MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN............................................................................................... 1
MỤC LỤC...........................................................................................................2
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT.......................................................................... 4
DANH MỤC CÁC BẢNG................................................................................. 5
MỞ ĐẦU............................................................................................................. 1
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐÈ LÝ LUẬN VỀ KHÁNG CÁO, KHÁNG
NGHỊTHEO THỦ TỤC PHÚC THẦM TRONG TĨ TỤNG HÌNH sự....... 7
1.1. Khái niệm kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm........................ 7
1.1.1. Khái niệm kháng cáo................................................................................ 7
1.2. Đặc điểm của kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm................ 16
1.3. Ý nghĩa của kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thấm.....................16
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1.................................................................................. 22
CHƯƠNG 2: QUY ĐỊNH CÙA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH sự NĂM
2015 VỀ KHÁNG CÁO, KHÁNG NGHỊ THEO THỦ TỤC PHÚC THẨM 23
2.1. Đối tượng của kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm............... 23
2.2. Chủ thể và phạm vi kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm....... 26
2.3. Căn cứ kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thấm............................37
2.4. Thủ tục và hình thức kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm..... 40
2.5. Thời hạn kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thấm........................ 43
2.6. Thông báo về việc kháng cáo, gửi quyết định kháng nghị theo thủ tục
phúc thẩm......................................................................................................... 48
2.7. Hậu quả của kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thấm................... 50
2.8. Thay đổi, bồ sung và rút kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm 51
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2................................................................................ 57
CHƯƠNG 3: THựC TIỄN KHÁNG CÁO, KHÁNG NGHỊ THEO THỦ
TỤC PHÚC THẨM TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ GIANG VÀ GIẢI PHÁP
NÂNG CAO HIỆU QUẢ KHÁNG CÁO, KHÁNG NGHỊ
—
3.1. Thực tiên kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thâm trên địa bàn tỉnh
Hà Giang
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc
thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam.............................................................. 73
KẾT LUẬN CHNG 3................................................................................ 90
KẾT LUẬN........................................................................................................91
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................... 93
DANH MỤC CHŨ VIẾT TẲT
BLTTHS:
BƠ• lt
hình sư•
•
Bộ luật tố tụng hình sự
VKS:
VKSND:
Viên
• kiểm sát
Viên
• kiểm sát nhân dân
TAND:
Tịa án nhân dân
HĐXX:
Hội đồng xét xử
BLHS:
DANH MỤC CÁC BẢNG
số hiệu
bảng, biểu
Bảng 3.1
Bảng 3.2
Bảng 3.3
Bảng 3.4
Thống kê số vụ án, số bị cáo thực hiện quyền kháng
cáo phúc thấm trên tổng số vụ án, số bị cáo đã xét xừ
sơ thẩm (từ năm 2016 đến năm 2020)
Thống kê số vụ án xét xử phúc thẩm theo kháng cáo
trên tổng số án xét xử phúc thấm (từ năm 2016 đến
năm 2020)
Thống kê số vụ án, số bị cáo có kháng nghị của Viện
kiểm sát cấp trên trực tiếp theo thủ tục phúc thẩm
trên tông số vụ án, số bị cáo đã xét xử sơ thẩm
Thống kê tỷ lệ sổ bị cáo Tòa án cấp phúc thẩm y án
sơ thẩm (từ năm 2016 đến năm 2020)
Thông kê tý lệ Tòa an cap phúc thâm chap nhận
kháng cáo, kháng nghị sửa, hủy án sơ thẩm trên tổng
số vụ có kháng cáo, kháng nghị (từ năm 2016 đến
năm 2020)
Thống kê tỷ lệ rút kháng nghị của VKS (từ năm 2016
đên năm 2020)
rpl
Bảng 3.5
Bảng 3.6
Trang
Tên bảng
Ắ
1
/N
.
9
1
rp K
X
Ắ
1
s
. 1
Ẩ
1
Á
1
62
64
65
66
/\
68
69
MỎ ĐÀU
1. Tính câp thiêt của đê tài
Việc quy định và thực hiện nguyên tắc “Thực hiện chế độ hai cấp xét
xử” trong tố tụng hình sự góp phần quan trọng vào việc bảo đảm quyền và
lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, đặc biệt là của bị cáo, bị
hại. Việc xét xử lại vụ án một lần nữa tại cấp phúc thẩm giúp Tòa án cấp
trên thực hiện tốt công tác giám đốc xét xử của Tòa án cấp dưới, kịp thời
phát hiện và sửa chữa sai lầm, vi phạm pháp luật của Tòa án cấp dưới. Việc
đảm bảo các quyền lợi và nghĩa vụ cơ bản của cơng dân, cũng như đảm bào
tính đúng đắn của bản án, quyết định của tòa án là những đòi hỏi tất yểu
của nhà nước pháp quyền. Trong những năm qua, cơng tác tư pháp nói
chung và cơng tác giải quyết án hình sự và đạt được những thành tích đáng
kể, được tiến hành một cách minh bạch hơn, khách quan hơn, quyền lợi của
người tham gia tố tụng cũng được quan tâm hơn, xu thế mở rộng tranh tụng
tiếp tục được khẳng định. Tuy vậy, vẫn còn một số bản án, quyết định sơ
thấm chưa đảm bảo được tính có căn cứ, tính hợp pháp, ảnh hưởng đến
quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo, bị hại và đương sự. Để người tham
gia tố tụng bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp của mình trước những
phán quyết khơng hợp pháp, khơng có căn cứ của Tịa án cấp sơ thẩm, pháp
luật tố tụng hình sự đã quy định cho họ quyền kháng cáo Bản án, quyết
định sơ thấm chưa có hiệu lực pháp luật. Bên cạnh đó Viện kiểm sát cùng
cấp với Tịa án cấp sơ thẩm và Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp được nhà
nước trao quyền kháng nghị Bán án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực
pháp luật nhằm đảm bảo tính hợp pháp của bản án, quyết định đó, cũng
như bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng.
1
Trong tơ tụng hình sự Việt Nam, kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục
phúc thẩm là chế định quan trọng, thể hiện quyền năng pháp lý của bị cáo, bị
hại, đương sự và Viện kiểm sát bằng sự phản đối Bản án, quyết định sơ thẩm
chưa có hiệu lực pháp luật về hình thức, thủ tục, thời hạn theo quy định của
pháp luật đề nghị Tòa án cấp phúc thấm xét xử lại vụ án hoặc xét lại quyết
định sơ thẩm nhằm bão vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người tham gia tố
tụng, bảo đảm tính hợp pháp và tính cỏ căn cứ của bản án, quyết định sơ
thẩm. Trải qua những lần pháp điển hóa, chế định kháng cáo, kháng nghị theo
thủ tục phúc thẩm không ngừng được hoàn thiện, về cơ bản, các quy định
việc kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm trong Bộ luật tố tụng hình
sự hiện hành đã đáp ứng được yêu cầu của việc thực hiện quyền này trên thực
tế, đảm bão được ý nghĩa thực sự của nó. Tuy nhiên một số quy định việc
kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm đã bộc lộ vướng mắc, hạn chế cũng như bất
cập trong quá trình áp dụng pháp luật làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích của
người tham gia tố tụng. Chẳng hạn như việc quy định đối tượng và chủ thể
của kháng cáo cịn chưa rõ ràng, chưa có quy định cụ thể về căn cứ kháng
nghị phúc thấm, thời hạn kháng cáo kháng nghị còn chưa phù hợp,...Mặc dù
đã có một số cơng trình, báo viết về kháng cáo, kháng nghị nhưng chưa có
cơng trình nào đề cập sâu đến thực tiễn kháng cáo, kháng nghị tại địa bàn tỉnh
Hà Giang nên rất cần có cơng trình nghiên cứu để làm rõ thực tiễn thực hiện
kháng cáo, kháng nghị tại địa phương này. Do đó việc hồn thiện pháp luật tố
tụng hình sự và đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc thực hiện
kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm là một nhu cầu tất yếu khách
quan trong xây dựng nhà nước pháp quyền hiện nay.
Chính vì vậy việc lựa chọn đề tài: “Khảng cảo, kháng nghị theo thủ tục
phúc thâm trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 (trên cơ sở thực tiễn địa
2
bàn tỉnh Hà Giang) ” làm luận văn thạc sĩ luật học là có tính câp bách và cân
thiết trong thời điểm hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong khoa học luật tố tụng hình sự Việt Nam, vấn đề kháng cáo,
kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm đã được nghiên cứu ở nhiều góc độ và
phạm vi khác nhau như Luận án tiến sĩ luật học Hiệu lực của kháng cáo,
khảng nghị theo thủ tục phúc thâm trong tố tụng hình sự Việt Nam của tác giả
Mai Thanh Hiếu; luận văn thạc sĩ luật học Kháng cáo, kháng nghị trong phúc
thẩm hình sự của tác giả Ngơ Thanh Xuyên; Luận văn thạc sĩ luật học Phúc
thâm trong tổ tụng hình .vực ủa tác giả Phạm Thị Thanh Mai; sách Bình luận
khoa học hộ luật tố tụng hình sự năm 2015 cùa tác giả Phạm Mạnh Hùng (chủ
biên). Các cơng trình nghiên cứu nói trên đã đề cập những vấn đề lý luận và
thực tiễn trong việc áp dụng pháp luật tố tụng hình sự về kháng cáo, kháng
nghị theo thủ tục phúc thẩm như: đối tượng, chủ thể, phạm vi, hình thức, thủ
tục, thời hạn. Đồng thời, làm sáng tỏ các yêu cầu và giải pháp bảo đảm các
quy định về kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm được thực hiện
nghiêm chỉnh thống nhất.
Ngồi ra cịn nhiều bài viết kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc
thẩm đăng trên các tạp chí chuyên ngành như: “Một số vẩn đề lý luận và thực
tiễn về kháng nghị phúc thâm hình sự" cùa tác giả Lê Thành Dương; “Quyền
kháng cảo và phạm vi quyền khảng cáo của người bị buộc tội trong tố tụng
hình sự Việt Nam" của tác giả Trần Hồng Ca; “Kháng nghị phúc thâm —
những vấn đề lý luận và thực tiền" của tác giả Đinh Văn Quế. Các bài viết đã
phân tích những quy định của pháp luật tố tụng hình sự về kháng cáo, kháng
nghị theo thủ tục phúc thẩm, đồng thời chỉ ra những điểm còn tồn tại của
pháp luật tố tụng hình sự là cơ sở đe các nhà làm luật tiếp tục nghiên cửu
hoàn thiện.
3
Nhìn chung, tình hình nghiên cứu liên quan đên đê tài luận văn khá
phong phú, tuy nhiên tuy nhiên chưa có cơng trình nào nghiên cứu về kháng
cáo kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm trong Bộ luật tố tụng hình sự năm
2015 trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Hà Giang. Luận văn này là sự kế thừa
và phát triển những vấn đề lý luận của những công trình nghiên cứu trước,
phân tích tương đối tồn diện và trên sâu những vấn đề thực tiễn mới bị kháng
cáo kháng nghị theo thủ tục phúc thấm của Bộ luật hình sự năm 2015, từ đó
đề xuất những giải pháp hoàn thiện pháp luật, bảo đảm thực hiện và nâng cao
hiệu quả công tác kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm trong tố tụng hình sự nói
chung và thực tiễn tại tỉnh Hà Giang nói riêng.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn:
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận, pháp
luật và thực tiễn thi hành pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về kháng cáo,
kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm ở Việt Nam nói chung và tại tỉnh Hà
Giang nói riêng.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Luận văn nghiên cứu về kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm theo Bộ
luật tố tụng hình sự năm 2015.
+ về khơng gian: Luận văn nghiên cứu thực tiễn kháng cáo, kháng nghị
trên địa bàn tỉnh Hà Giang.
+ về thời gian: Luận văn nghiên cứu thực tiễn kháng cáo, kháng nghị
từ năm 2016 đến năm 2020.
4. Mục
vụ• nghiên
cứu của luận
văn
• tiêu và nhiệm
•
O
•
Mục tiêu nghiên cứu của luận văn là đề xuất các giải pháp nâng cao
hiệu quả kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thấm trong tố tụng hình sự.
Để đạt được những mục tiêu trên, luận văn tập trung giải quyết các nhiệm vụ
sau:
4
- Làm rõ cơ sở lý luận của kháng cáo, kháng nghị theo thú tục phúc
thẩmtrong tố tụng hình sự như: khái niệm, ý nghĩa của kháng cáo, kháng nghị
theo thủ tục phúc thẩm trong tố tụng hình sự.
- Phân tích các quy định cùa BLTTHS năm 2015 về kháng cáo, kháng
nghị theo thủ tục phúc thẩm, có so sánh với quy định của BLTTHS năm 2003
để đánh giá sự phát triển của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành.
- Đánh giá toàn diện thực tiễn kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc
thấm trong thời gian từ năm 2016 đến năm 2020, từ đó rút ra những mặt tích
cực, hạn chế và tìm ra ngun nhân của những hạn chế đó.
- Đề xuất các giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quă thi hành các
quy định của BLTTHS năm 2015 về kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc
thẩm trong thời gian tới.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở phương pháp luận của luận văn là học thuyết Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, quan điểm của đảng Cộng sản
Việt Nam về cải cách tư pháp, dân chủ trong hoạt động tố tụng và xây dựng,
hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Phương pháp nghiên cứu của luận văn gồm các phương pháp phân tích,
tổng hợp, so sánh, phương pháp thống kê, lịch sử.
6. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của luận văn
6.1. Ỷ nghĩa khoa học
về mặt khoa học: Luận văn là công trình nghiên cứu trực tiếp và có hệ
thống những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về kháng cáo
kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm trên địa bàn tĩnh Hà Giang. Ket quà nghiên
cứu của luận văn, đặc biệt là các luận điểm khoa học về khái niệm, ý nghĩa
cao kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, làm cơ sở cho việc đánh giá, nghiên
cứu quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về kháng cáo, kháng
5
nghị theo thủ tục phúc thâm, góp phân bơ sung, hồn thiện lý luận khoa học tơ
tụng hình sự về vấn đề kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm
6.2. Y nghĩa thực tiên
về mặt thực tiễn: Ket quả nghiên cứu của luận văn, đặc biệt là các luận
điểm khoa học trong việc phân tích pháp luật, giài pháp và những kiến nghị
hoàn thiện pháp luật về kháng cáo, kháng nghị theo thù tục phúc thẩm đóng
góp về mặt thực tiễn trongáp dụng xét xử phúc thẩm của Tòa án cấp phúc
thầm tại Hà Giang khi có kháng cáo, kháng nghị.
7. Bố cục
của luận
văn
•
•
Ngồi phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn được chia thành ba chương. Cụ thế:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục
phúc thẩm trong tố tụng hình sự
Chương 2: Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về kháng
cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thấm
Chương 3: Thực tiễn kháng cáo, kháng nghị và giải pháp nâng cao
hiệu quả kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thấm trong tố tụng hình
sự Việt Nam.
6
CHƯƠNG 1:
MỘT SỐ VÁN ĐỀ LÝ LUẬN VÈ KHÁNG CÁO, KHÁNG NGHỊTHEO
THỦ TỤC PHÚC THẨM TRONG TĨ TỤNG HÌNH sụ
1.1. Khái niệm kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thấm
1.1.1. Khái niệm kháng cáo
Kháng cáo là một trong những cơ sở pháp lý làm phát sinh thủ tục xét
xừ phúc thẩm vụ án hình sự, nhưng trước hết kháng cáo là quyền tố tụng quan
trọng, được pháp luật TTHS Việt Nam ghi nhận và bảo đảm thực hiện đế
những chủ thể có quyền kháng cáo được thể hiện sự khơng đồng tình của
mình đối với phán quyết của Tịa án trong băn án, quyết định sơ thẩm chưa có
hiệu lực pháp luật. Tuy nhiên, khái niệm về kháng cáo chưa được định nghĩa
cụ thể ờ góc độ pháp luật và vẫn còn những cách hiếu khác nhau. Việc làm rõ
khái niệm này có ý nghĩa trong việc nhận thức đúng đắn cẳ lý luận và thực
tiễn về kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm trong tố tụng hình sự.
Quyền kháng cáo đã tồn tại từ thời kỳ phong kiến ở Việt Nam, nhưng
dưới tên gọi là “kêu oan”. Trong Bộ Quốc triều khám tụng điều lệ được ban
hành vào năm 1777 dưới thời vua Lê Hiển Tơng có quy định: “Mọi trường
hợp bị người quyền quý ức hiếp thiệt hạị nặng, cùng các trường hợp oan ức,
không biết khám lệ ở nhà mơn nào, cho khua chiêng gióng mõ kều oan ”[09,
tr710].Khi bàn về chế định kháng cáo trong pháp luật phong kiến Việt Nam
thời kì Hậu Lê, tác giả Ngô Thanh Xuyên đã đưa ra ghi nhận rằng khái niệm
kháng cáo đã xuất hiện trong pháp luật phong kiến Việt Nam, theo đó: “Nhãn
dân, người kiện cáo khi chưa phục tình, tình lí cỏ điều gì bức bách sẽ thực
hiện quyền kháng cáo, quyền phúc cáo lên cơ quan tài phán cap trên trực
tiếp’’ [52, tr53].
Ở góc độ ngơn ngữ, “kháng” có nghĩa là “chống lại”. Theo Từ điển
Tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học xuất bản năm 2006,kháng cáo là “Chống
7
án, yêu câu Tòa án câp trên xét xử" [54, tr888J. Quan điêm nàyđã đưa ra
được bản chất của kháng cáo là “chống án”, tức là chống lại,phản đối phán
quyết của Tòa án ỳằ“yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử ”lại.Tuy nhiên, khái niệm
này cịn mang tính khái qtvà chưa cụ thể; chưa đề cập đến những vấn đề có
liên quan như đối tượng, chủ thể của kháng cáo.
Tác giả Đinh Văn Quế cho vãng:" Kháng cáo là biêu thị sự khơng đồng
ý của mình đoi với hàn án hoặc quyết định của Tòa án cap sơ thâm và đề nghị
(yêu cầu) Tòa án cấp trên xét xử lại ”[34, tr272]. Khái niệm tuyđã đưa ra
được những vấn đề có liên quan như chủ thể, đối tượng của kháng cáo nhưng
vẫn còn một số điểm chưa hợp lý như: tác giả cho rằng đối tượng của kháng
cáo là bản án hoặc quyết định của Tòa án cấp sơ thấm là chưa đầy đủ mà phải
là bản án hoặc quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật; chủ thể có
quyền kháng cáo trong khái niệm nàychưa xác định cụ thể là ai; thẩm quyền
xét xử phúc thẩm thuộc về “Tịa án cấp trên ” là chưa chính xác bởi chỉ Tịa
án cấp trên trực tiếp mới có thẩm quyền xét xử phúc thẩm.
Theo Từ điển Luật học của Viện khoa học pháp lý Bộ Tư pháp: “Kháng
cáo là hành vi chong án, yêu cầu Tòa án cap trên xét xử phúc thâm đoi với
bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật trong trường hợp đương sự
khơng đồng ỷ với toàn bộ bản án hoặc một phần của bản án, quyết định sơ
thâm" [47, tr417], Quan điểm này nhìn chung đã nêu được những vấn đề cơ
bảncủa khái niệm kháng cáo.Tuy nhiên hiện naykhoa học pháp lý đã khơng
cịn ghi nhận cách sử dụng thuật ngữ “chống án”. Bên cạnh đó, điểm g khoản
1 Điều 4 BLTTHS năm 2015 quy định “đương sự” gồm: nguyên đơn dân sự,
bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự. Vậy
việc gọi chủ thể của kháng cáo là “đương sự” trong khái niệm nàylà chưađầy
đũ và hợp lý.
8
Trong Giáo trình Luật tơ tụng hình sự Việt Nam của Trường Đại học
luật thành phố Hồ Chí Minh đã đưa ra khái niệm kháng cáo là “quyền của
những chủ thê theo quy định của pháp luật được đề nghị Tòa án cấp trên trực
tiếp xét xử lại bản án và quyết định của Tòa án cấp sơ thâm chưa có hiệu lực
pháp luật” [44, tr525].Quan điểm này tuyvề cơ bản đã cụ thể hóa được các
vấn đề liên quan đến kháng cáo, nhưng việc cho rằng ‘‘Tòa án cấp trên trực
tiếp xét xử lại bản án và quyết định của Tịa án cấp sơ thấm ” là khơng hợp lý
mà cần được nêu rõ Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án mà Bản án chưa
có hiệu lực pháp luật, cịn đối với quyết định thì xét lại chứ khơng phâi là xét
xữ lại mới chính xác.
Theo Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam của Trường Đại học
Luật Hà Nội, kháng cáo là “quyền của những người tham gia tố tụng theo quy
định của pháp luật đề nghị Tòa án cap trên trực tiếp của Tòa án cấp sơ thẩm
xét xử lại vụ án hoặc xét lại quyết định sơ thâm chưa có hiệu lực pháp luật”
•
•
•
9
JL
9
9
9
JL
JL
9
[43, tr459J. Có thể thấy đây là khái niệm hợp lý nhất, khẳng định rõ đối tượng
kháng cáo là bán án, quyết định sơ thẩm cùa Tòa án chưa có hiệu lực pháp
luật và Tịa án có thẩm quyền phúc thẩm là Tòa án cấp trên trực tiếp của Tòa
án đã ra bản án, quyết định sơ thẩm cũng như đối với bản án là xét xử lại còn
quyết định chỉ là xét lại là phù hợp với lý luận và thực tiễn.
Nhìn chung, các quan điểm về khái niệm kháng cáo nói trên tuy khác
nhau về góc độ tiếp cận nhưng vẫn có tính thống nhất với nhau ở một sổ điếm
cơ băn như đều xác định kháng cáo là quyền của bị cáo và những người tham
gia tố tụng khác, thể hiện sự khơng đồng tình cùa mình đối với bản án, quyết
định sơ thẩm,... Tuy nhiên, để làm rõ một cách hợp lý và khoa học về khái
niệm kháng cáo theo thú tục phúc thẩm, cần xuất phát từ những cơ sớ lý luận
sau đây:
9
Thứ nhât, kháng cáo nói chung và kháng cáo trong tơ tụng hình sự nói
riêng là một trong những quyền cơ bản cùa con người, không chỉ được ghi
nhận trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam mà cịn được ghi nhận trong
các văn kiện pháp lý quốc tế.Khoản 5 Điều 14 Công ước Quốc tế về các
quyền dân sự và chính trị quy định: “Bất kỳ người nào bị kết án là phạm tội
đều có quyền yêu cầu tòa án cấp cao hơn xem xét lại bản án và hình phạt đối
với mình theo quy định của pháp luật”. Trong pháp luật Việt Nam, quyền
kháng cáo là quyền của những người tham gia tố tụng theo quy định của pháp
luật thể hiện sự bất đồng của mình thơng qua việc yêu cầu Tòa án cấp trên xét
xử lại vụ án hoặc xét lại quyết định sơ thẩm. Như vậy, có thể hiểu kháng cáo
là “quyền mà pháp luật dành cho những người tham gia tố tụng được đề nghị
Tòa án cấp trên trực tiếp xét lại bản án và quyết định của Tòa án cấp SO' thâm
đang còn trong thời hạn kháng cáo ”[47, tr403J.
Thứ hai, kháng cáo là quyền luật định cho những người tham gia tố
tụng trong giai đoạn xét xử nhưng không phải người tham gia tố tụng nào
cũng có quyền kháng cáo. Chủ thể của quyền kháng cáo là những người tham
gia tố tụng có quyền và lợi ích bị ảnh hưởng bởi phán quyết của Tòa án, thực
hiện quyền kháng cáo để tự bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình đối với
phán quyết của Tịa án mà theo họ là khơng hợp lý, thiếu căn cứ và khơng hợp
pháp. Nói cách khác chỉ những chủ thể là người tham gia tố tụng được pháp
luật quy định thì mới có quyền kháng cáo.
Thứ ba, cũng như việc thực hiện những hoạt động tố tụng khác, kháng
cáo phải được thực hiện một cách hợp pháp theo đúng quy định về thủ tục,
thời hạn, giới hạn cũng như các quy định khác của pháp luật. Kháng cáo là cơ
sở, là nội dung của xét xử phúc thẩm. Theo đó, kháng cáo là căn cứ đê Tòa án
cấp phúc thẩm xét xử lại vụ án hoặc xét lại quyết định của Tòa án cấp sơ
thẩm. Đúng như Điều 345 BLTTHS năm 2015 quy định: “7ỡứ án cấp phúc
10
thâm xem xét phân nội dung của bản án, quyêt định bị kháng cáo,...”. Như
vậy, trường hợp kháng cáo của người tham gia tố tụng đúng theo trình tự, thủ
tục luật định thì Tịa án cấp phúc thẩm sẽ xem xét lại những nội dung bị
kháng cáo theo thủ tục phúc thấm.Kháng cáo khơng được coi là hợp pháp nếu
nó không biểu hiện bằng những cách thức cụ thể trong một khoảng thời gian
mà pháp luật quy định. Chỉ khi đảm bảo các u cầu về tính hợp pháp thì
kháng cáo mới được xem là cơ sở để phát sinh thủ tục phúc thẩm.
Thứ tư, đối tượng của kháng cáo là bản án, quyết định sơ thẩm chưa có
hiệu lực pháp luật. Sau khi xét xử sơ thẩm, pháp luật sẽ quy định một khoảng
thời gian để một số người tham gia tố tụng xem xét việc kháng cáo đối với bản
án, quyết định sơ thẩm trước khi bản án, quyết định sơ thẩm đócó hiệu lực pháp
luật. Khi có kháng cáo Tòa án cấp trên trực tiếp của Tòa án cấp sơ thẩm sẽxét xử
lại vụ án hoặc xét lại quyết định sơ thẩm theo thủ tục phúc thẩm.
Thứ năm, kháng cáo có mục đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
bị cáo, bị hại và đương sự. Thơng qua việc kháng cáo, Tịa án cấp trên trực
tiếp có cơ sở để xét xử lại vụ án hoặc xét lại quyết định sơ thẩm chưa có hiệu
1
•
•
•
•
1
J
•
•
lực pháp luật. Từ đó kiểm tra tính hợp pháp của bản án, quyết định sơ thẩm
đó,đồng thời khắc phục kịp thời các thiếu sót, sai lầm trong việc xét xử của
Tịa án cấp dưới.
Từ những phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm kháng cáo theo thủ
tục phúc thâm trong tố tụng hình sự là quyền của bị cáo, bị hại, đương sự và
những người tham gia tổ tụng khác trong thời hạn theo quy định của pháp
luật, tuân theo thủ tục luật định yêu cầu Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ
án hoặc xét lại quyết định sơ thãm mà bản án, quyết định sơ thấm đổi với vụ
án đó chưa có hiệu lực pháp luật.
11
1.1.2. Khái niệm kháng nghị
Theo Từ điên Tiếng việt cùa Viện ngôn ngữ học, kháng nghị “được
hiểu là sự bày tó ỷ kiến phản đổi bằng vãn bản chính thức” [48, tr492]. Xét
theo nghĩa phổ thơng, kháng nghị có thể được hiểu là sự phản đối ý kiến sai
lầm, bày tở ý kiến chống đối. Từ “nghị” mang nghĩa là thào luận,
thương lượng, suy xét. Như vậy hoạt động kháng nghị phái được tiến hành
thông qua sự bàn bạc, thảo luận của một tập thể. Từ “nghị” cịn mang
tính quyền lực cao, thể hiện qua việc được sử dụng trong nhiều khái niệm
mang tính quyền lực nhà nước như Nghị định, Nghị quyết, Nghị viện,... Có
thể hiểu kháng nghị là quyền của chủ thể mang quyền lực theo quy định của
pháp luật tố tụngnhằm phản đối bản án, quyết định của Tòa án.
Kháng nghị phúc thẩm là hoạt động của VKS trong giai đoạn xét xử sơ
thẩm. Hiện nay dù đã có một số định nghĩa về khái niệm kháng nghị theo thủ
tục phúc thẩm trong tố tụng hình sự, tuy nhiên các quan điểm vẫn chưa được
đầy đủ và cịn có cách hiểu khác nhau về khái niệm này.
Theo Từ điên giải thích thuật ngữ Luật học của Trường Đại học Luật
Hà Nội, kháng nghị theo thù tục phúc thấm là việc “ người cỏ thâm quyền yêu
cầu Tòa án xét lại bản án, quyết định sơ thầm chưa có hiệu lực pháp luật theo
thủ tục phúc thẩm” [42, tr 183],Cách sử dụng cụm từ “người có thẩm quyền”
để nói về chủ thể của kháng nghị phúc thẩm là chưa chính xác. Bởi quyền
kháng nghị thuộc về cơ quan VKS chứ không phải cá nhân nào, việc gọi chủ
thể như vậy sẽ gây nhầm lần sang chủ thể của quyền kháng cáo. Hơn nữa khái
niệm chưa đề cập đến các vấn đề như hình thức, thủ tục, thời hạn và mục đích
của kháng nghị phúc thẩm.
Theo Từ điến Luật học của Viện khoa học pháp lý, kháng nghị theo thủ
tục phúc thẩm là “hành vi tố tụng của người có thăm quyền, thế hiện việc
phản đoi tồn bộ hoặc một phần nội dung bản án hoặc toàn bộ bản án, quyết
12
định của Tịa án với mục đích bảo đảm cho tồn bộ việc xét xử được chỉnh
xác, cơng bằng đồng thời sửa chữa những sai lầm trong bản án, quyết định
của Tịa ủn" [46, tr227], Khái niệm này tuy có khái quát hơn, đã làm rõ được
mục đích của kháng nghị nhưng vẫn chưa nêu rõ chủ thể có quyền kháng nghị
theo thủ tục phúc, chưa đề cập hình thức của kháng nghị và chủ thể nào có
quyền xem xét, giải quyết kháng nghị.
Tác giả Lê Thành Dương cho rằng: “Kháng nghị phúc thấm là quyền
năng pháp lỷ được Nhà nước giao cho Viện kiêm sát nhân dãn đê kháng nghị
những bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án
cùng cấp và cấp dưới trực tiếp khi phảt hiện có vi phạm pháp luật nghiêm
trọng để yêu cầu Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại theo thủ tục phủc thăm
nhằm bảo đảm việc xét xử đủng pháp luật, nghiêm minh và kịp thời" [16,
tr32J. Quan điểm trên cơ bản đã làm rõ chủ thể và đối tượng của kháng nghị
phúc thẩm, tuy nhiên thời hạn và thủ tục của việc kháng nghị lại chưa được đề
cập đến.
Tác giả Đinh Văn Quế cho rằng: “Kháng nghị theo thủ tục phúc thảm
là một văn bản do Viện kiêm sát ban hành yêu cầu Tòa án cấp phúc thâm xét
xử lại vụ án mà Tòa án Cấp sơ thẩm cùng cấp hoặc cấp dưới trực tiếp đã xét
xử, nhưng xét thấy không đúng pháp luật" [33, tr277]. Khái niệm này đã đưa
ra những vấn đề liên quan đến kháng nghị như chủ thể và hỉnh thức của kháng
nghị. Tuy nhiên đối tượng cùa kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm chưa
đượcđề cập đến. Bên cạnh đó, bàn chất của kháng nghị theo thủ tục phúc
thẩm là sửa chữa những sai lầm của Tòa án cấp sơ thẩm cũng chưa được tác
giả đi sâu làm rõ.
Giáo trình Đào tạo nghiệp vụ kiểm sát của Trường Đại học Kiểm sát
Hà Nội định nghĩa: “Kháng nghị theo thủ tục phúc thảm là một trong những
hoạt động thực hành quyền công tố cùa Viện kiêm sát nhân dân trong giai
13
đoạn xét xử vụ án hình sự, được thực hiện đơi với bản án, qut định sơ thâm
chưa có hiệu lực pháp luật nhưng có sự sai lầm trong việc đánh giá chứng cứ
hoặc áp dụng pháp luật” [41, tr70]. Nhận định trên tiếp cận khái niệm kháng
nghị theo thủ tục phúc thẩm dưới góc độ là chức năng thực hành quyền công
tố của VKS. Tuy nhiên, theo quy định tại Luật tố chức Viện kiềm sát năm
2014, kháng nghị vừa thuộc chức năng thực hành quyền năng công tố, vừa
thuộc chức năng kiếm sát việc tuân theo pháp luật. Vì vậy, khái niệm kháng
nghị trên vẫn chưa được đánh giá tồn diện.
Có thể thấy các quan điểm nêu trên đã định nghĩa tương đối chính xác
và đề cập đến các vấn đề liên quan đếnkháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.
Tuy nhiên, đế có được khái niệm về kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm hoàn
chỉnh, thống nhất, cần làm rõ một số vấn đề sau:
Thứ nhất, Kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm là quyền năng tố tụng Nhà
nước trao cho VKS. VKSban hành kháng nghị khi phát hiện bản án, quyết định
sơ thẩm cúa Tịa án có những vi phạm, sai lầm nghiêm trọng. Hoạt động kháng
nghị của VKS vừa thực hiện chức năng thực hành quyền công tố, vừa thực hiện
chức năng thuộc kiếm sát việc tuân theo pháp luật. Trong tố tụng hình sự, những
kháng nghị về nội dung của bản án, quyết định sơ thẩm có vi phạm pháp luật
trong đánh giá chứng cứ, kết luận tội phạm, định tội danh hoặc áp dụng không
đúng quy định pháp luật,... là những kháng nghị thuộc chức năng thực hành
quyền cơng tố. Cịn những kháng nghị khi phát hiện có vi phạm nghiêm trọng
thủ tục tố tụng trong quá trình xét xử là kháng nghị thuộc chức năng kiểm sát
việc tuân theo pháp luật. Thực hiện tốt quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm
chính là góp phần nâng cao hiệu q cơng tác kiếm sát và làm tốt chức năng thực
hành quyền công tố của ngành Kiểm sát.
77? ứ hai, Kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm được ban hành trên những
căn cứ, theo thù tục, thời hạn do pháp luật quy định. Kháng nghị chỉhợp pháp
14
khi VKS ban hành đúng căn cứ, tuân thủ các quy định của pháp luật vê thù
tục, hình thức và trong thời hạn mà BLTTHS quy định.
Thứ ba, cũng như kháng cáo, đối tượng của kháng nghi phúc thẩm là
bản án, quyết định sơ thấm chưa có hiệu lực pháp luật.Theo tác giả Dương
Thanh Biều: “..vụ án chỉ được tiến hành xét xử phúc thảm khi có khảng cáo,
kháng nghị đổi với bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật”[\ữ, tr26].
Như vậy, đối tượng của kháng nghị phúc thẩm là bản án, quyết định sơ thẩm
chưa có hiệu lực pháp luật, qua kiểm sát phát hiện bản án hoặc quyết định sơ
thẩm có sai lầm, thiếu sót trong việc đánh giá chứng cứ hoặc áp dụng pháp
luật, VKS sẽ ban hành kháng nghị theo thủ tục phúc thấm đối với bản án,
quyết định đó đế u cầu Tịa án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án hoặc xét lại
quyết định sơ thẩm.
Thứ tư, thông qua kháng nghị của VKS, Tịa án cấp trên trực tiếpcó cơ
sở để xét xử lại vụ án hoặc xét lại quyết định sơ thẩm, nhằm sửa chữa và khắc
phục những sai lầm, vi phạm của Tòa án cấp sơ thấm, bảo đảm tính có căn cứ
và tính hợp pháp của bản án, quyết định sơ thẩm.
Từ những phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm khảng nghị theo thủ
tực phúc thâm là nhiệm vụ và quyền hạn của Viện kiêm sát được thực hiện
•
/
•
•••
trong thời hạn, theo thủ tục luật định yêu cầu Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử
lại vụ án hoặc xét lại quyết định sơ thãm mà bản án, quyết định sơ thãm đổi
với vụ án đó chưa có hiệu lực pháp luật nhằm bảo vệ lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích họp pháp của tổ chức, cá nhân, bảo đảm pháp luật được
chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
15
1.2. Đặc điêm của kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thâm
1.2.1. Đặc điểm của kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm
Kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm có một số đặc điểm cơ bản như sau:
Thứ nhất, kháng cáo là căn cứ đế Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại vụ án
hoặc xét lại quyết định của Tòa án cấp sơ thấm để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của bị cáo, bị hại và đương sự.
Thứ hai, kháng cáo là quyền của những người tham gia tố tụng có
quyền và lợi ích bị ảnh hưởng bởi phán quyết của Tòa án, thực hiện quyền
kháng cáo để tự bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình đối với phán quyết
cùa Tịa án mà theo họ là không hợp lý, thiếu căn cứ và không hợp pháp.
1.2.2. Đặc điểm cua kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm
Kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm là một trong những quyền năng
pháp lý quan trọng, thơng qua đó Viện kiểm sát đồng thời thực hiện hai chức
năng là quyền công tố và kiếm sát các hoạt động tư pháp.
Kháng nghị theo thũ tục phúc thẩm của Viện kiểm sát nhân dân có một
số đặc điểm cơ bản, đó là:
Thứ nhất, Kháng nghị theo thủ tục phúc thấm là quyền năng pháp lý
đặc biệt mà Nhà nước chỉ giao cho ngành kiềm sát.
Thứ hai, Kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm là công cụ đặc biệt và là
một trong những biểu hiện rõ nhất về quyền năng của Viện kiểm sát trong
việc thực hiện chức năng kiếm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động
xét xử của Tòa án nhân dân.
1.3. Ý nghĩa của kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thấm
Kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm trong tố tụng hình sự có
ý nghĩa pháp lý, chính trị và xã hội quan trọng.
16
1.3.1. Y nghĩa pháp lý
Trong Tố tụng hình sự Việt Nam, Tòa án thực hiện chế độ hai cấp xét xử,
trong đó: Xét xừ sơ thẩm là cấp xét xử thứ nhất và xét xử phúc thẩm là cấp xét
xử thứ hai. Tuy nhiên không phải bất cứ vụ án nào đã được xét xử sơ thẩm đều
phải trải qua giai đoạn xét xử phúc thẩm bởi xét xử phúc thấm là thủ tục phát
sinh có điều kiện. Bán án, Quyết định sơ thẩm của Tịa án khicó kháng cáo,
kháng nghị hợp lệmới được Tòa án cấp trên trực tiếp xét xừ lại theo thủ tục phúc
thẩm, về mặt lý luận, xét xử phúc thẩm không những là một cấp xét xử mà còn
là một giai đoạn của tố tụng hình sự, trong đó Tịa án cấp trên trực tiếp xét xử lại
vụ án hoặc xét lại quyết định sơ thẩm mà bản án, quyết định sơ thẩm đối với vụ
án đó chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị nhằm khấc phục
sai lầm cúa Tòa án cấp dưới, bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật, bảo vệ lợi
ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp cùa công dân.Việc xét xử phúc
thẩm vụ án hình sự có ý nghĩa quan trọng:
“Xét xử phúc thẩm vụ án hình sự là việc Tịa án cấp trên trực
tiếp xét xử lại vụ án hoặc xét lại quyết định sơ thâm mà bản án, quyết
định sơ thâm đối với vụ án đó chưa có hiệu lực pháp luật hị khảng cảo
hoặc kháng nghị. Nhằm mục đích bảo đảm cho việc xét xử đúng người,
đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan người vô tội, không để lọt
người phạm tội, tránh được những sai lầm do xét xử sơ thâm gây nên vì
vậy luật tố tụng hình sự quy định giai đoạn xét xử phủc thảm nhằm sửa
chữa những thiếu sót, khuyết diêm và những vi phạm mà Tòa án cấp sơ
thâm đã vấp phải.” [23, tr288]
Kháng cáo, kháng nghị tạo ra một trong những điều kiện làm cơ sở cho
việc xét xử của Tòa án cấp trên trực tiếp đối với bản án, quyết định sơ thấm
chưa có hiệu lực pháp luật của Tịa án cấp dưới trực tiếp. Thơng qua việc xét
xử phúc thẩm, Tịa án cấp trên trực tiếp khơng chỉ kiểm tra tính hợp pháp và
17
tính có căn cứ của bản án, qut định sơ thâm chưa có hiệu lực pháp luật mà
cịn phát hiện, khắc phục kịp thời các thiếu sót, sai lầm về xét xử của Tịa án
cấp dưới, góp phần khơng nhỏ trong việc đảm bảo cho pháp luật được thực
hiện một cách thống nhất, chính xác và nghiêm minh.
Kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm cịn có ý nghĩa bảo đảm
thực hiện nguyên tắc Hiến định"C/zê độ xét xử sơ thâm, phúc thâm được bảo
đảm ” (khoản 6 Điều 103 Hiến pháp năm 2013) và nguyên tắc cơ bản của luật
tố tụng hình sự “Chế độ xét xử sơ thâm, phúc thâm được bảo đảm ” (Điều 27
BLTTHS năm 2015). Nguyên tắc nàythể hiện sự thận trọng của toà án trong
việc xét xử và tôn trọng quyền cùa bị cáo và những người tham gia tố tụng
khácđượcchống lại bản án, quyết định sơ thấm của Tòa án. Theo quy định của
BLTTHS năm 2015, nguyên tắc này không bị hạn chế mà được thực hiện đối
với tất cả các vụ án.
Chế độ xét xử cấp sơ thẩm, phúc thẩm được bảo đảm là khi một bản án,
quyết định sơ thấm chưa có hiệu lực pháp luật có kháng cáo, kháng nghị hợp
lệ thì buộc Tịa án cấp phúc thẩm phải mở phiên tòa để xem xét, giải quyết.
Nguyên tắc này tạo điều kiện cho VKS, bị cáo và những người tham gia tố
tụng khác có điều kiện thể hiện thái độ khơng nhất trí của mình đối với việc
xét xử của toà án bằng quyền kháng cáo, kháng nghị. Việc bảo đảm quyền
kháng cáo, kháng nghị có ý nghĩa quan trọng: Bảo đảm chế độ xét xử sơ
thẩm, phúc thấm; Bảo đảm tính hợp pháp và tính có căn cứ của bản án, quyết
định đã bị kháng cáo, kháng nghị phải được xem xét theo trình tự phúc thấm;
Bảo đảm các bản án khơng có căn cử pháp luật và không đúng pháp luật sẽ
không được đưa ra thi hành trong thực tế; Thực hiện việc giám sát của Tòa án
cấp trên đối với Tòa án cấp dưới; Bão đảm cơ chế để Tịa án thực hiện nhiệm
vụ của mình là bào vệ công lý, bào vệ quyền con người, quyền công dân, bão
18
vệ chê độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyên và lợi ích hợp
pháp của tổ chức, cá nhân.
1.3.2. Ý nghĩa chính trị
Mồi bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án đều thể hiện chính sách
hình sự của Nhà nước trong cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm; thế hiện
quyền lực và thái độ của Nhà nước đối với hành vi phạm tội, người phạm tội.
Đồng thời, bản án, quyết định của Tòa án là sự thể hiện của hoạt động áp
dụng các quy định cụ thể của pháp luật. Do đó đế bảo đảm cho phán quyết
của Tòa án được đưa ra thi hành có căn cử thì hoạt động kháng cáo, kháng
nghị có ý nghĩa rất lớn. Kháng cáo, kháng nghị phúc thấm là một trong những
hoạt động quan trọng để đảm bảo pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh,
thống nhất; đảm bảo việc giải quyết vụ án có căn cứ, đúng quy định của pháp
luật; góp phần củng cố niềm tin của nhân dân đối với chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước. Việc quy định và thực hiện quyền kháng cáo, kháng
nghị phúc thấm trong tố tụng hình sự đáp ứng các yêu cầu cúa Nhà nước pháp
quyền đối với việc bảo đảm các quyền và lợi ích chính đáng của công dân,
đảm bảo dân chủ, đảm bảo xét xừ đúng người, đúng tội, áp dụng đúng pháp
luật, không đế lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.
Kháng cáo, kháng nghị là cơ sở để vụ án được xét xử qua hai cấp,
nhằm giải quyết vụ án một cách chính xác và đúng đắn, nâng cao chất lượng
xét xử của tồ án và qua đó lợi ích của Nhà nước, của các chủ thể tham gia tố
tụng được bảo vệ. Quy định việc các chủ thể có quyền kháng cáo, kháng nghị
với bản án, quyết định của Tòa án thể hiện thái độ thận trọng của Nhà nước
trong việc đưa ra các phán xét về số phận pháp lý, sinh mạng chính trị, quyền
lợi của người đã thực hiện hành vi vi phạm pháp luật hình sự và những người
có liên quan, là sự thể hiện rõ ràng nhất bản chất của Nhà nước pháp quyền
Việt Nam là Nhà nước của dân, do dân và vì dân.
19
Thông qua việc xét xử các vụ án do công dân thực hiện quyên kháng
cáo, Viện kiểm sát thực hiện quyền kháng nghị, Tịa án cấp phúc góp phần
đảm bảo nhận thức và áp dụng thống nhất pháp luật, nâng cao chất lượng xét
xử, “tăng cường hiệu quả giáo dục pháp luật và củng co niềm tin vào công lý,
công bằng xã hội cho nhân dân, đẩu tranh phòng ngừa và chống tội
phạm ”.[36, trO8]
1.3.3. Ý nghĩa xã hội
Kháng cáo, kháng nghị đám bão thực hiện một cách có hiệu quả các
quyền con người trong lĩnh vực tư pháp, tạo điều kiện để các chù thể tham gia
tố tụng có thề trực tiếp bảo vệ quyền lợi của mình. Quyền kháng cáo, kháng
nghị trong tố tụng hình sự ngày càng đuợc hồn thiện và trở thành một trong
những hình thức, phương tiện bảo đảm và bảo vệ có hiệu quả quyền con
người trong tố tụng hình sự. Đối với người tham gia tố tụng, kháng cáo kháng
nghị có ý nghĩa quan trọng, giúpbảo vệ quyền con người, các quyền và lợi ích
chính đáng của Nhà nước, của các tổ chức và công dân đã được Hiến pháp và
pháp luật ghi nhận. Kháng nghị của VKS “tó lả chắn quan trọng của to tụng
hình sự, là cơ chế đê đảm háo quyền con người không bị tước đoạt một cách
tùy tiện và trái pháp luật khi xét xử" [22, tr3O]. Đồng thời thông qua quyền
kháng cáo, để đảm bảo quyền lợi của người tham gia tố tụng, việc xét xử ở
hai cấp cũng giúp họ nhận thức rõ trách nhiệm của mình trong vụ án để có
thái độ hợp tác tích cực với cơ quan nhà nước có thấm quyền trong việc thực
hiện các nghĩa vụ pháp lý của mình.
Đối với Tòa án: Tòa án với nhiệm vụ thực hiện quyền tư pháp của nhà
nước trong phạm vi hoạt động của mình phải xét xừ đúng người, đúng tội, áp
dụng đúng pháp luật, đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân,
cần có thái độ thận trọng trong việc phán xét quyền lợi của bị cáo và các
đương sự khác. Bởi Bản án, quyết định của Tòa án khi được ban hành không
20
chỉ ảnh hưởng đên những người liên quan mà còn được xã hội quan tâm. Vì
vậy, Tịa án cần thận trọng trong trước khi ra phán quyết để đảm bảo cho bản
án, quyết định của mình có chất lượng, hợp tình, hợp lý.
Hoạt động xét xử phản ánh trực tiếp và sâu sắc bản chất của Nhà nước,
bởi vậy đòi hịi xét xử phải chính xác, cơng minh, thể hiện được ý chí, nguyện
vọng của nhân dân”. Đây cũng là một hình thức thực hiện pháp luật có hiệu
quả chức năng giám đốc xét xử của Tòa án cấp trên đối với Tòa án cấp dưới.
Đối với Viện kiểm sát: Kháng nghị phúc thẩm hình sự là một hoạt động
quan trọng và là quyền năng pháp lý Nhà nước giao cho Viện kiểm sát nhân
dân, do vậy thực hiện tốt cơng tác kháng nghị phúc thẩm hình sự khơng chỉ là
quyền, mà còn là trách nhiệm của ngành Kiếm sát.Hoạt động kháng nghị phúc
thẩm cùa VKS có ý nghĩa bảo vệ tốt quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo,
đảm bảo pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh, thống nhất; đảm bảo việc
giải quyết vụ án có căn cứ, đúng quy định của pháp luật góp phần củng cổ
niềm tin của nhân dân đối với pháp luật, góp phần bão đàm quá trình giải
quyết vụ án hình sự nghiêm minh, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm,
người phạm tội, khơng làm oan người vơ tội, bảo vệ có hiệu quả quyền và lợi
ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức và của Nhà nước, nhất là quyền
con người, quyền công dân theo đúng tinh thần của Hiến pháp và Bộ luật tố
tụng hình sự.
21