Tải bản đầy đủ (.pdf) (102 trang)

Pháp luật về bảo hiểm y tế đối với hộ gia đình và thực tiễn thực hiện tại huyện gia lâm, thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (20.61 MB, 102 trang )

MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN................................................................................................ i
MỤC LỤC........................................................................................................... ii
DANH MỤC BẢNG........................................................................................... V

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT.................................................................. vi
MỞ ĐÀU............................................................................................................. 1
1.

Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài...............................................1

2.

Tinh hình nghiên cún đề tài....................................................................3

3.

Phạm vi nghiên cứu................................................................................ 4

4.

Phương pháp nghiên cứu........................................................................4

5.

Mục đích nghiên cứu và nhiệmvụ cùa luận văn.................................... 5

5.1.

Mục đích nghiên cứu.............................................................................. 5


5.2.

Nhiệm vụ cúa luận văn........................................................................... 5

6.

Những đóng góp mới của luận văn........................................................ 6

7.

Kết cấu của Luận văn.............................................................................. 6

CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BẢO HIẾM Y TẾ Hộ

GIA ĐÌNH VÀ PHÁP LUẬT BÁO HIẼM Y TÊ Hộ GIA
ĐÌNH...................................................................................................... 7
1.1.

Khái quát về bảo hiểm y tế hộ gia đình................................................. 7

1.1.1. Khái niệm bảo hiểm y tế hộ gia đình..................................................... 7

1.1.2. Đặc điểm của bảo hiểm y tế hộ gia đình................................................ 8
1.2.

Khái quát về pháp luật bảo hiểm y tế hộ gia đình...............................10

1.2.1.

Khái niệm pháp luật bảo hiểm y tế hộ gia đình................................... 10


1.2.3. Nội dung pháp luật bảo hiểm y tế hộ gia đình..................................... 12
N

-

°

f

1.2.4. Kinh nghiệm vê quy định và thực hiện bảo hiêm y tê hộ gia

đình ở một sổ quốc gia trên thế giới.....................................................18

Tiểu kết Chương 1............................................................................................. 23

••
11


CHƯƠNG 2. THỤC TRẠNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VÈ BẢO
HIẾM Y TẾ ĐỐI VỚI Hộ GIA ĐÌNH VÀ THựC TIÊN

THỤC HIỆN TẠI HUYỆN GIA LÂM, THÀNH PHÓ HÀ
NỘI...................................................................................................... 24
2.1.

Thực trạng quy định của pháp luật về bảo hiểm y tế hộ gia

đình...................................................................................................... 24


2.1.1. Đối tượng tham gia bảo hiểm y tế hộ gia đình.................................... 24
2.1.2.

Mức đóng và và tài chính thực hiện bảo hiểm y tế hộ gia đình....... 26

2.1.3. Chế độ hưởng bảo hiểm y tế hộ gia đình............................................. 31
2.1.4.
2.2.

Tổ chức thực hiện bảo hiểm y tế hộ gia đình.................................... 45

Thực tiễn thực hiện pháp luật bảo hiểm y tế hộ gia đình ở
huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội...................................................... 46

2.2.1. Khái quát vê đặc điêm kinh tê xã hội, dân sô và cơ quan thực
hiện bảo hiêm y tê hộ gia đình huyện Gia Lâm, thành phơ Hà

Nội......................................................................................................... 46


r

2.2.2. Một sô kêt quả đạt được từ thực tiên thực hiện pháp luật bảo
hiểm y tế hộ gia đình tại huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội............. 53

2.2.3. Một số hạn chế và nguyên nhân trong việc thực hiện pháp luật
về bảo hiểm y tế hộ gia đình ở huyện Gia Lâm, thành phố Hà
Nội........................................................................................................ 72


Tiểu kết Chương 2............................................................................................74
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HỒN THIỆN QUY ĐỊNH








PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỤC HIỆN
PHÁP LUẬT BÁO HIÊM Y TÊ Hộ GIA ĐÌNH TẠI

HUYỆN GIA LÂM THÀNH PHỐ HÀ NỘI................................... 75
3.1.

Yêu cầu hoàn thiện pháp luật bảo hiẻm y tế hộ gia đình..................... 75

•••
111


3.2.

Một số kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật về bảo hiểm y

tế hộ gia đình......................................................................................... 77
3.3.

Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện bảo hiếm y tế hộ


gia đình tại huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội................................... 80

3.3.1. Nhóm giải pháp đối với hộ gia đình.................................................... 80
3.3.2. Nhóm giải pháp đối với cơ quan bảo hiểm xã hội huyện Gia
Lâm....................................................................................................... 82

3.3.3.

Nhóm giải pháp đối với các cơ sở cung cấp dịch vụ y tế cho hộ

gia đình.................................................................................................. 85

Tiểu kết Chương 3............................................................................................ 91

KÉT LUẬN...................................................................................................... 92
DANH MỤC CƠNG TRÌNHNGHIÊN cứu.............................................. 94
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................95

iv


DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1.

Tinh hình phát triển kinh tế của huyện Gia Lâm giai

đoạn 2018 -2020......................................................................... 47
Bảng 2.2.


Tỷ lệ bao phủ BHYT huyện Gia Lâm giai đoạn 2018-

2020............................................................................................. 55
Bảng 2.3.

Công tác thu BHYT hộ gia đình huyện Gia Lâm giai

đoạn 2018-2020........................................................................... 60
Bảng 2.4.

Tinh hình chi khám chữa bệnh bảo hiểm y tế huyện Gia

Lâm giai đoạn 2018-2020.......................................................... 61

V


DANH MỤC CÁC TÙ VIẾT TẮT

Chữ viết tắt

Nghĩa tiếng Việt

ASXH

An sinh xã hơi


BHXH


Bảo hiểm xã hơi


BHTN

Bảo hiểm thất nghiệp

BHYT

Bảo hiểm y tế

BVĐK

Bcnh
vicn

• đa khoa

CBCNV

Cán bộ, cơng nhân viên

KCB

Khám chữa bênh


NSNN

Ngân sách nhà nước


TTYT

Trung tâm y tế


MỎ ĐÀU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Bảo hiểm y tế hộ gia đinh là một nội dung của bảo hiểm y tế (BHYT)

nói chung. Tham gia BHYT theo hộ gia đình khơng chỉ nhàm bảo vệ chăm
sóc sức khỏe cho tất cả các thành viên trong gia đình mà cịn giảm gánh nặng

tài chính cho người đóng BHYT. Trong xu hướng tăng cao của chi phí y tế
hiện nay, cá nhân hộ gia đình hon lúc nào hết cần tham gia BHYT nói chung,

BHYT hộ gia đình nói riêng đế hạn chế gánh nặng tài chính khi gặp rủi ro ốm

đau, bệnh tật và thực hiện mục tiêu phủ sóng BHYT tồn dân.
BHYT hộ gia đình bắt đầu được quy định trong Luật bảo hiểm y tế năm

2008 đến nay đã hơn 10 năm thực hiện. BHYT hộ gia đình là loại hình bảo

hiềm mang tính nhân văn sâu sắc, góp phần quan trọng thực hiện mục tiêu

công bằng xã hội cũng như bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoe nhân dân.
Mặc dù đối tượng tham gia bảo hiểm y tế (BHYT) những năm gần đây gia

tăng nhanh và đã vượt chỉ tiêu Thủ tướng Chính phủ và Quốc hội giao. Tuy

nhiên, thực tiễn triền khai chính sách cho thấy cịn nhiều khó khăn, hạn chế

cần có giải pháp tháo gờ, nhằm đạt mục tiêu BHYT toàn dân.
Thực tế, bản chất của BHYT là chia sẻ rủi ro, giảm gánh nặng chi trả từ
tiền túi của người bệnh và tạo nguồn lực quan trọng đế chăm sóc sức khỏe
cho nhân dân. Đặc biệt, tham gia BHYT theo hộ gia đình khơng chỉ nhằm bảo

vệ, chăm sóc sức khỏe cho tất cả các thành viên trong hộ gia đình mà cịn
giảm gánh nặng tài chính cho người đóng BHYT. Vì vậy, thời gian qua

BHXH cả nước đẩy mạnh phát triển BHYT theo hộ gia đình. Báo cáo của Bộ
Y tế cho thấy, hiện nay chính sách pháp luật còn nhiều tồn tại, vướng mắc
làm ảnh hưởng đến công tác phát triến đối tượng tham gia BHYT.
Chính sách BHYT của Nhà nước là một chính sách nhân văn, góp phần

đảm bảo AHXH và sự phát triển bền vững của lực lượng lao động. Trong

1


những năm gân đây, việc phát triên sô người tham gia BHYT đã trở thành
một trong những chỉ tiêu kinh tế - xã hội quan trọng của các địa phương, một

điều hướng đến là thực hiện có hiệu quả chính sách BHYT, mọi người dân

đều được tham gia và thụ hưởng quyền lợi từ chính sách này góp phần thực
hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Tuy nhiên những rào cản nêu trên đang hạn

chế khả năng tiếp cận BHYT cùa rất nhiều hộ gia đình ở Việt Nam. Nếu công
tác tuyên truyền được đẩy mạnh, đồng thời các quy định về BHYT được điều


chỉnh phù hợp hơn với thực tế đời sống thì hộ gia đình sẽ có điểm tựa tốt hơn
đế yên tâm làm việc và đóng góp cho sự phát triển chung của đất nước.
Để thực hiện mục tiêu bao phủ toàn dân, BHXH huyện Gia Lâm đã

triến khai nhiều giải pháp phong phú ứng với từng loại đối tượng tham gia,
trong đó xác định số lượng người tham gia BHYT hộ gia đình chưa xứng với

tiềm năng nên đặc biệt chú trọng phát triển BHYT hộ gia đình. Việc tổ chức

triển khai thực hiện BHYT theo hộ gia đình trong thời gian qua đã gặp một số
khó khăn nhất định, nên đã ảnh hưởng đến công tác phát triển đối tượng tham
gia BHYT hộ gia đình trong tồn huyện, xuất phát từ một số ngun nhân như
sau: công tác tuyên truyền, vận động người dân tham gia BHYT theo hộ gia

đình chưa thực sự quyết liệt; thủ tục hành chính cịn chưa thống nhất kịp thời

nên rườm rà; nhiều gia đình chỉ chọn tham gia BHYT cho những người ốm,
người bị bệnh mạn tính, chưa có ý thức mua cho tồn bộ thành viên trong gia

đình đề phịng khi ốm đau và chia sẻ rủi ro cho người khác, vì vậy việc phải
tham gia cho tất cả các thành viên trong hộ gia đình là rất khó khăn; thái độ
phục vụ của một số y, bác sĩ đối với bệnh nhân có thẻ BHYT cịn thiếu tận

tình, chất lượng khám chữa bênh của một số cơ sở KCB BHYT chưa cao nôn
một bộ phận không nhỏ người dân có tâm lý thích khám chữa bệnh theo dịch
vụ hơn là KCB BHYT.

2



Vì vậy, xuât phát từ nhũng vân đê thực tê trên, tôi lựa chọn đê tài
“Pháp luật về bảo hiểm y tế đối với hộ gia đình và thực tiễn thực hiện tại

huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội” làm luận văn thạc sỹ chuyên ngành
Luật Kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Bảo hiểm y tế là chính sách quan trọng trong hệ thống pháp luật an sinh

xã hội ở nước ta, việc nghiên cứu về chính sách Bảo hiểm y tế luôn được sự

quan tâm của các nhà khoa học. Ở cấp độ tiến sỹ, có nhiều luận án đề cập đến
vấn đề này, tiêu biểu là luận án “Cơ sở lỵ luận và thực tiễn hoàn thiện pháp

luật BHYT ở Việt Nam ” của nghiên cứu sinh Nguyễn Thị Thanh Hương, năm

2012. Ở cấp độ nghiên cửu thạc sỹ cũng có rất nhiều đề tài liên quan đến
BHYT và BHYT hộ gia đình như "Thực trạng thỉ hành pháp luật bảo hiểm y

tể bắt buộc ở Việt Nam ” của tác giả Bùi Thị Phương Dung, năm 2015, luận
văn “Thực trạng thi hành pháp luật Bảo hiếm y tế trên địa bàn tỉnh Phú Thọ ”
cùa tác giả Tạ Hồng Ngọc, năm 2017, luận văn “ Chế độ bảo hiểm y tế đối

với hộ gia đình từ thực tiễn tỉnh Ninh Bình” của tác giả Trương Thị Thu

Thủy, năm 2019. Ngồi luận văn, luận án cũng có sách chuyên khảo hay bài

báo tạp chí nghiên cứu về vần đề BHYT hộ gia đình.
năm 2020 tác giả Lưong Tuấn Anh đăng bài báo trên tạp chí Bảo hiểm xã hội


"Các yếu tố ảnh hưởng đến việc tham gia BHYT hộ gia đình".
Tuy nhiên, thực tế hiện nay chưa có nghiên cứu nào chuyên sâu về

pháp luật BHYT hộ gia đình và thực tiễn thực hiện pháp luật BHYT hộ gia
đình huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội. Chính vì lý do đó, tác giả đã lựa

chọn đề tài "Pháp luật về BHYT đối với hộ gia đình và thực tiễn thực hiện
tại huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội” làm luận văn thạc sỹ và mong muốn

đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về BHYT hộ gia đình và nâng

3


cao hiệu quả thi hành pháp luật BHYT hộ gia đình tại huyện Gia Lâm, thành
phố Hà Nội.

3. Phạm vi nghiên cứu

* về nội dung: Đe tài nghiên cún các quy định pháp luật Việt Nam hiện
hành về BHYT hộ gia đình và tập trung làm rõ các quy định này trong Luật

BHYT năm 2014. Trong một số giới hạn nhất định, luận văn nhằm phục vụ
mục tiêu nghiên cứu so sánh với quy định Luật BHYT hộ gia đình với một số
quốc gia như Hàn Quốc, Thái Lan, Nhật Bản.

* về thời gian: Luận văn tập trung nghiên cứu tình hình thực hiện
BHYT, đặc biệt là BHYT hộ gia đình trong thời gian 5 năm trở lại đây, từ


năm 2016-2021.

* về không gian: Nghiên cứu đuợc thực hiện tại huyện Gia Lâm, thành
phố Hà Nội.

4. Phương pháp nghiên cún
Đẻ đạt được các mục tiêu nghiên cứu mà đề tài đặt ra, trong quá trình

nghiên cứu, thực hiện luận văn, tác vận dụng các phương pháp nghiên cứu
khoa học nói chung và phương pháp nghiên cứu khoa học pháp lý nói riêng,

cụ thể:

Phương pháp luận nghiên cứu khoa học duy vật hiện chứng và duy vật
lịch sử cúa chú nghĩa Mac - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối quan
điểm của Đảng cộng sản Việt Nam.

Phương pháp phân tích, phương pháp diễn giải: Phương pháp này
được sử dụng phổ biến trong việc làm rõ nội hàm các quy định cùa pháp

luật liên quan đến các quy định về bảo hiềm y tế đối với hộ gia đình.
Phương pháp đảnh giá, phương pháp so sánh: Phương pháp này được

sử dụng trong luận văn để đưa ra ý kiến nhận xét quy định của pháp luật hiện

4


hành có hợp lý hay khơng, đơng thời nhìn nhận trong môi tương quan so với


quy định liên quan hoặc pháp luật của các quốc gia khác trên thế giới.
Phương pháp quy nạp, phương pháp diễn dịch: Phuơng pháp này

được vận dụng để triển khai nghiên cứu các vấn đề liên quan đến thực tiễn

áp dụng các quy định của pháp luật bảo hiếm y tế đối với hộ gia đình, đặc

biệt là đề xuất các giải pháp hồn thiện quy định của pháp luật. Dựa trên cở
sở những kiến nghị mang tính khái quát và súc tích, luận văn dùng phương

pháp diễn dịch để làm rõ nội dung của các giải pháp đề xuất được đưa ra.
5. Mục đích nghiên cún và nhiệm vụ của luận văn
5.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích thực trạng pháp luật BHYT hộ gia đình và thực

tiễn thực hiện tại huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội, tác giả sẽ đưa ra
những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật BHYT hộ gia đình và nâng cao
hiệu quả thi hành pháp luật về BHYT hộ gia đình từ thực tiễn trên địa bàn
huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội.

5.2. Nhiệm vụ của luận văn






- Nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về BHYT và tập trung

vào pháp luật BHYT đối với nhóm hộ gia đình.

- Phân tích, đánh giá thực trạng các quy định về pháp luật BHYT hộ gia

đình và thực tiễn thực hiện pháp luật BHYT hộ gia đình trcn địa bàn huyện
Gia Lâm, thành phố Hà Nội.
- Trên cơ sở thực trạng pháp luật BHYT hộ gia đình và thực tiễn thực

hiện pháp luật BHYT hộ gia đình tại huyện Gia Lâm, đưa ra kiến nghị hồn
thiộn pháp luật BHYT hộ gia đình và giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành
pháp luật BHYT hộ gia đình trên địa bàn huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội.

5


6. Những đóng góp mói của luận văn

Luận văn đã có những đóng góp mới sau đây:
Thứ nhất, luận văn nghiên cứu sâu sắc hơn các vấn đề lý luận về BHYT

và pháp luật BHYT hộ gia đình.

Thứ hai, luận văn làm rõ thực trạng pháp luật BHYT hộ gia đình theo

pháp luật hiện hành, đánh giá phân tích, nhận xét về ưu điểm, nhược điểm chỉ
ra hạn chế của quy định pháp luật hiện hành.
Thứ ba, luận vãn đánh giá thực tiễn thực hiện trên địa bàn huyện Gia

Lâm, thành phố Hà Nội, đồng thời chỉ ra những hạn chế, thành công của địa

phương trong thực hiện pháp luật BHYT hộ gia đình.
Thứ tư, luận văn đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp


luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật BHYT hộ gia đình tại huyện
Gia Lâm, thành phố Hà Nội.

7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài Lời mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn*---gồm có 3 chương:
Chương 1: Khái quát chung về bảo hiềm y tế hộ gia đình và pháp luật

bảo hiểm y tế hộ gia đình.

Chương 2: Thực trạng quy định pháp luật về bảo hiểm y tế đối với hộ
gia đình và thực tiễn thực hiện tại huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội.
Chương 3: Một số kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật và nâng

cao hiệu quả thực hiện pháp luật bảo hiếm y tế hộ gia đình tại huyện Gia Lâm,

thành phố Hà Nội.

6

(Formatted: Justified


CHƯƠNG 1:

KHÁI QUÁT CHƯNG VỀ BẢO HIÉM Y TẾ Hộ GIA ĐÌNH VÀ
PHÁP LUẬT BẢO HIỂM Y TÉ HỘ GIA ĐÌNH

1.1. Khái quát về bảo hiểm y tế hộ gia đình
1.1.1. Khái niệm bảo hiếm y tế hộ gia đình


Tổ chức Y tế thế giới (1978) đưa ra quan niệm “Bao hiểm y tế là loại
hình bảo hiểm khơng kinh doanh, khơng vì mục đích lợi nhuận và được tiếp

cận chủ yếu dưới góc độ quyền con người”. BHYT theo nghĩa này được hầu
hết các quốc gia trên thế giới thống nhất, lựa chọn là giải pháp thực hiện sứ
mệnh bảo vệ, chăm sóc sức khỏe cộng đồng.

BHYT hộ gia đình là một nội dung của BHYT nói chung. Thực hiện
BHYT hộ gia đình là một trong nhừng cách thức quan trọng để tiến tới BHYT

toàn dân. BHYT hộ gia đình là loại hình bảo hiểm mang tính nhân văn sâu

sắc, góp phần quan trọng thực hiện mục tiêu cơng bằng xã hội cũng như bảo
vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân. BHYT hộ gia đình ở Việt Nam

bắt đầu được quy định trong Luật bảo hiểm y tế năm 2008, một trong những
nhóm đối tượng tham gia BHYT là “Người thuộc hộ gia đình làm nơng

nghiệp, ngư nghiệp và diêm nghiệp”, mức đóng hàng tháng của người thuộc
đối tượng hộ gia đình này tối đa bàng 6% mức lương tối thiểu, ngân sách nhà

nước hỗ trợ một phần mức đóng BHYT cho những đối tượng có mức sống

trung bình. Luật BHYT năm 2008 quy định việc tham gia BHYT theo hộ gia
đình nằm trong nhóm đối tượng BHYT tự nguyện, người dân có thể lựa chọn

hình thức tham gia là cá nhân hay hộ gia đình, nếu lựa chọn tham gia theo hộ
gia đình thì được giảm trừ mức đóng.


Ngày 13/6/2014, Quốc hội ban hành Luật số 46/2014/QH13 sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật bảo hiểm Y tế năm 2008. Luật có hiệu lực từ ngày

01/01/2015, đây là một bước tiến quan trọng trong q trình xây dựng, hồn
thiện chính sách, pháp luật về BHYT và tác động tích cực đến q trình tổ

chức thực hiện chính sách BHYT. Trong đó, Luật BHYT năm 2014 quy định
tham gia BHYT hộ gia đình là hình thức bắt buộc và mức giảm trừ khi tham

7


gia thâp hơn mức quy định tại Luật BHYT năm 2008. Bên cạnh đó, đơi tượng
hộ gia đình tham gia BHYT cũng được quy định cụ thể hon. Theo đó, hộ gia

đình tham gia BHYT bao gồm tồn bộ người có tên trong sổ hộ khẩu hoặc sổ

tạm trú và hộ gia đình là một trong năm nhóm đối tượng tham gia BHYT.
Hình thức mua thẻ BHYT theo hộ gia đình cũng được áp dụng theo quy định
cùa Luật.
So sánh với các đối tượng khác thì BHYT hộ gia đình có những đặc
điểm chung trong tổ chức và thực hiện BHYT hộ gia đình là một hình thức

của bảo hiểm y tế, một số quốc gia khác sử dụng từ “hộ gia đình” bằng

“người phụ thuộc” hay “người ăn theo”, cho dù đối tượng tham gia BHYT hộ

gia đình ở các quốc gia có thể khác nhau nhưng đều hướng đến mục tiêu
BHYT toàn dân. Theo quy định của Luật BHYT thì bảo hiểm y tế hộ gia đình


là một hình thức của bảo hiểm y tế, theo đó các chủ thê đều theo sô tạm trú
hoặc số hộ khẩu thường trú đều phải tham gia, trừ trường hợp một số thành
viên đã được cấp thẻ bảo hiểm y tế theo diện khác hoặc các thành viên đã

thực hiện thủ tục khai báo tạm Vắng theo quy định pháp luật.
1.1.2. Đặc điếm của bảo hiếm y tế hộ gia đình

So sánh với các đối tượng khác thì BHYT hộ gia đình có nhừng đặc

điểm chung trong tổ chức và thực hiện BHYT. Tuy nhiên, BHYT hộ gia đình

cũng có những đặc điểm riêng cần lưu ý, cụ thể:
Thứ nhất, đối tượng của chế độ bảo hiểm này là hộ gia đình. Khái niệm
hộ gia đình được quy định chặt chẽ phù họp với điều kiện kinh tế xã hội và

pháp luật ở mỗi nước. Tuy có thể khác biệt về một vài nội dung nhung các
khái niệm đều có một điểm chung là có mối quan hệ huyết thống, hơn nhân

hay sống chung trong gia đình, phụ thuộc vào nhau, hỗ trợ nhau về mặt kinh
tế, rủi ro đều có thế phải gánh chịu chung, vì vậy, phải trong mối tương quan
chung của liên kết hộ gia đình.

8


Thứ hai, mức đóng BHYT của từng thành viên trong hộ gia đình có thê
là như nhau hoặc khác nhau, tùy thuộc quy định pháp luật của mỗi quốc gia.

Ớ Thái Lan, chương trình BHYT cho cơng chức được áp dụng cho công chức
cũng như những người phụ thuộc, người tham gia chương trình BHYT này

khơng phải đóng phí và đây được coi là một chế độ quyến lợi phụ dành cho

người làm nhà nước có mức lương thấp hơn.
Thủ’ ba, phần lớn các nước khi thực hiện chế độ BHYT theo hộ gia đình

đều có sự hỗ trợ lớn từ Chính phú hoặc từ người sử dụng lao động cho các
thành viên khác của hộ gia đình tham gia BHYT. Chính sách BHYT là một

trong các trụ cột cùa an sinh xã hội, do vậy, các nước đều hướng tới thực hiện
BHYT toàn dân, để mọi người dân đều được chăm sóc về y tế.
1.1.3. Vai trị của bảo hiểm y tế hộ gia đình

Thứ nhất, BHYT hộ gia đình góp phần đảm bảo an sinh sức khỏe cho
cả hộ gia đình người tham gia, phù hợp với mục tiêu chăm sóc, bảo vệ sức

khỏe tồn dân mà Chính phủ đang hướng tới. Trong điều kiện nhiều người
dân chưa ý thức tự giác trong việc chăm sóc sức khỏe thơng qua chính sách

BHYT thì việc ràng buộc tham gia BHYT theo hộ gia đình là giải pháp khả

thi để đảm bảo phần lớn người dân được hưởng lợi từ chính sách BHYT, nhất
là trong điều kiện hiện nay, tình hình dịch bệnh, ơ nhiễm diễn biến hết sức

phức tạp, mức độ bệnh tật, rủi ro dễ gặp phải trong cuộc sống hằng ngày.
Thứ hai, mục đích của quy định BHYT theo hộ gia đình là rất rõ, vừa
để tăng bao phủ BHYT, vừa để cộng đồng có trách nhiệm với người bệnh.

Khi trong gia đình có người ốm đau thì chính những người thân trong gia đình
phải có trách nhiệm tham gia BHYT đe chia sẻ với nhũng người thân của
mình sau đó mới đến cộng đồng.


Thứ ba, sức khỏe là vấn đề rất nhiều rủi ro, không ai có thổ biết trước

ốm đau, bệnh tật đến khi nào. Có những người khơng tham gia BHYT, khi bị

9


bệnh trở thành thảm họa với gia đình bởi chi phí y tê q lớn mà khơng có
BHYT chi trả, nhất là những gia đình lao động nhỏ, thủ cơng, ở mức trung
bình (khơng phải hộ cận nghèo, hộ nghèo) nên việc tham gia BHYT theo hộ

gia đình là tự trang bị “phao cún sinh” cho bản thân và gia đình, vì Quỹ
BHYT đà chi trả phần lớn chi phí trong q trình điều trị cho những người

bệnh có thẻ BHYT.

Thứ tư, tham gia BHYT theo hộ gia đình là giảm gánh nặng tài chính
cho người đóng BHYT. Tùy thuộc vào mỗi quốc gia quy định mức đóng

BHYT hộ gia đình có thể được giảm trừ hoặc có thế được miễn hoàn toàn đối

với những người phụ thuộc.
Thứ năm, việc tham gia BHYT theo hộ gia đình là nhằm từng bước
thực hiện mục tiêu cộng đồng cùng chia sẻ rủi ro với người bệnh, mà mức độ

thấp nhất là các thành viên trong cùng gia đình chia sẻ cho nhau, và mức độ
cao nhất là thực hiện BHYT toàn dân. Thực tế cho thấy khi tham gia BHYT
tự nguyện, người dân chi mua thẻ BHYT cho những người có bệnh tật hoặc
có nguy cơ mẳc bệnh cao chứ khơng mua cho những người đang khỏe mạnh

trong gia đình, bên cạnh đấy còn tạo ran guy cơ lựa chọn ngược trong BHYT

tự nguyện, tức là người dân tham gia BHYT sau khi đã được chẩn đốn bệnh,
từ đó dẫn đến mất cân đối trong cơng tác thanh tốn chi phí khám chữa bệnh
BHYT.
1.2. Khái quát về pháp luật bảo hiểm y tế hộ gia đình

1.2.1. Khái niệm pháp luật bảo hiếm y tế hộ gia đình

Rủi ro về sức khỏe có thế xảy ra với mọi thành viên trong xã hội, tại bất
kỳ thời điếm nào. Bao phủ chăm sóc sức khởe toàn dân với BHYT toàn dân là

giải pháp cơ bản, là định hướng, đích phấn đấu của nhiều quốc gia. Theo đó,
mọi người dân được bảo đảm sử dụng dịch vụ y tế có chất lượng khi cần và

khơng phải chịu chi phí quá lớn khi sử dụng. Bảo hiểm y tế là một chính sách

10


an sinh xã hội, có đơi tượng tham gia rộng rãi, hướng đên bao gôm hâu hêt

các thành phần dân cư. Mỗi thành phần dân cư có nhũng đặc điềm khác nhau
về thu nhập, điều kiện sống do đó pháp luật quy định đối tượng tham gia
BHYT gồm những nhóm khác nhau với các đặc trung riêng về phương thức
đóng BHYT, mức đóng BHYT và chế độ hưởng BHYT... phù hợp với đặc

điểm của tùng nhóm.

Dưới góc độ pháp lý, hộ gia đình là một chủ thế của các quan hệ dân

sự. Các thành viên của hộ gia đình có mối quan hệ về huyết thống, quan hệ

hôn nhân và quan hệ về ni dường. Hộ gia đình là một nhóm đối tượng của
BHYT. So với những nhóm đối tượng khác thì đây là nhóm đối tượng có

nhũng đặc điếm riêng nên pháp luật cũng có những quy định đặc thù tương
ứng. Như vậy, pháp luật bảo hiểm y tế hộ gia đình là tơng họp các quy phạm

pháp luật điều chỉnh quan hệ giữa hộ gia đình với cơ quan bảo hiếm y tế
trong việc đóng và hưởng quyền lợi bảo hiểm y tế.

1.2.2. Nguyên tắc pháp luật bảo hiếm y tế hộ gia đình
Pháp luật BHYT hộ gia đình đảm bảo những nguyên tắc chung của bảo
hiểm y tế, song do những đặc điếm riêng của đối tượng thao gia là hộ gia đình

nên thực hiện bảo hiểm y tế hộ gia đình cịn phải đảm bảo thực hiện các
nguyên tắc riêng, cụ thể như sau:

Thứ nhất, nguyên tắc đảm bảo sự tham gia của toàn bộ thành viên trong
gia đình hướng tới mục tiêu bao phủ tồn dân. Trong nỗ lực thực hiện BHYT

toàn dân, nhiều nước đã ban hành Luật quy định bắt buộc tham gia BHYT
theo hộ gia đình thay vì cá nhân. Tại Mơng cổ, Luật BHYT được ban hành từ
năm 1994, với nhừng thay đổi chính sách quan trọng, trong đó có nội dung
chuyển đơn vị tham gia BHYT từ cá nhân sang hộ gia đình. Tại Đài Loan,

BHYT được triển khai thực hiện từ năm 1995 theo hình thức bắt buộc với tất
cả mọi người dân. Tỷ lệ bao phú hiện nay là 99% dân số. Đài Loan áp dụng

chính sách người lao động phải đóng BHYT cho người ăn theo [23].


11


Thứ hai, nguyên tăc có sự chia sẻ giừa các thành viên trong hộ gia đình
về điều kiện tham gia, đóng góp bảo hiểm y tế. Nguyên tắc này được thể hiện
trong quy định về điều kiện tham gia BHYT hộ gia đình, tất cả các thành viên
trong gia đình đều tham gia BHYT mới được giảm trừ mức đóng BHYT.

Thứ ba, nguyên tắc đảm bảo sự hỗ trợ cùa nhà nước. Kinh nghiệm

nhiều nước triền khai tăng tỷ lộ bao phủ BHYT cho thấy, trong quá trình mở
rộng diện bao phủ của BHYT tới nhóm dân cư ở khu vực phi chính quy
khơng thể thiếu được vai trị tài trợ của ngân sách nhàn nước, đặc biệt tại các

nước đang phát triển. Tại Malaysia, tất cả dịch vụ y tế cung ứng tại vùng nông
thôn được chi trả từ ngân sách nhà nước (NSNN) và người dân được sử dụng

miễn phí. Đây chủ yếu là dịch vụ chăm sóc sức khoẻ ban đầu và khám bệnh
ngoại trú còn dịch vụ bệnh viện được cung cấp tại các bệnh viện phần lớn
nằm tại khu vực thành thị. Tuy nhiên, dịch vụ do các bệnh viện này cung cấp

cũng được NSNN bao cấp phần lớn. Đe đạt mục tiêu chăm sóc sức khoẻ tồn

dân, Chính phủ Malaysia dự kiến phát triển BHYT thơng qua việc thiết lập
Hệ thống tài chính y tế quốc gia. NSNN sè cung cấp tài chính cho người
nghèo, người tàn tật, công chức và người nghỉ hưu tham gia BHYT. Như vậy,

khi triến khai hệ thống này, vai trị của nhà nước trong cung cấp tài chính cho


chăm sóc sức khoẻ tại Malaysia càng lớn [23].
Thứ tư, ngun tắc khơng có sự phân biệt về quyền lợi hưởng so với
các đối tượng khác.Ỏ Philippin, theo Luật BHYT thì những người phụ thuộc
của thành viên chính trong gia đình ở tất cả các nhóm đối trượng BHYT
Phihealth được hưởng các quyền lợi chuẩn [16].

1.2.3. Nôi dung pháp luật bảo hiếm y tế hộ gia đình
về đối tượng tham gia BHYT hộ gia đình
Chế độ BHYT hộ gia đình có đối tượng là hộ gia đình, khái niệm hộ

gia đình được quy định chặt chẽ theo điều kiện kinh tế xã hội và pháp luật ở
mỗi nước. Tuy có thể khác biệt về một vài nội dung nhưng khái niệm này ở

các nước đều có một điếm chung, một nội hàm khá thống nhất là người có tên
trong sổ hộ khẩu, có mối quan hệ huyết thống, hơn nhân hay sống chung

12


trong gia đình, phụ thuộc vào nhau, hơ trọ nhau vê mặt kinh tê, rủi ro đêu có

thề phải gánh chịu chung, vì vậy phải trong mối tưong quan chung của liên
kết hộ gia đình. Tham gia BHYT hộ gia đình có tác dụng tăng tính chia sẻ rủi
ro và giải quyết vấn đề lựa chọn ngược. Mặc dù tiêu chí cụ thể có thể khác

nhau phụ thuộc vào quy định quản lý hành chính của nhà nước với hộ gia

đình. Hộ gia đình có thể là hộ mà quan hệ giừa các thành viên trong gia đình
là quan hệ hơn nhân chính thức và các con của họ kể các con ni được pháp


luật cơng nhận nhưng cũng có thể là người sống chung với chú hộ được cơ
quan quản lý nhân khấu địa phương xác nhận... Mơ hình này sẽ làm giảm quy

mơ của khu vực khơng chính thức nhờ mở rộng bao phú BHYT ra đối tượng

vợ, chồng và các thành viên gia đình khác của lao động chính thức. Các quốc

gia Đơng Á- Thái Bình Dương đã thành cơng trong việc mở rộng chương

trình BHYT đế đạt mức bao phủ tồn dân thường được khuyến khích bảo
hiểm theo hộ gia đình.
Chương trình Obama Care của Mỹ còn quy định về người ăn theo được

hưởng BHYT hộ gia đình, đó là người độc thân có tên trong hộ khẩu, chưa có
quan hệ lao động và dưới 26 tuổi (có thể là tuổi tối đa của con cái đang theo học

các trường Đại học, Cao đẳng...). Người trên 26 tuổi phải thực hiện trách nhiệm

tham gia BHYT như một lao động chính của một hộ gia đình . Hộ gia đình có
thể là nhiều người nhung có thể chỉ có một người duy nhất.
Hệ thống BHYT của Hàn Quốc cũng áp dụng hình thức tham gia theo

hộ gia đình từ rất sớm, trong đó những người phụ thuộc cũng tham gia

chương trình bảo hiếm của người chủ gia đình [15]. Theo quy định của chính
sách BHYT theo hình thức hộ gia đình, bất kỳ thành viên nào trong gia đình
khơng có thu nhập (được gọi là người phụ thuộc) sẽ được tham gia BHYT

phụ thuộc không phân biệt nơi cư trú trong lành thồ quốc gia. Vì vậy, trong
một thời gian ngắn, tỷ lệ người tham gia BHYT theo chương trình này đà lên


13


đên gân 34% dân sô [25]. Đê giảm bớt gánh nặng tài chính cho các doanh
nghiệp nhỏ, người sử dụng lao động của các cơng ty có ít hơn 5 nhân viên
được miễn trừ thanh tốn đóng góp cho nhân viên.

về mức đóng BHYT hộ gia đình
Như đã trình bày ở phần đặc điếm, mức đóng BHYT của từng thành
viên trong hộ gia đình có thể là như nhau hoặc khác nhau, tùy thuộc quy định

pháp luật của mỗi quốc gia. Một số quốc gia Tây Âu thực hiện thu tiền BHYT

theo đầu hộ gia đình mà khơng phụ thuộc số lượng người của hộ gia đình, ví
dụ như 9,5%/theo đầu hộ đăng ký với cơ quan hành chính địa phương. Nhiều

quốc gia khác cũng tính mức phí chung cho hộ gia đình ví dụ như Đức là
9,6%, Pháp 13,6%, Đài Loan 6%... [19]. Đây là chính sách buộc người độc
thân, là những người thường có thu nhập trung bình cao hơn, có trách nhiệm

nhiều hon đối với xã hội. Nhiều nước áp dụng mức đóng góp của người ăn
theo như nhau nhưng có trần cho một gia đình như Israel hoặc như Mỹ. Các
nước này quy định các doanh nghiệp có từ 50 lao động trở lên đều phải thực

hiện BHYT cho người lao động theo hộ gia đình. Song cũng có nhừng quốc
gia lại quy định mức đóng BHYT phụ thuộc vào số lượng người của hộ gia

đình. Mức đóng BHYT có thể được giảm dần tương ứng với số lượng nhân
khấu của hộ, hộ càng đông nhân khấu thì mức đóng càng được giảm nhằm

khuyến khích họ tham gia BHYT.

Ở Hàn Quốc, mức đóng BHYT hộ gia đình khơng quy định con số cố
định mà mức đóng BHYT tính theo thu nhập hoặc tài sản cố định. Thơng

thường người lao động đóng 2-8%, cơng chức đóng 4,2% thu nhập, Chính

phủ cùng nộp 4,2% [19]. Cịn đối với lao động tự do, mức đóng được tính
theo mức xếp loại thu nhập hoặc tài sản cố định. Ngân sách Nhà nước hỗ trợ

30% mức phí nhằm mục đích đảm bảo chi phí quản lý. Ngồi ra, trách nhiệm

14


đóng góp cho quỹ BHYT và thanh tốn khoản đóng góp được quy định tại
Điều 67 và Điều 68 tại Luật BHYT quốc gia, trong đó quy định trách nhiệm

đóng góp BHYT cho người lao động, người sử dụng lao động, nhũng người

lao động tự do và một phần ngân sách nhà nước. Như vậy, những người phụ
thuộc không phải đóng thêm khoản tiền BHYT nào [14].

về phương thức đóng BHYT hộ gici đình
Việc thu phí đóng góp BHYT hộ gia đình có thể thưc hiện hệ thống thu

phí dựa vào lương hoặc sử dụng đại lý thu phí dựa vào cộng đồng. Cũng có

thể áp dụng các phương pháp như thu kết họp với hệ thống thu thuế, thu qua
ngân hàng. Đối với những người có thu nhập cao, muốn hưởng dịch vụ y tế


cao cấp, có thể đưa ra các loại hình bổ sung như dạng “thẻ vàng”, là loại hình
bảo hiểm được chọn những dịch vụ ưu tiên, chẳng hạn như được phép chọn

bác sỹ điều trị. Ớ Ixraen, sau khi hệ thống BHYT xã hộ hoàn thiện, Chính phủ
đà đưa vào hệ thống một số chức năng thương mại cho nhũng người có khả

năng chi trả cao [19].
về tài chính thực hiện BHYT hộ gia đình

Mở rộng bao phủ BHYT trong khu vực phi chính thức luôn là một

thách thức đối với các quốc gia, đặc biệt với nhừng nước mà khối lao động
phi chính thức cịn chiếm tỷ lệ lớn trong dân số. Trong đó, việc thực hiện
được BHYT tồn dân hay khơng ở một số quốc gia lại phụ thuộc nhiều vào

nhóm hộ gia đình. Đây là nhóm đối tượng khá đa dạng về mức sống, thu nhập

và trình độ nhận thức do tùy thuộc vào thành phần xã hội và địa bàn sinh
sống. Trong hộ gia đình thường có người lao động và những người ăn theo
mà đôi khi việc lo cơm gạo, những chi tiêu thiết yếu hàng ngày cho những
người ăn theo đã là gánh nặng đối với những người lao động trụ cột trong gia

đình. Vì thế các quốc gia đều quy định hồ trợ cho hộ gia đình để họ có thể
tham gia BHYT.

15


Chính phù dùng ngân sách để hỗ trợ cho hộ gia đình trong việc đóng


phí BHYT hoặc chủ sử dụng lao động hỗ trợ cho người ăn theo của người lao
động để họ tham gia BHYT như vợ của người lao động khơng có việc làm,
con cái, cha mẹ phụ thuộc nuôi dường... Mức độ hỗ trợ tùy thuộc vào điều

kiện của mỗi quốc gia. Tại Cộng hịa Séc, Chính phủ dùng ngân sách để hỗ

trợ cho toàn bộ người ăn theo trong hộ gia đình là trẻ em dưới 06 tuối, vợ ở
nhà không đi làm, người khuyết tật, người già chưa có BHYT. Chương trình
Obama Care của nước Mỹ quy định, người ăn theo là người độc thân có tên

trong hộ khẩu, chưa có quan hệ lao động và dưới 26 tuổi (có thể là tuổi tối đa
của con cái đang theo học các trường Đại học, Cao đẳng...) còn người trên 26

tuối phải thực hiện trách nhiệm tham gia BHYT như một lao động chính của
một hộ gia đình [19].

Tại Trung Quốc, chương trình BHYT nơng thơn mới dành cho đối

tượng người dân nông thôn là một ví dụ điển hình minh chứng cho sự thành

cơng của việc mở rộng độ bao phủ BHYT vùng nông thôn với quyết tâm
chính trị và sự hỗ trợ cơ bản về tài chính. Bắt đầu từ năm 2003, với tỷ lệ bao

phủ BHYT vùng nông thôn chỉ là 13% nhưng sau 5 năm tỷ lệ này đà tăng lên

là 92% và đến năm 2011 đạt 95%. Mức trợ cấp từ ngân sách trung ương và
ngân sách địa phương cho BHYT tăng dần qua các năm (từ mức 66% lên
80% và mới đây là 90% mệnh giá BHYT). Tại Thái Lan nổi tiếng với chương


trình 30 Bạt đề đạt mục tiêu bao phủ chăm sóc sức khoẻ tồn dân. Đây là
chương trình chăm sóc sức khỏe cho tất cả cơng dân Thái Lan chưa tham gia

chưong trình BHYT, chủ yếu là đối tượng nông dân và lao động tự do bằng

nguồn tiền từ ngân sách. Những người tham gia chương trình này phải đãng
ký với các cơ sở y tế, được cấp một thẻ BHYT miễn phí và đóng một khoản

tiền là 30 Bạt (tương đương 0,75 USD) cho mỗi lần khám chữa bệnh ngoại trú

16


hoặc điều trị nội trú; Thuốc kê đơn được cấp miễn phí. Theo chương trình
chăm sóc sức khoe này, tỷ lệ người dân khơng có BHYT ở Thái Lan đã giảm

từ mức 30% năm 2000 xuống còn 5% năm 2003 [19].
Tùy theo trình độ quản lý và tình hình ở mồi nước, có nước chỉ tổ chức

một quỹ duy nhất với sự tái phân bố giữa các tỉnh (đòi hỏi trình độ quản lý
cao), song cũng có nước thực hiện cơ chế nhiều quỹ, tồn tại riêng rẽ hay có sự

kết hợp, tương hỗ.

Trước khi cải cách năm 2000, Hàn Quốc có trên 350 quỹ BHYT dựa

theo cơng việc hoặc khu vực sinh sống, vì vậy, người tham gia BHYT khơng
có quyền lựa chọn quỹ BHYT mà theo sự chỉ định, nhung các quyền lợi bắt
buộc cho người có thẻ là như nhau ở các quỹ. Có các loại quỹ BHYT như sau:
Quỹ BHYT cho công nhân công nghiệp (chiếm 36% dân số) dựa vào công

việc; Quỹ BHYT cho người lao động tự do, chiếm 50,1% dân số: dựa trên các

khu vực bao gồm cả những người làm trong các hãng/công ty nhỏ (dưới 5 lao

động), cuối cùng là các quỹ BHYT cho người làm việc trong khu vực công và

giáo viên chiếm 10,4% dân số [19].
Đến năm 2000, BHYT ở Hàn Quốc được cải cách, tập đoàn BHYT
quốc gia Hàn Quốc (NHIC) được thành lập trên cơ sở sát nhập các quỹ

BHYT. NHIC là cơ quan công, độc lập trên cơ sở sát nhập các quỹ năm 2000,
có nhiệm vụ xem xét các u cầu thanh tốn/các chi phí BHYT và đánh giá sự

thích hợp trong chăm sóc y tế. Người dân tham gia BHYT theo hình thức cá
nhân và BHYT cho toàn dân.

Việc sáp nhập các quỹ BHYT thành cơ quan chi trả duy nhất vào năm
2000 được thực hiện trong bối cảnh: không công bàng trong các gánh nặng

kinh tế, sự đóng góp khác nhau thơng qua nhiều quỹ BHYT mặc dù gói quyền
lợi là như nhau (người tham gia không được lựa chọn quỹ đế tham gia).

17


1.2.4. Kinh nghiệm vê quy định và thực hiện bảo hiêm y tê hộ gia đình ỏ'

một sổ quốc gia trên thế giới
Tại các nước phát triển, vấn đề an sinh xã hội luôn được đặt lên hàng


đầu. Một trong số đó là vấn đề chăm sóc sức khoe cho nhân dân. Đây là một

vấn đề quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến người dân khi họ gặp các rủi ro

liên quan đến ốm đau, bệnh tật. Các nước có hệ thống BHYT phát triển nhất
phải kể đến nước Mỹ, Đức, Nhật... Trên thế giới, hầu như khơng có một quốc

gia nào lại không phải bao cấp cho nhu cầu KCB của người dân mà đều phải
huy động một phần từ sự đóng góp của xã hội. Theo kinh nghiệm của các

nước trên thế giới, rất ít khi người ta để cho cá nhân tự phải chịu mọi chi phí y
tế khi điều trị mà thông thường chia sẻ rủi ro cho nhiều người qua hình thức

BHYT. Tức là chia sẻ khó khăn về tài chính cho nhau, người khỏe mạnh giúp

đỡ người ốm đau cịn khi mình ốm đau nhiều người khỏe lại giúp đỡ mình
[25].

Việc thực hiện mơ hình BHYT trên thế giới rất khác nhau tùy thuộc vào

trình độ phát triển và trình độ quản lý của mỗi quốc gia. Đa phần các quốc gia
có trình độ kinh tế phát triển khác nhau như Đức, Hà Lan, Hàn Quốc, Nhật
Bản, Đài Loan, Thái Lan... đều thực hiện BHYT tồn dân theo hình thức hộ

gia đình. Mơ hình BHYT hộ gia đình được coi là mơ hình an tồn hay có tính
xã hội cao, có tác động tương tác và sự hợp tác của nhiều bên trong việc hình

thành. Mơ hình BHYT theo cá nhân khơng chỉ hạn chế về mặt thành viên

tham gia mà còn tạo phửc tạp về thù tục hành chính trong việc quản lý đối

tượng (đối tượng quản lý tăng cao, chi phí hành chính phức tạp, khó theo dõi

chi phí đặc biệt với nhóm người ăn theo). BHYT hộ gia đình là một tất yếu
khách quan bởi chủ gia đình sau nhu cầu tồn tại bao giờ cũng tìm kiếm một sự
an tồn về sức khỏe cho các thành viên của gia đình thông qua cơ chế BHYT,

đặc biệt là phụ nữ, người tàn tật và con cái trong gia đình mình (những người

18


khơng có quan hệ lao động và dễ bị các nhà xây dựng chính sách bỏ sót),

nhằm tăng khả năng tiếp cận với dịch vụ y tế, tránh nguy CO’ nghèo hóa do ốm
đau bệnh tật gây ra. Một nghiên cứu ở Mỹ năm 2006 cho thấy, trong các gia
đình tham gia theo hộ gia đình có cơ hội tiếp cận dịch vụ cao hơn so với

những gia đình đóng bảo hiếm theo cá nhân; các gia đình khơng tham gia theo
hộ gia đình có sự khác biệt lớn về số lượng và loại dịch vụ sử dụng trong khi

trẻ thuộc gia đình có thẻ BHYT gia đình khá đồng nhất về nội dung này [25].

Kỉnh nghiệm thực hiện BHYT hộ gia đình tại Hàn Quốc

Ở Hàn Quốc, đối tượng tham gia BHYT theo hình thức hộ gia đình khá
rộng, bất kỳ thành viên nào trong gia đình khơng có thu nhập sẽ được tham
gia BHYT phụ thuộc bất kể nơi cư trú nào trong lãnh thổ quốc gia. Người phụ

thuộc cùa người hưởng BHYT là những người khơng có thù lao hoặc thu
nhập cụ thể là: Vợ/chồng của người lao động được bảo hiểm; Con, cháu trực


hệ của người lao động được bảo hiểm; Anh/chị/em của người lao động được

bảo hiếm.

Như vậy, so với pháp luật BHYT hộ gia đình ở Việt Nam, đối tượng

tham gia BHYT ở Hàn Quốc dựa trên hộ gia đình quy định phạm vi rộng với
những người phụ thuộc. Theo đó, bất kỳ thành viên nào trong gia đình khơng
có thu nhập sẽ được tham gia BHYT phụ thuộc bất kề nơi cư trú nào trong

lãnh thổ quốc gia, trong khi ở Việt Nam nếu chỉ một thành viên trong nhóm
hộ gia đình thuộc đối tượng tham gia BHYT hộ gia đình khơng tham gia thì
hộ gia đình đó sẽ khơng được BHYT theo hình thức hộ gia đình và khơng

được giảm trừ mức đóng theo quy định. Ngồi ra, có thề thấy, điều kiện tiên

quyết để xác định đối tượng tham gia BHYT hộ gia đình của Việt Nam và
Hàn Quốc là khác nhau, Việt Nam căn cứ trên sổ hộ khẩu còn Hàn Quốc căn

cử vào thu nhập của người phụ thuộc. Việc quy định chính sách BHYT cho

19


người phụ thuộc ở Hàn Quôc đã giúp đât nước này tăng tỷ lệ lớn sô người

tham gia BHYT trong một thời gian ngắn.
Thực tế việc căn cứ trên sổ hộ khẩu để xác định đối tượng tham gia
BHYT hộ gia đình ở Việt Nam đã gặp nhiều khó khăn trong việc triển khai

thự hiện, vì vậy việc xác định đối tượng tham gia BHYT hộ gia đình ở Hàn

Quốc cũng là điểm tiến bộ mà Việt Nam cần học tập.
Kỉnh nghiệm thực hiện BHYT hộ gia đình tại Thái Lan

Thái Lan thực hiện BHYT từ năm 1945. Ngay từ thời kỳ này, Thái Lan

đà có một hệ thống pháp lý và các chính sách hợp lý để tạo tiền đề cho thực hiện

BHYT toàn dân. Ớ Thái Lan quá trình thực hiện BHYT đà trải qua các giai
đoạn: từ năm 1975 đến năm 1991, Chính phủ Thái Lan đã xây dựng mạng lưới y

tế cơ sở rộng khắp cả nước, người dân có thể tiếp cận vói dịch vụ y tế dễ dàng
nhất. Năm 1981, Chính phủ triển khai chương trình cấp thẻ cho nhũng người thu

nhập thấp (LIC) đến nhũng ngưịi có thu nhập thấp hàng tháng dưới 1000
Baht/tháng. Thời kỳ từ năm 1992 đến 2002: Chính phủ Thái Lan đã thực hiện

BHYT cho nhóm người nghèo và nhóm ngưịi bị thiệt thịi. Với việc ngày càng
mở rộng đối tượng, Thái Lan đã thực hiện thành công BHYT tồn dân. Q trình
thực hiện rất bài bản, ban đầu là thí điểm tại 6 tỉnh, sau đó thực hiện tại 15 tỉnh
vào năm 2001. Đến năm 2005 BHYT toàn dân được thực hiện trên phạm vi toàn

quốc và đến năm 2009 BHYT toàn dân ở Thái Lan đã đạt được 99% dân số

tham gia.
Phương thức thanh toán BHYT ở Thái Lan cũng rất linh hoạt nên đà

kiểm soát được chi phí KCB BHYT: Thanh tốn theo định suất áp dụng cho
nhóm đối tượng có hợp đồng lao động vì đặc điềm của nhóm này dễ dự tốn


kinh phí. Nhóm dân cư cịn lại áp dụng thanh tốn theo trường họp bệnh vì
nhóm này bao gồm rất nhiều đối tượng: người già, trẻ em, khuyết tật, nơng

dân... có nguy cơ bệnh nặng, chi phí giao động nhiều.

20


×