan hệ đại diện
Đại diện có ý nghĩa rất quan trọng trong nhiều trường hợp giao dịch,

không phải chủ thể nào cũng có thể tự mình thực hiện tất cả các quyền và

nghĩa vụ dân sự của mình một cách hiệu quả nhất. Do đó, chế định đại diện có

ý nghĩa rất lớn trong thực tiễn quan hệ pháp luật dân sự.
Đối với những cá nhân bị mất, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự,

người chưa thành niên, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi,
do những hạn chế về thể lực và trí lực, việc trực tiếp tham gia, xác lập các


giao dịch dân sự có khả năng mang lại hậu quả bất lợi cho những chủ thể này.
Chính vì vậy, hình thức đại diện theo pháp luật là một giải pháp an toàn, hiệu

quả giúp những chủ thể này được hưởng mọi quyền và lợi ích hợp pháp thơng
qua những giao dịch dân sự do người đại diện theo pháp luật xác lập và thực

hiên vì lơi ích của ho.

10


Đôi với pháp nhân, vôn là một “con người pháp lý” và không phải là

con người sinh học nên việc tham gia xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự

vì lợi ích của pháp nhân bắt buộc phải được thực hiện thông qua các hành vi
của cá nhân. Cá nhân đó có thể là người đại diện theo pháp luật, có thể là

người đại diện theo ủy quyền của pháp nhân.
Kinh tế, xã hội ngày càng phát triền thì đại diện ngày càng được biết

đến như là một dịch vụ, người đại diện những người có đủ năng lực, trình độ

chun mơn sẽ thực hiện những cơng việc mà người có nhu càu mong muốn
thơng qua hợp đồng ủy quyền.
1.2. Khái niệm và đặc điếm của tranh chấp kinh doanh, thưong mại

Tranh chấp KDTM là một loại tranh chấp diễn ra phổ biến trong nền
kinh tế thị trường. Đôi khi vì nhiều lý do chủ quan và khách quan, các mối
quan hệ kinh tế thương mại giữa các nhà kinh doanh cũng có những bất đồng


và mâu thuẫn dẫn đến các tranh chấp trong việc thực hiện các cam kết.
Tại Việt Nam, khái niệm tranh chấp thương mại lần đầu được quy định

trong Luật thương mại năm 1997, tại Điều 238 Luật thương mại năm 1997
quy định “Tranh chấp thương mại là tranh chấp phát sinh do việc không thực
hiện hoặc thực hiện không đủng hợp đồng trong hoạt động thương mại
Tiếp tục Luật thương mại năm 2005 đã đưa ra một khái niệm về hoạt
động thương mại tương đối giãn đơn, tuy nhiên, khái niệm này cũng đã hàm

chứa và lột tả được nội hàm của hoạt động thương mại. Khoản 1 Điều 3 Luật

thương mại 2005 quy định: “Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục

đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến
thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác”. Theo khái niệm

này, quan niệm về hoạt động thương mại được mở rộng bao gồm mọi hoạt
động có mục đích sinh lợi. Khái niệm về hoạt động thương mại đã thể hiện sự

tương đồng với khái niệm kinh doanh trong Luật doanh nghiệp năm 1999,

11


Luật doanh nghiệp năm 2005 và Luật doanh nghiệp năm 2014. “Kinh doanh

là việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các cơng đoạn của q trình

đầu tư từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị

trường nhằm mục đích sinh lợi”. Như vậy, tranh chấp KDTM được hiểu là
những bất đồng, mâu thuẫn liên quan đến quyền và lợi ích của các chủ thể
tham gia hoạt động thương mại [2, tr.12].

* Đặc diêm của tranh chấp kinh doanh, thương mại
Thứ nhất, tranh chấp KDTM là những mâu thuẫn về quyền và nghĩa vụ
giữa các bên trong mối quan hệ cụ thể.
Mâu thuẫn được hiểu là trạng thái xung đột, đối lập nhau về quyền và

nghĩa vụ giữa các bên tranh chấp. Quan hệ thương mại và bất đồng giữa các
bên trong quan hệ thương mại là điều kiện cần và đủ để tranh chấp phát sinh.
Trong hoạt động thương mại, các bên vừa hợp tác đồng thời vừa cạnh tranh

nhau để đạt những mục đích đề ra. Do đó, việc phát sinh những mâu thuẫn, bất
đồng trong quá trình thực hiện quyền và nghĩa vụ của các bên là điều tất yếu.

Các quan hệ thương mại có bản chất là các quan hệ tài sản nên nội
dung tranh chấp thường liên quan trực tiếp tới lợi ích kinh tế cùa các bên.

Thông thường, những mâu thuẫn bất đồng về quyền và nghĩa vụ giữa các bên
phát sinh trong các mối quan hệ cụ thề bao gồm:

- Mua bán hàng hóa; cung ứng dịch vụ; phân phối; đại diện, đại lý; ký

gửi; thuê, cho thuê, thuê mua; xây dựng; tư vấn kĩ thuật; vận chuyền hàng

hóa, hành khách bằng đường sắt, đường bộ, đường thủy nội địa; vận chuyển
hàng hóa, hành khách bằng đường hàng không, đường biển; mua bán cổ

phiếu, trái phiếu và các giấy tờ có giá khác; đầu tư tài chính, ngân hàng; bảo

hiểm; thăm dị, khai thác.

-Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao cơng nghệ giữa cá
nhân, tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận.

12


-Tranh châp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các

thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải

thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty.
-Tranh chấp khác về KDTM mà pháp luật có quy định.

Thứ hai, tranh chấp trong KDTM là những mâu thuẫn về quyền và

nghĩa vụ giữa các bên phải phát sinh từ hoạt động thương mại.

Căn cứ phát sinh tranh chấp thương mại là hành vi vi phạm hợp đồng
hoặc vi phạm pháp luật. Trong nhiều trường hợp, tranh chap KDTM phát sinh
do các bên có vi phạm hợp đồng và xâm hại lợi ích của nhau, tuy nhiên cũng

có thể có những vi phạm xâm hại lợi ích của các bên nhưng không làm phát

sinh tranh chấp. Tranh chấp KDTM phải là những mâu thuẫn, bất đồng về
quyền và nghĩa vụ giữa các bên phát sinh từ những hoạt động nhằm mục đích

sinh lọi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung úng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến
thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác.


Thứ ba, tranh chấp KDTM chủ yếu là những tranh chấp phát sinh giữa
các thương nhân (cá nhân kinh doanh, pháp nhân) với nhau.

Ngoài thương nhân là chủ thể chủ yếu của tranh chấp KDTM, trong
những trường hợp nhất định, các cá nhân, tổ chức khác (không phải là thương

nhân) cũng có thể là chủ thể cùa tranh chấp KDTM khi trong các giao dịch

bên khơng có mục đích sinh lợi chọn áp dụng luật thương mại. Khoa học pháp

lý gọi giao dịch này là giao dịch hỗn họp.

về bản chất, hoạt động khơng nhằm mục đích sinh lợi của một bên trong
giao dịch với thương nhân không phải là hoạt động thương mại thuần túy, nhung

bên không nhằm mục đích sinh lợi đã chọn áp dụng luật thương mại thì quan hệ
này trở thành quan hệ pháp luật thương mại và tranh chấp phát sinh từ quan hệ
pháp luật này phải được quan niệm là tranh chấp thương mại [2, tr.16].

Hiện nay tranh chấp thương mại được giải quyết bằng các phương thức:

13


thương lượng, hòa giải, trọng tài thương mại và Tòa án. Mỗi phương thức có

sự khác nhau về tính chất pháp lý, nội dung của thủ tục, trình tự tiến

hành. Đối với trường hợp các bên có thỏa thuận trọng tài thì các vụ việc này

sẽ thuộc thẩm quyền giải quyết cùa trọng tài thương mại. Tịa án có thẩm

quyền thụ lý giải quyết theo thủ tục TTDS nếu các bên khơng có thỏa thuận

trọng tài hoặc thỏa thuận trọng tài bị vơ hiệu. Theo đó, Tịa án có thẩm quyền
giải quyết theo thù tục TTDS các tranh chấp về KDTM sau:

- Các tranh chấp phát sinh trong hoạt động KDTM giữa cá nhân, tổ

chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận;
- Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ chuyển giao cơng nghệ giữa cá
nhân, tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận;
7

'

- Tranh chấp giữa người chưa phải là thành viên cơng ty nhưng có giao
dịch chuyển nhượng phần vốn góp với cơng ty, thành viên cơng ty.

Cùng với ba loại việc nói trên, Tịa án cịn có thẩm quyền giải quyết các
tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa công ty với

người quản lý trong công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc thành viên hội đồng

quản trị, Giám đốc, Tổng giám đốc trong công ty cổ phần, giữa các thành viên
của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp

nhập, hợp nhất, chia, tách bàn giao tài sản của cơng ty, chuyển đổi hình thức

tố chức cùa cơng ty.

1.3. Khái niệm
về đại
diện của đươngO sự• trongO vụ• án kinh doanh,'

••

thương mại
Trong TTDS, để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình các đương sự

thường tự mình thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng của họ. Tuy vậy, trong

một số trường họp người khác có thể tham gia tố tụng thực hiện các quyền,
nghĩa vụ tố tụng của đương sự để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cùa đương
sự. Người tham gia TTDS này được gọi là người đại diện của đương sự.

14


Người đại diện của đương sự là người tham gia tô tụng thay mặt đương
sự thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
cho đương sự trước Tòa án [22, tr.115]. Là người thay mặt đương sự khi
đương sự không thể hoặc không muốn trực tiếp tham gia tố tụng để bảo vệ

quyền, lợi ích hợp pháp cùa mình nên người đại diện có vai trị rất quan trọng
trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho đương sự và trong việc làm rõ
sự• thật
khách quan
của vụ• việc
dân sự.


1


Dưới góc độ pháp luật, đại diện của đương sự là “việc cá nhân, pháp

nhân (sau đây gọi chung là đại diện) nhân danh và vì lợi ích của cá nhân hoặc
pháp nhân khác (sau đây gọi chung là người được đại diện) xác lập, thực hiện

giao dịch dân sự” [9, Điều 134, Khoản 1].

Nhìn chung, khi xem xét thuật ngữ “đại diện của đương sự” dưới nhiều
gốc độ khác nhau thì thuật ngữ “đại diện của đương sự” đều chỉ người nhân

danh. Trong giới hạn của bài viết này, người được nhân danh được gọi là
“đương sự trong vụ án KDTM”.

Đương sự trong vụ việc dân sự tại Tòa án bao gồm đương sự trong vụ án

dân sự và việc dân sự. Đương sự trong vụ án dân sự là cơ quan, tố chức cá nhân
bao gồm nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Đương sự
trong việc dân sự là cơ quan, tổ chức, cá nhân bao gồm người yêu cầu giải quyết
việc dân sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan [10, Điều 68, Khoản 1],

Đương sự trong vụ án KDTM có thế là cá nhân, pháp nhân và tham gia

tranh chấp KDTM tại Tòa án với cách là nguyên đơn, bị đơn và người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

Nguyên đơn trong vụ án KDTM là người khởi kiện, người được cơ


quan, tố chức, cá nhân khác khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án

KDTM khi cho rằng quyền và lợi ích họp pháp cùa họ bị xâm phạm. Cơ quan

tổ chức khởi kiện vụ án KDTM để yêu cầu Tòa án bão vệ lợi ích cơng cộng,

15


lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách cũng là nguyên đơn.

Người khởi kiện sẽ trở thành nguyên đơn hoặc người đại diện theo pháp luật
của nguyên đơn. Việc khởi kiện của nguyên đơn có thể được Tịa án chấp
nhận (tồn bộ, một phần) hoặc khơng, do họ khởi kiện bởi vì tự cho rằng
quyền và lợi ích họp pháp của mình bị xâm phạm [24, tr. 83].

Bị đơn trong vụ án KDTM là người bị nguyên đơn khới kiện hoặc bị cơ
quan, tổ chức, cá nhân khác khởi kiện đề Tòa án yêu cầu giải quyết vụ án

KDTM khi cho ràng quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn bị người đó
xâm phạm. Bị đơn là người bị kiện, khơng có phân biệt bị đơn có xâm phạm
đến quyền và lợi ích hợp pháp của ngun đơn hay khơng. Bởi vì, bị đơn bị

khởi kiện do bị cho rằng đã xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của

nguyên đơn. Nguyên đơn, bị đơn là đương sự luôn được xác định trong vụ án,
nếu khơng có hai đương sự này thì khơng có vụ án KDTM [24, tr.83].

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án KDTM là người tuy
không khởi kiện, không bị kiện nhưng việc giải quyết vụ án KDTM có liên

quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ nên họ tự mình đề nghị hoặc các đương

sự khác đề nghị và được Tòa án chấp nhận đưa họ vào tham gia tố tụng với tư
cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án. Trường hợp việc giải

quyết vụ án KDTM có liên quan đến quyền, nghĩa vụ của một người nào đó

mà khơng có ai đề nghị đưa họ vào tham gia tổ tụng với tư cách người có

quyền, nghĩa vụ liên quan thì Tịa án phải đưa họ vào tham gia tố tụng với tư
cách người có quyền, nghĩa vụ liên quan. Người có quyền, nghĩa vụ liên quan

khơng phải là đương sự ln có trong mọi vụ án KDTM [24, tr.83].

Tóm lại, mặc dù thuật ngừ “đại diện của đương sự trong vụ án KDTM”
chưa được định nghĩa thành một khái niệm cụ thể, nhưng qua các khái niệm
“đại diện”, “đương sự” và “tranh chấp KDTM” được tìm hiểu từ nhiều nguồn
tài liệu khác nhau dưới gốc độ pháp lý đã nêu, tác giả khái quát người đại diện

16


của đương sự trong vụ án KDTM là người thay mặt cho đương sự tham gia tô

tụng, thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng đế bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp cho người được đại diện, khi tham gia giải quyết tranh chấp phát sinh từ

hoạt động KDTM tại Tòa án.

Phân hiệt giữa người đại diện của đương sự trong vụ án KDTM và

người đại diện trong các quan hệ đại diện khác: Người đại diện của đương sự
trong vụ án KDTM và người đại diện trong các quan hệ đại diện khác đều có
nhiệm vụ thay mặt người được đại diện thực hiện quyền, nghĩa vụ của người

đại diện trong một mối quan hệ pháp lý nhất định. Tuy nhiên, giữa hai chủ thể
này có sự khác biệt về nội dung quyền, nghĩa vụ pháp lý. Người đại diện của
đương sự trong vụ án KDTM là thay mặt đương sự tham gia tố tụng, tham gia

giải quyết tranh chấp về KDTM thuộc thẩm quyền giải quyết tại Tòa án theo
quy định tại Điều 30 BLTTDS 2015. Người đại diện trong các quan hệ đại

diện khác thực hiện quyền, nghĩa vụ của người đại diện trong các quan hệ
pháp luật khác như pháp luật dân sự theo quy định của BLDS và các luật

chuyên ngành khác, về vai trò, người đại diện của đương sự trong vụ án
KDTM có vai trị bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự trước Tòa án.
Người đại diện trong các quan hệ đại diện khác có vai trị giúp người đại diện
thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình trong quan hệ pháp luật tương ứng.

1.4. Đặc
điếm của đại
diện
đưongCT sự• trongCT vụ• án kinh doanh,y



thương mại

Thứ nhất, đại diện của đương sự trong vụ án KDTM là người thực hiện


quyền và nghĩa vụ của đương sự tại Tòa án.

Khi tham gia giải quyết tranh chấp KDTM tại Tòa án, đại diện của đương
sự không căn cứ vào quyền và lợi ích ích họp pháp của cá nhân mình để quyết
định các vấn đề tranh chấp mà họ phải thực hiện các hoạt động tố tụng trên danh
nghĩa đương sự. Bởi lẽ, vụ án KDTM mà Tòa án đang giải quyết là tranh chấp

17


phát sinh từ hoạt động KDTM của các đương sự (nguyên đơn; bị đơn; người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan). Do đó, tranh chấp này khơng tác động, ảnh

hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp đại diện cùa đương sự. Mặt khác, đây cũng

chính là điều kiện quan trọng hình thành quan hệ đại diện, vì nếu đại diện nhân
danh mình thì ở đây khơng phải là quan hệ đại diện nữa, lúc này đại diện và

người thứ ba sẽ là chữ thể của giao dịch dân sự. Việc nhân danh này có thể được

hiểu rõ ràng hay ngầm trong bối cảnh không thể khác đi được.

Đại diện theo pháp luật của đương sự được thực hiện tất cả các quyền và
nghĩa vụ tố tụng của đương sự mà họ đại diện để bảo vệ quyền, lợi ích họp pháp
cho đương sự. Đại diện của đương sự theo ủy quyền chỉ thực hiện các quyền,

nghĩa vụ tố tụng của đương sự trong phạm vi ủy quyền. Phạm vi ủy quyền được

ghi nhận tại giấy ủy quyền hoặc hợp đồng ủy quyền của đương sự và đại diện
của đương sự. Nhũng hành vi vượt quá phạm vi ủy quyền đều khơng có giá trị


pháp lý, trừ một vài trường hợp pháp luật có quy định [9, Điều 134, Khoản 1],

về nguyên tắc, khi người đại diện thực hiện công việc trong phạm vi ủy
quyền thì sẽ phát sinh quyền và nghĩa vụ của người ủy quyền đối cơng việc

đó. Do đó, khi người đại diện thực hiện hành vi vượt quá phạm vi ủy quyền
thì người ủy quyền sẽ không chịu trách nhiệm đối với phần giao dịch vượt
quá đó, trừ khi người ủy quyền đồng ý hoặc có những biểu hiện chứng tỏ

mình biết và chấp nhận giao dịch dân sự đó.
Thứ hai, đại diện của đương sự là người làm phát sinh quyền và nghĩa

vụ của đương sự trong vụ án KDTM tại Tịa án.

Q trình tham gia giải quyết tranh chấp KDTM tại Tòa án là quá trình

mà đại điện cùa đương sự tiến hành hoat động tố tụng với các đương sự khác
trong phạm vi đại diện mà đại diện của đương sự và đương sự đã thỏa thuận

và theo quy định của pháp luật. Do vậy, mọi quyết định của đại diện đương sự
không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của đại diện của đương sự với các
đương sự khác mà sẽ là căn cứ phát sinh quyền, nghĩa vụ của đương sự đó.

18


Xuât phát từ bản chât của quan hệ đại diện là việc xác lập, thực hiện

giao dịch dân sự từ đại diện lại làm phát sinh quyền và nghĩa vụ đối với

đương sự nên đế bảo vệ quyền lợi của đương sự, pháp luật buộc đại diện phải

thực hiện công việc trong phạm vi đại diện, chỉ có giao dịch phát sinh trong

phạm vi đại diện mới mang tính ràng buộc đối với đương sự, mới làm phát

sinh trách nhiệm của đương sự, mọi giao dịch dân sự vượt quá phạm vi đại
diện thì về nguyên tắc sẽ thuộc trách nhiệm của đại diện.

1.5. Phân loại
đại
diện
của dương~ sự trong~ vụ• án kinh doanh,J



th iro n g mại
Có nhiều tiêu chí đế phân loại đại diện của đương sự trong vụ án

KDTM, tùy vào cách phân loại và mục đích nghiên cứu sẽ đưa ra những góc
độ nhận thức khác nhau:

- Dựa vào căn cứ xác lập đại diện và ý chí của chủ thể, có thể chia đại
diện của đương sự trong vụ án KDTM thành 02 loại đại diện: đại diện theo
pháp luật và đại diện theo ủy quyền.

- Dựa vào vị trí tố tụng của người được đại diện, có thể chia đại diện của
đương sự trong vụ án KDTM thành 03 loại đại diện: đại diện của nguyên đơn;

đại diện của bị đơn; đại diện của người có quyền lợi và nghĩa vụ có liên quan.


- Dựa vào loại chủ thể được đại diện, có thể chia đại diện của đương
sự• trong vụ• án KDTM thành 02 loại
• đại
• diện:
• đại
• diện
• của cá nhân;> đại
• diện

của cơ quan, tổ chức.

Trong phạm vi luận án này, tác giả chỉ lựa chọn căn cứ vào việc xác lập

đại diện và ý chí của chú thể, chia đại diện của đương sự trong vụ án KDTM
thành 02 loại
đại
diện:
đại
diện
theo 1pháp1 luật
và đại
diện theo ủyJ quyền.






••

1 J

- Đại diện theo pháp luật là các trường hợp pháp luật quy định cá
nhân, pháp nhân có quyền đại diện cho người khác tham gia giao dịch, bao
gồm đại diện theo quy định của pháp luật, theo điều lệ của pháp nhân hoặc
theo quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Đại diện hình thành

19


theo quy định của pháp luật còn gọi là đại diện đương nhiên, đại diện hình
thành từ quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền (Tịa án) gọi là đại

diện do Tịa án chỉ định. Ví dụ Cha, mẹ đại diện cho con chưa thành niên; Tòa
án chỉ định người đại diện cho người bị mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn
chế năng lực hành vi dân sự.

- Đại diện theo ủy quyền là sự thỏa thuận của các bên, theo đó người
đại diện tham gia tố tụng để bão vệ quyền, lợi ích họp pháp cho đương sự
theo ủy quyền của đương sự trên cơ sở ý chí của đương sự. Đại diện theo ủy
quyền là đại diện hình thành theo sự ủy quyền giữa các bên dưới dạng hành vi

pháp lý. Đại diện của đương sự theo ủy quyền chỉ thực hiện các quyền, nghĩa
vụ tố tụng trong phạm vi được ủy quyền.

1.6. Ý nghĩa của đại diện đương sự trong vụ án kinh doanh, thương mại

Đại diện của đưong sự trong vụ án KDTM tại Tòa án nhằm bảo vệ nguyên
tắc hiến định “Mọi cơng dân đều bình đẳng trước pháp luật” [8, Điều 16, Khoản 1]
và “Bình Đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng dân sự” [10, Điều 8], Vì trong


thực tiễn, không phải mọi cá nhân, tồ chức đều có thể tự mình tham gia giải

quyết vụ án KDTM tại Tịa án nên đương sự có thể thơng qua chủ thể khác
(đại diện của đương sự) để trình bày quan điểm của chính mình, thực hiện
quyền và lợi ích họp pháp của mình, mang lại lợi ích cao nhất cho bản thân.

Ngoài ra, đại diện của đương sự trong vụ án KDTM tại Tòa án còn là bảo đảm
sự công bằng cho tất cả đương sự trước pháp luật. Cụ thể, đã giúp một số
đương sự chưa đáp ứng các điều kiện của pháp luật, năng lực hành vi dân sự

... kịp thời thực hiện quyền và lợi ích hợp của mình. Việc tồn tại quy định đại

diện của đương sự nhằm kịp thời bảo vệ quyền, lợi ích họp pháp của họ, phù
hợp với quy định pháp luật với các quốc gia trên thế giới.
Khái niệm và quy định pháp luật về đại diện của đương sự khi tham gia

giải quyết tranh chấp tại Tòa án là một khái niệm và quy định cần thiết. Bởi

20


×