Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Pháp luật bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự ở việt nam (luận văn thạc sỹ luật)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (23.81 MB, 91 trang )

MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIÉT TẮT......................................................................6
PHẦN MỞ ĐẦU................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VÁN ĐỀ LÝ LUẬN VÈ BÁN ĐÁU GIÁ TÀI SẢN
TRONG THI HÀNH ÁN DÂN sự...................................................................... 7
1.1 .Khái quát về hoạt động bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự............7
1.1.1. Khái niệm bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự............................ 7
1.1.2. Đặc điếm của bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự.................... 11
1.1.3. Vai trồ của bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự........................ 13
1.1.4. Nguyên tắc của bản đẩu giá tài sản trong thi hành án dân sự................. 15
1.2. Cơ sở pháp luật của bán đấu giá tài sản thi hành án dân sự......................... 19
1.2. l.Cơ sở lý luận của bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự.............. 19
1.2.2. Cơ sở thực tiễn........................................................................................... 22
1.2.3. NỘÌ dung của pháp luật về bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân Sự23
1.3. Khái quát sự phát triển của pháp luật Việt Nam về bán đấu giá tài sản trong
thi hành án dân sự................................................................................................27
ỉ.3. ỉ. Giai đoạn từ năm 1945 đến trước năm ỉ975............................................ 27
ỉ.3.2. Giai đoạn từ năm 1975 đến trước năm 1993............................................ 28
1.3.3. Giai đoạn từ năm 1993 đến trước năm 2010............................................ 29
1.3.4. Giai đoạn từ năm 2010 đến nay................................................................. 32
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1................
35
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ BÁN ĐẤU GIÁ
TÀI SẢN TRONG THI HÀNH ÁN DÂN sự.................................................. 36
2.1. Chủ thể bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự................................. 36
2.1.1. Người có tài sản bán đấu giá và người sỏ' hữu tài sản bán đấu giá ..36
2.1.2. Tỏ chức bán đấu giả và đấu giá viên....................................................... 38
2.1.3. Người tham gia đẩu giá tài sản................................................................42
2.1.4. Người có quyền và nghĩa vụ liên quan trong bán đấu giá tài sản trong thỉ
hành án dân sự, người đỉi'ực thi hành án, người phải thi hành án.....................44
2.2. Đối tượng bán đấu giá là tài sản trong thi hành án dân sự......................... 46


2.3. Trình tự, thủ tục bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự................... 48
2.3.1. Trình tự, thủ tục các hoạt động trước khi bán đấu giá tài sản THADS ...48
2.3.2. Trình tự, thủ tục các hoạt động khi bản đấu giá tài sản THADS.............51
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2................................................................................... 60


CHƯƠNG 3. THỰC TIỄN BÁN ĐẤU GIÁ TÀI SẢN TRONG THI HÀNH
ÁN DÂN Sự Ở VIỆT NAM VÀ KIẾN NGHỊ.................................................. 61
3.1. Thực tiễn bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự............................... 61
3.1.1. Những kết quả đạt được trong bản đấu giá tài sản thì hành án dân sự...61
3.1.2. Những hạn chế, bất cập trong bán đấu giá tài săn THADS..................... 62
3.1.3. Nguyên nhân những hạn chế, bất cập trong bán đấu giá tài sản THADS12
3.2. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả bán đấu giá tài sản trong thi hành
án dân sự............................................................................................................. 74
3.2.1. Kiến nghị về hoàn thiện pháp luật bán đẩu giá tài sản trong thi hành án
dân sự.................................................................................................................. 74
3.2.2. Kiên nghị vê thực hiện pháp luật bán đâu giá tài sản trong thi hành án
dân sự..................................................................................................................
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3....................................................................................82
KẾT LUẬN.......................................................................................................... 83
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................ 84


DANH MỤC CÁC TÙ VIẾT TẮT

Thi hành án dân sự

THADS

Bộ luật dân sự


BLDS

Luật Đấu giá tài sản số

Luật Đấu giá tài sản

01/2016/QH14 ngày 17/11/2016
Nghị định số 62/2015/NĐ-CP

Nghị định số 62/2015/NĐ-CP

của Chính phủ quy định chi tiết
và hướng dẫn thi hành một số

điều của Luật THADS
Nghị định số 17/2010/NĐ-CP

Nghị định sô 17/2010/NĐ-CP

về bán đấu giá tài sản

Viện kiểm sát nhân dân

Viện KSND


PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài và tình hình nghiên cứu

Bán đấu giá tài sản thi hành án dân sự (THADS) được hiểu là hình thức

mua bán tài sản đặc biệt, công khai đối với tài sản bị kê biên để bảo đảm thi
hành án, đây là một trong những giai đoạn của hoạt động THADS mang tính

chủ đạo để tổ chức thi hành những Bản án, quyết định về tiền, tài sản cùa các
chủ thể có thẩm quyền xét xử đã có hiệu lực pháp luật. Quy định về bán đấu giá
tài sản được xuất hiện lần đầu tiên trong Pháp lệnh THADS ngày 28/8/1989 và

từ đó hoạt động bán đấu giá tài sản được hình thành và phát triển. Khi người
phải thi hành án có điều kiện thi hành án (có tài sản) nhưng khơng tự nguyện thi
hành, chấp hành viên của cơ quan Thi hành án phải kê biên, định giá và xử lý tài
sản của người phải thi hành án bằng việc đấu giá tài sản để địi lại quyền và lợi

ích hợp pháp cho người được thi hành án và cũng đảm bảo được tính nghiêm
minh của pháp luật.

Sau 30 năm triền khai hoạt động bán đấu giá tài sản trong THADS ở

Việt Nam, hoạt động bán đấu giá tài sản đang được pháp luật điều chỉnh và dần
hoàn thiện, đã đạt được những mục đích ban đầu đề ra. Tuy nhiên, thực tiễn áp

dụng các quy định của pháp luật về bán đấu giá tài sản trong THADS còn phát
sinh nhiều mâu thuẫn, một số quy định như trình tự, thủ tục bán đấu giá cịn
thiếu cụ thể, khơng rõ ràng gây khỏ khăn trong quá trình thực thi. Chất lượng

đội ngũ đấu giá viên chưa đạt yêu cầu nên khách hàng có tâm lý ngại mua tài
sản bán đấu giá trong THADS. Bên cạnh đó, hoạt động bán đấu giá tài sản trong

THADS chưa thật sự hiệu quả, các quy định của pháp luật về bán đấu giá tài sản


trong THADS cịn thiếu sự đồng bộ, chặt chẽ; có những trường hợp đấu giá
thành công nhưng không bàn giao được tài sản hoặc kéo dài việc bàn giao gây
bức xúc trong xã hội.

Tổng số việc bán đấu giá thành quý 1/2020 trên toàn quốc là 1.028 việc,
tuy nhiên chỉ giao tài sản cho người trúng đấu giá được 513 việc, hủy kết quả
1


bán đâu giá 16 việc, tông sô việc đã kê biên, định giá nhưng bán đâu giá chưa

thành là 2.424 việc tương đương với số tiền 6.025 tỷ 864 triệu 812 nghìn đồng.

bán đâu giá từ 03 lân trở lên là 3.443 tỷ 846 triệu 691 nghìn đơng, chiêm tỷ lệ
đến 57,2% [46].

Từ thực trạng nêu trên, việc nghiên cứu một cách có hệ thơng, khoa học
các quy định của pháp luật về bán đấu giá tài sản THADS để hiểu đúng và thực
hiện đúng, cũng như tìm ra những khó khăn, bất cập nhằm hồn thiện các quy

định này là một việc thật sự cần thiết và cấp bách.
Liên quan đến nội dung bán đấu giá tài sản THADS đã có nhiều bài đề

tài khoa học, luận văn, bài viết trên tạp chí đề cập một cách trực tiếp hoặc lồng
ghép vào những nội dung liên quan như: Đề tài nghiên cứu cấp Bộ “Hoàn thiện
pháp luật về bán đấu giá tài sản nhằm thúc đây thể chế kinh tế thị trường định

hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam” do Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp thực
hiện năm 2011. Luận văn, luận án có đề tài luận án tiến sĩ luật học “Pháp luật


về đấu giá tài sản trong thương mại Việt Nam ” của tác giả Nguyễn Mạnh

Cường bảo vệ tại Viện Khoa học xã hội Việt Nam năm 2012, đề tài luận văn
thạc sĩ luật học “Quản lỷ nhà nước về hoạt động bán đẩu giá tài sản từ thực

tiễn thành phố Hồ Chí Minh” của tác giả Phạm Vãn Sỹ bảo vệ tại Học viện
Hành chính quốc gia năm 2006, đề tài luận vãn thạc sĩ luật học “Bán đấu giá tài
sản thi hành án dân sự theo pháp luật Việt Nam ” cùa tác giả Bùi Thị Thu Hiền
bảo vệ tại Khoa Luật - Đại học Quốc Gia Hà Nội năm 2014, luận án tiến sĩ

“Bán đẩu giá tài sản Thi hành án dân sự ở Việt Nam ” của tác giả Nguyễn Thị

Hương Giang bảo vệ tại Đại học Luật Hà Nội năm 2018. về các bài tạp chí

khoa học có bài “Bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự vẫn còn là diêm
nghẽn ” của tác giả Nguyễn Quang Thái và Đào Thị Thúy Lan trên Tạp chí Dân

chủ và Pháp luật số chuyên đề tháng 12/2016, bài “Cơ chế bảo vệ quyền sở hữu
đối với người thứ ba ngay tình trong mua tài sản bán đấu giá” của tác giả Võ
2


Hải Phương, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật sơ 273 năm 2014, bài "Một sô

vướng mắc về bán đấu giá tài sản đê thi hành án” của Nguyễn Duy Bằng trên
Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số chuyên đề tháng 02/2012, bài "Một số bất cập

trong việc định giá, định giá lại tài sản kê biên” của tác giả Vũ Hịa đăng trên


Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số chun đề tháng 12/2012...
Các cơng trình nghiên cứu nêu trên đã giải quyết được một số vấn đề

mang tính tổng thế; nghiên cứu những khía cạnh, phạm vi khác nhau của bán
đấu giá tài sản THADS trên cả nước. Bên cạnh đó, Luật THADS năm 2008

được sửa đổi, bổ sung năm 2014 và Nghị định số 33/2020/NĐ-CP sửa đổi, bổ
sung một số điều của Nghị định số 62/2015/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng

dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự đã giải quyết một số

vướng mắc, bất cập trong việc bán đấu giá tài sản THADS, Luật ĐGTS cũng
được Quốc Hội thông qua và có hiệu lực từ ngày 01/7/2017. Tuy nhiên kết quả

bán đấu giá tài sản trong THADS không mang lại hiệu quả như mong đợi.
Do vậy việc lựa chọn đề tài “Pháp luật bán đấu giá tài sản trong thi

hành án dân sự ở Việt Nam” có ý nghĩa không chỉ đối với hoạt động nghiên
cứu khoa học mà cịn cả trong thực tiễn cơng tác bán đấu giá tài sàn THADS.
Trên cơ sở đó, tìm ra những hạn chế, bất cập của pháp luật về hoạt động bán đấu

giá tài sản trong THADS và đưa ra những đề xuất, kiến nghị nhằm hoàn thiện hệ

thống pháp luật về bán đấu giá tài sản nói chung và bán đấu giá tài sản THADS
nói riêng.

2. Phạm vi và mục đích nghiên cứu
Trong khuôn khổ luận văn thạc sĩ, phạm vi nghiên cứu tập trung vào

những vấn đề lý luận về bán đấu giá tài sản THADS, thực tiễn áp dụng và nội

dung pháp luật được thực hiện trên cơ sở của pháp luật về bán đấu giá tài sản

trong THADS từ năm 1945, chủ yếu phân tích về pháp luật hiện hành.
Việc nghiên cứu có thể được thực hiện dưới nhiều góc độ khác nhau

như: là một hoạt động trong THADS, một trình tự, thủ tục trong THADS, một
3


quan hệ pháp luật trong THADS, một hệ thông các quy phạm pháp luật vê bán

đấu giá tài sản THADS. Tuy nhiên, trong luận văn chỉ tập trung vào những

vướng mắc, bất cập và những hạn chế cần khắc phục trong quy định của pháp
luật về bán đấu giá tài sản THADS ở Việt Nam.

Đe tài với mục đích phân tích và đánh giá thực trạng pháp luật và thực
tiễn áp dụng pháp luật về bán đấu giá tài sản THADS ở Việt Nam, phân tích

những điểm tích cực trong quy định pháp luật về bán đấu giá tài sản THADS,

trên cơ sở đó xác định được những hạn chế, bất cập trong pháp luật hiện hành,

từ đó đưa ra những giải pháp để tháo gỡ những vướng mắc còn tồn tại.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài

Để có thế đạt được mục đích đặt ra khi nghiên cứu đề tài, đòi hỏi luận
văn phải giải quyết những vấn đề sau:
Thứ nhất, phân tích các vấn đề về lý luận cơ bản của bán đấu giá tài sản


trong THADS.
Thứ hai, phân tích và đánh giá các quy định của pháp luật Việt Nam

hiện hành về bán đấu giá tài sản trong THADS.

Thứ ba, thực trạng thi hành pháp luật Việt Nam về bán đấu giá tài sản
trên toàn quốc. Trên cơ sở đó phân tích ngun nhân của thực trạng và đưa ra

các giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả bán đấu giá tài sản THADS
trên cả nước.

4. Đối tượng nghiên CÚ11

Đối tượng nghiên cứu của đề tài được xác định cụ thể là những quy định
của pháp luật về bán đấu giá tài sản trong THADS ở Việt Nam và thực tiễn áp

dụng các quy định của pháp luật về bán đấu giá tài sản THADS.
5. Phương pháp nghiên cún
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và tư tưởng Hồ Chí

Minh về nhà nước và pháp luật. Đường lối về quan điếm của Đảng và Nhà nước
4


ta vê cải cách hành chính và cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyên
xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

Ngồi ra, việc nghiên cứu cịn sử dụng tổng hợp các phương pháp
nghiên cứu khoa học truyền thống và hiện đại như phương pháp phân tích,

phương pháp tổng hợp, phương pháp quy nạp, phương pháp so sánh... để làm

sáng tỏ những vấn đề thuộc nội dung của đề tài cần nghiên cứu.

Một số phương pháp nghiên cứu chủ yếu được áp dụng như:
Phương pháp phân tích, phương pháp diễn giải: Nhũng phương pháp
này được sử dụng để làm rõ các quy định của pháp luật về bán đấu giá tài sản
nói chung và bán đấu giá tài sản THADS nói riêng.

Phương pháp đánh giá, phương pháp so sánh: Phương pháp đánh giá

được người viết vận dụng để đưa ra ý kiến nhận xét quy định của pháp luật hiện

hành có hợp lý hay khơng? Và so sánh pháp luật về đấu giá tài sản đã đồng bộ,

thống nhất chưa hoặc một số quy định tương ứng của pháp luật nước ngoài bằng
phương pháp so sánh.

Phương pháp quy nạp, phương pháp diễn dịch: Được vận dụng để triển
khai các vấn đề liên quan đến bán đấu giá tài sản trong THADS và các kiến nghị

nâng cao hiệu quả bán đấu giá tài sàn. Người viết đưa ra những kiến nghị mang
tính khái quát và dùng phương pháp diễn dịch để làm rõ nội dung những kiến

nghị đã nêu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Kết quả đạt được của luận văn nhằm sáng tỏ phương diện lý luận trong

khoa học pháp lý về vấn đề bán đấu giá tài sàn trong THADS ở Việt Nam. Cụ


thể là phân tích được thực trạng pháp luật điều chỉnh đối với vấn đề bán đấu giá

tài sản THADS, chỉ ra những khó khăn, bất cập của vấn đề này và đưa ra các
giải pháp, phương hướng đế hoàn thiện pháp luật về bán đấu giá tài sản trong
THADS.

5


Những giải pháp hồn thiện pháp luật cịn là cơ sở quan trọng đê các cơ
quan chức năng trong phạm vi, thẩm quyền của mình sửa đổi, bổ sung, hồn

thiện pháp luật trong lĩnh vực tương ứng. Ngoài ra, luận văn sẽ là tài liệu tham
khảo đối với đội ngũ giảng viên, sinh viên và các cán bộ đang làm cơng tác
THADS nói chung và Chấp hành viên trực tiếp thi hành vụ việc nói riêng.

7. Cơ cấu của luận văn
Ngồi lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính

của luận văn gồm 3 chương, cụ thể:
Chương 1: Những vấn đề lí luận về bán đấu giá tài sản thi hành án trong

thi hành án dân sự.
Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt nam về bán đấu giá tài sản trong

thi hành án dân sự.
Chương 3: Thực tiễn bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự ở Việt
Nam và kiến nghị.


6


CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐÈ LÝ LUẬN VÈ BÁN ĐÁU GIÁ TÀI
SẢN TRONG THI HÀNH ÁN DÂN sự

1.1. Khái quát về hoạt động bán đấu giá tài săn trong thi hành án

dân sụ*

1.1.1. Khái niệm bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự

Bán đấu giá tài sản là phương thức trao đổi tài sản được hình thành rất
lâu đời trên thế giới, mục đích cơ bản được hướng tới là nhằm đưa tài sản tiếp
cận tới lượng lớn người mua để phát huy cao nhất giá trị tài sản hoặc mục đích
khác mà người bán tài sản đấu giá mong muốn đạt được. Theo ghi chép của
những người Hy Lạp cổ đại thì từ khoảng 500 năm trước cơng ngun, hình

thức bán đấu giá đã xuất hiện tại Babylon với đối tượng mua bán là người phụ
nữ như một sự cưới hởi được tố chức hàng năm. Theo đó thì “Bất cứ người con
gái nào bị gả bán ngoài cuộc đấu giả đều là bất hợp pháp ” [31, tr.3]

Ở Việt Nam, tài sản THADS là loại tài sản đầu tiên được đưa ra đấu giá
được ghi nhận trong Luật Thương sự tố tụng để thi hành trong các Tòa Nam án

Bắc Kỳ năm 1934 [30, tr.27-35], những quy định về đấu giá tài sản THADS ở

Việt Nam được quy định trong Pháp lệnh THADS năm 1989, Pháp lệnh
THADS năm 1993 và tại các văn bản hướng dẫn thi hành. Đây cũng là những
văn bàn đầu tiên của nước ta quy định về hoạt động bán đấu giá nói chung.


Nếu trước đây bán đấu giá tài sản tương đối hiếm gặp thì hiện nay,
phương thức bán đấu giá tài sản được sử dụng như một phương thức mua bán

thơng thường, phổ biến trên tồn thế giới. Cùng với sự phát triển của thương
mại điện từ, bán đấu giá tài sản bàng hình thức trực tuyến ngày càng được nhiều
người biết đến. Việc bán đấu giá tài sản được tổ chức bằng các hình thức cơng
khai hoặc theo hồ sơ niêm phong, theo phương thức đấu giá lên hoặc đặt giá

xuống (điển hình là kiểu Hà Lan và kiểu Anh).

7


Theo hình thức cơng khai thì tài sàn được đăng bán với mức giá xác
định, người bán tiếp tục nâng mức giá lên so với mức giá cũ một khoảng nhất
định cho đến khi khơng cịn người nào đưa ra giá cao hơn thì người đưa ra mức

giá cao nhất là người thắng cuộc. Hình thức này thường được áp dụng nhiều đối

với các giao dịch hàng hóa, sản phẩm...
Theo hình thức niêm phong thì những người tham gia nộp giá mình
muốn mua tài sản cùng một lúc mà khơng biết giá của người khác. Thông

thường người trả giá cao nhất sẽ là người thắng cuộc và được sở hữu tài sản đó.

Tại Hà Lan, người bán đưa ra mức giá rất cao và rất ít khả năng có người mua

cho hàng hoá, sản phẩm muốn bán. Mức giá được hạ dần trong khoảng thời gian
nhất định và nếu giá tài sản hạ đến mức chấp nhận thì người tham gia trả giá cần


ấn nút chấp nhận mua hàng ngay nếu không sẽ mất cơ hội. Phương thức này
thường xuyên được áp dụng tại các chợ hoa và đặc biệt là với tài sản là hoa

tulip. Tại Anh thì bán đấu giá có nét đặc trưng riêng. Người bán đấu giá điều
khiển cuộc bán đấu giá sao cho người trả giá thắng được mức giá hiện tại. Giá
chào mới cao hơn giá chào cũ một khoảng cho trước. Cuộc bán đấu giá chấm

dứt khi khơng cịn người nào đưa ra mức giá cao hơn. Người trả giá hiện tại sẽ

thắng và trả số tiền theo mức giá đã chào [44, tr.120]. Kiểu bán này còn được
gọi là bán đấu giá mức thứ hai.

Ngày nay, với sự phát triển của khoa học cơng nghệ thì đấu giá ngược

điện tử là phương thức khá phổ biến đã được sử dụng phổ biến tại nhiều quốc
gia trên thế giới như: Chile, Brazil, Nga... và đang được phát triển tại Việt
Nam. Đây có thể coi là một loại hình đấu giá đặc biệt vì người trả giá thấp nhất

và duy nhất sau khi kết thúc mỗi phiên đấu giá thì sẽ trở thành người mua được

tài sản đấu giá. Theo phương thức này thì giá khởi điểm của bên bán đưa ra sẽ là

mức giá lớn nhất.

8


Với tính năng ưu việt của mình, có thê nói răng bán đâu giá tài sản đã


phát triển ngang với phương thức bán tài sản thông thường và không thể thiếu

trong phát triển thương mại, kinh doanh của thế giới.
Trong kinh tế học hiện đại, nhà kinh tế học người Anh - David w.
Pearce đã đưa ra định nghĩa: "Đấu giá là một thị trường trong đó người mua

tiềm tàng đặt giá cho tài sản chứ không phái đơn thuần trả giá theo công bố của

người bán” và thị trường đấu giá là “một thị trường có tơ chức, tại đỏ giá cả
được điều chỉnh liên tục theo biến đôi của cung và cầu” [20, tr. 102].

Tại Việt Nam, khái niệm bán đấu giá tài sản cũng được đưa ra trong
nhiều tài liệu khác nhau. Theo từ điển Luật học thì "Bán đẩu giá tài sản là hĩnh

thức bán cơng khai một tài sản, một khơi tài sản; theo đó có nhiêu người mn

mua tham gia trả giá, người trả giá cao nhất nhưng không thấp hơn giá khởi
điêm là người mua được tài sản” [51, tr.31]. Theo Đại từ điển Bách khoa Việt
Nam thì "Đấu giá là hình thức bán những tài sản hoặc tài sản thường thuộc

loại đắt tiền, hàng quỹ hiếm. Người bán đặt mức giá chuẩn, những người mua
trả giá từ thấp đến cao, tài sản được bán cho người mua trả cao nhất” [35,
tr. 136] cịn theo Luật Đấu giá tài sán năm 2016 thì "Đấu giá tài sản là hình thức

bán tài sản có từ hai người trở lên tham gia đấu giá theo nguyên tắc, trĩnh tự và
thủ tục được quy định theo Luật này” [42].
Có thể thấy rằng cà trên thế giới và tại Việt Nam đều tồn tại những quan

điểm, định nghĩa khác nhau về bán đấu giá tài sản. Mặc dù vẫn có sự khác biệt


giữa Việt Nam với thế giới về hình thức và phương thức bán đấu giá nhưng

điểm chung là đều coi bán đấu giá tài sản là q trình người có tài sản đưa tài
sản ra để đấu giá cơng khai theo trình tự, thủ tục luật định tại tổ chức đấu giá.
Phải có từ hai người trở lên tham gia đấu giá và người mua có thể tự do trả giá

dựa theo giá khởi điểm và được quyền mua tài sản đấu giá khi trả giá đáp ứng

nhũng quy định, điều kiện của phiên đấu giá đặt ra. Người có tài sản bán đấu giá

9


9

r

X

chuyên quyên sở hữu, sử dụng và bàn giao tài sản cho người trúng đâu giá theo
quy định pháp luật.
Trong hoạt động THADS, khi người được thi hành án làm đơn yêu cầu
người phải thi hành án phải thực hiện nghĩa vụ trả tiền theo Bản án, quyết định

của các chủ thể có thẩm quyền xét xử tới cơ quan Thi hành án dân sự thì khi hết

thời gian tự nguyện thi hành án, chấp hành viên xác minh tài sản của người phải
thi hành án. Nếu người phải thi hành án có tài sản nhưng khơng trả tiền cho
người được thi hành án thì chấp hành viên tiến hành kê biên tài sản để thi hành


án. Người được thi hành án và người phải thi hành án có quyền thỏa thuận với
nhau về việc nhận tài sản kê biên để thi hành án, nhưng nếu khơng thỏa thuận
được thì chấp hành viên căn cứ vào các quy định của pháp luật về loại tài sản,

giá trị của tài sản đó đế xác định có thực hiện phương thức đấu giá hay không.
Chấp hành viên căn cứ theo kết quả định giá tài sản đế tự đứng ra tổ chức bán
đấu giá hoặc ký hợp đồng với tố chức bán đấu giá tài sản chuyên nghiệp nhằm

bảo đảm thi hành bản án, quyết định của các chủ thể có thẩm quyền xét xử. về
bản chất, việc bán đấu giá tài sản trong THADS vẫn là một phương thức bán
tài sản đặc biệt, được tổ chức công khai tại một nơi nhất định và thực hiện theo




7













trình tự, thủ tục pháp luật quy định. Do chỉ có một người bán và nhiều người


muốn mua tài sản nên những người muốn mua tài sản sẽ cạnh tranh với nhau,
đẩy giá tài sản lên mức cao nhất có thể và người chủ sở hữu của tài sản sẽ thu

được số tiền cao nhất khi bán tài sản đó.
Có thê thây răng, bán đâu giá tài sản trong THADS là quá trình đưa tài

sản của người phải thi hành án đã bị kê biên đế bảo đảm thi hành án ra đấu giá
theo nguyên tắc, trình tự, thủ tục clo pháp luật về THADS và bản đấu giá quy

định. Người mua trả giá dựa trên giá khởi điểm, người nào trả giá cao nhất và
hợp lệ là người có quyền mua tài sản đấu giá.

10


Đặc
1.1.2.

diêm của bán đâu giá tài sản trong thi hành án dân sự

Thứ nhất, cơ sờ pháp lý đế thực hiện bán đấu giá tài sán THADS dựa

trên bản án, quyết định đã có hiệu lực thi hành của các chủ thể có thầm quyền
xét xử. Khi xảy ra tranh chấp liên quan đến nghĩa vụ thanh toán tiền, tải sản

được Tòa án, Trọng tài thương mại và một số cơ quan tài phán khác được giải
quyết bằng bản án, quyết định hay phán quyết có hiệu lực thi hành thì đây là cơ

sở pháp lý đế cơ quan THADS tiến hành thi hành án, đây là điểm đặc trưng của

bán đấu giá tài sản THADS.
Thứ hai, chủ sở hữu tài sản khơng là người có thâm quyền đưa tài sản

THADS ra bản đấu giá. trong bán đấu giá tài sản thơng thường thì người bán

đấu giá là người hoặc doanh nghiệp, tổ chức có tài sản chủ động mang tài sản,
hàng hố của mình tham gia đấu giá với mục đích thu được lợi nhuận tối đa từ
hàng hố, tài sản đó nên họ chủ động và tích cực để việc đấu giá nhanh chóng

thành cơng. Tuy nhiên, việc bán đấu giá tài sản trong THADS thì người yêu cầu
bán đấu giá có thể khơng phải là chủ sở hữu của tài sản bán đấu giá mà là Chấp

hành viên của cơ quan Thi hành án dân sự khi chủ sở hữu không tự nguyện hoặc

không tự bán được. Đây là yếu tố chi phối đến quá trình bán đấu giá và thực

hiện các trình tự, thủ tục bán đấu giá.

Khi tham gia bán đấu giá tài sản thi hành án, người được thi hành án
mong muốn việc bán đấu giá nhanh chóng và thành cơng để nhận được tài sàn

theo bản án, quyết định cùa các chủ thể có thẩm quyền xét xử. Bên cạnh đó,

người phái thi hành án thường mang tâm lý bị ép buộc, cương chế nên có tâm lý

chây ỳ, càn trở cho quá trình bán đấu giá tài sản. Dù đã bán đấu giá tài sản thành
công nhưng người phải thi hành án tìm cách cản trở, khơng bàn giao tài sản đã

bán đấu giá cho người trúng đấu giá.
Thứ ba, về hình thức, phương thức bán đấu giá. Trong bán đấu giá tài

sản thơng thường, hai bên có thể thoả thuận với nhau về hình thức thực hiện

(đấu giá trực tiếp bằng lời nói tại cuộc đấu giá; đấu giá bằng bở phiếu trực tiếp
11


tại cuộc đâu giá; đâu giá băng bỏ phiêu gián tiêp; đâu giá trực tuyên) và phương
thức đấu giá (phương thức trà giá lên; đặt giá xuống) miễn sao thoả thuận đó
tuân thủ theo đúng quy định của pháp luật và phải được quy định trong Quy chế

cuộc đấu giá và công bố công khai cho người tham gia đấu giá biết.
Trong bán đấu giá tài sản THADS, việc bán đấu giá tài sản với vai trị là

là một cơng đoạn trong cường chế thi hành án và người chủ sở hữu tài sản
(người phải thi hành án) thường có tâm lý bị ép buộc nên tìm mọi cách gây khó

khăn, cản trở, khiếu nại, tố cáo làm kéo dài thời gian thi hành án. Do vậy, mặc
dù việc bán đấu giá tài sản tại Việt Nam có nhiều hình thức và phương thức

nhung để giảm, tránh những mâu thuẫn phát sinh giữa các bên và những rủi ro
khi tố chức bán đấu giá tài sản thì thực tiễn việc bán đấu giá tài sản trong

THADS chỉ thực hiện theo hình thức đấu giá trực tiếp bằng lời nói hoặc đấu giá

bằng bỏ phiếu với phương thức trả giá lên.
Thứ tư, về tài sản bán đấu giá trong THADS.

Đối với tài sản bán đấu giá thơng thường, người bán có thể bán đấu giá
bất kỳ tài sản nào. Người bán tài sản chỉ đưa ra mức giá khởi điểm để người


mua tham khảo giá, còn giá bán thực tế do những người tham dự đấu giá tự xác
định trên cơ sở cạnh tranh giá với nhau.

Bán đấu giá tài sản trong THADS xuất phát từ việc đảm bảo nghĩa vụ

của người phải thi hành án theo quyết định, bản án của các chú thể có thẩm
quyền xét xử nên tài sản được mang ra bán đấu giá thường có giá trị tương

đương hoặc lớn hơn giá trị phải thi hành của bản án, quyết định chứ khơng phải

là bất kì tài sản nào của người phải thi hành án (trường hợp người phải thi hành
án có nhiều tài sản). Tài sản bán đấu giá phải được kê biên theo quy định của
Luật THADS và đây là điều kiện tiên quyết để làm căn cứ xử lý tài sản của
người phải thi hành án.

Thứ năm, việc bản đẩu giá tài sản trong THADS mang tính cưỡng bức

thực hiện theo trĩnh tự, thủ tục THADS và có sự phối hợp giữa các bên. Theo
12


đó, khi hêt thời gian tự nguyện thi hành án theo luật định, châp hành viên xác

minh tài sản của người phải thi hành án, nếu người phải thi hành án có tài sản,

đã hết thời hạn tự nguyện nhưng khơng tự nguyện thi hành thì cơ quan THADS
tiến hành cưỡng chế kê biên để bán đấu giá mà không phụ thuộc vào ý chí chủ

quan của người có tài sản. Cưỡng chế kê biên tài sản là hoạt động quan trọng
nhằm khôi phục và bảo vệ các quan hệ xã hội bị xâm hại. Qua việc cường chế

thi hành án, bản án, quyết định của các chủ thể có thẩm quyền xét xử đã có hiệu

lực pháp luật được bảo đảm thi hành một cách nghiêm minh theo quy định của

pháp luật.
Việc bán đấu giá tài sản trong THADS với sự tham gia của Chấp hành

viên (cơ quan THADS) và tổ chức bán đấu giá tài sản. Tuy nhiên, do tài sản bán
đấu giá trong THADS liên quan đến người sở hữu tài sản (người phải thi hành

án), người được thi hành án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc

bán đấu giá và người mua được tài sản bán đấu giá (nếu bán đấu giá thành), do
vậy việc bán đấu giá tài sản trong THADS có thể phát sinh vướng mắc từ khâu

thẩm định giá đến khi kết thúc việc đấu giá vẫn có thể xảy ra tranh chấp vì vậy
pháp luật quy định khá chặt chẽ về trình tự, thủ tục và sự phối hợp của các bên
tham gia trong quá trình bán đấu giá tài sàn THADS.

1.1.3.Vai trò của bán đấu giá tài sản trong thi hành án dãn sự
1.1.3.1.Bán đấu giá tài sán trong thi hành án dân sự là một biện pháp
cưỡng chế nhằm hảo đảm thi hành án dân sự
Trong hoạt động THADS, có nhiều hình thức để xử lý tài sản thi hành

án như tiêu hủy tài sản theo quyết định của bản án, giao cho cơ quan tài chính
bán tài sản sung công, bán tài sản không qua thủ tục đấu giá, bán đấu giá tài sản

để thi hành án. Bán đấu giá tài sản trong THADS là một trong những hình thức

xử lý tài sản để thi hành án, là một cơng đoạn trong q trình thực hiện cưỡng

chế THADS và được gọi là bán đấu giá tài sản đã kê biên để thi hành án. Bán

13


đâu giá tài sản trong THADS được thực hiện đê bảo đàm cho việc thi hành

nghĩa vụ trả tiền hoặc án phí, tiền phạt trong THADS.

Cưỡng chế thi hành án là biện pháp nghiêm khắc nhất mà chấp hành
viên và co quan Thi hành án dân sự áp dụng khi thi hành các bản án, quyết định

có hiệu lực pháp luật của các chủ thể có thẩm quyền xét xử. Đó chính là việc
chấp hành viên và cơ quan Thi hành án dân sự sử dụng quyền lực nhà nước

buộc đương sự phải thực hiện nghĩa vụ của mình nhàm đảm bảo tính nghiêm

minh của pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích họp pháp của các tổ chức, cá nhân.
1.1.3.2. Bán đẩu giá tài sản trong thi hành án dân sự giúp bảo đảm
quyền lợi của các bên trong quan hệ thi hành án dân sự

Với tính chất cơng khai, minh bạch, những người có nhu cầu mua tài sản

bán đấu giá được tự do tham gia đấu giá, được tiếp cận với tài sản như nhau và
trả giá theo giá trị mà họ định đoạt, khơng bị bó buộc bởi các điều kiện như

trong mua bán hàng hóa, tài sản thông thường. Người mua tài sản bán đấu giá
được chọn giá phù hợp với nhu cầu để trả giá (theo quy chế do tổ chức đấu giá

đặt ra).

Bán đấu giá tài sản trong THADS bảo đàm quyền lợi cho các bên tham

gia do không chỉ bào vệ lợi ích của người được thi hành án mà còn bảo vệ
quyền lợi cho người có tài sản đấu giá (người phải thi hành án). Với tính chất

cơng khai nên cuộc đấu giá được nhiều người biết và tham gia, do vậy, tài sản
bán được sẽ thu được giá trị cao nhất đảm bảo thực hiện bản án, quyết định của

các chủ thể có thấm quyền xét xử đà có hiệu lực pháp luật.
1.1.3.3. Đảm bảo tính khách quan việc bán tài sản thi hành án dân sự

Trước khi ban hành Pháp lệnh số 13/2004/PL-UBTVQH11 ngày

14/01/2004 của ủy ban thường vụ Quốc hội, việc bán tài sản trong THADS
thường do chấp hành viên của cơ quan THADS chủ trì tiến hành. Như vậy, nếu

chấp hành viên không vô tư, khách quan khi thi hành cơng vụ thì rất dễ dẫn đến

trường hợp thao túng, lạm quyền, cố ý làm sai trong cả quá trình tố chức thi
14


hành án. Nêu châp hành viên khơng có lập trường tư tưởng vững vàng, đạo đức
cơng vụ tốt cịn lợi dụng việc bán tài sản kê biên để đảm bảo thi hành án để đưa
người nhà, “quân xanh”, “quân đỏ” vào mua bán tài sản với mục đích thơng

đồng, dìm giá. Hoặc dù không lợi dụng việc bán tài sản để kiếm lợi ích thì với
mục tiêu nhanh chóng bán được tài sản, chấp hành viên chi cần có người mua

tài sản thì sẽ bán nên khơng có cuộc cạnh tranh về giá giữa những người mua.

Dan đến việc không bảo đảm được quyền lợi cả cho người phải thi hành án và
người được thi hành án.

Pháp luật THADS hiện hành đã quy định chặt chẽ việc bán tài sản đã kê
biên. Chấp hành viên chỉ được bán tài sản khơng qua thủ tục đấu giá với tài sản

có giá trị nhỏ (dưới 2.000.000 đồng) và tài sản tươi sống, mau hỏng. Nếu chấp

hành viên cố ý làm trái quy định thì sẽ bị xử lỷ theo quy định của pháp luật tùy
theo tính chất, mục đích và động cơ của hành vi vi phạm.

Với tính chất độc lập, bán đấu giá tài sản đảm bảo tính khách quan việc

bán tài sản trong THADS và là một thủ tục không tách rời nghiệp vụ THADS.

Nguyên
1.1.4.

tắc của bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự

Việc bán đấu giá tài sản trong THADS phái tuân thủ theo những nguyên
tắc nhất định để đảm bảo sự cạnh tranh công bằng và tính trung thực của mọi

cuộc đấu giá nhằm tránh những hành vi tiêu cực gây thiệt hại cho người phải thi
hành án, người được thi hành án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và

người mua được tài sản bán đấu giá.

Theo quy định tại Điều 3 Nghị định số 17/2010/NĐ-CP ngày 04 tháng 3
năm 2010 của Chính phủ về bán đấu giá tài sản và Luật Đấu giá tài sản thì các


nguyên tắc cơ bản của bán đấu giá tài sản trong THADS bao gồm:
- Nguyên tắc công khai, liên tục: Đe hạn chế tiêu cực trong bán đấu giá

tài sản nói chung và bán đấu giá tài sản trong THADS nói riêng thì q trình
diễn ra phải công khai và liên tục giữa các bên liên quan. Phải có sự đồng thuận,

thống nhất giữa người phải thi hành án và người được thi hành án từ quá trình
15


kê biên tài sản bán đâu giá, định giá tài sản và lựa chọn tô chức bán đâu giá.

Nếu đương sự khơng thỏa thuận được thì chấp hành viên lựa chọn tổ chức bán
đấu giá để ký hợp đồng dịch vụ bán đấu giá tài sản và công khai đơn vị đã chọn,
những thông tin về thời gian, địa điểm bán đấu giá, danh mục tài sản, số lượng

của tài sản...; nội quy bán đấu giá, tài sản bán đấu giá, hình thức, phương thức
bán đấu giá... phải được niêm yết công khai tại trụ sở đấu giá, nơi trưng bày tài
sản (nếu có), nơi tổ chức cuộc đấu giá; đối với bất động sản thì phải niêm yết tại

trụ sở của tổ chức đấu giá, nơi tổ chức cuộc đấu giá và ủy ban nhân dân cấp xã
nơi có bất động sản đấu giá tới đương sự và toàn thể những người đà đăng ký

mua tài sản đấu giá.

Tại phiên đấu giá, đấu giá viên điều hành cuộc đấu giá phải công khai

các mức giá được trả và họ tên người mua trả giá cao nhất của vòng đấu giá, nếu
vi phạm nguyên tắc này thì bất kỳ bên nào liên quan đến tài sàn đấu giá đều có

quyền yêu cầu dừng việc tổ chức đấu giá, húy hoặc khiếu nại kết quả bán đấu

giá do đấu giá viên vi phạm nguyên tắc cơ bản của bán đấu giá tài sản theo quy
định của pháp luật.

- Nguyên tắc khách quan: Nguyên tắc khách quan là nguyên tắc rất quan

trọng trong bán đấu giá tài sàn THADS. Nguyên tắc khách quan là việc cung
cấp nhận thức dựa trên những cơ sở thực tế, xuất phát từ chính bản thân đối
tượng, từ những thuộc tính và mối liên hệ vốn có của nó, từ những quy luật vận

động và phát triển của bản thân nó; khơng thể dựa vào ý muốn chủ quan hoặc

lấy ý chí chủ quan áp đặt cho thực tế, đồng thời không được cắt xén, không
được gán ghép cho sự vật, hiện tượng, những gì mà chúng vốn khơng có. Trong
bán đấu giá tài sản THADS, ngun tắc khách quan rất quan trọng trong bước
xác định giá trị khởi điểm của tài sản sao cho phù hợp với giá trị thực tế của tài
sản. Nếu xác định giá tài sản quá thấp sẽ gây thiệt hại cho người phải thi hành

án và cũng có thể gây thiệt hại cho cả người được thi hành án; nếu định giá tài
sản q cao sẽ khơng có người mua tài sản hoặc người mua trúng đấu giá tài sản
16


sẽ bị thiệt hại do giá trị không đúng làm phát sinh những tranh châp, khiêu nại
ảnh hưởng tới kết quả thi hành án.

- Nguyên tắc trung thực: Việc trung thực trong bán đấu giá tài sản thể
hiện thông qua việc công khai đầy đủ thông tin về buổi bán đấu giá (thời gian,


địa điểm, cách thức đăng ký, quy chế...), về tài sản với những giá trị, thuộc tính

với những khiếm khuyết của nó; tổ chức cho người tham gia đấu giá được trực
tiếp xem tài sản hoặc mẫu tài sản; về những giấy tờ liên quan đến tài sản bán

đấu giá... Ngoài ra, những người làm việc trong tổ chức đấu giá tài sản thực hiện

cuộc đấu giá, người trực tiếp giám định, định giá tài sản, chấp hành viên đang

thi hành bản án và cha, mẹ, vợ, chồng, con, anh ruột, chị ruột, em ruột của
những người này đều không được đăng ký tham gia đấu giá do việc tham gia

của họ có thể ảnh hưởng đến sự khách quan, trung thực của cuộc đấu giá.

Quy định tính trung thực cho mỗi cuộc bản đấu giá chính là nhằm bảo
vệ quyền lợi cho các bên tham gia đấu giá, nhất là trong các cuộc bán đấu giá

tài sản có giá trị lớn thì tính trung thực càng đóng vai trị quan trọng hơn.
Ngun tắc trung thực địi hỏi tất cả các chủ thê tham gia quan hệ đấu giá tài

sán đều phải tuân theo, không thê xảy ra tình trạng lừa lọc, dối trá với khách

hàng mà người bán tài sản và ngưởi tổ chức đấu giá tài sản móc ngoặc, thơng

đồng với nhau. Ngun tắc trung thực cịn đảm bảo cho khách hàng có sự n
tâm về tài sản mà mình lựa chọn [54, tr. 278, 279].
- Nguyên tắc bình đẳng: Nguyên tắc bình đắng được thế hiện qua việc

bất cứ cá nhân, tổ chức nào (trừ trường hợp vi phạm khoản 4, Điều 38 Luật Đấu
giá tài sản, hoặc người không được nhận chuyến nhượng quyền sử dụng đất, cho

thuê đất theo quy định của pháp luật về đất đai) cũng có quyền đăng ký tham gia

đấu giá, được cung cấp đầy đủ thông tin về cuộc bán đấu giá. Khi đăng ký tham
gia thì cá nhân, tổ chức đều phải nộp phí tham gia đấu giá và khoản tiền đặt
trước như nhau. Tại buổi đấu giá, mọi người đều có quyền tự do giá cả và người

điều hành buối đấu giá phải công khai mức giá được trả cao nhất, họ tên người
17


trả giá cao nhất theo mỗi bước giá. Người trả giá cao nhất và cuối cùng sẽ là
người mua được tài sán bán đấu giá, khơng có bất kỳ ngoại lệ cho nào để đảm

bảo bình đẳng cho các cá nhân, tổ chức tham gia đấu giá.
- Nguyên tắc bảo vệ quyền và lợi ích của các bên tham gia: Quyền và lợi

ích hợp pháp của các bên tham gia trong bán đấu giá tài sản THADS phải được
bảo vệ, coi trọng và đảm bảo ln được dung hịa. Người mua được tài sản đấu

giá sau khi thanh toán tiền cho tổ chức bán đấu giá thì được nhận tài sản, có
quyền sở hữu đối với tài sản đó và được thực hiện đầy đủ quyền theo thỏa thuận

trong hợp đồng bán đấu giá và theo quy định của pháp luật. Được cơ quan nhà
nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sờ hữu, quyền sử dụng tài sản

đấu giá trong mọi trường hợp dù người sở hữu tài sản chây ỳ, không chịu bàn
giao tài sản và giấy tờ sở hữu tài sàn. số tiền bán tài sản được tố chức đấu giá

chuyến lại cơ quan THADS sau khi thanh tốn các khoản phí và chi phí bán đấu
giá tài sản. Cơ quan THADS thi hành đầy đủ bản án, quyết định đã có hiệu lực


pháp luật của các chủ thể có thẩm quyền xét xử là chi trả cho người được thi
hành án, khấu trừ chi phí tổ chức cưỡng chế thi hành án và chuyển số tiền cịn

lại cho người phải thi hành án (người có tài sản đã bán đấu giá). Nguyên tắc bảo
vệ quyền và lợi ích của các bên khơng thể tách rời với các quy định về quyền và

nghĩa vụ khi tham gia quan hệ bán đấu giá tài sàn giữa các bên.
- Cuộc đấu giá phải do đấu giá viên điều hành: Là nguyên tắc được quy

định tại Luật Đấu giá tài sản (khoản 4 Điều 6). Theo nguyên tắc này thì hầu hết
các phiên bán đấu giá tài sản thi hành án đều phải do đấu giá viên (có đủ tiêu

chuẩn, điều kiện, năng lực bán đấu giá tài sản) điều hành theo đúng trình tự, thủ
tục quy định theo pháp luật về bán đấu giá tài sản thì phiên đấu giá mới được
pháp luật công nhận. Nếu đấu giá viên khơng đủ tiêu chuẩn, điều kiện thì đương
nhiên phiên đấu giá sẽ bị hủy, quyền và nghĩa vụ của các bên sẽ khơng được
thiết lập. Bên có lỗi trong việc để tình trạng này xảy ra thì phải bồi thường thiệt

hại cho người trúng đấu giá nhưng không mua được tài sản đấu giá.
18


Trong quan hệ THADS, châp hành viên đang được phân công thi hành

bản án, quyết định của các chủ thề có thẩm quyền xét xử đã có hiệu lực pháp
luật cũng có thể bán đấu giá tài sản của người phái thi hành án nếu nơi cỏ tài sản
chưa có tổ chức bán đấu giá hoặc có nhưng tổ chức bán đấu giá từ chối ký họp

đồng bán đấu giá tài sản hoặc tài sản là động sản có giá trị thấp dưới 10.000.000


đồng. Khi thực hiện bán đấu giá thì chấp hành viên cũng phải tuân thủ các quy
định về trình tự, thủ tục đấu giá tài sản theo quy định của pháp luật.


1.2.

sở pháp luật của bán đấu giá tài sản thi hành án dân sự

1.2.1. Cơ sở lỷ luận của bán đẩu giá tài sản trong thi hành án dân sự
Pháp luật về bán đấu giá tài sản trong THADS là hệ thống các quy phạm

pháp luật điều chỉnh lĩnh vực bán đấu giá trong THADS về những nguyên tắc,

trình tự, thủ tục theo quy định của Nhà nước. Bán đấu giá tài sản trong THADS
là hình thức mua bán đặt biệt, công khai đối với tài sản bị kê biên đế bảo đảm

thi hành án theo quy định của pháp luật với những đặc điểm sau đây:

Thứ nhất, đê bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong bán
đấu giá tài sán THADS.
Bán đấu giá tài sản trong THADS là sự liên quan mật thiết giữa các bên

đương sự nên pháp luật phải quy định cụ thể về nghĩa vụ của các bên để nâng
cao trách nhiệm của tổ chức bán đấu giá và chấp hành viên, ngồi ra cịn bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp cùa người phải thi hành án, người được thi hành án,

những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người mua được tài sản bán

đấu giá. Bên cạnh đó, phải ln có pháp luật để ngăn ngừa, xử lý kịp thời các

hiện tượng tiêu cực xảy ra xuyên suốt quá trình bán đấu giá tài sản.

Thứ hai, xuất phát từ yêu cầu thê chế ho á chủ trương, đường lối của

Đảng về hoàn thiện hệ thống pháp luật và cải cách tư pháp.
Với mục tiêu hoàn thiện hệ thống pháp luật, cải cách hành chính và cải

cách tư pháp không chỉ đảm bảo cho Nhà nước đủ pháp luật để quản lý xã hội,

tạo môi trường ổn định cho sự phát triển kinh tế mà còn tham gia hội nhập quốc
19


tê trên nhiêu lĩnh vực, hệ thông văn bản quy phạm pháp luật đà được đôi mới vê

cơ bản với nhiều bộ luật, Nghị định quan trọng đã được ban hành. Nhưng với sự

thay đồi về tính chất của các quan hệ xã hội thì các văn bản pháp luật phải
thường xuyên rà soát, sửa đồi để phù hợp các văn bản pháp luật đã ban hành
phải đồng bộ với hệ thống pháp luật, chương trình xây dựng luật, pháp lệnh phải

đồng bộ với Hiến pháp. Theo Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ
Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đà xác định rõ:

Hoàn thiện chính sách, pháp luật hình sự và dân sự phù hợp với nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhà nước pháp quyền

xã hội chủ nghía Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; hoàn thiện
các thủ tục tố tụng tư pháp, bảo đảm tính đồng bộ, dân chủ, cơng khai, minh


bạch, tôn trọng và bảo vệ quyền con người... [4]
Mặc dù Nghị quyết của Đảng chỉ đề cập đến một số hoạt động bổ trợ tư
pháp như: Luật sư, giám định tư pháp, công chứng, lực lượng cảnh sát hỗ trợ tư

pháp chính quy, thừa phát lại (thừa hành viên) nhưng có chỉ rõ ‘'xảy dựng các
chế định bơ trợ tư pháp đủ mạnh, đáp ứng kịp với tình hình,... từng bước xã hội
hố các hoạt động bơ trợ tư pháp ”. Hiện nay, một trong những hoạt động bổ trợ
thường xuyên trong công tác thi hành án dân sự và xử lý vi phạm hành chính

chính là hoạt động bán đấu giá tài sàn. Hoạt động bán đấu giá tài sản khơng chỉ

góp phần trong việc thực hiện nhiệm vụ quản lý của cơ quan hành chính nhà

nước mà cả hoạt động giải quyết các vụ việc cùa cơ quan tư pháp (Cơ quan
THADS) cũng được giải quyết nhanh chóng, cơng khai, minh bạch, khách quan
bào đảm quyền, lợi ích họp pháp của cá nhân, tổ chức khi tham gia giao dịch,

thúc đẩy các quan hệ dân sự phát triển lành mạnh, đem lại những lợi ích cao

nhất.
Thứ ba, pháp luật về bán đấu giá tài sản trong THADS tạo cơ sở pháp lỹ

đê phát huy hết hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý nhà nước đối với hoạt

động này.
20


Chúng ta đêu biêt, những quy định cúa pháp luật có ảnh hưởng rât cao
đến hiệu lực, hiệu quà của cơng tác quản lỷ nhà nước đối với tồn bộ các mặt


của đời sống xã hội. Các quy định của pháp luật càng đầy đủ, rõ ràng, đồng bộ

thì hiệu lực và hiệu quả của công tác quản lý nhà nước ngày càng cao. Do vậy,
để nâng cao hiệu lực, hiệu quả thi Nhà nước phải ln ln hồn thiện hệ thống

pháp luật và như một tất yếu, Luật Đấu giá tài sản ra đời và quy định về bán đấu

giá tài sản trong THADS ngày càng đầy đủ.
Pháp lệnh THADS năm 1989 có một số quy định về bán đấu giá tài sản

đó là Bán đấu đấu giá tài sản đã kê biên và Bán đấu giá nhà. Với tính năng ưu

việt của mình, bán đấu giá tài sản được nhìn nhận là phương pháp quan trọng

trong việc bán đấu giá tài sản kê biên đế đảm bảo THADS. Do đó, phương pháp
này tiếp tục được quy định trong Bộ luật Dân sự, Luật THADS, Luật Đấu giá tài
sán và Nghị định 62/2017/NĐ-CP ngày 16/5/2017 và Nghị định số

33/2020/NĐ-CP ngày 17/32020. Từ những cơ sở quy định ban đầu, những quy

định để điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong hoạt động bán đấu giá tài sản
trong THADS đã được qưy định khá đầy đủ.
Luật Đấu giá tài sản quy định rõ tài sản đấu giá là tài sản mà pháp luật
phải thông qua đấu giá và tài sản thuộc sỡ hữu của cá nhân, tổ chức tự nguyện
lựa chọn bán thơng qua đấu giá. Đe đảm bảo tính công khai, minh bạch, Luật

liệt kê chi tiết các loại tài phải bán thông qua thủ tục đấu giá, trên cơ sở rà soát

quy định theo pháp luật chuyên ngành để các cơ quan, tổ chức, cá nhân tuân thú

thủ tục, trình tự theo Luật Đấu giá tài sản khi bán đấu giá thì có tài sản thi hành

án theo quy định của Luật THADS. Thực tế thực hiện theo các quy định của
pháp luật bán đấu giá tài sản và pháp luật THADS cho thấy, việc bán đấu giá tài

sản trong THADS phát huy nhiều ưu điểm, tránh được sự lạm quyền, tiêu cực
khi chấp hành viên tiến hành bán tài sản cưỡng chế kê biên, giúp cơ quan

THADS bán được hầu hết tài sản và bán được tài sản với giá cao nhất, bảo đảm
quyền lợi cho các bên liên quan trong bán đấu giá tài sản thi hành án.
21


1.2.2.Co' sở thực tiên
Thực tế cho thấy, việc Chấp hành viên cương chế tài sản là vật thường
diễn ra và được coi là một biện pháp nghiệp vụ quan trọng, chủ yếu khi người

phải thi hành án có tài sản nhưng khơng tự nguyện để thi hành nghĩa vụ của

mình. Hiệu quả của việc thi hành án đạt được chỉ khi tài sản bị kê biên, cương
chế được bán thành công. Nhưng hoạt động bán đấu giá tài sản trong THADS

nếu đế chấp hành viên tự kê biên, sau đó tự bán tài sản đã kê biên, cường chế thì

sẽ dẫn đến một số hậu quả tiêu cực không thể khắc phục.
Thứ nhất, không đảm bảo được quyền lợi cùa các bên trong quan hệ
mua - bán tài sản thi hành án.

Chấp hành viên thường mong muốn bán được tài sản đã cưỡng chế kê
biên, mà không mấy quan tâm đến giá của tài sản bán được nên nhiều trường


hợp tài sản được bán không đúng với giá trị thực của nó, ảnh hưởng đến quyền

lợi của các bên nhưng cũng khơng có cơ sở để đối chiếu, kiếm chứng.
Thứ hai, Chấp hành viên dễ lạm quyền trong thi hành công vụ.
Do chấp hành viên vừa là người kê biên cưỡng chế, vừa là người bán tài

sản nên nếu người phái thi hành án có nhiều tài sản thì chấp hành viên có thề
tùy ý kê biên một tài sản, dù tài sản đấy có giá trị khơng phù hợp với khoản mà
người phải thi hành án phải thi hành hay thích bán tài sản theo phương thức nào

thì bán. Chưa kể đến việc thông đồng với người mua tài sản dìm giá tài sản để

trục lợi hay cấu kết với người phải thi hành án tìm cách khơng bán được tài sản.
Nếu chấp hành viên có quá nhiều quyền trong tay dễ dẫn đến đạo đức công vụ

bi ảnh hưởng, theo đó thì quyền lợi của các bên tham gia mua bán tài sàn trong
THADS cũng không được bảo đảm.

Thứ ba, những tài sản có giá trị lớn sẽ khó bán.
Dù thơng báo cơng khai tại lãnh thổ hành chính của cơ quan THADS

nhung khơng phải người dân nào cũng có đủ khả năng để mua những tài sản có

giá trị lớn. Nhiều người ở tỉnh, thành phố khác có nhu cầu mua nhưng khơng
22


×