Tải bản đầy đủ (.pdf) (111 trang)

Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất và thực tiễn thực hiện trên địa bàn tỉnh nghệ an (luận văn thạc sỹ luật học)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (27.74 MB, 111 trang )

MỤC LỤC

Trang

Trang phụ bìa
Lời cam đoan

Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
MỞ ĐẦU.................................................................................................................. 1
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN VÈ BỒI THƯỜNG, HƠ TRỢ, TÁI ĐỊNH
Cư KHI NHÀ NƯỚC THU HỊI ĐẤT VÀ VÈ PHÁP LUẬT

VÈ BÒI THƯỜNG, HỎ TRỢ, TÁI ĐỊNH cu KHI NHÀ

NƯỚC THU HỒI ĐẤT..........................................................................7
1.1.

Lý luận về bồi thường, hỗ trợ, tái định CU’ khi Nhà nước thu

hồi đất....................................................................................................... 7

1.1.1.

Các khái niệm: bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu

hồi đất................................................................................................... 7
1.1.2.

Ý nghĩa của việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu


hồi đất.................................................................................................... 13

1.1.3.

Mối quan hệ giữa việc Nhà nước thu hồi đất với bồi thường, hồ
trợ, tái định cư...................................................................................... 14

1.2.

Lý luận về pháp luật bồi thường, hỗ trự, tái định cư khi Nhà

nước thu hồi đất..................................................................................... 17

1.2.1.

Cơ sở của việc xây dựng pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định

cư khi Nhà nước thu hồi đất................................................................. 17
1.2.2.

Khái niệm và đặc điểm của pháp luật về bồi thường, hồ trợ, tái

định cư khi Nhà nước thu hồi đất........................................................ 20
1.3.

Cơ cấu pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà

nước thu hồi đất..................................................................................... 24
1.4.


Các yếu tố ảnh hưởng đến pháp luật về bồi thường, hỗ trợ,

tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.................................................25


1.4.1.

Yếu tố chính trị.................................................................................... 25

1.4.2.

Yếu tố kinh tế...................................................................................... 27

1.4.3.

Yếu tố hội nhập quốc tế...................................................................... 27

1.5.

Khái quát lịch sử hình thành và phát triểnpháp

luật về bồi

thường, hỗ trợ, tái định cư khiNhà nước thu hồi đấtờ nước ta .... 28

1.5.1.

Giai đoạn trước năm 1993....................................................................28

1.5.2.


Giai đoạn từ năm 1993 đến năm 2003.................................................31

1.5.3.

Giai đoạn từ năm 2003 đến năm 2013.................................................32

1.5.4.

Giai đoạn từ khi Luật Đất đai năm 2013 ra đời cho đến nay............. 34

Kết luận Chương 1.............................................................................................. 36
CHƯƠNG 2: THựC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THựC TIỄN ÁP
DỤNG PHÁP LUẬT VÈ BÒI THƯỜNG, HỎ TRỢ, TÁI ĐỊNH

CƯ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT TẠI TỈNH NGHỆ AN......37

2.1.

Thực trạng pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi

Nhà nước thu hồi đất............................................................................ 37

2.1.1.

Các quy định về nguyên tắc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi
Nhà nước thu hồi đất............................................................................ 37

2.1.2.


Các quy định về đối tượng được bồi thường, hồ trợ, tái định cư
khi Nhà nước thu hồi đất...................................................................... 42

2.1.3.

Các quy định về điều kiện để được bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
khi Nhà nước thu hồi đất......................................................................43

2.1.4.

Các quy định về các trường hợp được bồi thường khi Nhà nước thu

hồi đất.................................................................................................. 46
2.1.5.

Các quy định về hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất............................... 52

2.1.6.

Các quy định về tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất...................... 56

2.1.7.

Các quy định về giá đất làm căn cử để bồi thường............................ 56

2.1.8.

Các quy định về trình tự, thủ tục bồi thường, hỗtrợ, tái định cư
khi Nhà nước thu hồi đất..................................................................... 57


2.1.9.

Các quy định về giải quyết khiếu nại, khiếu kiện trong lĩnh vực
bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất................... 58


2.2.

Thực tiễn thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định

cư khỉ Nhà nước thu hồi đất tại tỉnh Nghệ An................................ 58

2.2.1.

Tình hình chung về thực hiện pháp luật về bồi thường, hồ trợ, tái

định cư khi Nhà nước thu hồi đất tại tỉnh Nghệ An............................58

2.2.2.

Tình hình thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư
của một số dự án tại tỉnh Nghệ An...................................................... 61

2.3.

Đánh giá việc áp dụng pháp luật bồi thường, hỗ trự, tái định
cư khi Nhà nước thu hồi đất tại tỉnh Nghệ An................................ 66

2.3.1.


Những kết quả đạt được...................................................................... 66

2.3.2.

Những bất cập, hạn chế....................................................................... 69

2.3.3.

Nguyên nhân của những bất cập, hạn chế.......................................... 75

Kết luận chương 2............................................................................................... 83

CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỞNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỤC HIỆN PHÁP LUẬT
VỀ BỒI THƯỜNG, HÔ TRỢ, TÁI ĐỊNH cu KHI NHÀ NƯỚC

THU HỒI ĐẤT TỪ THựC TIỄN TỈNH NGHỆ AN.......................... 84
3.1.

Định hướng hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực

hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà
nưóc thu hồi đất từ thực tiễn tỉnh Nghệ An.....................................84

3.2.

Giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi
pháp luật về bồi thưòng, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu
hồi đất từ thực tiễn tỉnh Nghệ An...................................................... 88


3.2.1.

Giải pháp hoàn thiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư

khi Nhà nước thu hồi đất...................................................................... 88

3.2.2.

Các giãi pháp nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất..........................94

Kết luận chương 3............................................................................................... 99

KẾT LUẬN..........................................................................................................100
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................... 102


DANH MỤC CÁC CHỮ VIÉT TẮT

Chữ viết tắt

Chữ viết đầy đủ

BT:

Bồi thường

GPMB:

Giải phóng mặt bằng


HT:

Hồ trơ•

TĐC:

Tái đinh
• cư

UBND:

ủy ban nhân dân


MỞ ĐẦU
1. Tính câp thiêt của đê tài

Đất đai là tài nguyên thiên nhiên vô cùng quý giá, là nền tảng cho mọi

quá trình hoạt động xã hội, là nguồn lực phát triển kinh tế - xã hội của đất

nước. Trong q trình sản xuất, đất đai chính là yếu tố hàng đầu không thể

thiếu của các ngành nông nghiệp, cơng nghiệp, dịch vụ.
Trong q trình đơ thị hóa và phát triển đất nước theo hướng cơng

nghiệp hóa, hiện đại hóa thì việc thu hồi đất để phục vụ cho lợi ích quốc gia,
lợi ích cơng cộng và sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước là tất yếu.


Cũng từ đây, hàng ngàn dự án đã và đang được triển khai ở hầu hết các tỉnh,

thành trên cả nước với kế hoạch thu hồi hàng vạn hecta đất, ảnh hưởng trực

tiếp đến cuộc sống của hàng triệu hộ gia đình. Để bù đắp thiệt hại và đảm bảo
cuộc sống cho người có đất bị thu hồi, Đảng và Nhà nước ta đã luôn không

ngừng xây dựng và hồn thiện chính sách pháp luật về bồi thường, hồ trợ và
tái định cư bảo đảm lợi ích của cá nhân, hộ gia đình có đất bị thu hồi, hài hịa
lợi ích giữa người bị thu hồi đất, nhà đầu tư và Nhà nước. Tuy nhiên, vấn đề

này ngày càng trở nên nhạy cảm và phức tạp hơn khi Nhà nước thu hồi đất để
phục vụ cho các dự án phát triển kinh tế như xây dựng các khu công nghiệp,
khu dịch vụ, mặt bàng sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp. Quy luật giá trị
tác động vào tâm lý của người có đất bị thu hồi, hỉnh thành nên sự so sánh về
thiệt thịi của mình khi đất do mình đang sử dụng được giao cho người khác

với khả năng sinh lợi cao hơn nhiều. Bên cạnh đó, cơng tác thu hồi đất và giải
quyết bồi thường, hỗ trợ cho người bị thu hồi đất trên thực tế vẫn cịn nhiều

bất cập: quy trình lập phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư còn thiếu
chặt chẽ; giá bồi thường chưa thỏa đáng cho người bị thu hồi đất; việc bố trí
tái định cư cho các hộ gia đình, cá nhân có đất bị thu hồi chưa đảm bảo theo


quy định pháp luật, điêu kiện khu tái định cư khơng đảm bảo (thiêu điện,
nước, trường học...). Từ đó đã gây ra nhiều bức xúc cho người dân có đất bị
thu hồi, làm phát sinh nhiều khiếu kiện kéo dài về mức bồi thường, hồ trợ,
đồng thời tạo nên tâm lý nặng nề đối với nhà đàu tư khi thực hiện bồi thường,
hồ trợ, tái định cư để giải phóng mặt bằng. Điển hình có một số vụ việc nổi


cộm gây xôn xao dư luận là việc thu hồi đất dự án Ecopark ở huyện Văn
Giang, tỉnh Hưng Yên, hay vụ một người nông dân nổ súng ban một số cán
bộ của Trung tâm phát triển quỹ đất thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình...

Do vậy, việc nghiên cứu các quy định pháp luật về thu hồi đất và công
tác giải quyết bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên

thực tiễn là rất cần thiết, nhằm góp phần tìm ra các giải pháp khắc phục những
thiếu sót, cũng như nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về thu hồi đất và bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất, bảo đảm quyền lợi và

sự bình đắng cho người có đất bị thu hồi; hài hịa lợi ích giữa Nhà nước,

người có đất bị thu hồi, nhà đầu tư thực hiện các dự án; hạn chế khiếu nại, tố
cáo trong công tác bồi thường, hồ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.
Vói ý nghĩa đó, tác giả đã chọn đề tài “Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái

định
cư khỉ nhà nước thu hôi đât và thực
tiên thực
hiện
trên địa




• bàn tỉnh
Nghệ An” làm luận văn thạc sĩ luật học, chuyên ngành Luật Kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài


Tại Việt Nam, chính sách, pháp luật về thu hồi đất đã có những chuyển
biến tích cực, theo hướng tạo ra những điều kiện tốt hơn cho người bị thu hồi
đất, nhằm giải quyết hài hòa lợi ích giữa các bên: người bị thu hồi đất, chủ
đầu tư và Nhà nước. Tuy nhiên, thời gian qua công tác thu hồi đất, bồi

thường, hỗ trợ và tái định cư vẫn còn tồn tại nhiều bất cập, làm cho một bộ

phận không nhỏ người dân bị thu hồi đất bức xúc, dẫn đến số vụ việc khiếu

kiện liên quan đến chính sách bồi thường, hồ trợ và tái định cư khi Nhà nước

2


thu hôi đât ngày càng phức tạp. Nguyên nhân là do việc áp dụng các quy định
pháp luật chưa đúng, thiếu chặt chẽ; việc thực hiện các chính sách bồi thường

chưa hợp lý: giá bồi thường chưa sát với giá thị trường, điều kiện nơi bố trí tái
định cư khơng bằng nơi ớ cũ. Hậu quả là nhiều dự án chậm tiến độ do khơng
giải phóng được mặt bằng, tình trạng khiếu kiện kéo dài, làm ảnh hưởng đến

sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung.
Trong thời gian vừa qua, việc nghiên cứu đề xuất các giải pháp nhằm

hoàn thiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cũng như để nâng
cao hiệu quả của việc thực thi pháp luật trên thực tiễn được khá nhiều tác
giả quan tâm.
Có thể đề cập đến một số cơng trình sau đây:


- Luận văn Thạc sĩ luật học của tác già Nguyễn Vinh Diện (2006) với
đề tài “Pháp luật về bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất”; Luận văn

Thạc sĩ luật học của tác giả Nguyễn Duy Thạch (2007) với đề tài “Pháp luật
về bồi thường, hỗ trợ và tải định cư khi Nhà nước thu hồi đất (qua thực tiễn
thi hành tại thành phổ Hà Nội)”', Luận văn Thạc sĩ luật học cũa tác giả Tô

Văn Hải (2013) với đề tài “Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi

Nhà nước thu hồi đất qua thực tiền thi hành tại quận 12 thành phổ Hồ Chỉ
Minh”; Luận văn thạc sĩ luật học cũa tác giả Trần Phương Liên (2013) với đề
tài “Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ đối với hộ gia đình, cả nhân khi nhà nước

thu hồi đất nơng nghiệp - Thực trạng và hướng hoàn thiện”.
- Các bài báo đăng trên các tạp chí bàn về các vấn đề pháp lý liên quan
đến việc thực thi pháp luật về thu hồi đất và bồi thường, hỗ trợ và tái định cư

cũng được quan tâm nghiên cứu cụ thể như:
Bài viết “Pháp luật về bồi thường, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
của Singapore và Trung Quốc - những gợi mở cho Việt Nam trong hoàn thiện

pháp luật về bồi thường, tải định cư khi Nhà nước thu hồi đất” của tác giả

3


Nguyên Quang Tuyên và Nguyên Ngọc Minh đăng trên Tạp chí Luật học sơ

10/2010; Bài viết Những bất cập trong thu hồi đất và một so kiến nghị của tác


giả Nguyễn Phương Thảo đăng trên Trang Thông tin Điện tử tồng hợp của

Ban Nội Chính Trung Ương ngày 12/8/2013
bát cập trong Luật Đât đai năm 2013” của tác giả An Trân sơ ra ngày

12/6/2015 trên báo Nhân Dân điện tử;
Có thê thây, các cơng trình, bài báo nêu trên, các tác giả đã nghiên cứu

và phân tích trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đât nước thì thu
hồi đất được xem là nhu cầu tất yếu, từ đó lý giải về sự cần thiết của việc xây
dựng các chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư. Các luận văn cũng đã

nghiên cứu, phân tích và đánh giá pháp luật về thu hồi đất nói chung, cũng
như các quy định của từng địa phương về chính sách bồi thường, hồ trợ và tái

định cư phù hợp với điều kiện của từng địa phương; đánh giá những điểm hợp

lý và bất hợp lý trong các quy định hiện hành về bồi thường, hỗ trợ và tái định
cư; những bài học kinh nghiệm rút ra từ thực tiên.
Trên cơ sở tiêp thu, kê thừa kêt quả từ các công trình khoa học đã

nghiên cứu, Luận văn sẽ tiếp tục nghiên cứu, làm rõ những vấn đề pháp lý có

liên quan đến việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất,

đặc biệt là tìm hiểu thực tiễn thực hiện tại tỉnh Nghệ An để từ đó đề xuất
những giải pháp phù hợp.
3. Mục
cứu
• đích và nhiệm

• vụ• nghiên
~

3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đê tài là làm rõ các vân đê lý luận và thực
tiễn (thơng qua tìm hiếu tại tỉnh Nghệ An) cùa pháp luật về bồi thường, hỗ trợ
và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất, từ đó, đề xuất các giải pháp hồn

thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về bồi thường, hồ trợ
và tái đinh cư khi Nhà nước thu hồi đất.

4


3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về bồi thường, hỗ trợ và
tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và pháp luật về bồi thường, hỗ trợ và tái

định cư khi Nhà nước thu hồi đất.

- Phân tích, giải thích, bình luận pháp luật về về bồi thường, hỗ trợ và
tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.

- Phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ
trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Nghệ An.

- Đề xuất định hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng
cao hiệu quả thực thi pháp luật về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cún

Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.
4.2. Phạm vi nghiên cún

về nội dung: Luận văn nghiên cứu các quy định pháp luật về hoạt động

bồi thường, hồ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất mà cụ thế là các

quy định liên quan đến bồi thường, hỗ trợ về đất và tài sản.

về không gian: Trên địa bàn tỉnh Nghệ An.
về thời gian: giai đoạn 2015 - 2020.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

Luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, về xây dựng và hoàn thiện pháp luật,
trong đó có lĩnh vực pháp luật đất.
Khi thực hiện đề tài, tác giá sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ

5


thể như sau: phương pháp phân tích, hệ thống, lịch sử, so sánh được sử dụng
trong chương 1 để làm sáng tỏ các vấn đề lý luận của đề tài.
6. Ý nghĩa khoa học


thực
tiễn
của
đề
tài
luận
văn




Các kết quả nghiên cứu về lý luận của đề tài tiếp tục góp phần làm sáng

tỏ những vấn đề lý luận về pháp luật về bồi thường, hồ trợ và tái định cư khi
Nhà nước thu hồi đất trong bối cảnh hiện nay ở Việt Nam.
Các kiến nghị được rút ra từ nghiên cứu thực trạng pháp luật và thực tiễn
thi hành tại tình Nghệ An có giá trị tham khảo đối với các cơ quan, tổ chức hữu
quan trong q trình hồn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp

luật về về bồi thường, hồ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất. Các kết
quả nghiên cứu của luận văn có thế được dùng là tài liệu tham khảo tại các cơ

sở nghiên cứu, đào tạo về luật học, trong đó có pháp luật đất đai.
7. Kết cấu của luận văn

Ngoài các phàn Mở đầu, Ket luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội

dung luận văn được thế hiện 3 chương sau:
Chương 1. Lý luận về bồi thường, hồ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi


đất và về pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.
Chương 2. Thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật về bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và thực tiễn thi hành trên

địa bàn tĩnh Nghệ An.
Chương 3. Định hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao
hiệu quả thực hiện pháp luật về bồi thường, hồ trợ, tái định cư khi Nhà nước
thu hồi đất từ thực tiễn thực hiện trên địa bàn tỉnh Nghệ An.

6


Chương 1

LÝ LUẬN VỀ BỒI THƯỜNG, HÔ TRỢ, TÁI ĐỊNH CƯ KHI
NHÀ NƯỚC THU HÒI ĐẤT VÀ VỀ PHÁP LUẬT VÈ BỒI THƯỜNG,

HỎ TRỢ, TÁI ĐỊNH CƯ KHI NHÀ NƯỚC THU HÒI ĐÁT

1.1. Lý luận về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất

1.1.1. Các khái niệm: bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước
thu hồi đất

- Khái niệm thu hồi đất
Ớ nước ta, theo quan điểm xuyên suốt của Đảng, Nhà nước và nhân dân

ta thì đất đai thuộc sở hữu tồn dân và do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và
thống nhất quản lý. Với tư cách là đại diện chủ sở hữu đối với đất đai, Nhà


nước thực hiện quyền định đoạt đối với đất đai thông qua việc quyết định mục
đích sử dụng đất; quy định về hạn mức giao đất và thời hạn sử dụng đất;
quyết định giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, cho phép chuyển mục đích sử

dụng đất; định giá đất [23].
Theo Từ điển Tiếng Việt, thu hồi được định nghĩa là “thu về lại, lấy lại

cái trước đó đã đưa ra, đã cấp phát hoặc bị người khác lẩy” [47, tr. 759], Có thế
hiểu rằng thu hồi đất là việc Nhà nước lấy lại quyền sử dụng đất từ các tổ chức,

cá nhân đã được trao quyền sử dụng đất trước đó hoặc lấy lại quyền sử dụng đất
đối với các trường hợp lấn, chiếm đất thuộc quyền quản lý của Nhà nước.

Theo Từ điển giải thích Luật học thì “thu hồi đất” được hiểu:
Là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền thu hồi quyền sử dụng đất

của người vi phạm quy định về sử dụng đất để Nhà nước giao cho

người khác sử dụng hoặc trả lại cho chủ sử dụng đất hợp pháp bị

lấn chiếm. Trường hợp cần thiết, Nhà nước thu hồi đất đang sử
dụng của người sử dụng đất đề sử dụng vào mục đích quốc phịng,
an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích cơng cộng [34, tr,132J.

7


Giải thích này chưa bao quát được hêt tât cả các trường hợp thu hôi đât,
cụ thể là thu hồi đất vì mục đích phát triển kinh tế - xã hội...


Pháp luật về đất đai của Việt Nam đã trài qua nhiều thời kỳ phát triển,

bắt đầu từ Luật Đất đai 1987 ghi nhận dấu mốc quan trọng của hệ thống pháp
luật về đất đai được nâng tầm lên thành một ngành luật độc lập điều chỉnh

lình vực đất đai đầu tiên ở nước ta; tiếp theo đó là Luật Đất đai 1993, Luật
Đất đai 2003 và Luật Đất đai năm 2013. Luật Đất đai năm 1987 và Luật Đất

đai năm 1993 chỉ liệt kê các trường hợp Nhà nước thu hồi đất. Luật Đất đai
năm 2003 được ban hành lần đầu tiên đưa ra định nghĩa cụ thể về thu hồi đất.
Cụ thể tại Khoản 5 Điều 4 Luật Đất đai năm 2003 thì “Thu hồi đất là việc

Nhà nước ra quyết định hành chính để thu lại quyền sử dụng đất hoặc thu lại

đất đã giao cho tô chức, Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn quản lý theo

quy định của Luật này” [23]. Tuy nhiên, có thế thấy nội hàm của thuật ngữ
thu hồi đất được đưa ra chưa thật sự chính xác, gây sự hiểu nhầm trong cách

hiểu rằng người bị thu hồi đất chỉ bao gồm các tổ chức và ủy ban nhân dân
(UBND) xã, phường, thị trấn. Mặc dù theo quy định pháp luật thì hộ gia đình,

cá nhân cũng là đối tượng bị thu hồi đất.
Khấc phục những hạn chế đó, Luật Đất đai năm 2013 đã quy định như

sau: “Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước ra quyết định thu lại quyền sử

dụng đất của người được Nhà nước trao quyền sử dụng đất hoặc thu lại đất
của người sử dụng đẩt vi phạm pháp luật về đất đai” [25]. Nhà nước với vai


trò đại diện chủ sở hữu toàn dân đối với đất đai, Nhà nước thực hiện quyền
thu lại quyền sử dụng đất từ người sử dụng đất đã được nhà nước trao quyền

sử dụng đất trước đó; đồng thời thu hồi đất từ những người sừ dụng đất có

hành vi vi phạm pháp luật đất đai: lấn, chiếm đất...
Từ các quan niệm trên đây, có thể thấy thu hồi đất có nhũng đặc điểm sau:

Chủ thê tiến hành thu hồi đất: việc thu hồi đất được tiến hành bởi cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền.

8


Trường hợp tiên hành thu hôi đât: thu hôi đât là một nội dung quản lý
nhà nước về đất đai. Việc Nhà nước thu hồi đất từ người sử dụng đất được

tiến hành xuất phát từ một yêu cầu cụ thể (thu hồi đất vì mục đích quốc

phịng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, cơng cộng) hoặc
xuất phát từ một hồn cảnh cụ thể (thu hồi đất do người sử dụng đất vi phạm
pháp luật đất đai; thu hồi đất do chấm dứt việc sử dụng đất theo pháp luật, tự

nguyện trả lại đất).

Phương thức tiến hành thu hồi đất: thu hồi đất được tiến hành bằng
một quyết định hành chính - quyết định thu hồi đất.

Hệ quả của việc thu hôi đầt: bên cạnh việc làm châm dứt quyên sử

dụng đât của người sử dụng đât (hộ gia đình, cá nhân, tơ chức) đơi với diện

tích đất cụ thể, việc Nhà nước thu hồi đất còn kéo theo những vấn đề về an

sinh cân phải giải quyêt: người bị thu hôi đât mât chô ở, mât đât sản xuât,
cuộc sống sinh hoạt bị đảo lộn...

Như vậy, từ những phân tích nêu trên, tác giả đưa ra khái niệm thu hôi
đất như sau: Thu hồi đất là việc Nhà nước thông qua quyết định hành chinh
đê thu lại đất và quyền sử dụng đất từ người sử dụng đất theo quy định của
pháp luật đất đai.

- Khái niệm “bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất”
Thuật ngữ “bồi thường” thường được sử dụng để chỉ trách nhiệm của

một người phải bù đắp những thiệt hại đã gây ra cho người khác.
Theo Từ điển Tiếng Việt thông dụng, khái niệm bồi thường được hiểu

là “Đen bù những thiệt hại đã gây ra” [48]. Xét trên phương diện pháp lý,
trách nhiệm bồi thường được xem xét khi có hành vi vi phạm pháp luật của

một chủ thể pháp luật gây thiệt hại cho chủ thể khác. Trách nhiệm bồi thường
thiệt hại được quy định ở rất nhiều các lĩnh vực khác nhau: bồi thường thiệt

hại ngoài hợp đồng; trách nhiệm bồi thường của Nhà nước...

9


Trong quá trình phát triên đât nước và hội nhập kinh tê quôc tê đã kéo


theo nhu cầu sử dụng đất để thực hiện các dự án, khu đô thị ngày một tăng,

trong khi đó quỳ đất trên thực tế khơng cịn đủ để phục vụ cho việc xây dựng

các cơng trình với mục đích quốc phịng, an ninh hay phát triển kinh tế - xã
hội. Chính vì vậy, Nhà nước phải thực hiện việc thu hồi đất từ những hộ gia

đình, cá nhân, tổ chức đang sử dụng đất; đồng thời phải thực hiện việc bồi
thường cho những chủ thể bị thu hồi đất khi họ bị mất chồ ở, mất đất canh tác,

bị thiệt hại về cây cối hoa màu... Như vậy, trong lĩnh vực đất đai, trách nhiệm
bồi thường được đặt ra khi Nhà nước tiến hành việc thu hồi đất.
Trong pháp luật đất đai của nước ta, thuật ngữ “bồi thường” khi Nhà nước

thu hồi đất được xây dựng từ rất sớm, cụ thể là sau cuộc cải cách ruộng đất năm

1953. Chương II, Nghị định số 151/TTg ngày 14/01/1959 của Hội đồng chính

phủ quy định thể lệ tạm thời về trưng dụng ruộng đất đã lần đầu tiên đề cập đến
thuật ngừ bồi thường, cụ thề là việc “bồi thường cho người có ruộng đất bị trưng

dụng”. Tiếp theo đó, Thơng tư số 1792/TTg ngày 11/01/1970 của Thủ tướng
chính phú quy định một số điểm tạm thời về bồi thường nhà cửa, đất đai, cây cối

lâu năm, các hoa màu cho nhân dân ở những vùng xây dựng kinh tế mở rộng

thành phố cũng đề cập đến vấn đề bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất.

Luật Đất đai năm 1987 và Luật Đất đai năm 1993 đều sữ dụng thuật


ngữ “đền bù thiệt hại”. Mặc dù không đưa ra định nghĩa cụ thể, tuy nhiên có
thể hiểu đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước trả lại cho
người sử dụng đất tương xứng với giá trị mà họ đã bỏ ra để đầu tư vào đất
trong quá trình sử dụng đất. Tuy nhiên, “đền bù thiệt hại” chỉ đơn giản là Nhà
nước đền bù thiệt hại do việc thu hồi đất gây ra mà không kèm theo việc thực
hiện các chính sách hồ trợ, tái định cư cho người sử dụng đất. Vì vậy, khi

Luật sửa đồi, bổ sung một số điều của Luật Đất đai năm 2001 được ban hành
thì cụm từ “bồi thường” đã thay thế cho cụm từ “đền bù thiệt hại” [35, tr. 37],

10


Luật Đât đai năm 2003 là đạo luật đâu tiên đưa ra giải thích thuật ngừ

bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất. Cụ thể, tại Khoản 6 Điều 4 Luật Đất đai

năm 2003 quy định như sau: "Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là việc
Nhà nước trả lại giá trị quyền sử dụng đất đối với diện tích đất bị thu hồi cho

người bị thu hồi đấtGiải thích này chưa thật sự chính xác, việc Nhà nước
bồi thường khi thu hồi đất không chỉ riêng giá trị quyền sử dụng đất, mà nó
cịn bao gồm những thiệt hại đối với tài sản trên đất, các vấn đề an sinh như:
môi trường sống, sinh hoạt, học tập bị thay đổi,... mà cần phải có co chế hỗ

trợ thì về cơ bản Nhà nước mới có thể bù đắp được những thiệt hại mà người

sử dụng đất phải gánh chịu do thu hồi đất gây ra.
Khắc phục những thiếu sót này, tại Khoản 12 Điều 3 Luật Đất đai 2013

đã quy định: "Bồi thường về đất là việc Nhà nước trá lại giá trị quyền sử

dụng đất đối với diện tích đất thu hồi cho người sử dụng đẩt” [25].
Bồi thường chính là hệ quả pháp lý của việc Nhà nước thu hồi đất, tức
là việc bồi thường chỉ phát sinh sau khi có quyết định thu hồi đất của cơ quan

Nhà nước có thẩm quyền.
Từ những phân tích nêu trên, tác giả đưa ra khái niệm bồi thường khi
Nhà nước thu hồi đất như sau: Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là việc

Nhà nước bù đắp những thiệt hại, tổn thất cho người có đất bị thu hồi đất

theo quy định của pháp luật.

- Hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất
Theo Từ điển Tiếng Việt thông dụng, khái niệm hồ trợ được hiểu là
“giúp thêm, góp thêm vào ” 148, tr.458J.
Có thê nói, nêu bơi thường là việc Nhà nước trả lại một cách tương
xứng những giá trị về đất và tài sản gắn liền với đất mà người sử dụng đất bị

thiệt hại, thì hồ trợ là chính sách của Nhà nước, là một biện pháp bổ sung

nhằm giúp đỡ, chia sẻ khó khăn đối với người thu hồi đất, bù đắp cho những

11


khoảng trống mà các quy định về bồi thường chưa giải quyết một cách triệt

để, đảm bảo tốt nhất cho quyền lợi của người bị thu hồi đất.


Luật Đất đai 2003 lần đầu tiên đề cập đến khái niệm hỗ trợ khi Nhà
nước thu hồi đất. Cụ thể, tại Khoản 7 Điều 4 Luật Đất đai năm 2003 đã quy

định: “Hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đẩt là việc Nhà nước giúp đỡ người hị thu
hồi đất thông qua đào tạo nghề mới, bổ trí việc làm mới, cấp kinh phí đê di

dời đến địa điểm mới” [23]. Khái niệm này đã được Luật Đất đai năm 2013
điều chỉnh lại,
khi Nhà nước thu hồi đất là việc
Nhà nước trợ
• X cụ
• thể “Hỗ trợ




giúp cho người có đất thu hồi để ổn định đời sống, sản xuất và phát triển” [25J.

Luật Đất đai năm 2013 đã khẳng định mục đích cùa các chính sách hỗ trợ khi
Nhà nước thu hồi đất - chính là nhằm giúp đờ những người bị thu hồi đất sớm
ổn định cuộc sống, đồng thời để giải quyết vấn đề an sinh xã hội. Chính vì

vậy
• >/ Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách hồ trợ• dưới hình thức: hồ trợ• về
ổn định đời sống và sản xuất; hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề nghiệp và tìm

kiếm việc làm...

Như vậy, có thể hiểu, ho trợ khi Nhà nước thu hồi đất là hoạt động mà


qua đỏ Nhà nước tiếp tục bù đắp cho người bị thu hồi đất nhằm giúp họ ổn
định được cuộc sống khi mà các quy định về bồi thường chưa bù đắp đầy đủ

những thiệt hại mà người bị thu hồi đất phải gánh chịu.

- Tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
Tái định cư là nội dung được đề cập trong các quy định về bồi thường

khi Nhà nước thu hồi đất, tuy nhiên lại không đưa ra khái niệm cụ thể về tái

định cư.
Theo quy định về việc thực hiện tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất,
thì tái định cư có các đặc trưng như sau: Tái định cư là một trong những cách

thức thực hiện bồi thường của Nhà nước khi tiến hành thu hồi đất; Tái định cư
chỉ được thực hiện khi người bị thu hồi đất khơng cịn đất để ở phải di chuyển

12


đên nơi khác; Tái định cư thê hiện chính sách của Nhà nước nhăm đảm bảo

cho người bị thu hồi đất ổn định cuộc sống, đảm bảo chính sách an sinh xã
hội. Như vậy, có thể hiểu một cách khái quát, tái định cư là là việc Nhà nước

Nhà nước bố trí, sắp xếp chỗ ở mới cho những người bị thu hồi đất mà phải
di chuyên chỗ ở.

1.1.2. Ý nghĩa của việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước

thu hồi đất

1.1.2.1. về phương diện chỉnh trị
Hoạt động thu hồi đất được đánh giá là một trong những vấn đề hết sức

nhạy cảm, tiềm ẩn nguy cơ dẫn đến những xung đột về lợi ích giữa Nhà nước,
người bị thu hồi đất, người được hưởng lợi từ việc thu hồi đất. Chính vì vậy

mà các chính sách, pháp luật liên quan đến công tác bồi thường (BT), hỗ trợ
(HT) và tái định cư (TĐC) khi Nhà nước thu hồi đất có ảnh hưởng rất lớn đến
sự• ổn định
về chính trị• của đất nước.

Chính sách, pháp luật về BT, HT và TĐC khi Nhà nước thu hồi đất ảnh
hưởng trực tiếp tới quyền và lợi ích hợp pháp của người bị thu hồi đất. Họ

phải gánh chịu những thiệt hại rất lớn do hoạt động thu hồi đất gây ra: mất
quyền sử dụng đất; thiệt hại về cây cối, hoa màu trên đất; mất đất canh tác;

phải di dời chồ ở... Vì vậy, nếu cơng tác BT, HT và TĐC không được giải

quyết một cách thởa đáng, không đảm bảo quyền lợi thì có thể sẽ dẫn đến tình
trạng khiếu kiện kéo dài từ những người bị thu hồi đất. Hoạt động khiếu kiện

của người dân có nguy cơ tạo ra những điểm nóng, gây mất ổn định về an
ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội. Đồng thời, có thể tạo cơ hội cho những

kẻ xấu, thế lực thù địch lợi dụng kích động, lơi kéo người dân phản đối chính

sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước ta, từ đó làm mất niềm tin của nhân

dân vào sự lãnh đạo của Đảng.

Vì vậy, có thể thấy, nếu giải quyết tốt được vấn đề BT, HT và TĐC khi

13


Nhà nước thu hơi đât chính là góp phân thực hiện chính sách an dân, giữ vững
sự ổn định về chính trị, an ninh quốc gia, đồng thời cùng cố niềm tin của nhân
dân vào chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước.

1.1.2.2. về phương diện kinh tế - xã hội
Trong q trình giải phóng mặt bằng (GPMB) để giao đất cho các chủ

đầu tư thực hiện các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội thì việc

thực hiện các chính sách BT, HT và TĐC là cơng việc hết sức khó khăn, phức
tạp. Thực tiễn cho thấy, một trong những nguyên nhân dẫn đến các dự án đầu

tư bị chậm tiến độ triển khai thực hiện là do công tác BT, HT và TĐC chưa
được giải quyết triệt để, gặp phải sự phản đối từ người có đất bị thu hồi và
phát sinh khiếu kiện kéo dài. Từ đó gây ra những thiệt hại về kinh tế cho chủ
đầu tư. Vì vậy, thực hiện tốt công tác BT, HT và TĐC khi Nhà nước thu hồi

đất sẽ góp phần thúc đẩy q trình GPMB được diễn ra nhanh chóng, giúp
cho các chủ đầu tư sớm có mặt bằng để triển khai các dự án đầu tư; từ đó tạo
động lực để thúc đẩy tăng trưởng kinh tể và nâng cao tính hấp dẫn của môi

trường đầu tư, kinh doanh. Khi nền kinh tế đất nước đạt được tốc độ tăng
trưởng bền vững sẽ góp phần vào cơng cuộc xóa đói giảm nghèo, thực hiện

nhiệm vụ tiến bộ và công bằng xã hội.

Đối với người có đất bị thu hồi thì việc thực hiện tốt công tác BT, HT

và TĐC khi Nhà nước thu hồi đất góp phần giúp cho họ và các thành viên
trong gia đình sớm ốn định được cuộc sống sinh hoạt hằng ngày. Đồng thời,

củng cố thêm niềm tin của người dân vào chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước ta, loại trừ việc kẻ xấu lợi dụng, kích động, gây mất ổn định trật tự
an toàn xã hội.

1.1.3. Moi quan hệ giữa việc Nhà nước thu hồi đất với bồi thường, hỗ
trợ,

• 7 tái định


Với tư cách đại diện chủ sở hữu quản lý đối với đất đai, Nhà nước có

14


quyên tiên hành thu hôi đât khi cân thiêt. Trong xu thê phát triên toàn diện,

hội nhập kinh tế quốc tế thì nhu cầu sử dụng đất cho các nhiệm vụ phát triển
kinh tế - xã hội; an ninh, quốc phịng; xây dựng các cơng trình phục vụ lợi ích

quốc gia, công cộng ngày càng tăng trong khi quỹ đất ngày một hạn hẹp. Do
đó, việc thu hồi đất là rất cần thiết. Tuy nhiên, việc thu hồi đất để lại những hệ
quả rất lớn, ảnh hưởng trực tiếp đến người có đất bị thu hồi: mất quyền sử


dụng đất; mất đất canh tác; thiệt hại tài sản, cây trồng trên đất; phải di chuyển
chồ ở; cuộc sống sinh hoạt thường ngày bị đảo lộn. Chính vì vậy, các chính

sách về BT, HT và TĐC được Nhà nước quan tâm xây dựng và áp dụng triệt

để nhằm bù đắp cho những thiệt hại mà người bị thu hồi đất phải gánh chịu,
đồng thời hỗ trợ người bị thu hồi đất ốn định cuộc sống và sản xuất, đảm bảo
an sinh xã hội.

Như vậy, cơng tác BT, HT và TĐC chính là hệ quả pháp lý của hoạt

động thu hồi đất, nhằm giải quyết những hậu quả mà hoạt động thu hồi đất gây
ra đổi với người bị thu hồi đất. Mối quan hệ này được thể hiện cụ thể như sau:
Thứ nhất, đất đai có vai trị rất quan trọng, vừa là tư liệu sản xuất, vừa

tạo ra nơi ở ổn định cho người dân. Chính vì vậy, mà việc thu hồi đất gây ra
những tác động rất lớn đến đời sống sinh hoạt hằng ngày, việc làm của người

bị thu hồi đất. Vì vậy, để bù đắp phần nào những thiệt hại mà người có đất bị
thu hồi phải gánh chịu do hoạt động thu hồi đất, Nhà nước ta đã ban hành và
từng bước hồn thiện các chính sách BT, HT và TĐC dành cho người bị thu
hồi đất, giúp họ sớm ổn định được cuộc sống.

Thứ hai, Nhà nước quy định cụ thể từng trường hợp thu hồi đất và đối

với từng trường hợp cụ thể sẽ có những quy định khác nhau về chính sách

BT, HT và TĐC. vấn đề BT, HT và TĐC chì được đặt ra khi Nhà nước tiến
hành việc thu hồi đất vì mục đích quốc phịng, an ninh; phát triển kinh tế - xã

hội vì lợi ích quốc gia, cơng cộng hoặc thu hồi đất do có nguy cơ đe dọa tính

15


mạng con người. Cịn đơi với nhóm thu hơi đât do vi phạm pháp luật vê đât
đai; do chấm dứt việc sử dụng đất theo pháp luật hoặc tự nguyện trả lại đất thì

Nhà nước sẽ khơng tiến hành BT, HT và TĐC.
Thứ ba, để được Nhà nước thực hiện việc BT, HT và TĐC khi bị thu
hồi đất thì người có đất bị thu hồi cũng phải đáp ứng được các điều kiện do

pháp luật quy định.
Chính sách BT, HT và TĐC góp phần giúp cho hoạt động thu hồi đất

của Nhà nước nhận được sự ủng hộ, đồng thuận từ người dân, đẩy nhanh tiến
độ GPMB để giao cho các chủ đầu tư, doanh nghiệp tiến hành xây dựng các

cơng trình, cơ sở hạ tầng, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Việc thực hiện tốt
chính sách BT, HT và TĐC khi Nhà nước thu hồi đất sẽ góp phần giúp cho

công tác thu hồi đất đạt hiệu quả, loại trừ những trường hợp khiếu kiện kéo
dài gây ra những bất ổn cho tình hình chính trị, trật tự xã hội. Trên thực tế,

công tác GPMB rất nhiều trường hợp bị kéo dài, phức tạp do công tác bồi
thường, hồ trợ chưa nhận được sự nhất trí người bị thu hồi đất. Việc chậm giải

phóng được mặt bằng kéo theo những tác động không hề nhở: đất không được

sử dụng vì có tranh chấp gây lãng phí tài ngun thiên nhiên, tư liệu sản xuất;

nhà đầu tư bị chậm tiến độ thực hiện dự án như đã cam kết, gây ảnh hưởng
đến lịng tin vào mơi trường đầu tư tại Việt Nam...

Như vậy, chính sách BT, HT và TĐC có mối quan hệ mật thiết với hoạt
động thu hồi đất cùa Nhà nước. Cụ thể, công tác BT, HT và TĐC được phát

sinh từ hoạt động thu hồi đất của Nhà nước, nhàm giải quyết mối quan hệ
giữa Nhà nước với người bị thu hồi đất. Việc thực hiện công tác BT, HT và

TĐC khi Nhà nước thu hồi đất có tác động rất lớn đến tình hình chính trị, kinh

tể - xã hội của đất nước cả về mặt tích cực lẫn tiêu cực. Việc thực hiện tốt

cơng tác BT, HT và TĐC sẽ đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị
thu hồi đất; loại trừ những trường họp khiếu kiện, xung đột lợi ích giữa Nhà

16


nước với người bị thu hơi đât; góp phân đây nhanh q trình GPMB. Tuy
nhiên khơng phải tất cả mọi trường hợp Nhà nước thu hồi đất đều được BT,

HT và TĐC. Mà người sử dụng đất phải đáp ứng được các điều kiện do pháp
luật quy định để được xem xét, giải quyết BT, HT và TĐC.
1.2. Lý luận về pháp luật bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà

nước thu hồi đất

1.2.1. Cơ sở của việc xây dựng pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái
định CU' khi Nhà nước thu hồi đất

1.2.1.1. Cơ sở lý luận
Thứ nhất, vấn đề BT, HT và TĐC khi Nhà nước thu hồi đất được đặt

ra trên cơ sờ pháp luật bảo hộ quyền sờ hữu tài sản của công dân. Cụ thế là
được ghi nhận ở các bản hiến pháp của nước ta qua các thời kỳ như: Điều 12

Hiến pháp năm 1946; Điều 58 Hiến pháp năm 1992 và Hiến pháp năm 2013

một lần nữa khẳng định tại Điều 54. Đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà
nước đại diện chú sở hữu quản lý. Người sử dụng đất chỉ có quyền chiếm hùn,
sử dụng mà khơng có quyền định đoạt đối với đất đai. Theo pháp luật dân sự
của nước ta, cụ thế là quy định tại Điều 115 Bộ Luật Dân sự 2015 thì quyền sử
dụng đất được xem là một loại quyền tài sản thuộc sở hữu của cơng dân. Quyền
tài sản chính là một loại tài sản theo quy định của pháp luật dân sự.

Với chế độ sở hữu toàn dân Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho chủ
thể có nhu cầu sử dụng đất, tức là Nhà nước đã chuyển giao quyền sử dụng
đất cho các tổ chức, cá nhân, hộ gia đình có nhu cầu sử dụng đất. Người sử

dụng đất được sinh sống, khai thác và hưởng hoa lợi, kết quả đầu tư trên đất
thuộc quyền sử dụng của mình. Trong trường hợp cần thiết, Nhà nước tiến

hành thu hồi đất từ các chủ thể đang sử dụng đất. Theo đó, người sử dụng đất

bị mất quyền sử dụng đất; thiệt hại về nhà cửa, tài sản, cây trồng trên đất; thiệt

hại về chi phí đã đầu tư vào đất; mất đất sản xuất... Vì vậy, khi tiến hành thu

17



hồi đất Nhà nước thì phải tiến hành bồi thường giá trị quyền sử dụng đất, giá

trị tài sản hợp pháp mà người sử dụng đã tạo lập trong quá trình sử dụng đất,

các chi phí đầu tư vào đất... theo giá đất, giá vật kiến trúc, cây cối, hoa màu cụ
thể do UBND cấp tỉnh quy định. Những trường hợp người sử dụng đất bị thu
hồi đất ở dẫn đến việc phải di chuyển chồ ở thì Nhà nước phải thực hiện chính

sách tái định cư cho các đối tượng này.
Thứ hai, xuất phát từ bản chất của Nhà nước ta chính là một Nhà nước

xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân. Nhà nước ta đại diện cho ý chí,

nguyện vọng và lợi ích của nhân dân. Vì vậy, Nhà nước chăm lo cho đời sống

của nhân dân ta, đảm bảo cho quyền và lợi ích của nhân dân một cách tốt
nhất. Những người bị thu hồi đất được xem là những chủ thể gặp rủi ro trong
cuộc sống. Vì vậy, Nhà nước có bốn phận và nghĩa vụ bồi thường một cách

thỏa đáng, tiến hành hỗ trợ cho người bị thu hồi đất cũng như thực hiện việc
tái định cư nhằm làm cho người bị thu hồi đất sớm ổn định cuộc sống.

Thứ ba, với bản chất là một Nhà nước pháp quyền, mọi chủ thể đều
bình đắng với nhau trước pháp luật. Vì vậy, khi Nhà nước thu hồi đất gây

thiệt hại cho người sử dụng đất thì Nhà nước phải thực hiện các chính sách
bồi thường thiệt hại cho các chủ thể bị thu hồi đất.
Thứ tư, việc thực hiện chính sách bồi thường không thể bù đắp hết
những thiệt hại mà người bị thu hồi đất phải gánh chịu trên thực tế. Từ việc bị


thu hồi đất, người bị thu hồi đất mất chỗ ở, mất đất canh tác, mất địa điểm

kinh doanh; cuộc sống sinh hoạt hằng ngày khó khăn, bất ốn khi phải di

chuyển chỗ ở mới; đồng thời, họ phải tìm kiếm việc làm mới. Bởi vậy, đề
đảm bảo an sinh xã hội, the hiện vai trò của Nhà nước của dân, do dân và vì
dân nên Nhà nước ngoài việc bồi thường giá trị quyền sử dụng đất, giá trị tài

sản gắn liền với đất cho người bị thu hồi đất thì cịn phải thực hiện chính sách
hỗ trợ nhằm đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp cho người bị thu hồi đất, giúp
họ sớm ổn định cuộc sống [18, tr. 14],

18


1.2. ỉ.2. Cơ sở thực tiễn
Việt Nam đang từng bước xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng

xã hội chủ nghĩa với nhiều thành phần kinh tế, nhằm hướng tới việc thực hiện
mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội cơng bằng, dân chủ và văn minh”.
Nhìn lại những thành tựu mà đất nước ta đã đạt được sau hơn 30 năm

thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, có thể nhận thấy rằng, những thành tựu
này chính là kết quả của quá trình đối mới tư duy, và đặc biệt là đối mới tư

duy về sở hữu tài sản. Nhằm giải phóng mọi năng lực sản xuất của người lao
động và tạo ra những động lực mới cho quá trình sản xuất, kinh doanh thì

Đảng ta đã rất sáng suốt khi lựa chọn và thực hiện việc đối mới cơ chế quản

lý đất đai, thông qua việc trao quyền sử dụng đất cho các hộ gia đình, cá nhân

sử dụng ổn định, lâu dài. Đồng thời, pháp luật cũng đã mở rộng các quyền

năng cho người sử dụng đất như: quyền chuyển nhượng, chuyển đổi, cho
thuê, cho thuê lại, tặng cho, thừa kế quyền sử dụng đất, thế chấp, bảo lãnh,

góp vốn bằng quyền sử dụng đất. Có thể nói, với sự đổi mới trong cơ chế

quản lý đối với đất đai thì quyền sử dụng đất đã được tách ra khỏi quyền sở
hữu đất đai, Nhà nước đại diện chủ sờ hữu thực hiện việc trao quyền sử dụng
đất cho các chủ thể sử dụng đất. cỏ thể khái quát rằng, ở nước ta đất đai là

một loại tài nguyên thiên nhiên, thuộc sở hữu của toàn dân, Nhà nước giữ vai

trò đại diện quản lý, phân bổ đất đai, giao quyền sử dụng đất cho người sử
dụng đất; tức là quyền sử dụng đất chính là quyền tài sản thuộc sở hữu của
người sử dụng đất.
Theo đó, khi mà pháp luật đã thừa nhận quyền sử dụng đất là một loại
quyền tài sản của người sử dụng đất thì khi Nhà nước tiến hành việc thu hồi

đất phải thực hiện việc BT, HT và TĐC cho người sử dụng đất với tư cách là
chủ sở hữu cùa quyền sử dụng đất bị Nhà nước thu hồi [18, tr. 16].

19


1.2.2. Khái niệm và đặc điếm của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư khi Nhà nước thu hồi đất
1.2.2.1. Khái niệm pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà


nước thu hồi đất

Pháp luật là công cụ Nhà nước sử dụng để điều chỉnh tất cả các quan hệ
xã hội đi theo một trật tự thống nhất, tạo hành lang pháp lý để mọi người dân

thực hiện. Chức năng điều chỉnh các quan hệ xã hội của pháp luật được thực

hiện thông qua các hình thức: quy định, cho phép, ngăn cấm, quy định quyền
và nghĩa vụ giữa các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật. Theo cách hiểu

chung nhất, pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự có tính chất bắt buộc chung

do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận và đảm báo thực hiện bàng quyền lực

nhà nước, thể hiện ý chí và là cơng cụ điều chỉnh các quan hệ xã hội.
Pháp luật điều chỉnh mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, mỗi một lĩnh vực

khác nhau sẽ có các quy định pháp luật khác nhau điều chỉnh. Đối với lĩnh vực
đất đai là một lĩnh vực phức tạp, tồn tại nhiều quan hệ pháp luật đan xen lẫn
nhau. Chính vì vậy, hệ thống pháp luật đất đai bao gồm rất nhiều các quy phạm
pháp luật nhằm điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong quá trình quản lý, sử
dụng đất đai: giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, chuyển quyền sử dụng đất...

Pháp luật về BT, HT và TĐC khi Nhà nước thu hồi đất là một bộ phận
quan trọng của hệ thống pháp luật đất đai Việt Nam. Có thế hiểu một cách khái
quát, Pháp luật về BT, HT và TĐC khi Nhà nước thu hồi đất là tông hợp các

quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành đê điều chỉnh các quan hệ phát
sinh trong quá trình thực hiện việc bồi thường, hỗ trợ cho người bị thu hồi đất,

nhằm giải quyết hài hịa lợi ích của các chủ thê trong các quan hệ này.
1.2.2.2. Đặc điêm pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà

nước thu hồi đất

Thứ nhất, pháp luật về BT, HT và TĐC khi Nhà nước thu hồi đất là
một bộ phận cấu thành của hệ thống pháp luật đất đai; do Nhà nước ban hành

và bảo đảm thực hiện bằng quyền lực Nhà nước.

20


Cơ chê điêu chỉnh của pháp luật vê BT, HT và TĐC khi Nhà nuớc thu

hồi đất được thể hiện bằng việc Nhà nước thông qua các quy phạm pháp luật

để tác động vào hành vi xử sự của các chủ thể trong quan hệ BT, HT và TĐC
khi Nhà nước thu hồi đất. Cụ thể, đối với những hành vi xử sự của chủ thể

phù hợp với các quy định của pháp luật về BT, HT và TĐC khi Nhà nước thu
hồi đất thì pháp luật sẽ bảo vệ, khuyến khích nó phát triển. Ngược lại, đối với
những hành vi xử sự của các chủ thể trái với quy định của pháp luật như áp

dụng không đúng giá đất bồi thường, không giải quyết tái định cư cho các
trường hợp đủ điều kiện... thì sẽ bị xử lý, ngăn ngừa. Từ đó, nâng cao ý thức

tuân thủ pháp luật về BT, HT và TĐC khi Nhà nước thu hồi đất.

Thứ hai, pháp luật về BT, HT và TĐC khi Nhà nước thu hồi đất bao

gồm các quy phạm pháp luật liên quan đến: các quy định về nguyên tắc, điều

kiện, nội dung và phương thức bồi thường; giá đất đế tính giá trị bồi thường;
trình tự, thủ tục tiến hành; các quy định về giải quyết khiếu nại, tố cáo liên

quan đến BT, HT và TĐC khi Nhà nước thu hồi đất...

Thứ ba, pháp luật về BT, HT và TĐC khi Nhà nước thu hồi đất được

xây dựng dựa trên quan điểm sở hữu toàn dân về đất đai.

Nhà nước với vai trò là đại diện chú sở hữu trong qn lý đất đai, vì
vậy Nhà nước có quyền xây dựng quy hoạch, kế hoạch sử dụng và phân bổ

đất đai cho các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội; đảm bảo mục tiêu an ninh,
quốc phòng. Từ đó, Nhà nước có quyền tiến hành thu hồi đất từ người sừ

dụng đất này để giao cho người có nhu cầu sử dụng đất khác. Vì vậy, để tránh
sự lạm quyền, tùy tiện trong công tác thu hồi đất và giải quyết BT, HT và

TĐC khi Nhà nước thu hồi đất phải quy định cụ thể về các trường hợp thu hồi

đất; điều kiện được bồi thường khi bị thu hồi đất; các chính sách hồ trợ đối

với người bị thu hồi đất; các trường hợp được giải quyết tái định cư; các chế
tài xử lý đối với các hành vi vi phạm pháp luật về BT, HT và TĐC khi Nhà

nước thu hồi đất.

21



×