Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của viện kiểm sát trong tiếp nhận và kiểm sát nguồn tin về tội phạm theo luật tố tụng hình sự việt nam (trên cơ sở thực tiễn tại tỉnh hà giang)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (23.47 MB, 94 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tơi. Các

kết quả nêu trong Luận văn chưa được công hố trong hất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, vỉ dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tỉnh chỉnh xác,
tin cậy và trung thực, khoa học. Đồng thời tôi xin chịu trách nhiệm về nội

dung khoa học của luận văn. Tỏi đã hồn thành tất cả các mơn học và đã
thanh tốn tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa luật Đại học

quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị khoa luật xem xét để tơi có thể
hảo vệ Luận văn.

Tơi xin chân thành cảm ơn!

NGƯỜI CAM ĐOAN

Quan Thị Tuyến


MỤC LỤC
Trang

Trang phụ bìa

Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt

MỞ ĐẦU............................................................................................................. 1


CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA
Bộ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH sự NÃM 2015 VÈ NHIỆM

vụ, QUYỀN HẠN VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA VIỆN KIẺM

SÁT TRONG TIẾP NHẬN VÀ KIỂM SÁT NGUỒN TIN
VÈ TỘI PHẠM.................................................................................... 8

1.1.

Một số vấn đề lý luận........................................................................... 8

1.1.1.

Đổi tượng, phạm vi và nội dung của kiểm sát hoạt động tư pháp.......... 11

1.1.2.

Ý nghĩa, vai trò của kiểm sát hoạt động tư pháp................................ 14

1.2.

Quy định của BLTTHS năm 2015 về nhiệm vụ, quyền hạn và

trách nhiệm của Viện kiếm sát trong tiếp nhận và kiểm sát
nguồn tin về tội phạm........................................................................ 18

1.2.1.

Khái niệm và các nguồn tin về tội phạm............................................18


1.2.2.

Khái niệm hoạt động kiểm sát nguồn tin về tội phạm........................24

1.2.3.

Đặc điếm thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát


ĩ



• 7





i



trong tiếp nhận và kiểm sát nguồn tin về tội phạm............................ 28
1.3.

Trình tự, thủ tục trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của



7



CT









• 7

>

•/



Viện kiểm sát trong tiếp nhận và kiểm sát nguồn tin về tội phạm ... 30
1.3.1.

Kiểm sát việc tiếp nhận nguồn tin về tội phạm....................................30

1.3.2.

Kiểm sát việc giải quyết nguồn tin về tội phạm.................................35


1.3.3.

Kiểm sát kết quả giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm.................... 38

Kết luận chương 1........................................................................................... 40


CHƯƠNG 2: THựC TRẠNG THựC HIỆN NHIỆM vụ, QUYỀN
HẠN VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA VIỆN KIẾM SÁT TRONG

TIẾP NHẬN VÀ KIÉM SÁT NGUỒN TIN VÈ TỘI PHẠM

TÙ THỤC TIỄN TỈNH HÀ GIANG.............................................. 41

2.1.

Tình hình tiếp nhận và kiểm sát nguồn tin về tội phạm............... 41

2.2.

Thực
hạn
• tiễn thực
• hiện
• nhiệm
• vụ,
• 7 quyền
±
• của Viện

• kiểm sát
trong việc tiếp nhận, kiểm sát tiếp nhận nguồn tin về tội phạm.... 43

2.2.1.

Thực hành quyền công tố trong việc tiếp nhận và kiểm sát nguồn
tin về tội phạm..................................................................................... 43

2.2.2.

Thực hiện kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc tiếp nhận,

giải quyết nguồn tin về tội phạm.......................................................... 47
2.3.

Những kết quả đạt được và nguyên nhân....................................... 53

2.3.1.

Những kết quả đạt được....................................................................... 53

2.3.2.

Nguyên nhân của những kết quả đạt được......................................... 56

2.4.

Một số hạn chế, tồn tại, nguyên nhân trong công tác thực
hành quyền công tố và kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết


nguồn tin về tội phạm......................................................................... 57

2.4.1.

Những hạn chế, bất cập........................................................................ 57

2.4.2.

Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế............................................ 64

Kết luận chương 2........................................................................................... 67

CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỤC HIỆN

NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN, TRÁCH NHIỆM CỦA VIỆN
KIẺM SÁT TRONG CÔNG TÁC TIẾP NHẬN, KIỂM SÁT
NGUỒN TIN VÈ TỘI PHẠM.......................................................... 68

3.1.

Dự báo những yếu tố ành hưởng đến việc thực hiện tiếp nhận
và kiểm sát việc tiếp nhận nguồn tin về tội phạm từ thực tiễn

tỉnh Hà Giang..................................................................................... 68

3.1.1.

về tình hình kinh tế, chính trị, xã hội trên địa bàn tỉnh Hà Giang....... 68

3.1.2.


về tình hình tội phạm trên địa bàn tỉnh Hà Giang............................ 69


3.2.

Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác kiêm sát việc tiêp nhận
nguồn tin về tội phạm........................................................................ 71

3.2.1.

Kiến nghị hoàn thiện cơ sở pháp lý để thực hiện tốt công tác tiếp
nhận và kiểm sát nguồn tin về tội phạm............................................. 71

3.2.2.

Giải pháp nâng cao công tác tồ chức, chỉ đạo điều hành..................74

3.2.3.

Giải pháp về công tác cán bộ, xây dựng cơ sở vật chất.................... 76

3.2.4.

Giải pháp về tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa cơ quan

điều tra và Viện kiểm sát.....................................................................78

3.2.5.


Tăng cường giám sát đối với hoạt động của Viện kiểm sát............... 80

Kết luận chương 3........................................................................................... 82

KẾT LUẬN.......................................................................................................83
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................... 86


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLTTHS:

Bộ luật tố tụng hình sự

CQĐT:

Cơ quan điều tra

TTHS:

Tố tụng hình sự

TTLT:

Thơng tư liên tịch

VKS:

Viên
• kiểm sát



MỞ ĐÀU
1. Tính câp thiêt của đê tài

Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã trao quyền

năng pháp lý cho cơ quan duy nhất có chức năng, nhiệm vụ thực hành quyền
công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong tố tụng hình sự đó là Viện kiểm

sát. Viện kiếm sát thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình kiếm sát tính hợp
pháp,tính có căn cứ của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân
trong hoạt động tư pháp. Bảo đảm mọi cho pháp chế xã hội chủ nghĩa được

thực hiện nghiêm chỉnh, thống nhất, đồng thời mọi hành vi phạm tội đều phải
được phát hiện, xử lý, khơng bị lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.
Viện kiểm sát thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp từ giai

đoạn tiếp nhận nguồn tin về tội phạm đến khi điều tra, truy tố, xét xử, thi hành
án bản án không bị kháng nghị.

Tiếp nhận, kiểm sát nguồn tin về tội phạm là hoạt động tố tụng đầu

tiên, mở đầu cho q trình thực hành chức năng cơng tố và kiểm sát hoạt động
tư pháp của Viện kiểm sát. Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Viện
kiểm sát trong giai đoạn này là hết sức quan trọng.
Đây là hoạt động mở đầu của quá trình giải quyết vụ án hình sự, là căn

cứ đế kịp thời phát hiện hành vi phạm tội xảy ra, xác định có hay khơng có
dấu hiệu tội phạm để xem xét, quyết định việc khởi tố hay khơng khởi tố vụ

án hình sự. Chỉ thị số 06/CT-VKSTC ngày 06/12/2013 của Viện trưởng Viện

kiếm sát nhân dân tối cao về “Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt
động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra đáp ứng yêu cầu đấu tranh

phòng chống tội phạm" chỉ rõ: Viện kiểm sát các cấp phải kiểm sát chặt chẽ
việc tiếp nhận, giải quyết đối với toàn bộ tố giác, tin báo về tội phạm và kiến

nghị khởi tố cúa Cơ quan điều tra và các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến

1


hành một số hoạt động điều tra, nhằm chống bỏ lọt tội phạm, chống làm oan

người không phạm tội ngay từ đầu. Như vậy, có thể khẳng định hoạt động
kiếm sát tố giác, tin báo về tội phạm của Viện kiếm sát có vị trí, vai trị và ý

nghĩa tiên quyết đế đảm bảo mọi hành vi phạm tội, người phạm tội được phát
hiện và xử lý kịp thời và đúng pháp luật, đây là một hoạt động không thể
thiếu trong tố tụng hình sự. Thực tiễn Thực hành quyền công tố cho thấy, nếu
kiềm sát tốt nguồn tin về tội phạm thì sẽ giúp cho việc đồng ý hoặc hủy bỏ
các quyết định khởi tố hay không khởi tố của Viện kiểm sát đổi với Cơ quan

điều tra chính xác và có căn cứ, đồng thời quyết định chất lượng Thực hành
quyền công tố kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử và Cáo trạng truy tố đảm bảo

xừ lý theo đúng quy định của pháp luật, tránh làm oan, sai và bỏ lọt tội phạm.

BLTTHS năm 2015 đã quy định VKS thực hành quyền công tố và kiểm

sát việc giải quyết nguồn tin về tội phạm với 11 điều luật cụ thể và 40 điều
khoản sửa đối, bố sung xác định rõ thẩm quyền và trách nhiệm của từng cơ

quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng cũng như cơ quan, tổ chức,
cá nhân tham gia tố tụng. Theo đó, VKS chuyển từ nhiệm vụ kiểm sát (mang
tính thụ động) sang thực hành quyền cơng tố và kiểm sát (mang tính chủ

động, tích cực, gắn và đồng hành với hoạt động của CQĐT). Có thể nói đây là
bước chuyền căn bản trong tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm, góp

phần quan trọng vào việc chống oan, sai và bỏ lọt tội phạm. Nhưng thực tiễn

cũng cho thấy việc thực hiện nhiệm vụ kiểm sát giải quyết nguồn tin về tội
phạm của Viện kiểm sát vẫn còn tồn tại một số hạn chế. Do vậy, việc phân
tích làm rỗ quy định của BLTTHS và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân về
nhiệm vụ quyền hạn và trách nhiệm cùa Viện kiểm sát trong việc tiếp nhận và

kiểm sát nguồn tin về tội phạm có ý nghĩa rất lớn đối với cơng tác kiểm sát

Xuất phát từ tầm quan trọng nêu trên của công tác thực hành quyền

công tố trong tiếp nhận và kiểm sát nguồn tin về về tội phạm và đồng thời bản

2


thân tác giả đang cơng tác tại bộ phận hình sự của đơn vị Viện kiêm sát nhân
dân huyện Quang Bình, tỉnh Hà Giang, đã được trải qua quá trình thực tiễn

thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn tại địa phương do đó đã lựa chọn đề tài

"Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Viện kiểm sát trong tiếp nhận và

kiểm sát nguồn tin về tội phạm theo luật to tụng hĩnh sự Việt Nam (trên cơ
sở thực tiễn tại tỉnh Hà Giang)” làm đề tài luận văn Thạc sĩ Luật học.
2. Mục tiêu nghiên cứu

2.1. Mục tiêu nghiên cún tống quát

Với đề tài nghiên cứu áp dụng pháp luật, mục tiêu cùa việc nghiên cứu
là phân tích làm rõ các quy định của pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn và

trách nhiệm của Viện kiếm sát nhân dân trong tiếp nhận và kiếm sát nguồn tin
về tội phạm dưới khía cạnh của luật TTHS và thực tiễn thực hiện nhiệm vụ,


JL











•••-'

quyền hạn và trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Giang. Từ đó


luận văn đưa ra những giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả
trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiếm sát.

2.2. Mục tiêu nghiên cún cụ thể
Luận văn tập trung giải quyết các vấn đề sau:
+ Phân tích làm rõ những vấn đề lý luận và các quy định cùa Luật

TTHS về chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Viện kiểm sát trong việc tiếp

nhận nguồn tin tội phạm và kiếm sát nguồn tin về tội phạm.
+ Đánh giá thực trạng Viện kiểm sát thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn
trong việc tiếp nhận và kiểm sát nguồn tin về tội phạm, trên cơ sở thực tiễn

hoạt động thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn này tại tỉnh Hà Giang từ giai đoạn

2015 đến năm 2020.
3. Tình hình nghiên cứu của đề tài

Đã có nhiều cơng trình nghiên cửu về đề tài tố giác, tin báo, tội phạm.

Công tác kiếm sát việc tiếp nhận, giải quyết tin báo về tội phạm (gọi chung là

3


ngn tin vê tội phạm) dưới các góc độ khác nhau như: Luận văn thạc sỹ luật
học của tác giả Dương Tiến Mạnh với đề tài Kiểm sát việc giải quyết tin báo,

tố giác về tội phạm trong luật tố tụng hình sự Việt Nam (Hà Nội - 2015);


Luận văn thạc sĩ Luật học của tác giả Trương Văn Chung với đề tài Tổ giác,

tin báo về tội phạm theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiền tỉnh
Hậu Giang (Hà Nội- 2015).

Các cơng trình ở dạng bài viết như: Vai trò, trách nhiệm của Viện kiểm
sát trong giải quyết tin báo, tố giác tội phạm thực trạng và một số giải pháp
của tác giả Nông Xuân Trường thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao ngày

09/5/2014; Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác
kiếm sát việc giải quyết tổ giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố cùa
tác giả Lưu Trọng Nguyên, tạp chí kiểm sát số 12/2009; Một số điểm mới cúa

Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định về thực hành quyền công tố trong
giai đoạn điều tra vụ án hình sự của tác giả Hồng Đình Đắc - Viện kiểm sát
nhân dân huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc nẫm 2017.

Như vậy việc nghiên cứu công tác kiểm sát nguồn tin về tội phạm

không phải mới. Các cơng trình nói trên đã nghiên cứu ở khía cạnh tống quát
phân tích quy định của pháp luật tố tụng hình sự về tiếp nhận và kiểm sát việc
tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm. Tuy nhiên, từ góc độ thực tiễn áp

dụng pháp luật ở địa phương như Hà Giang thì chưa có cơng trình nào nghiên
cứu chuyên sâu một cách đầy đủ và có hệ thống về những kết quả đã đạt được

cũng như những vướng mắc trong q trình thực hiện cơng tác kiểm sát
nguồn tin về tội phạm tại địa bàn tỉnh Hà Giang để từ đó đưa ra giải pháp


nâng cao hiệu quả công tác tiếp nhận và kiểm sát việc tiếp nhận giải quyết
nguồn tin về tội phạm.
Ket quả nghiên cứu của đề tài luận văn cỏ ý nghĩa quan trọng về phương

4


diện lí luận và thực tiễn áp dụng pháp luật liên quan đến chức năng của Viện

kiểm sát trong việc tiếp nhận và kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết nguồn tin
về tội phạm. Làm rõ hạn chế tồn tại trong các quy định của pháp luật thực
định về thực hiện các nhiệm vụ quyền hạn kiểm sát trong việc tiếp nhận và
kiểm sát việc giải quyết nguồn tin về tội phạm để từ đó có những đề xuất giải

pháp nâng cao hiệu quả thực hiện trong thực tiễn.
Luận văn cũng được sử dụng là nguồn tài liệu nghiên cứu, tham khảo
phục vụ công tác thực tiễn ở địa phương. Luận văn được kết cấu bao gồm 03

chương cơ bản như sau:
+ Chương 1: Những vấn đề lý luận và quy định của BLTTHS năm

2015 về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm cùa Viện kiểm sát.
+ Chương 2: Thực tiễn thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm
9

r

9

>


>

của Viện kiêm sát trong việc tiêp nhận và kiêm sát nguôn tin vê tội phạm từ

thực tiễn tỉnh Hà Giang.
+ Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện công tác kiêm sát

tiếp nhận và kiểm sát nguồn tin về tội phạm.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài

4.1. Đôi tượng nghiên cún
Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận, quy định của

pháp luật TTHS, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân và thực trạng áp dụng
quy định của pháp luật vê hoạt động tiêp nhận nguôn tin vê tội phạm và thực
hiện chức năng kiếm sát nguồn tin về tội phạm.

4.2. Phạm vi nghiên cún
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là các quy định của BLHS năm 2015 và

Luật tồ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 về chức năng, nhiệm vụ của
Viện kiểm sát trong việc tiếp nhận và kiểm sát nguồn tin về tội phạm.
Vì một trong những mục đích yêu cầu của đề tài là thực tiễn pháp luật

5


tại một địa phương do vậy đề tài nghiên cứu thực tiễn thực hiện công tác tiếp


nhận và kiểm sát nguồn tin về tội phạm trong 5 năm (từ 2015 đến 2019) trên
địa bàn tỉnh Hà Giang.
5. Nội dung, địa điểm và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chù nghĩa
Mác-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, quan điểm của

Đảng và Nhà nước ta đối với nhiệm vụ, quyền hạn trong việc tiếp nhận và
kiểm sát nguồn tin về tội phạm.
Trong quá trình nghiên cứu sử dụng các phương pháp: Phân tích, tổng

hợp, so sánh, diễn dịch, quy nạp, thống kê các phương pháp này ln hỗ trợ

nhau trong q trình thực hiện nhiệm vụ đế làm rõ những vấn đề thuộc đối

tượng, phạm vi nghiên cứu đề tài.

5.2. Địa điểm nghiên cứu

Địa điểm nghiên cứu là địa bàn tỉnh Hà Giang vị trí địa lý nằm ở phía
đơng bắc của đất nước Việt Nam. Hà Giang có đường biên giới trên đất liền
giáp với các tỉnh Vân Nam và Quảng Tây của Trung Quốc với chiều dài
đường biên giới 274km. Điều kiện tự nhiên vơ cùng khó khăn, giao thơng đi

lại cịn nhiều hạn chế, trình độ hiểu biết pháp luật của người dân còn lạc hậu,

với 22 dân tộc anh em sinh sống trên địa bàn tỉnh, tình hình phát triển kinh tế
khó khăn, chênh lệch lớn giữa miền ngược và miền xuôi,đời sống của người


dân chủ yếu dựa vào nên kinh tế nông lâm nghiệp.

Với điều kiện tự nhiên và sự phát triển kinh tế xã hội cịn nhiều khó








i

khăn, trình độ hiểu biết nhận thức của người dân cịn nhiều hạn chế do đó việc

phát sinh tội phạm trên địa bàn tỉnh ngày càng gia tăng. Từ những điều kiện

phát sinh tội phạm như vậy các cơ quan tiến hành tố tụng đặc biệt là Cơ quan

6


điều tra và Viện kiểm sát luôn chủ động thường xuyên nắm địa bàn, kịp thời
phát hiện những tội phạm cũng như tiếp nhận nguồn tin tội phạm để kịp thời
xử lý, giải quyết. Từ thực tiễn cho thấy việc nghiên cứu đề tài có tầm quan
trọng trong việc giải quyết nguồn tin về tội phạm, đặc biệt đối với một tỉnh

miền núi nơi cực Bắc của tổ quốc đang trên con đường phát triển, hội nhập,
thì tội phạm ngày càng manh động, tinh vi và diễn biến khó lường.


7


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐÈ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT
TĨ TỤNG HÌNH sụ NĂM 2015 VÈ NHIỆM vụ, QUYÈN HẠN
VÀ TRÁCH NHIỆM
CỦA VIỆN

• KIỂM SÁT TRONG TIẾP NHẬN
• VÀ

KIẺM SÁT NGUỒN TIN VÈ TỘI PHẠM
1.1. Một số vấn đề lý luận

Theo Hiến pháp năm 1959 quyền tư pháp được hiếu là bảo vệ pháp

luật, là nền tư pháp của quốc gia, gồm hệ thống các cơ quan, tổ chức nhà

nước và tồ chức nghề nghiệp mà hoạt động của các cơ quan, tổ chức này
trực tiếp hoặc hồ trợ cho hoạt động xét xử của Tòa án nhằm bảo vệ pháp
luật, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của

công dân, tổ chức.

Quyền lực tư pháp (quyền tư pháp) là một bộ phận cấu thành nên

quyền lực nhà nước và gắn liền với hoạt động bảo vệ pháp luật, bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thề trong xã hội. Theo Hiến pháp

năm 2013, quyền lực nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc: Quyền lực
nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ

quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư

pháp. Như vậy, khi thực hiện quyền tư pháp cần có sự phối hợp giữa các
cơ quan nhà nước, hay có nhiều cơ quan cùng tham gia thực hiện quyền tư
pháp. Quyền tư pháp sẽ bao gồm: Quyền xét xử cùa Tòa án (trọng tâm);

các quyền khởi tố, điều tra, truy tố, thi hành án và bổ trợ tư pháp cùa Cơ

quan điều tra, Viện kiểm sát, cơ quan Thi hành án và các cơ quan bổ trợ
tư pháp nhằm bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cùa cá
nhân, tổ chức đế duy trì cơng lý. Trong đó, Tòa án là cơ quan thực hiện

quyền tư pháp (Điều 102 Hiến pháp năm 2013), Cơ quan điều tra, Viện

8


kiêm sát, cơ quan Thi hành án được coi là cơ quan tham gia thực hiện

quyền tư pháp.
Hoạt động tư pháp có liên quan mật thiết với khái niệm tư pháp và
quyền tư pháp, đó là hình thức hoạt động nhằm thực hiện quyền tư pháp của

nhà nước, về bản chất, hoạt động tư pháp chính là hoạt động của các cơ quan,

người có thẩm quyền tham gia thực hiện quyền tư pháp. Như vậy, hoạt động
tư pháp là hoạt động của Cơ quan điều tra, Viện kiếm sát, Tòa án và cơ quan

Thi hành án trong việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án đối với

các vụ án hình sự, dân sự, hành chính, kinh tể, lao động và giải quyết các
quan hệ pháp luật khác, bao gồm: Hoạt động điều tra; hoạt động thực hành
quyền công tố và kiếm sát hoạt động tư pháp; hoạt động xét xử; hoạt động thi

hành án và các hoạt động của các cơ quan nhà nước được giao thẩm quyền
trong việc tiến hành một số hoạt động tư pháp theo trình tự thủ tục tố tụng.
Trong đó, hoạt động xét xử của Tòa án là trung tâm.

về mặt tổ chức và kiểm soát quyền lực nhà nước, mồi nhánh quyền

lực đều phải bị kiểm soát để đảm bảo tính hợp hiến và hợp pháp. Cơ chế

giám sát, kiểm sốt quyền lực ln được đặt ra trong tổ chức bộ máy nhà

nước, đặc biệt là cơ chế giám sát, kiểm sốt từ bên ngồi mồi hệ thống cơ
quan, bởi vì nó ln đạt hiệu quả cao và hạn chế việc vi phạm, lạm dụng
quyền lực. Hoạt động tư pháp cũng khơng thốt ly được việc bị kiểm sốt

bởi cơ chế giám sát, kiếm soát này. Một trong những phương thức kiếm sốt
đó là kiểm sát hoạt động tư pháp, đây cũng là một phương thức kiếm soát

việc thực hiện quyền lực tư pháp.

Hiến pháp năm 2013 quy định VKSND thực hành quyền công tố và
kiểm sát hoạt động tư pháp (khoản 1 Điều 107). Lần đầu tiên trong Luật tổ

chức VKSND năm 2014 đưa ra khái niệm về kiểm sát hoạt động tư pháp như
sau: Kiểm sát hoạt động tư pháp là hoạt động của VKSND để kiểm sát tính


9


hợp pháp của các hành vi, quyêt định của cơ quan, tô chức, cá nhân trong hoạt
động tư pháp, được thực hiện ngay từ khi tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin

báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình giải quyết vụ án

hình sự; trong việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hơn nhân và

gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động; việc thi hành án, việc giải quyết
khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp; các hoạt động tư pháp khác theo
quy định cùa pháp luật” (khoản 1 Điều 4).
Như vậy, chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND được thực
hiện ở tất cả các lĩnh vực hoạt động tư pháp, trong đó, có thể phân thành 02
nhóm chủ yếu là kiểm sát hoạt động tư pháp trong lĩnh vực hình sự và kiểm

sát hoạt động tư pháp ngồi lĩnh vực hình sự.
Trong lĩnh vực hình sự, VKSND thực hiện chức năng kiểm sát hoạt

động tư pháp nhằm đảm bảo cho việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi

hành án hình sự đúng pháp luật. Đặc biệt, chức năng kiếm sát hoạt động tư
pháp trong lĩnh vực hình sự có quan hệ chặt chẽ, không thể tách rời với chức

năng thực hành quyền công tố.

Đối với kiếm sát hoạt động tư pháp ngoài lĩnh vực hình sự, chức năng
kiểm sát hoạt động tư pháp chính là một phương thức giám sát, kiểm sốt đối


với hoạt động tư pháp, nhằm đảm bảo các hoạt động đó được tiến hành đúng
pháp luật, hạn chế việc cơ quan tư pháp lạm dụng quyền lực để vi phạm
quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tố chức.

Quy định này khẳng định tư tưởng xuyên suốt: Bất kỳ ở đâu và khi nào
có hoạt động tư pháp thì ở đó có trách nhiệm kiểm sát của VKSND, trách
nhiệm này xuất hiện từ khi bắt đầu và luôn song hành với việc thực hiện hoạt

động tư pháp. Đây là một phương thức kiểm soát quyền lực đối với các cơ

quan tham gia thực hiện quyền tư pháp, mà VKSND là chủ thể kiểm soát
nhằm đãm bảo cho hoạt động của các cơ quan tư pháp được thực hiện một

10


cách đúng đăn, nghiêm chình, hạn chê việc lạm quyên từ phía các cơ quan

này. Như vậy, kiểm sát hoạt động tư pháp là một phương thức kiểm soát,

giám sát hiệu quả, có vai trị quan trọng trong phịng ngừa vi phạm pháp luật,
khả năng lạm quyền trong hoạt động tư pháp. Trong quá trình thực hiện chức
năng kiểm sát hoạt động tư pháp, nếu VKSND phát hiện vi phạm thì có quyền
kháng nghị, kiến nghị, u cầu cơ quan, cá nhân khắc phục vi phạm. Đây là

sự khác biệt so với các phương thức kiểm tra, giám sát của cơ quan thanh tra
(chủ yếu là kiến nghị về các biện pháp xử lý). Bên cạnh đó, so với chức năng

thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp nhằm đảm bảo pháp luật


được tuân thủ nghiêm chỉnh và thống nhất, đảm bảo quyền và lợi ích hợp
pháp của nhà nước, tố chức, cá nhân.
'Như vậy, kiểm sát hoạt động tư pháp là một chức năng hiến định của

VK.SND, cũng là việc VK.SND sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý để
kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá

nhân trong hoạt động tư pháp nhằm bảo đảm cho hoạt động tư pháp được thực

hiện đúng đắn.

1.1.1. Đoi tượng, phạm vỉ và nội dung của kiểm sát hoạt động tưpháp

* về đối tượng của kiêm sát hoạt động tư pháp
Với những quy định của Hiến pháp năm 2013, Luật tổ chức VK.SND
năm 2014 và các luật về tố tụng tư pháp, đối tượng của kiểm sát hoạt động tư
pháp chính là sự tuân thủ pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng, người

tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng trong hoạt động tư pháp. Bởi vì
kiểm sát hoạt động tư pháp chính là kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các

chủ thể trong hoạt động tư pháp. Bản chất của hoạt động kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong hoạt động tư pháp là kiếm tra tính hợp pháp của các
quyết định và hành vi của cá nhân, tồ chức, cơ quan trong hoạt động tư pháp.

Như vậy, đối tượng của hoạt động kiếm sát hoạt động tư pháp chính là các

11



quyêt định và hành vi của các cơ quan, tô chức và cá nhân tham gia vào quan

hệ pháp luật tố tụng tư pháp. Việc xác định đúng đối tượng kiểm sát hoạt

động tư pháp để phát hiện, kiểm tra tính hợp pháp, tính có căn cứ của các
quyết định và hành vi đỏ có ý nghĩa quan trọng nhằm thực hiện được mục

đích của cơng tác kiểm sát và thực hiện có hiệu quả các quyền năng pháp lý

cùa VKSND, hướng tới mục tiêu bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi
ích hợp pháp của tố chức, cá nhân.

* về phạm vi của kiêm sát hoạt động tư pháp
Theo quy định của Luật tổ chức VKSND năm 2014, phạm vi của kiểm

sát hoạt động tư pháp được xác định ngay từ khi tiếp nhận và giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình giải quyết
vụ án hình sự; trong việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hơn

nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động; việc thi hành án, việc
giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp; các hoạt động tư pháp
khác theo quy định của pháp luật (khoản 1 Điều 4). Bên cạnh đó, các hoạt

động kiềm sát việc tuân theo pháp luật được phân chia thành những lĩnh vực

khác nhau, gắn với từng giai đoạn tố tụng và từng lĩnh vực khác nhau trong
hoạt động tư pháp và được gọi là các công tác kiểm sát. Với mồi cơng tác
kiểm sát có đối tượng, phạm vi, nội dung (nhiệm vụ, quyền hạn) riêng,


nhưng đều có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, cùng thực hiện chức năng
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp và cùng hướng
đến mục đích chung của kiểm sát hoạt động tư pháp nhằm bảo đảm: Việc

tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố; việc
giải quyết vụ án hình sự, vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hơn nhân và gia

đình, kinh doanh, thương mại, lao động; việc thi hành án; việc giải quyết
khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp; các hoạt động tư pháp khác được
thực hiện đúng quy định của pháp luật... .

12


* Nội dung của kiêm sát hoạt động tư pháp

Trên cơ sở đối tượng, phạm vi, mục đích cũa kiểm sát hoạt động tư
pháp, nội dung của kiểm sát hoạt động tư pháp được xác lập theo các giai

đoạn tố tụng và lĩnh vực cụ thể khác nhau trong hoạt động tư pháp, đó chính
là các cơng tác kiếm sát cụ thể trong phạm vi hoạt động tư pháp. Theo khoản
2 Điều 6 Luật tổ chức VKSND năm 2014, nội dung cùa kiểm sát hoạt động tư
pháp bao gồm 09 công tác cụ thể: (1) Kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố

giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố; (2) Kiềm sát việc khởi tố, điều
tra vụ án hình sự; (3) Kiểm sát việc tuân theo pháp luật của người tham gia tố

tụng trong giai đoạn truy tố; (4) Kiểm sát việc xét xử vụ án hình sự; (5) Kiểm

sát việc tạm giữ, tạm giam, thi hành án hình sự; (6) Kiếm sát việc giải quyết


các vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hơn nhân và gia đình, kinh doanh,
thương mại, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật; (7)

Kiểm sát việc thi hành án dân sự, thi hành án hành chính; (8) Kiểm sát việc
giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp của các cơ quan có thấm
quyền theo quy định của pháp luật; giãi quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt

động tư pháp thuộc thẩm quyền; (9) Kiểm sát hoạt động tương trợ tư pháp.
Với 09 cơng tác kiểm sát nêu trên có thể chia thành 02 nhóm: Nhóm 1 -

Kiểm sát hoạt động tư pháp trong lĩnh vực hình sự và nhóm 2 - Kiểm sát hoạt
động tư pháp ngồi lĩnh vực hình sự. Với nhóm 1 - trong lĩnh vực hình sự,

phạm vi của kiểm sát hoạt động tư pháp được bắt đầu từ khi tiếp nhận và giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình

giải quyết vụ án hình sự. Cơ sở của xác định thời điểm bắt đầu kiểm sát hoạt
động tư pháp là khi quyền công tố được phát động. Hoạt động kiếm sát việc

tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự sẽ chấm dứt khi kết thúc các hoạt
động tố tụng và mục đích các hoạt động tố tụng đạt được. Nội dung của 05

khâu công tác kiếm sát trong lĩnh vực hình sự này chính là hoạt động xem xét

13


tính hợp pháp của các quyêt định và hành vi của các cơ quan, tơ chức, cá nhân


trong q trình giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố,
đến giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự. Điều

đáng chú ý là nội dung của 05 khâu công tác kiểm sát này luôn gắn chặt với
nội dung của chức năng, nhiệm vụ thực hành quyền công tố. Thông qua việc

kiểm sát hoạt động tư pháp trong tố tụng hình sự, một mặt để phát hiện vi

phạm của các cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố
tụng nhằm đảm bảo sự tuân thủ pháp luật của chủ thể này, mặt khác, là tiền đề
quan trọng để VKSND thực hiện tốt chức năng thực hành quyền cơng tố trong

tố tụng hình sự. Với nhóm 2, kiểm sát hoạt động tư pháp trong các lĩnh vực tố
tụng dân sự, tố tụng hành chính, thi hành án dân sự - hành chính, giải quyết

khiếu nại, tố cáo và tương trợ tư pháp. Nội dung của 04 khâu công tác kiếm

sát này tập trung vào việc kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định
của các cơ quan, cá nhân, tố chức trong hoạt động tư pháp ngồi lĩnh vực hình

sự, như kiểm sát các bản án, quyết định của Tòa án; tham gia phiên tòa, phiên
họp giãi quyết vụ án hành chính; kiềm sát việc thi hành án của cơ quan thi

hành án dân sự cùng cấp và cấp dưới; kiểm sát hồ sơ thi hành án; kiếm sát
hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan trong việc thi hành án;
kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong các lĩnh vực tố tụng hình sự, tố

tụng dân sự, tố tụng hành chính, thi hành án hình sự, dân sự, hành chính, tạm

giữ, tạm giam... Qua cơng tác kiếm sát này, nếu phát hiện vi phạm pháp luật,


VKSND phải kịp thời kiến nghị, kháng nghị, yêu cầu các cơ quan, tố chức, cá
nhân khắc phục vi phạm để đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật.

1.1.2. Ỷ nghĩa, vai trò của kiểm sát hoạt động tư pháp
Chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của VKSND trong lịch sử
lập hiến, lập pháp của đất nước qua từng giai đoạn đã và đang là minh chứng

có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn trong cơ chế giám sát và kiểm soát quyền

14


lực nhà nước nói chung và hoạt động tư pháp nói riêng. Trong giai đoạn hiện

nay, chức nâng kiếm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp vẫn
phát huy vai trò quan trọng trong giám sát quyền lực tư pháp. Kiểm sát hoạt
động tư pháp có tác dụng phòng ngừa và ngăn chặn mọi hành vi lạm dụng
quyền lực công trong hoạt động tư pháp, nhằm phát hiện vi phạm, kịp thời xử

lý, bảo vệ pháp luật, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp

của cá nhân, tổ chức. Ý nghĩa, vai trò của chức năng kiểm sát hoạt động tư
pháp được thề hiện qua những nội dung chủ yếu sau đây:

* Ỷ nghĩa về mặt lý luận
Chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp là một phương thức kiểm soát
quyền lực nhà nước mà Quốc hội giao cho VKSND để giám sát nhánh quyền

lực tư pháp. Theo Hiến pháp năm 2013, Quốc hội thực hiện quyền giám sát

tối cao đối với hoạt động của nhà nước, về bản chất là Quốc hội thực hiện
quyền giám sát tối cao việc tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, tuy nhiên có sự

phân cơng, phân cấp trong tổ chức, thực hiện quyền lực nhà nước. Thông qua

quy định của Hiến pháp và Luật, Quốc hội giao cho nhiều cơ quan nhà nước
giám sát việc thực hiện quyền lực và theo dõi, kiểm tra, yêu cầu các cơ quan
đó báo cáo tình hình giám sát. Hoạt động giám sát, kiếm soát của Quốc hội

theo Hiến pháp năm 2013 chủ yếu tập trung vào các cơ quan nhà nước ở trung

ương và cá nhân đứng đầu cơ quan đó, đây là dạng hoạt động giám sát mang

tính chính trị. Đe giám sát, kiểm sốt quyền lực một cách cụ thể, Quốc hội
giao cho cơ quan nhà nước khác có chức năng, nhiệm vụ mang tính chun

mơn cao, như các ủy ban chuyên trách của Quốc hội, Kiểm toán nhà nước,
hay chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND, đây là dạng hoạt
động giám sát mang tính chun mơn. Như vậy, chức năng kiểm sát hoạt
động tư pháp của VKSND bắt nguồn từ chức năng giám sát của Quốc hội, sẽ

phát huy hiệu quả bởi được thiết kế như cơ chế quyền lực kéo dài của Quốc

hội để giám sát hoạt động tư pháp.

15


* Y nghĩa vê mặt pháp lý
Một là, VKSND thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp có sự

độc lập về tổ chức so với các cơ quan bị kiểm sát (đối tượng của kiểm sát hoạt
động tư pháp). Theo quy định của Hiến pháp và pháp luật, VKSND là hệ
thống cơ quan độc lập trong bộ máy nhà nước, được tổ chức theo ngành dọc,

không nằm trong hay không bao trùm các cơ quan thực hiện quyền tư pháp và

cơ quan tham gia trong hoạt động tư pháp như Cơ quan điều tra, Cơ quan thi
hành án ... . Do vậy, VKSND thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp

độc lập, bảo đảm cho hoạt động giám sát được khách quan, trung thực, có

hiệu lực, hiệu quả cao.
Hai là, trong hoạt động tư pháp, VKSND là cơ quan duy nhất tham gia

toàn bộ các giai đoạn (khởi tố, điều tra, truy tố, xét xữ, thi hành án) theo quy

định của Hiến pháp và pháp luật, do đó, VK.SND có thẩm quyền tham gia vào
tất cả các lĩnh vực (tố tụng tư pháp hình sự, dân sự, hành chính, thi hành án...)

trong hoạt động tư pháp. Đây là tiền đề và giá trị quan trọng để đảm bảo cho

VKSND có khả năng giám sát hiệu quả nhất tồn bộ q trình tố tụng và các
lĩnh vực khác trong hoạt động tư pháp, cũng là đế giám sát tồn bộ q trình
thực hiện quyền tư pháp. Bên cạnh đó, với bộ máy tổ chức và hoạt động của

VKSND tương đối hoàn thiện để thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư
pháp; hoạt động kiểm sát hoạt động tư pháp sẽ mang tính chun mơn sâu,

hoạt động thường xuyên, liên tục, có nhiều chức danh tư pháp theo ngạch.


Qua đó, VKSND có đủ cơ sở để phát hiện vi phạm trong hoạt động tư pháp và

là điều kiện cần thiết để bảo đảm cho hoạt động giám sát có tính chun
nghiệp và hiệu quả cao.

* Ỷ nghĩa về mặt thực tiễn
Từ khi Luật tổ chức VKSND đầu tiên được Quốc hội thông qua cho
đến nay, với tư cách là một thiết chế độc lập trong bộ máy nhà nước, VKSND

16


đã và đang thực hiện chức năng, nhiệm vụ kiêm sát hoạt động tư pháp có hiệu

quả. Ket quả từ thực tiễn của công tác kiểm sát hoạt động tư pháp là minh

chứng rõ ràng nhất về sự cần thiết của VKSND nói chung và sự cần thiết của
cơ chế giám sát hoạt động tư pháp nói riêng. Hàng năm, Viện trưởng VKSND

tối cao báo cáo công tác của ngành Kiếm sát nhân dân trước Quốc hội về kết
quả thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp đều được đánh giá cao,

đạt và vượt các chi tiêu đề ra trong Nghị quyết của Quốc hội về công tác này

(được thể hiện trong các báo cáo công tác hàng năm của ngành Kiểm sát nhân
dân). Qua đó cho thấy, ý nghĩa về thực tiễn của chức năng kiểm sát hoạt động

tư pháp của VKSND là đáng ghi nhận, có vai trò quan trọng, là chỗ dựa đáng
tin cậy của Quốc hội trong giám sát quyền lực tư pháp. Kiểm sát hoạt động tư
pháp vừa là cơ chế kiếm soát từ bên ngoài, độc lập với đối tượng giám sát,

nhưng lại có khả năng bao quát và giám sát được tồn bộ, từng hoạt động cụ

thể trong q trình thực hiện hoạt động tư pháp, nham đảm bảo Hiến pháp và
pháp luật được tuân thủ nghiêm chỉnh, hạn chế sai phạm, vi phạm của các cơ

quan tham gia thực hiện hoạt động tư pháp. Bởi lẽ, VKSND chỉ xem xét đối

tượng kiếm sát hoạt động tư pháp dưới phương diện có hợp pháp hay khơng

mà khơng can thiệp vào hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ của các cơ quan
này. Neu VKSND phát hiện vi phạm thì thực hiện quyền kiến nghị, kháng

nghị, yêu cầu khắc phục những vi phạm đó; hoặc tập hợp nhiều vi phạm phổ
biến đế kiến nghị đến cơ quan quản lý hoặc cơ quan quyền lực nhà nước,

cũng như tham mưu cho cấp ủy Đảng để chỉ đạo, khắc phục vi phạm. Vì vậy,
hoạt động kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND không làm cản trở hoạt
động bình thường của các cơ quan thực hiện quyền tư pháp, mà hướng đến
mục tiêu bảo đăm pháp luật được thực hiện, chấp hành một cách nghiêm

chỉnh, thống nhất, bảo vệ quyền lợi của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp

của cá nhân, tố chức.

17


1.2. Quy định của BLTTHS năm 2015 vê nhiệm vụ, quyên hạn và

trách nhiệm của Viện kiểm sát trong tiếp nhận và kiểm sát nguồn tin về


tội phạm
1.2.1. Khái niệm và các nguồn tin về tội phạm

Có nhiều cách hiểu về khái niệm nguồn tin về tội phạm, có quan điểm
cho rằng, chì có tin báo do nhân dân, đài báo, cơ quan, tổ chức cung cấp, kiến

nghị mới là nguồn tin về tội phạm; hoặc có quan điểm cho rằng, mọi thông tin
liên quan đến tội phạm đều là nguồn tin về tội phạm.

Nguồn tin về tội phạm là những thông tin liên quan đến các hành vi vi

phạm pháp luật được các cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp cho các cơ quan
có thẩm quyền .... Các thông tin về tội phạm này được pháp luật quy định là
những cơ sở để xác định có dấu hiệu tội phạm hay khơng, điều đó cũng khẳng

định cơ quan có thẩm quyền muốn khởi tố vụ án hình sự, muốn xác lập quan
hệ tố tụng hình sự phải bắt đầu từ những tin tức về tội phạm được tiếp nhận,

giải quyết theo quy định của pháp luật chứ không phải là những lời đồn đại
khơng có căn cứ.

Có quan điểm nêu: "Tổ giác về tội phạm là việc công dân tố giác về

hành vi tội phạm được quy định trong BLHS, cịn tin báo về tội phạm là
những thơng tin về tội phạm được quy định trong BLHS do cơ quan nhà

nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội cung cấp cho cơ quan có trách nhiệm

tiếp nhận và giải quyết; do các phương tiện thông tin đại chúng nêu lên hoặc

do người phạm tội tự thú.

Quan điểm khác cho rằng: "Tố giác về tội phạm là việc cá nhân
phát hiện, tố cáo người phạm tội hoặc hành vi có dấu hiệu tội phạm với cơ

quan có thấm quyền giải quyết theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự”.
Tin báo về tội phạm là việc các cơ quan, tổ chức báo tin hoặc đăng tin có nội

dung phản ánh về tội phạm xảy ra cho cơ quan có thấm quyền giải quyết theo

18


quy định tại khoản 2, khoản 5 Điêu 100, Điêu 101 và Điêu 103 của Bộ luật Tơ

tụng hình sự năm 2003.

Tại Thông tư liên ngành số 03/TT-LN ngày 15/5/1992 cùa Viện kiểm

sát nhân dân tối cao - Bộ Nội vụ (nay là Bộ Cơng an) - Bộ Quốc phịng - Bộ

Lâm nghiệp - Tổng cục Hài quan (sau đây viết tắt là Thông tư liên tịch số 03)
hướng dẫn thi hành các quy định cùa Luật Tố tụng hình sự về tiếp nhận, giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm đã nêu định nghĩa:
Tin báo và tố giác về tội phạm là những thông tin về tội phạm được

quy định trong BLHS do công dân, cơ quan nhà nước, tổ chức kinh
tế, tổ chức xã hội (gọi tắt là người, cơ quan, tồ chức) cung cấp cho
cơ quan có trách nhiệm tiếp nhận và giải quyết; do các phương tiện


thông tin đại chúng nêu lên hoặc do người phạm tội tự thú [22].

Hiện nay khái niệm trên không cịn phù hợp trong cơng tác đấu tranh
phịng chống tội phạm. Trong khi đó BLTTHS năm 2003 khơng quy đỉnh rõ

thế nào là tố giác, tin báo về tội phạm mà chỉ quy định chung:
Cơng dân có thể tố giác tội phạm với cơ quan điều tra, Viện kiểm

sát, Tòa án hoặc với các cơ quan, tố chức. Neu tố giác bang miệng

thì cơ quan tổ chức tiếp nhận phải lập biên bản và có chừ ký của
người tố giác. Cơ quan tổ chức khi phát hiện hoặc nhận được tố
giác của công dân phải báo ngay về tội phạm cho cơ quan điều tra

bằng văn bản [32, Điều 101],
Tại thông tư liên tịch số 06/2013/TTLT- BCA- BQP- BTC- BNN&PTNT
-VKSNDTC ngày 02/8/2013 của Liên ngành Trung ương đã giải thích khái
niệm tổ giác, tin báo về tội phạm như sau:

Tố giác về tội phạm là những thông tin hành vi có dấu hiệu tội phạm do cá
nhân cụ thể cung cấp cho cơ quan, cá nhân có trách nhiệm tiếp nhận, giải quyết.

Tin báo về tội phạm là những thông tin về hành vi có dấu hiệu tội phạm

19


trên các phương tiện thông tin đại chúng hoặc do cơ quan, tô chức cung câp
cho cơ quan, cá nhân có trách nhiệm tiếp nhận, giải quyết.


Theo chúng tơi tố giác về tội phạm được hiểu là những thông tin, hành

vi có dấu hiệu tội phạm được cá nhân phát hiện và tố cáo với cơ quan có thẩm
quyền. Tin báo về tội phạm được hiểu là những thông tin về hành vi có dấu

hiệu tội phạm trên các phương tiện thông tin đại chúng hoặc do cơ quan, tổ
chức, cá nhân cung cấp cho cơ quan có thấm quyền. Đen nay, BLTTHS năm

2015 đã nêu cụ thể, chi tiết về khái niệm tin báo, tố giác tội phạm, do đó tại
khoản 1 Điều 144 BLTTHS năm 2015, quy định:
Tố giác về tội phạm là việc cá nhân phát hiện và tố cáo hành vi có dấu

hiệu tội phạm với cơ quan có thấm quyền.
Tin báo về tội phạm là thơng tin về vụ việc có dấu hiệu tội phạm do
cơ quan, tổ chức, cá nhân thông báo với cơ quan có thẩm quyền hoặc thơng

tin về tội phạm trên phương tiện thông tin đại chúng. Theo quy định tại khoản
2 Điều 144 BLTTHS năm 2015, tin báo về tội phạm được thể hiện dưới hai

dạng đó là: tin báo do cơ quan, tồ chức, cá nhân cung cấp thông qua việc báo
tin trực tiếp với cơ quan có thấm quyền trong việc tiếp nhận và giải quyết tin

báo; tin báo về tội phạm thông qua các phương tiện thông tin đại chúng như:
mạng xã hội, bài báo.... Tại khoản 4 Điều 144 BLTTHS quy định rõ hình

thức cùa tố giác, tin báo về tội phạm được thế hiện bằng lời nói hoặc văn bản,
quy định mở này đã tạo điều kiện thuận lợi cho cơ quan, tổ chức, cá nhân
trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ trong việc phát hiện, tố giác, tin báo

về tội phạm

Kiến nghị khởi tố là việc cơ quan nhà nước có thấm quyền kiến nghị

bằng vãn bản và gửi kèm theo chứng cứ, tài liệu có liên quan cho Cơ quan có
thấm quyền xem xét xử lý vụ việc có dấu hiệu tội phạm.

Người phạm tội tự thú là việc người phạm tội tự nguyện khai báo với

20


×