MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
LỜI CAM ĐOAN............................................................................................i
DANH MỤC VIẾT TÁT................................................................................ V
DANH MỤC BẢNG..................................................................................... vi
MỞ ĐÀU......................................................................................................... 1
Chương 1. MỘT SỐ VẨN ĐỀ CHUNG VỀ NGUỒN CHỬNG cứ LÀ DỮ
LIỆU ĐIỆN TỬ TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH sự............................... 6
1.1. Lý luận chung về nguồn chứng cứ là dữ liệu điện từ....................... 6
7.7.7. Nhận thức về nguồn chứng cứ....................................................... 6
1.1.2. Khái niệm nguồn chứng cứ là dữ liệu điện tử............................... 9
1.1.3. Đặc điêm của nguồn chứng cứ là dữ liệu điện tử...................... 14
1.1.4. Phân loại nguồn chứng cứ là dữ liệu điện tử.............................. 20
1.2. Nguồn chứng cứ là dữ liệu điện tử trong Luật tố tụng hình sự một số
quốc gia trên thế giới................................................................................. 33
1.2.1. Hợp chủng quốc Hoa Kỳ............................................................. 33
1.2.2. Vương quốc Anh........................................................................... 34
1.2.3. Liên bang Nga.............................................................................. 35
Kết luận chương 1......................................................................................38
Chương 2. QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ NGUỒN CHỨNG cứ LÀ DỮ
LIỆU ĐIỆN TỬ TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH sự VIỆT NAM VÀ
THỰC TIẺN ÁP DỤNG.............................................................................. 39
2.1. Quy định pháp luật về nguồn chứng cứ là dữ liệu điện tử trong Luật
tố tụng hình sự Việt Nam......................................................................... 39
2.1.1. BLTTHS năm 2015 quy định dữ liệu điện tử là một nguồn chứng
cứ chứng minh....................................................................................... 39
2.1.2. Khái niệm về dữ liệu điện tử theo quy định BLTTHS năm 2015 40
2.1.3, Vê thu giữ, bảo quản phương tiện điện tử, dữ liệu điện tử theo
quy định của BLTTHS năm 2015........................................................... 43
2.1.4. Điều kiện để dữ liệu điện tử có thê sử dụng làm chứng cứ....... 47
2.1.5. BLTTHS năm 2015 quy định kết quả thực hiện ủy thác tư pháp và
hợp tác quổc tế là một nguồn chứng cứ chứng minh............................49
2.2. Thực tiễn áp dụng quy định pháp luật về nguồn chứng cứ là dữ liệu
điện tử trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam........................................... 50
2.2.1. Những kết quả đạt được trong thực tiễn áp dụng quy định pháp
luật về nguồn chứng cứ là dữ liệu điện tử............................................ 50
2.2.2. Những hạn chế, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng quy định
pháp luật về nguồn chứng cứ là dữ liệu điện tử.................................... 62
2.2.3. Nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc trong thực tiễn áp
dụng quy định Luật tơ tụng hình sự vê nguỏn chứng cứ là dữ liệu điện
tử.............................................................................................................. 64
Kết luận chương 2.................................................................................... 66
z
7
X
~
7
X
z
Chương 3. CÁC GIAI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUA ÁP DỤNG CÁC
QUY ĐỊNH CỦA LUẬT TỐ TỤNG HÌNH sự VIỆT NAM VỀ NGUỒN
CHỬNG CỨ LÀ DỮ LIỆU ĐIỆN TỬ TRONG QUÁ TRÌNH GIẢI
QUYẾT VỤ ÁN HÌNH sự.......................................................................... 68
3.1. Sự cần thiết hoàn thiện các quy định của Luật tố tụng hình sự Việt
Nam về nguồn chứng cứ là dữ liệu điện tử...............................................68
3.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng quy
định của Luật tố tụng hình sự về nguồn chứng cứ là dữ liệu điện tử trong
quá trình giải quyết vụ án hình sự............................................................. 73
3.2.1. Hồn thiện quy định pháp luật về nguồn chứng cứ là dữ liệu điện
r
tử trong Luật tô tụng hình sự Việt Nam
3.2.2. Xây dựng quy trĩnh cơng tác thu thập nguồn chứng cứ là dữ liệu
3.2.3. Giải pháp nâng cao chât lượng, hiệu quả hoạt động và tăng
cường vai trò trách nhiệm của các cơ quan, người tiến hành tổ tụng
trong nhận thức và thực tiễn áp dụng các quy định về dữ liệu điện tử
theo quy định của Luật tố tụng hình sự.................................................. 88
3.2.4. Tăng cường phối hợp trong hoạt động áp dụng những quy định
của Luật tố tụng hình sự về nguồn chứng cứ là dữ liệu điện tử trong
quá trĩnh giải quyết vụ án hình sự......................................................... 92
3.2.5. Chú trọng đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật và sử dụng khoa học
công nghệ trong quá trình giải quyết vụ án hình sự có nguồn chứng cứ
là dữ liệu điện tử....................................................................................93
Kết luận chương 3.................................................................................... 94
KẾT LUẬN................................................................................................... 96
X
7
DANH MUC TÀI LIÊU THAM KHAO................................................... 98
iv
DANH MỤC VIẾT TẮT
TT
Cum
từ viết tắt
•
Cụm từ đầy đủ
1
BLTTHS
Bộ luật tố tụng hình sự
2
CQTHTT
Cơ quan tiến hành tố tụng
3
CQĐT
Cơ quan điều tra
4
VKS
Viên
s kiểm sát
V
DANH MỤC BẢNG
O Ấ 1 • /\
•
SƠ niêu
băng
Bảng 2.1
Tên bảng
Tỉ lệ các vụ án, bị cáo phạm tội trong lĩnh vực công
nghệ thông tin, mạng viễn thông 2016 - 2021
vi
Trang
57
MỞ ĐẦU
1. Tính câp thiêt của đê tài
Nguồn chứng cứ là hình thức chứa đựng sự kiện thực tế khách quan của
vụ án. Những dấu vết của tội phạm được phản ánh, lưu giữ trong thế giới
khách quan được các chủ thể tố tụng hình sự thu thập trong quá trình chứng
minh và chính những vật có chứa đựng dấu vết tội phạm hoặc trí nhớ của con
người về tội phạm thơng qua lời khai của họ là những hình thức của chứng
cứ. Những hình thức lưu giữ dấu vết của tội phạm được gọi là nguồn chứng
cứ hay phương tiện chứng minh.
Trong bối cảnh đất nước không ngừng phát triển, đổi thay, các quan hệ
xã hội trở nên đa dạng hơn, thì tình hình tội phạm cũng tinh vi, phức tạp hơn.
Trước sự đổi thay đó một số quy định của Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS)
năm 2003 tị ra khơng cịn phù hợp, trong đó có các vấn đề liên quan đến
chứng cứ còn nhiều bất cập chưa đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng,
chống tội phạm trong tình hình mới. BLTTHS năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung
hàng loạt các quy định về chứng cứ, nhằm khắc phục những yếu điểm trong
luật tố tụng hình sự hiện hành, qua đó đáp ứng được đỏi hởi ngày càng cao
trong việc đấu tranh, phòng ngừa tội phạm.
Tội phạm thuộc lĩnh vực công nghệ thông tin tuy đã được quy định trong
Bộ luật Hình sự 1999 nhưng BLTTHS năm 2003 lại không hề đề cập đến nguồn
chứng cứ là dữ liệu điện tử, một nguồn quan trọng để xác định hành vi phạm tội
và là cơ sở để xử lý tội phạm. Để khắc phục tồn tại đó BLTTHS năm 2015 đã
quy định “Dữ liệu điện tử” là một nguồn chứng cứ, có giá trị như các nguồn
chứng cứ khác. Loại chứng cứ mới này đang ngày càng phố biến, xuất hiện
trong hầu hết các loại tội phạm, thậm chí trong nhiều vụ án chì thu được dữ liệu
điện tử làm chứng cứ. Việc bổ sung “dữ liệu điện tử” là một nguồn chứng cứ đáp
ứng yêu cầu cấp bách hiện nay và hoàn toàn phù hợp với luật pháp quốc tế và
luật pháp Việt Nam cũng như có căn cứ về khoa học, cơng nghệ và bảo đảm cho
cơng tác đấu tranh phịng chống tội phạm có hiệu quà.
1
Luật Tơ tụng hình sự Việt Nam và nhiêu nước trên thê giới đêu có quy
định về chế định chứng cứ và quá trình chứng minh trong giải quyết các vụ án
hình sự, trong đó có chế định nguồn chứng cứ là dữ liệu điện tử. Tuy nhiên,
đây lại là một quy định mới trong BLTTHS Việt Nam năm 2015, vấn đề
nghiên cứu, làm rõ cơ sở lý luận để áp dụng quy định này vào quá trình giải
quyết các vụ án hình sự, cũng như những vướng mắc, bất cập trong thực tiễn
áp dụng ít được quan tâm nghiên cứu. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài “Nguồn
chứng cứ là dữ liệu điện tử trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam” mang
tính cấp thiết, khơng những về lý luận, mà còn là đòi hỏi thực tiễn hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nguồn chứng cứ trong luật tố tụng hình sự là một lĩnh vực phức tạp, có
vai trị đặc biệt quan trọng trong việc giải quyết vụ án hình sự. Từ trước đến
nay có rất nhiều cơng trình nghiên cứu đề cập đến vấn đề này, cụ thể như sách
chuyên khảo: Chế định chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004 của TS. Trần Quang Tiệp; “Phương pháp
nghiên cứu, đánh giá chứng cứ trong tố tụng hình sự và các văn bản hướng
dẫn thi hành luật Tố tụng hình sự mới nhất năm 2018” của Th.s Nguyễn
Ngọc Điệp (Nxb Lao Động, 2018)... Đối với các bài viết đăng trên tạp chí
khoa học pháp lý có thể kể đến: “về chứng cứ và nguồn chứng cứ quy định
tại Điều 64 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003” (Tạp chí Nghề luật, số
02/2006) của PGS.TS. Trịnh Tiến Việt; “Những điểm mới về chứng minh và
chứng cứ theo Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015” (Tạp chí KHGD CSND sổ
96/2017) của tác giả Vũ Đức Trung; “Đổi mới chế định chứng cứ và chứng
minh trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015” (Tạp chí CSND, 2017) của tác
giả Lương Hái Yến, Nguyễn Thế Viễn; “Nguồn chứng cứ trong tố tụng hình
sự” (Tạp chí kiểm sát Online, 2018) của tác giả Nguyễn Cao Cường...
Ngồi ra cịn rất nhiều các cơng trình, bài viết khác nghiên cứu, phân tích,
đánh giá về chứng cứ, đều thế hiện các quan điếm riêng của từng tác giả trong
cách nhìn nhận, phân tích, đánh giá chứng cứ, vị trí vai trị của chứng cứ trong
2
tơ tụng hình sự. Tuy nhiên, các cơng trình nghiên cứu vê ngn chứng cứ là dừ
liệu điện tử cịn ít và hạn chế. Vì vậy việc lựa chọn đề tài “Nguồn chứng cứ là
dữ liệu điện tử trong Luật tố tụng hĩnh sự Việt Nam ” sẽ đóng góp, bồ sung
thêm về cơ sở lý luận, thực tiễn cũng như nhận thức của tác giả đối với nguồn
chứng cứ là dữ liệu điện tử trong luật tố tụng hình sự Việt Nam.
3. Mục
vụ• nghiên cứu
• đích và nhiệm
•
3.1. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về nguồn chứng cứ là dừ liệu
điện tử trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam. Phân tích, đánh giá các quy định
về nguồn chứng cứ là dữ liệu điện từ trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam và
một số quốc gia trên thế giới. Qua đó, đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu
quả áp dụng các quy định về nguồn chứng cứ là dữ liệu điện tử trong Luật tổ
tụng hình sự, góp phần nâng cao chất lượng giải quyết các vụ án hình sự.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được những mục đích trên, trong quá trình nghiên cứu luận văn
cần giải quyết những vấn đề sau:
- Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận về nguồn chứng cứ là dữ liệu
điện tử. Phân tích các quy định của luật tố tụng hình sự Việt Nam về nguồn
chứng cứ là dừ liệu điện tử, có sự so sánh với luật tố tụng hình sự của một số
nước trên thế giới.
- Đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định của Luật tố tụng hình sự Việt
Nam về nguồn chứng cứ là dừ liệu điện tử.
- Chỉ ra những khó khăn bất cập, đồng thời đề xuất một số kiến nghị
nhằm hoàn thiện và thực hiện các quy định của Luật tố tụng hình sự Việt Nam
hiện hành về nguồn chứng cứ là dữ liệu điện tử.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu về nguồn chứng cứ là dữ liệu điện tử trong Luật Tố
tụng hình sự Việt Nam và trong pháp luật tố tụng hình sư một số nước trên
3
thế giới. Đánh giá thực tiễn áp dụng và chỉ ra những khó khăn, vướng mắc và
hạn chế cịn tồn tại trong quá trình áp dụng cúa cơ quan nhà nước có thẩm
quyền giải quyết vụ án hình sự.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu về nguồn chứng cứ là dữ liệu điện từ trong Luật tố
tụng hình sự Việt Nam ở cả ba giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử trong vụ án
hình sự và tình hình thực tiễn áp dụng các quy định của Luật tố tụng hình sự
về nguồn chứng cứ là dữ liệu điện tử tại Việt Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chửng mác xít, tư tưởng Hồ Chí Minh về
Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà
nước pháp quyền, về chính sách luật tố tụng hình sự, về vấn đề cải cách tư
pháp được thể hiện trong các Nghị quyết Đại hội Đảng.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả luận văn còn kết hợp với một
số phương pháp nghiên cứu cụ thể như phương pháp: Hệ thống; logic; phân
tích; tổng hợp; so sánh; khảo sát thực tế để chọn lựa tri thức khoa học, kinh
nghiệm thực tiễn liên quan đến chứng cứ trong tố tụng hình sự Việt Nam, từ
đó làm sáng tỏ nội dung nghiên cứu của luận văn.
6. Ý nghĩa của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Làm rõ những vấn đề lý luận và các quy định của pháp luật về dữ liệu
điện tử trong luật tố tụng hình sự Việt Nam.
Nghiên cứu làm rõ các quy định về nguồn chứng cứ là dữ liệu điện tử
trong Luật Tố tụng hình sự Việt Nam; làm rõ các quy định mới về dữ liệu
điện tử trong Luật tố tụng hình sự hiện hành so với pháp luật tố tụng hình sự
một số quốc gia trên thế giới.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Trên cơ sờ kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn, tác giả đã đề xuất
một số định hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định về
4
ỉ
dữ liệu điện tử trong các vụ án hình sự, đảm bảo giải qut vụ án được nhanh
chóng, chính xác, kịp thời.
7. Bơ cục
của luận
văn
•
•
Ngồi phần mở đầu, kết luận, mục lục, lời cảm ơn và danh mục tài liệu
tham khảo, luận văn gơm có 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về nguồn chứng cứ là dữ liệu điện tử
trong Luật tố tụng hình sự.
Chương 2: Quy định pháp luật vê nguôn chứng cứ là dừ liệu điện tử
ỉ
trong Luật tơ tụng hình sự Việt Nam và thực tiên áp dụng.
Chương 3: Các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của
Luật tố tụng hình sự Việt Nam về nguồn chứng cứ là dữ liệu điện tử trong quá
trình giải quyết vụ án hình sự.
5
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐÈ CHUNG VÈ NGUỒN CHỨNG cú LÀ DỮ LIỆU
ĐIỆN TỦ TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH sụ
1.1. Lý luận chung về nguồn chứng cú' là dữ liệu điện tú’
1.1.1. Nhận thức về nguồn chúng cứ
về khái niệm Luật tố tụng hình sự, “là ngành luật độc lập trong hệ thống
pháp luật Việt Nam, bao gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh
các quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử
và một số hoạt động thi hành án hình sự nhằm giải quyết đúng đắn vụ án, góp
phần bảo vệ cơng lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ
xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của
tổ chức, cá nhân” [8, tr 21].
Khoa học luật tố tụng hình sự là một ngành khoa học pháp lý, bao gồm hệ
thống các khái niệm, quan điểm, tư tưởng pháp lý về các quy định của luật tố
tụng hình sự, về quá trình giải quyết vụ án hình sự nham phát triển và hồn
thiện luật tố tụng hình sự. Lý luận về chứng cứ trong tố tụng hình sự là một
bộ phận hợp thành của khoa học luật tố tụng hình sự. Trong khoa học luật tố
tụng hình sự, lý luận về chứng cứ được coi là một bộ phận rất quan trọng. Vì
vậy, lĩnh vực này được nghiên cứu phát triển rất sớm, trong đó có nguồn
chứng cứ.
Q trình phát triển của chế định pháp luật về nguồn chứng cứ và lý luận
về nguồn chứng cứ trong tố tụng hình sự là một bộ phận hợp thành lịch sử
phát triển của Luật tố tụng hình sự và khoa học luật tố tụng hình sự. Lý luận
về nguồn chứng cứ trong tố tụng hình sự nghiên cứu quy luật của quá trình
nhận thức chân lý trong tố tụng hình sự, nghiên cứu hình thức chứa đựng sự
kiện thực tế khách quan của vụ án. Lý luận về nguồn chứng cứ nghiên cứu
các quy phạm pháp luật điều chỉnh quá trình phát hiện, thu thập, bảo quản,
kiểm tra và đánh giá chứng cứ.
6
Lý luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng vê nhận thức thê giới là cơ sở
khoa học của chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự Việt nam.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng đã chỉ ra rằng phản ánh là thuộc tính của
vật chất. V.I. Lênin viết: “Hết thảy mọi vật chất đều có một đặc tính về bản
chất gần giống như cảm giác, đặc tính phản ánh”.
Phản ánh là khả năng lưu giữ, tái hiện của hệ thống vật chất này, những
đặc điềm của hệ thống vật chất khác được hình thành trong sự tác động qua
lại giữa các hệ thống vật chất. Mức độ phản ánh phụ thuộc vào tính chất và
trình độ của hệ thống vật chất.
Vụ án hình sự là một quá trình vật chất xảy ra trong hiện thực, là hiện tượng
tồn tại khách quan trong thế giới vật chất. Vụ án hình sự xảy ra được thế giới
khách quan phản ánh lại bao gồm con người (có ý thức - mức độ phản ánh cao
nhất) và các vật phản ánh lại. Căn cứ vào đặc điếm của đối tượng phản ánh có
thể chia ra làm hai loại là phản ánh vật chất và phản ánh ý thức, tâm lý. Những
phản ánh đó thường được gọi là dấu vết cua tội phạm.
Chính vì sự• tồn tại
khách quan
mà tội
phạm
để lại
các dấu vết nhất định.
•
1
•
Ã.
•
•
•
Bằng cách thu thập các dấu vết để lại và thông qua chúng, con người có thể xác
định được sự thật khách quan của vụ án. Hai loại phản ánh về vụ án hình sự nêu
•
•
•
•
1
•
•
JL
•
•
trên khác nhau về cơ chế, q trình hình thành, hình thức tồn tại, nguồn lưu giữ
thơng tin được phản ánh. Căn cứ vào các đặc điểm hình thành và tồn tại của từng
loại dấu vết mà các nhà làm luật quy định các loại nguồn chứng cứ, trình tự, thủ
tục thu thập, bảo quản, kiểm tra, đánh giá chứng cứ khác nhau đề đảm bảo cho
việc xác định sự thật của vụ án.
•
•
•
•
•
“Sự kiện thực tế khách quan là chứng cứ đế chứng minh tội phạm phải
được ghi nhận và phản ánh ở những nguồn do Luật tố tụng hình sự quy định”
[8, tr 222], Nguồn chứng cứ là hình thức chứa đựng sự kiện thực tế khách
quan của vụ án. Những dấu vết của tội phạm được phản ánh, lưu giữ trong thế
giới khách quan được các chủ chủ thế tố tụng hình sự thu thập trong q trình
chứng minh và chính những vật có chứa đựng dấu vết tội phạm hoặc trí nhớ
7
của con người vê tội phạm thông qua lời khai của họ là những hình thức của
chứng cứ. Những hình thức lưu giữ dấu vết của tội phạm được gọi là nguồn
chứng cứ hay phương tiện chứng minh. Tuy nhiên, việc xác định cái gì là
nguồn chứng cứ lại phụ thuộc vào nhiều yếu tố mà kết quả là các qui định
trong Luật tố tụng hình sự mồi quốc gia.
Nếu tính khách quan và liên quan của chứng cứ là sự vận động nội tại cùa
những sự vật, hiện tượng thì tính hợp pháp của chứng cứ phản ánh sự nhận
thức chủ quan đối với các qui luật khách quan của các sự vật, hiện tượng. Vì
vậy, qui định của Luật tố tụng hình sự về nguồn, biện pháp thu thập của
chứng cứ phù hợp với điều kiện thực tế và các quy luật vận động của nó sẽ có
hiệu quả chứng minh cao, thể hiện sự nhận thức phù hợp với chân lý khách
quan. Trên cơ sở lý luận về nhận thức của chủ nghĩa duy vật biện chứng, Luật
tổ tụng hình sự nước ta quy định tài liệu được coi là chứng cứ phải được phản
ánh ờ những nguồn và các biện pháp thu thập chửng cứ.
Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam của Trường đại học Luật Hà Nội
cho rằng: “Nguồn chúng cứ là nhũng sự vật chứa đụng chúng cứ, tức chứa đụng
các thông tin, tư liệu tồn tại trong thực tể khách quan, liên quan đến vụ án và
được thu thập theo trình tự, thủ tục pháp luật quy định” [20, tr 168].
Có thể hiểu rằng, chứng cứ là thông tin, sự thật khách quan, cịn nguồn
chứng cứ là chứa đựng những thơng tin đó. Một nguồn chứng cứ có thể chứa
đựng nhiều thơng tin khác nhau về vụ án hình sự. Ngược lại, một thơng tin
phản ánh về vụ án cũng có thể chứa đựng trong nhiều nguồn chứng cứ khác
nhau. Nguồn chứng cứ là nguồn chứa đựng các thông tin tồn tại một cách
khách quan, khơng phụ thuộc vào ý chí con người và có liên quan đến vụ án.
Nguồn chứng cứ là cãn cứ để xác định tính hợp pháp của chứng cứ. Một
chứng cứ được coi là hợp pháp khi nó được chứa đựng một trong các loại
nguồn chửng cử hợp pháp theo quy định của pháp luật. Nguồn chứng cứ được
các cơ quan và người có thấm quyền thu thập theo trình tự, thủ tục do pháp
luật quy định.
8
1.1.2. Khái niệm nguôn chủng cứ là dữ liệu điện tử
Nguồn chứng cứ là dữ liệu điện tử điện tử và giám định dữ liệu điện tử là
những bổ sung gần đây cho các phương tiện chứng minh trong tố tụng hình
sự. Khơng giống như những nguồn chứng cứ khác thường được đưa vào q
trình xét xử với ít hoặc khơng có những sự tranh luận, nguồn chứng cứ là dữ
liệu điện tử đã gây ra cuộc thảo luận giữa các chuyên gia pháp lý. Các hệ
thống pháp luật khác nhau đã phản ứng theo nhiều cách khác nhau trước thách
thức mới này. Một số hệ thống đã đưa ra luật mới để giải quyết cụ thể nguồn
chứng cứ là dữ liệu điện tử. Các hệ thống khác cố gắng thiết lập “sự phù hợp
gần nhất” với các khái niệm chứng cứ hiện có và đã áp dụng tương tự các quy
tắc hiện có ở bất cứ nơi nào có thể, ví dụ: liệu nguồn chứng cứ là dừ liệu điện
tử có được chấp nhận hay khơng phụ thuộc vào việc nó tương tự như nguồn
chứng cứ là vật chứng. Hầu hết các hệ thống áp dụng sự kết hợp của cả hai
cách. Khi luật pháp mới được áp dụng, người ta nhấn mạnh vào sự khác biệt
giữa các hình thức nguồn chứng cứ là dữ liệu điện tử và truyền thống.
Trước tiên, về dữ liệu điện tử thực tiễn hiện nay, các đối tượng đã triệt để
lợi dụng sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, công nghệ để thực hiện và che
dấu tội phạm, nên để giải quyết các vụ án hình sự, việc thu thập các chứng cứ
điện tử là rất quan trọng. Do đó cần có nhận thức đúng đắn về dữ liệu điện tử.
Năm 1948, nhà toán học Tiến sĩ Claude Shannon đã phác thảo các cơng
thức tốn học làm giảm các q trình liên lạc thành mã nhị phân và tính tốn
các cách để gửi chúng qua các đường liên lạc. Kể từ đó, máy tính và các thiết
bị tính tốn kỹ thuật số khác đã sử dụng các phương pháp mã hóa dựa trên hệ
thống đánh số nhị phân.
Loại nguồn chứng cứ là dữ liệu điện tử được nhấc đến với những tên gọi
khác nhau là “nguồn chứng cứ kỳ thuật sổ”, “nguồn chứng cứ điện tử” hoặc
“nguồn chứng cứ máy tính”. Cả ba thuật ngữ đều thể hiện một số khía cạnh
rằng loại nguồn chứng cứ này có một số đặc điếm riêng biệt khiến nó trờ nên
khác biệt với các phương tiện chứng minh khác. Sự thay đổi công nghệ nhanh
9
chóng trong lĩnh vực cơng nghệ thơng tin làm cho bât kỳ định nghĩa vê tình
trạng cơng nghệ hiện tại đều có thể trở nên lỗi thời nhanh chóng. Ngược lại,
các định nghĩa phù hợp với sự phát triển công nghệ trong tương lai có xu
hướng quá trừu tượng đối với những phạm trù truyền thống trong các quy
định về nguồn chứng cứ này. Vì vậy, cần có cách tiếp cận định nghĩa về
nguồn chứng cứ là dữ liệu điện tử phù hợp với nhu cầu sử dụng cho mục đích
chứng minh trong tố tụng hình sự. Định nghĩa có mục đích pháp lý như vậy
có thể khơng phải lúc nào cũng đầy đũ và hoàn hảo với thuật ngữ trong khoa
học máy tính, nhưng nếu lưu ý điều này, có thể phát triển một định nghĩa phù
hợp với hầu hết các ứng dụng và mục đích.
“Máy tính” cho phép tội phạm ẩn danh tương đối và xâm phạm quyền
riêng tư và bí mật của các cá nhân, tồ chức theo những cách không thể thực
hiện được trước khi thời đại máy tính ra đời. Nguồn chứng cứ về những tội
phạm này không phải là vật chất, chúng tồn tại dưới dạng các xung điện tử và
mã lập trình. Nguồn chứng cứ này có thể ở dạng dữ liệu được lưu trữ kỳ thuật
số dưới dạng tệp văn băn, tệp đồ họa, âm thanh, hình ảnh, ghi hình có âm
thanh, cơ sở dữ liệu, tệp tạm thời, tệp bị xóa... Tất cà thơng tin này đều có thể
được truyền và lưu trữ dưới dạng tập hợp các tệp.
Để “dữ liệu điện tử” được xem là nguồn chứng cứ là thì dữ liệu điện tử
được thu thập theo trình tự, thủ tục do Luật tố tụng hình sự quy định về chứng
cứ. Tuy nhiên, pháp luật hiện hành chưa có khái niệm pháp lý về “nguồn
chứng cứ là dữ liệu điện tử” nhưng có thể hiểu nguồn chứng cứ là dữ liệu điện
tử bao gồm bất kỳ thông tin xác thực nào được lưu trữ hoặc truyền dưới dạng
kỹ thuật số mà các bên có thế sử dụng trước tịa. Tức là bất kỳ thông tin nào
lưu trữ hoặc truyền dưới dạng kỳ thuật số thì có thể xem là nguồn chứng cứ là
dữ liệu điện tử.
Hiện nay tại Việt Nam, theo điều 4 Luật Giao dịch điện tử năm 2005, dữ
liệu điện tử là “Thông tin dưới dạng ký hiệu, chừ viết, chữ số, hình ảnh, âm
thanh hoặc dạng tương tự”. Cịn “thơng điệp dừ liệu” là “Thơng tin được tạo
10
ra, được gửi đi, được nhận và được lưu trừ băng phương tiện điện tử” (như
chứng từ điện từ, thư điện tử, điện tín, điện báo, fax và các hình thức tương tự
khác...). Thông điệp dữ liệu được công nhận có giá trị như văn bàn, nếu thơng
tin chứa trong đó có thể truy cập, sử dụng để tham chiếu khi cần thiết và nội
dung của thông điệp dữ liệu được bảo đăm toàn vẹn, chưa bị thay đồi. Giá trị
chứng cứ cùa thông điệp dữ liệu được xác định căn cứ vào độ tin cậy của cách
thức khởi tạo, lưu trữ hoặc truyền gửi, cách thức xác định người khởi tạo... Từ
những quy định của Luật Giao dịch điện tử năm 2005, có thể thấy dữ liệu điện
tử trong tố tụng hình sự có giá trị pháp lý tương đương dấu vết, vật chửng
trong chứng cứ truyền thống để chứng minh tội phạm, nếu nó đáp ứng được
những yêu cầu luật định về việc thu thập, bảo quản, phục hồi, chuyển hóa...
Điều 99 BLTTHS năm 2015 định nghĩa dữ liệu điện tử như sau: “Dữ liệu điện
từ là ký hiệu, chừ viết, chữ số, hình ảnh, âm thanh hoặc dạng tương tự được tạo ra,
lưu trữ, truyền đi hoặc nhận được bởi phương tiện điện tủ’”. Từ định nghĩa này,
BLTTHS xác định nguồn (hình thức) chứa đựng dữ liệu điện tử: “Dừ liệu điện tử
được thu thập từ phươg tiện điện tử, mạng máy tính, mạng viễn thơng, trên đường
truyền và các nguồn điện tử khác”.
Điều 86 BLTTHS năm 2015 quy định chứng cứ là “những gì có thật,
được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định, được dùng làm
căn cứ để xác định có hay khơng có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi
phạm tội và những tình tiết khác có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án”. Như
vậy, để những dừ liệu điện tử có thể trở thành chứng cứ chứng minh trong vụ
án, đòi hỏi những nguồn chứng cứ là dữ liệu điện tử đó phải đâm bảo ba thuộc
tính của chứng cứ. Gồm: tính khách quan (có thật, tồn tại khách quan); tính
liên quan (có mối quan hệ với vụ án) và tính hợp pháp (được chứa đựng ở
những nguồn và thu thập theo đúng thủ tục, trình tự do BLTTHS quy định).
Theo ủy ban Bộ trưởng Hội đồng Châu Âu, Nguồn chứng cử là dữ liệu
điện tử trong tố tụng dân sự và hành chính (Committee of Ministers of the
Council of Europe, Electronic Evidence in Civil and Administrative
11
Proceedings, Council of Europe): "Electronic evidence means any evidence
derived from data contained in or produced by any device, the functioning of
which depends on a software program or data stored on or transmitted over a
computer system or network”. Từ nhận định trên có thể hiểu “Nguồn Chứng
cứ là dữ liệu điện tử” là các loại nguồn dữ liệu có trong hoặc được tạo ra bởi
bất kỳ thiết bị nào mà chức năng của nó phụ thuộc vào chương trình phần
mềm hoặc từ dữ liệu được lưu trữ hoặc truyền tải qua hệ thống máy tính,
mạng truyền thơng hoặc mạng máy tính.
Vậy từ khái niệm trên ta có thể khái quát “Nguồn chứng cứ là dữ liệu điện
tử” là tất cả những thông tin, dữ liệu được thu thập từ các thiết bị điện tử như
máy tính và các thiết bị lưu trữ thông tin, dữ liệu hay các thông tin, dữ liệu
điện thoại di động, máy ảnh kỹ thuật số, các phương tiện lưu trữ... cũng như
từ “mạng”.
Từ những quan điểm trên về nguồn chứng cứ và dữ liệu điện tử, tác giả
xin đưa ra khái niệm về nguồn chứng cứ là dữ liệu điện tử trong Luật tố tụng
hình sự như sau:
“Nguồn chứng cứ là dữ liệu điện tử được hiểu là hất kỳ dữ liệu nào được
tạo ra, lưu trữ, truyền đi hoặc nhận được hởi phương tiện điện từ; được thu
thập từ phương tiện điện tử, mạng máy tính, mạng viễn thơng, trên đường
truyền và các nguồn điện tử khác; tồn tại một cách khách quan, có liên quan
đến vụ án hình sự, được các chủ thể có thấm quyền thu thập theo trình tự, thủ
tục do pháp luật quy định dùng làm căn cứ để chứng minh tội phạm
Định nghĩa này có ba yếu tố:
Thứ nhất, “dữ liệu điện từ” bao gồm tất cả các dạng được tạo ra, lưu trữ,
truyền đi hoặc nhận được bởi phương tiện điện tử mà theo nghĩa rộng nhất
của nó, có thể được coi là “máy tính”.
Thứ hai, đinh nghĩa bao gồm các nguồn thu thập dữ liệu điện tử khác
nhau: phương tiện điện tử, mạng máy tính, mạng viễn thơng, trên đường
truyền (mạng mà dữ liệu có thể được lưu trữ hoặc truyền đi) và các nguồn
12
điện tử khác (bao gôm các thiêt bị tương tự tạo ra một đâu ra). Bao quát nhât,
định nghĩa này sẽ bao gồm bất kỳ dạng thiết bị nào, cho dù đó là máy tính, hệ
thống điện thoại, hệ thống và mạng viễn thông không dây, chẳng hạn như
Internet và các hệ thống máy tính nhúng chẳng hạn như điện thoại di động,
thẻ thông minh và hệ thống định vị... Có thể phân thành ba nhóm:
- Hệ thống máy tính mở: Hệ thống máy tính mở là những gì hầu hết mọi
người nghĩ về máy tính - hệ thống bao gồm ổ cứng, bàn phím và bộ điều
khiển như máy tính xách tay, máy tính để bàn và hệ thống máy chủ. Những hệ
thống này với lượng lưu trữ ngày càng tăng, có thể là nguồn chứng cứ là dữ
liệu điện từ phong phú. Một tệp đơn giản có thế chứa thơng tin buộc tội và có
thể có các thuộc tính liên quan, hữu ích trong một cuộc điều tra. Ví dụ, các chi
tiết như thời điểm tạo tệp, ai tạo tệp hoặc tệp được tạo trên máy tính nào đều
có thể quan trọng.
- Hệ thống thơng tin liên lạc. Hệ thống điện thoại truyền thống, hệ thống
viễn thông không dây, internet và mạng nói chung có thể là một nguồn chứng
cứ là dữ liệu điện tử. Ví dụ, thư điện tử email ta có thể biết: Thời gian một tin
nhắn được gửi, ai đã gửi nó hoặc nội dung tin nhắn. Đề xác minh thời điểm
một tin nhắn được gửi đi, có thể cần phải xác minh các tệp nhật ký từ các máy
chủ và bộ định tuyến trung gian đã xử lý một tin nhắn nhất định. Để xác minh
nội dung của một tin nhắn, có thể cần phải áp dụng các biện pháp điều tra tố
tụng đặc biệt như thu thập bí mật dữ liệu điện tử.
- Hệ thống máy tính nhúng (được thiết kế để thực hiện một chức năng
chuyên biệt nào đó). Điện thoại di động, trợ lý kỳ thuật số cá nhân, thẻ thông
minh và nhiều hệ thống khác có máy tính nhúng có thể chứa nguồn chứng cứ
là dữ liệu điện tử. Ví dụ: hệ thống định vị có thể được sử dụng để xác định vị
trí của một chiếc xe, các mơ-đun cảm biến và chẩn đốn có nhiều dừ liệu lưu
hữu ích để phân tích vụ tai nạn xe, bao gồm tốc độ xe, trạng thái phanh và ga
trong năm giây cuối cùng trước khi va chạm. Lị vi sóng hiện có sẵn với máy
13
tính nhúng có thê tải thơng tin từ internet và một sô thiêt bị gia dụng cho phép
người dùng lập trình chúng từ xa thơng qua mạng khơng dây internet.
Thứ ba, định nghĩa yêu cầu chứng cứ điện tử được thu thập từ các nguồn
chứng cứ là dữ liệu điện tử đảm bảo ba thuộc tính của chứng cứ đó là: tính
khách quan, tính liên quan và tính hợp pháp.
- Tính khách quan: Dữ liệu điện tử này có thật, tồn tại khách quan, có
nguồn gốc rõ ràng, khơng bị làm cho sai lệch, biến dạng. Đã được tìm thấy và
đang lưu trừ trên máy tính, điện thoại di động, email, ồ USB flash, tài khoản
trên mạng, trên máy chủ của nhà cung cấp dịch vụ Internet (IPS), đang truyền
trên mạng máy tính, mạng viễn thơng...
- Tính liên quan: Dữ liệu thu được có liên quan đến vụ án, được sử dụng
để xác định các tình tiết của vụ án. Tính liên quan thể hiện ở ngun lý, cơng
nghệ hình thành dữ liệu điện tử, thông tin về không gian, thời gian hình thành
dữ liệu, đường dẫn, địa chỉ lưu trữ, nội dung thơng tin, cookies truy cập...
- Tính hợp pháp: Nguồn chứng cứ là dữ liệu điện tử phải được các chủ thể
có thấm quyền thu thập theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định dùng làm
căn cứ để chứng minh tội phạm. Dữ liệu điện tử phải được thu thập đúng quy
định cùa pháp luật, sử dụng công nghệ được pháp luật công nhận, khi thu giữ
phương tiện điện tử, sao lưu dữ liệu, bảo quàn, phục hồi, phân tích, tìm kiếm
và giám định dữ liệu. Từng phương tiện điện tử phải được ghi cụ thế vào biên
bản, niêm phong để dữ liệu không thể bị can thiệp, tác động làm thay đồi kể
từ khi thu giữ hợp pháp. Việc phục hồi, tìm kiếm, giám định dữ liệu điện tử
chỉ được thực hiện trên bản sao; kết quả phục hồi, tìm kiếm, giám định phải
chuyển sang dạng có thể đọc, nghe hoặc nhìn được.
1.1.3. Đặc điểm của nguồn chủng cứ là dữ liệu điện tử'
1.1.3.1. Sự phụ thuộc vào phần cứng và phần mềm
Các nguồn chứng cứ truyền thống giúp con người dễ dàng tiếp cận thông
tin sau khi được tạo ra. Mọi sự vật, hiện tượng đều có thuộc tính phản ánh,
nên hoạt động của con người, trong đó có hành vi phạm tội đều để lại dấu vết
14
bên ngoài thê giới khách quan. Những dâu vêt của hành vi phạm tội có thê
được thế hiện dưới dạng vật chất hoặc được phản ánh, ghi nhận trong trí nhớ
của con người. Vì vậy, thơng qua việc thu thập nguồn chứng cứ là dữ liệu
điện tử một cách có hệ thống trong quá trình tiến hành tố tụng sẽ đưa đến sự
nhận thức đúng đắn bản chất của vụ án, dựng lại toàn bộ diễn biến khách quan
của sự việc phạm tội.
•
•
JL
•
•
Ngược lại, dữ liệu ở dạng điện tử phụ thuộc vào phần cứng và phần mềm.
Dữ liệu yêu cầu một phần mềm thơng dịch để cho phép nó được hiển thị ở
định dạng mà con người có thể đọc được, nghe được hoặc nhìn được. Người
dùng khơng thế tạo hoặc thao tác dữ liệu điện tử mà không có phần cứng
thích hợp. Dữ liệu điện tử khơng nên được coi như một đối tượng “ở đâu đó”
trên máy tính, giống như một cuốn sách trong thư viện. Thay vào đó, dữ liệu
điện tử được hiếu rõ hơn là một q trình mà theo đó các phần dữ liệu khó
hiểu được tạo ra, lưu trữ, truyền đi hoặc nhận được bởi phương tiện điện tử
được tập hợp, xử lý và hiển thị cho người dùng dễ đọc được, nghe được hoặc
nhìn được.
Theo nghĩa này, dữ liệu điện tử nó khơng tồn tại độc lập với phần mềm và
nó được tái tạo bằng thiết bị (phần cứng) mỗi khi người dùng mở nó. Nếu
những dữ liệu điện tử đó được tạo ra vào những năm 1990, thì những phần
mềm này hiện khơng cịn được bán trên thị trường nữa và ngay cả khi có phần
mềm như vậy, có thể khơng thể tải nó trên một hệ điều hành hiện đại. Một
vấn đề khác đối với dữ liệu cũ hơn là cần phải có một máy cụ thể với phần
mềm cụ thể để đọc dữ liệu.
1.1.3.2. Tốc độ công nghệ ảnh hưởng đến dữ liệu điện tử
Công nghệ thay đồi nhanh chóng về hệ điều hành, phần mềm ứng dụng và
phần cứng. Do đó, dừ liệu điện tử có thể trong tương lai sẽ không thể đọc,
hiểu hoặc sử dụng chúng với phần mềm hoặc phần cứng mới. Ví dụ: một
cơng ty phần mềm có thể khơng cịn sản xuất phần mềm tương thích với
những dữ liệu điện tử cũ nữa. Sự lỗi thời về kỳ thuật là một vấn đề lớn ảnh
15
hưởng đên mọi q trình tơ tụng, đặc biệt là do tôc độ thay đôi hiện nay trớ
nên quá nhanh cả về phần mềm và phần cứng.
Đặc điểm về tốc độ thay đổi khơng ngừng của cơng nghệ có thể đối chiếu
với nguồn chứng cứ truyền thống. Nguồn chứng cứ nhận dạng của nhân
chứng là một trong những dạng nguồn chứng cứ lâu đời nhất, nếu khơng
muốn nói là lâu đời nhất, được sử dụng trong xét xử. Mặc dù vậy, cách chúng
ta thu thập và giải thích nguồn chứng cứ nhân chứng trong các thủ tục tố tụng
đã thay đồi rất ít qua nhiều thế kỷ và các hệ thống pháp luật thường xuyên giữ
các khái niệm lỗi thời về mặt văn hóa như lời thề. Nguồn chứng cứ dấu vân
tay muộn hơn, với thời gian sử dụng hơn một trăm năm (từ năm 1905 đến
nay). Kể từ khi thành lập, trong khi những điều cơ bản của môn học vẫn giữ
nguyên, có những thay đổi quan trọng trong cách giải thích nguồn chứng cử
dấu vân tay, cũng như các quy trình thu thập, phân tích, giám định dấu vân
tay. Nguồn chứng cứ DNA vẫn còn muộn hơn, nhưng trong lịch sử của nó, đã
có những thay đổi đáng kể trong cách thức thu thập, phân tích và giài thích
DNA. Đối với nguồn chứng cứ là dừ liệu điện tử, tốc độ thay đổi là nhanh
hơn. Điều đó cũng có nghĩa là một chuyên gia phải có kiến thức cập nhật và
được đào tạo liên tục, điều quan trọng hơn là kinh nghiệm trong lĩnh vực này.
Chuyên gia về nguồn chứng cứ là dữ liệu điện tử cần biết và được đào tạo về
loại thiết bị và phần mềm cụ thể mà họ được yêu cầu phân tích.
Khả năng điều tra vụ án hình sự cũng bị cản trở bởi tốc độ thay đổi của
công nghệ. Đặc biệt, việc có được các cơng cụ điện tử có liên quan để phân
một thiết bị điện tử hay dữ liệu điện tử có thể khó khăn vì hai lý do: thứ
nhất, các công cụ này vẫn chưa được phát minh, và thứ hai, vì những cơng cụ
đó có thể đắt tiền.
1.1.3.3. Dữ liệu điện tử dễ bị xóa hoặc thay đổi
•
•
•
•
✓
Dữ liệu điện tử dễ bị tác động, bị xóa hoặc thay đồi trong quá trình lưu
trữ, truyền tải, sao chép... bởi các tác nhân như virus, dung lượng bộ nhớ, lệnh
16
của phân mêm, phương pháp truy cập, mớ, giải mã, truyên tài trên mạng, sao
lưu, cố ý hoặc vô ý sửa đồi, xóa....
Dựa vào đặc điểm này của dừ liệu điện tử, thì các CQTHTT cần có những
biện pháp phát hiện cũng như thu thập phương tiện điện tử, dữ liệu điện tử kịp
thời, đầy đủ, đúng thực trạng. Từ đó giúp giải quyết vụ án hình sự chính xác,
xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, phịng ngừa, ngăn chặn tội
phạm, khơng để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.
Đồng thời, dựa vào đặc điểm này thì các cơ quan có thấm quyền tiến hành
tố tụng cần lưu trữ, bảo toàn nguyên vẹn dữ liệu điện tử mà cơ quan có thẩm
quyền tiến hành tố tụng đã thu thập, sao lưu để đảm bảo dữ liệu điện tử đó có
đầy đủ điều kiện để dùng làm chứng cứ chứng minh trong vụ án hình sự.
1.1.3.4. Khối lượng và nhân bản
Việc tích hợp mạng viễn thơng và máy tính để tạo thành mạng máy tính
(chẳng hạn như mạng Internet) cho phép dữ liệu được tạo ra và trao đổi với
khối lượng lớn hơn nhiều so với mức có thể cho đến nay, và vượt qua các
ranh giới vật lý và địa lý. về bản chất email, tin nhắn và Internet là một công
nghệ sao chép và phân tán. Một khi các máy tính được nối mạng với nhau
theo kiểu này, một dữ liệu điện tử có thể được truyền đi và nhiều bản sao
được phân phối trên khắp thế giới rất nhanh.
Việc dễ dàng truyền đi và sao chép các dữ liệu điện tử đã làm tăng khối
lượng dừ liệu tiềm năng cần được xác định để có được các dữ liệu liên quan
đến vụ án hình sự. Do đó, để có thể tìm kiếm được dữ liệu có tính liên quan
đến vụ án hình sự thì yêu cầu đặt ra đối với các điều tra viên và chun gia
phải có trình độ, sự hiểu hiểu biết và kinh nghiệm chuyên sâu về dừ liệu điện
tử. Để đối phó hiệu quả với khối lượng dữ liệu này, sẽ cần đến các cơng cụ
máy tính cũng như phần mềm khai thác dữ liệu.
Nhiều người dùng máy tính hiện thường tải lên tất cả các tệp cùa họ với
mục đích sao lưu tới các nhà cung cấp dựa trên Internet (cơng nghệ “điện tốn
đám mây”), liên quan đến việc thuê ngoài dữ liệu của các máy chủ của bên
17
thứ ba (ví dụ Google) khơng thuộc sở hữu và kiêm sốt của họ và máy chủ có
thể được đặt trên toàn thế giới. Mặt khác, việc tự động tải dữ liệu lên cũng
đồng nghĩa với việc người dùng thiết bị mất quyền kiểm sốt thơng tin mà
mình đã tạo. Việc xóa hoặc loại bỏ thơng tin có thể ngày càng trở nên khó
khăn hơn khi nó đã được tạo trên thiết bị và thông tin được tài lên “đám mây”.
1.1.3.5. Siêu dữ liệu (metadata)
Siêu dữ liệu (metadata) là dạng dữ liệu mô tả thông tin chi tiết về dữ liệu.
Trong cơ sở dừ liệu, metadata là các sửa đối dạng biếu diễn khác nhau của các
đối tượng trong cơ sở dữ liệu. Trong cơ sở dữ liệu điện tử thì metadata là các
định nghĩa của bảng, cột, cơ sở dữ liệu, view và nhiều đối tượng khác.
Trong kho dữ liệu, metadata là dạng định nghĩa dữ liệu như: bảng, cột, một
báo cáo hay những quy tắc biến đổi. Metadata bao quát tất cả các phương diện
của kho dừ liệu. Trong quản lý tập tin, metadata chứa các thông tin thuộc tính
của tập tin đó như: tên tập tin, mơ tả tóm tắt, kích cỡ, ngày tạo ra...
Metadata là dữ liệu để mô tả dữ liệu. Khi dữ liệu được cung cấp cho người
dùng cuối, thông tin metadata sẽ cung cấp những thông tin cho phép họ hiểu
rõ hơn bản chất về dữ liệu mà họ đang có. Những thơng tin này sẽ giúp cho
người dùng có được những quyết định sử dụng đúng đắn và phù hợp về dữ
liệu mà họ đang có. Tuỳ thuộc vào từng mục đích sử dụng khác nhau, từng
loại dữ liệu khác nhau mà cấu trúc và nội dung dữ liệu metadata có thế có
những sự khác biệt. Song, nhìn chung sẽ bao gồm một số loại thông tin cơ
bản như sau:
- Thông tin mô tã về bàn thân dữ liệu metadata.
- Thông tin về dữ liệu mà metadata mô tả.
- Thông tin về cá nhân, tồ chức liên quan đến dữ liệu metadata và dữ liệu.
Tất cả các dữ liệu ở định dạng điện tử sẽ chứa siêu dữ liệu ở dạng này hay
dạng khác, bao gồm thông tin liên lạc qua email, bảng tính, trang web và tài
liệu văn bản. Trên thực tế, một dừ liệu điện tử phải có siêu dữ liệu để giúp
diễn giãi mục đích của dữ liệu điện tữ. Dữ liệu đó có thể bao gồm và được lấy
18
tự động từ phân mêm ứng dụng gôc hoặc do người tạo bản ghi ban đâu cung
cấp. Danh sách thông tin có sẵn bao gồm: thời điểm và cách thức một tài liệu
được tạo (ngày và giờ), loại tệp, kích cỡ, vị trí mà từ đó tệp đã được mở hoặc
nơi nó được lưu trữ, khi tệp được mở lần cuối (ngày và giờ), khi nó được sửa
đổi lần cuối, khi tệp được lưu lần cuối, khi nó được in lần cuối, danh tính của
tệp có mục đích các tác giả trước đó, vị trí cùa tệp trong mồi lần nó được lưu
trữ, thơng tin chi tiết về những người khác có thể có quyền truy cập vào tệp.
Vì siêu dữ liệu thường được phần mềm tạo tự động và người dùng khơng biết,
do đó, việc thay đổi, thao tác hoặc xóa cũng khó hơn.
Việc giải thích siêu dữ liệu đòi hỏi sự cần thiết phải đưa ra các giả định về
môi trường mà chúng được tạo ra. Nếu thời gian trên thiết bị khơng chính xác
(ví dụ: máy tính xách tay di chuyển qua các múi giờ mà không được điều
chỉnh theo múi giờ này hoặc đồng hồ chạy chậm hoặc đã được cố tình thay
đổi), siêu dữ liệu được ghi sẽ là sai.
1.1.3.6. Sự thể hiện trung gian (chuyến đổi) của dữ liệu điện tử
Dữ liệu điện tử phải được chuyển thành dạng mà con người có thể đọc
được, nghe được hoặc nhìn được thơng qua trung gian của một bộ công nghệ
(bao gồm cả phần mềm và phần cứng). Điều này có nghĩa là sự khác biệt xảy ra
trong cách hiển thị cùng một đối tượng nguồn trong các tình huống khác nhau.
Một ví dụ điển hình phổ biến cho tất cả người dùng Internet là một trang web
có thể trơng rất khác nhau tùy thuộc vào loại màn hình và trình duyệt được sử
dụng. Do đó, khơng thể có khái niệm về một trung gian của một đối tượng dữ
liệu điện tử cụ thể. Điều này có thể có hậu quà pháp lý rõ ràng. Một tài liệu hợp
đồng điện tử được soạn thảo và được gửi qua email cho người mua và được mở
trên máy của người mua bàng một chương trình phần mềm khác, dữ liệu định
dạng này có thể khơng đọc được.
Với nguồn chứng cứ truyền thống, hành động quan sát hoặc phân tích hiện
trường vụ án khơng được phép làm thay đổi hiện trường, vật chứng cần phải
được thu thập đầy đủ, kịp thời tránh mất mát, hư hỏng hay bị tiêu huỷ hoặc
19
đánh tráo. Ngược lại, với nguôn chứng cứ là dừ liệu điện tử, hành động khởi
động máy tính và mở dữ liệu sẽ làm thay đổi nó. Những người sử dụng khác
nhau chỉ sử dụng máy móc khác nhau một chút sẽ tạo lại các phiên bàn khác
nhau cùa dữ liệu điện tứ được đề cập và không dễ dàng để quyết định cái nào
trong số chúng là “xác thực”.
Để quản lý vấn đề này, có lẽ chúng ta có thề phải xác định các tiêu chuẩn,
giao thức và quy trình thích hợp, cũng như phần cứng và phần mềm liên quan
đến việc quản lý và sử dụng bất kỳ dừ liệu điện tử nào. Do đó, cần có những
quy định về việc chuyển đổi trung gian dừ liệu điện tử để đảm bão các dạng
có thế đọc được, nghe được hoặc nhìn được cùa dữ liệu điện tử thế hiện một
•
•
2
4^2
•
•
•
•
•
•
•
cách xác thực nhất.
1.1.3.7. Phương tiện lưu trừ
Phương tiện mà dữ liệu điện tử được lưu trừ trên đó rất mỏng manh.
Phương tiện lưu trữ điện tử vốn không ổn định và trừ khi phương tiện được
lưu trừ đúng cách, nó có thể xuống cấp nhanh chóng mà khơng có dấu hiệu hư
hỏng bên ngồi. Nó cũng có nguy cơ bị thiệt hại do vô ý hoặc cố ý và việc
xóa do cố ý hoặc cố ý.
Máy tính và hệ thống hiện nay chù yếu hoạt động trong môi trường kết nối
mạng. Thế giới mạng bao gồm các thiết bị (máy nghe nhạc MP3, máy tính,
máy tính xách tay, điện thoại di động, trợ lý ảo cá nhân, máy tính bảng...)
được liên kết bằng các ứng dụng chạy qua các mạng (Internet, mạng nội bộ,
mạng không dây, mạng di động...). Bản chất của thiết lập này là hầu hết mọi
thứ mà bất kỳ ai làm trên một thiết bị được kết nối với mạng đều có khả năng
được phân phối và nhân bản một cách dễ dàng. Ket quả là, cùng một mục dữ
liệu điện tử có thể lưu trữ ở hàu hết mọi nơi. Điều này ảnh hưởng đen quá
trình giải quyết vụ án hình sự.
1.1.4. Phân loại nguồn chúng cứ là dữliệu điện tủ'
Nhiều thiết bị khác nhau có khả năng tạo và lưu trữ dữ liệu ở dạng kỳ
thuật số và những dữ liệu đó có thể dùng làm nguồn chứng cứ là dữ liệu điện
tử. Mục đích của việc phân loại là giới thiệu các công nghệ, các nguyên tắc cơ
20