MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐÀU.......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: MỘT SÓ VÁN ĐÈ LÝ THUYẾT VÈ HỢP ĐỒNG VAY
GIỮA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ CÁ NHÂN............ 8
1.1.
Khái niệm hợp đồng vay giữa ngân hàng thương mại và
cá nhân................................................................................................ 8
1.1.1.
Khái niệm hợp đồng............................................................................. 8
1.1.2.
Khái niệm hợp đồng vay.................................................................... 10
1.1.3.
Khái niệm hợp đồng tín dụng cá nhân............................................... 11
1.2.
Bẳn chất pháp lý của họp đồng tín dụng....................................... 14
1.3.
Đặc điếm và phân loại các hợp đồng tín dụng giữa các ngân
hàng thương mại và cá nhân........................................................... 16
1.3.1.
Đặc điểm cùa họp đồng tín dụng cá nhân......................................... 16
1.3.2.
Phân loại họp đồng tín dụng cá nhân................................................ 20
1.4.
Pháp luật điều chỉnh họp đồng tín dụng giữa ngân hàng
thương mại và cá nhân...................................................................... 21
1.4.1.
Ngành luật điều chỉnh....................................................................... 21
1.4.2.
Các nguồn luật điều chỉnh................................................................. 24
1.4.3.
Khái quát hệ thống luật thành văn và án lệ điều chình họp đồng
tín dụng cá nhân................................................................................. 25
1.5.
Lịch sử hình thành của chế định hợp đồng tín dụng giữa các
ngân hàng thương mại và cá nhân.................................................. 27
TIÊU KẾT CHƯƠNG 1.................................................................................. 31
CHƯƠNG 2: THựC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THựC TIỄN THựC
HIỆN
HỢP
ĐỒNG VAY GIỮA NGÂN HÀNG THƯƠNG
•
•
MẠI VÀ CÁ NHẤN TẠI VIỆT NAM............................................ 32
2.1.
Thực trạng pháp luật về họp đồng vay giữa ngân hàng
thương mại và cá nhân..................................................................... 32
2.1.1.
Nguyên tắc cho vay của ngân hàng thương mại................................ 32
2.1.2.
Các quy định của pháp luật Việt Nam về hợp đồng tín dụng của
khách hàng cá nhân và các ngân hàng thương mại............................ 37
2.1.3.
Đánh giá rủi ro đối với mồi bên trong hợp đồng tín dụng của
khách hàng cá nhân và các ngân hàng thương mại............................ 61
2.2.
Thực tiễn thực hiện họp đồng tín dụng cá nhân tại Việt
Nam hiện nay.................................................................................. 63
TIÊU KẾT CHƯƠNG 2................................................................................ 69
CHƯƠNG 3: KIẾN NGHỊ• HỒN THIỆN
PHÁP LUẬT
VÀ NÂNG
•
•
CAO HIỆU QUẢ THỤC HIỆN VỀ HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG
GIỮA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ CÁ NHÂN TẠI
VIỆT NAM........................................................................................ 70
3.1.
Tư tưởng chỉ đạo cùa việc hồn thiện pháp luật về họp đồng
tín dụng giữa ngân hàng thương mại và cá nhân tại Việt Nam....... 70
3.2.
Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về họp đồng vay của khách
hàng cá nhân và các ngân hàng thương mại................................. 71
3.2.1.
Hoàn thiện quy định về chủ thể vay vàchủ thể trả nợ vay................. 71
3.2.2.
Hoàn thiện quy định về điều kiện vay................................................ 71
3.2.3.
Hoàn thiện quy định liên quan đến mẫu hợp đồng............................ 73
3.2.4.
Hoàn thiện quy định về lãi suất.......................................................... 75
3.3.5.
Hoàn thiện quy định về biện pháp đảm bảo nghĩa vụ........................ 78
KÉT LUẬN.................................................................................................. 80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................... 83
DANH MỤC CÁC TÙ VIẾT TẲT
BLDS:
Bơ• lt
• Dân sư•
PICC:
Bộ Ngun tắc UNIDROIT về hợp đồng thương
mại quốc tế (phiên bản 2016)
Quy chế cho vay:
Thông tư 39/2016/TT-NHNN quy định về hoạt
động cho vay của tổ chức tín dụng, chi nhánh
ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng (trừ
trường họp do văn cảnh phải hiểu khác đi).
MỞ ĐÀU
1. Lý do lựa chọn đê tài
Trong quá trình Việt Nam chuyển sang nền kinh tế thị trường, tín dụng
ngân hàng là hình thức tín dụng chủ yếu và đóng vai trị quan trọng trong phát
triển kinh tế, là cơng cụ để các tổ chức tín dụng huy động vốn nhàn rỗi và
phân phối (dưới dạng cho vay) số vốn này cho các chủ thể kinh tế cần đến.
Hoạt động vay vốn giữa ngân hàng thương mại với cá nhân là một phân khúc
hẹp trong hoạt động kinh doanh tín dụng của ngân hàng.
Khi nghiên cứu vấn đề hợp đồng vay giữa cá nhân với Ngân hàng
thương mại nói chung, có một lớp rộng lớn các vấn đề cần được khảo sát mà
trong đó, đáng chú ý nhất là: nhóm các quy định liên quan trực tiếp đến giao
kết họp đồng như điều kiện vay (của cá nhân); đánh giá rủi ro của bên cho
vay (Ngân hàng thương mại), hình thức của hợp đồng (hợp đồng mẫu); và
nhóm các quy định liên quan đến chấm dứt hợp đồng, bao gồm thanh tốn
r
\
\
\
và/hoặc
cạnh pháp lý và thực tiên đê có thê hiêu rõ, vì hoạt động tín dụng ngân hàng
là một hoạt động cỏ tính kỹ thuật cao.
Có thể lấy ví dụ về một vấn đề đáng chú ý đó là việc bảo đảm nghĩa
vụ trả nợ của cá nhân, là một trong những vấn đề phức tạp nhất trên khía
cạnh thực tiễn của các ngân hàng thương mại. Nếu hiểu theo nghĩa rộng, báo
đảm tiền vay là việc thiết lập các điều kiện nhằm xác định khả năng thực có
của khách hàng đối với việc hồn trả vốn vay đúng thời hạn (Thí dụ: khách
hàng thường phải có một số tài sản nhất định thuộc sở hữu của mình trong
phạm vi pháp luật quy định, tối thiểu phải có 20% trong tổng số vốn muốn
vay - vốn đối ứng - hoặc nếu khách hàng là cá nhân thì địi hỏi phải có thu
nhập thường xuyên). Theo nghĩa hẹp, bảo đảm tiền vay là những biện pháp
bảo đảm việc trả nợ vốn vay (cầm cố, thế chấp bằng tài sản của khách hàng
vay, bảo lãnh băng tài sản của bên thứ ba, câm cơ, thê châp băng tài sản hình
thành từ vốn vay).
về thực tiễn, hoạt động cho vay luôn tiền ẩn rủi ro, khách hàng vay vốn
vì nhiều lý do khơng trả được nợ (cả nợ gốc và nợ lãi) dẫn đến Ngân hàng
phải vừa bù đắp cho khoản vay mà khách hàng khơng trả được theo hợp đồng
tín dụng đã ký, vừa phải trả lãi tiền huy động từ tổ chức và người dân dần đến
hoạt động của Ngân hàng bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Đối với hợp đồng vay,
dù sổ tiền vay thường không lớn, nhưng lượng hợp đồng thì rất nhiều nên
khối “nợ xấu” là rất lớn ở bất cứ Ngân hàng nào phát triến chính sách cho vay
này. Các Ngân hàng thương mại, dù muốn hay không cũng khơng thể đứng
ngồi quy luật phát triến của thị trường tín dụng. Đối với các Ngân hàng
thương mại của Việt Nam, vấn đề đặt ra không thể đơn giản là khước từ loại
hình tín dụng này, mà phải thiết kế được quy chế cho vay theo cách hiểu
nghĩa rộng cùa “bảo đảm nghĩa vụ vay” để hoạt động tín dụng không bị gián
đoạn và các rủi ro là thấp nhất. Theo đó, cần phải hiểu bảo đảm tiền vay “Zừ
hàng loạt các giải pháp nhằm mục đích thực hiện cho được yêu cầu buộc vốn
cho vay ra phải được quay về với người cho vay sau một chu kỳ nhất định với
đầy đủ cả gốc và lãi” [44].
Các phân tích sơ bộ trên về vấn đề bảo đảm tiền vay chỉ là một ví dụ
cho thấy các quy phạm pháp luật về hợp đồng vay giữa cá nhân và ngân hàng
thương mại là một vấn đề chuyên ngành tương đối phức tạp, rất cần được
nghiên cửu thêm để làm rõ.
Liên quan đến nội dung khía cạnh pháp lý của hợp đồng vay nói chung
thì đã có nhiều đề tài khoa học, luận văn, bài viết trên tạp chí đã đề cập một
cách trực tiếp hoặc lồng ghép vào những nội dung liên quan đến các vấn đề về
họp đồng như ” về yếu tổ ưng thuận của họp đồng” của PGS.TS Ngô Huy
Cương (2010) hay ‘‘Đề nghị giao kết hợp đồng theo pháp luật Việt Nam”;
2
“Giáo trình luật kinh tê - Tái bản lân 5” của PGS.TS Phạm Duy Nghĩa; “Xây
dựng lại hệ thống pháp luật về bảo đảm nghĩa vụ trên cơ sở lỷ thuyết vật
quyền và trái quyền” của PGS.TS Nguyễn Ngọc Điện;... Ngồi ra các vấn đề
liên quan đến hoạt động tín dụng của ngân hàng có được đề cập trong “Quán
lỷ nhà nước đơi với hoạt động tín dụng của cảc ngân hàng thương mại ở Việt
Nam” Luận án tiên sĩ Kinh tê của
rủi ro tín
dụng tại ngân hàng thương mại cô phân Công thương Việt Nam ” Luận án
tiến sĩ Kinh tế của TS Nguyễn Đức Tú... Tuy nhiên, công trình nghiên cứu
nêu trên triển khai trực tiếp về khía cạnh pháp lý của hợp đồng tín dụng nói
chung mà chưa có bất kỳ một nghiên cứu nào cụ thể liên quan đến hợp đồng
vay của cá nhân tại các Ngân hàng Thương mại cổ phần của Việt Nam. Đặc
biệt có thề thấy, những cơng trình nghiên cứu về hợp đồng tín dụng của các
ngân hàng thương mại tập trung nhiêu hơn vào rủi ro của ngân hàng với tư
cách một yếu tố cần quan tâm đổi với an ninh kinh tế hoặc một vấn đề kỹ
thuật trong nghiệp vụ ngân hàng, chứ khơng tập trung phân tích vấn đề theo
hướng nghiên cứu luật tư hay luật hợp đơng nói riêng.
Từ những vướng măc trong lý thuyêt và thực tiên nêu trên, học viên
chọn đề tài “Hợp đồng vay giữa Ngân hàng thương mại với khách hàng cá
nhân theo pháp luật Việt Nam” để nghiên cứu nhằm làm sáng tở những vấn
đề lý luận và thực tiễn nêu trên. Qua đó, học viên đưa ra một số đề xuất có thể
giúp hoạt động này phát triên hơn trong tương lai.
2. Mục đích, đơi tượng và phạm vi nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn có mục đích tơng hợp lý thuyêt vê hợp đông vay giữa Ngân
hàng thương mại (tư) với khách hàng cá nhân; trên cơ sở đó, đánh giá các ưu
điểm và hạn chế của các quy định pháp luật hiện tại có liên quan đến hợp
đồng vay giữa khách hàng cá nhân và ngân hàng thương mại để mang tính gợi
mở phương hướng điêu chỉnh.
3
Vê phương diện ứng dụng, đê tài hướng đên mục đích ứng dụng các kêt
quả nghiên cứu liên quan đến khả năng bảo đảm nghĩa vụ vay theo nghĩa rộng
để phát triển hình thức hợp đồng vay giữa Ngân hàng thương mại với khách
hàng cá nhân nhằm hạn chế các rủi ro không thu hồi được vốn, vỡ nợ. Đồng
thời đánh giá thực trạng cho vay, kiểm soát và xử lý tranh chấp một cách hiệu
quả khi xảy ra vấn đề không thu hồi được khoản nợ.
2.2. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quy định về họp đồng vay
giữa Ngân hàng thương mại với cá nhân theo quy định của pháp luật Việt
Nam về dân sự, ngân hàng... Tuy nhiên để việc đánh giá thực tiễn đạt được sự
toàn diện, luận văn cũng nghiên cứu quy chế nội bộ của một ngân hàng
thương mại và các vấn đề thực tiễn được công khai.
2.3. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi về thời gian', luận văn nghiên cứu các quy định về họp đồng
vay cá nhân của các ngân hàng thương mại hiện hành, tuy nhiên cũng sẽ có đề
cập thêm các quy định pháp luật liên quan được ban hành từ năm 1997 (bắt
đầu có Luật các tổ chức tín dụng) khi các tổ chức tín dụng được cho vay
khơng có bảo đảm bằng tài sản (khoản 2 Điều 52).
Phạm vi về nội dung', nghiên cứu hợp đồng vay có đảm bảo tài sản và
khơng có tài sản đảm bảo giữa Ngân hàng thương mại với khách hàng cá
nhân, nghiên cứu tập trung vào nghĩa rộng của bảo đảm nghĩa vụ vay.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Căn cứ vào mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu, đề tài tập trung
làm rõ các nội dung nghiên cứu như sau:
Đầu tiên, luận văn cần tổng hợp các lý thuyết liên quan đến họp đồng
và hiệu lực của hợp đồng, quy định về họp đồng vay đối với khách hàng cá
nhân, hình thức vay và các phương pháp xử lý tranh chấp nếu phát sinh;
4
Tiêp đó là luận văn cân làm rõ thực trạng pháp luật Việt Nam hiện hành
về hợp đồng vay giữa Ngân hàng thương mại và khách hàng cá nhân qua các
hình thức là cho vay khơng có tài sản đảm bảo và cho vay có tài sản đảm bảo;
khái quát các mơ hình kinh doanh tín dụng đối với khách hàng cá nhân hiện
nay đang được thực hiện trên thực tiễn.
Từ đó, luận văn cần đánh giá khái quát được thực tiễn và các vướng
mắc hiện nay liên quan đến loại hợp đồng vay giữa Ngân hàng thương mại và
khách hàng cá nhân tại Việt Nam và giải thích mối liên hệ giữa các vướng
mắc từ thực tiễn với thực trạng pháp luật hiện hành. Trọng tâm của bước này
trong nghiên cứu là tìm hiểu những rủi ro có thể có đối với mồi bên trong
quan hệ hợp đồng tín dụng.
Cuối cùng là đưa ra được các đề xuất hoàn thiện pháp luật và mơ hình
kinh doanh tín dụng phát huy được các lợi thế thu hồi vốn mà vẫn bảo đảm
hoạt động tín dụng thơng suốt.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đe đạt được các mục tiêu nghiên cứu mà đề tài đặt ra, trong quá trình
nghiên cứu luận văn đã sử dụng những phương pháp nghiên cứu cơ bản sau:
Phương pháp luận nghiên cứu khoa học duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối quan
điểm của Đảng cộng sản Việt Nam. Theo đó, tác giả đặt các vấn đề về họp
đồng vay trong mối liên hệ, quan hệ với các bên liên quan như ngân hàng
thương mại cổ phần và khách hàng cá nhân, không nghiên cứu một cách riêng
lẻ, đồng thời có sự so sánh với các quy định cũng như các nghiên cứu của các
hệ thống pháp luật khác nhau để đưa ra các vấn đề lý luận phù họp. Một số
phương pháp nghiên cứu chủ yếu được áp dụng:
- Phương pháp phân tích, phương pháp diễn giải: Những phương pháp
này được sữ dụng phổ biến trong việc làm rõ các vấn đề lý luận liên quan đến
hợp đồng vay giữa Ngân hàng thương mại và khách hàng cá nhân tại Việt Nam.
5
- Phương pháp đánh giá, phương pháp so sánh: Những phương pháp
này được tác giả vận dụng để đưa ra ý kiến nhận xét quy định của pháp luật
hiện hành có hợp lý hay khơng, đồng thời nhìn nhận trong mối tương quan so
với quy định liên quan hoặc pháp luật của các nước khác...
- Phương pháp quy nạp, phương pháp diễn dịch: Được vận dụng để
triển khai có hiệu quả các vấn đề liên quan đến hợp đồng vay giữa Ngân hàng
thương mại và khách hàng cá nhân tại Việt Nam, đặc biệt là các kiến nghị
hoàn thiện và phương hướng xây dựng pháp luật. Cụ thể như trên cơ sở đưa ra
nhũng kiến nghị mang tính khái quát, súc tích tác giả dùng phương pháp diễn
dịch đế làm rõ nội dung của kiến nghị đó ... .
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Đề tài làm rõ tống hợp các lý thuyết hiện hành về bảo đảm nghĩa vụ
vay theo nghĩa rộng; các lý thuyết liên quan đến hợp đồng và hiệu lực của hợp
đồng, quy định về hợp đồng vay đổi với khách hàng cá nhân và các phương
pháp xử lý tranh chấp nếu phát sinh; thực trạng pháp luật Việt Nam hiện hành
về hợp đồng vay giữa Ngân hàng thương mại và khách hàng cá nhân và khái
qt các mơ hình kinh doanh tín dụng hiện nay đang được thực hiện trên thực
tiễn; khái quát được thực tiễn và các vướng mắc hiện nay liên quan đến loại
hợp đồng vay giữa Ngân hàng thương mại và khách hàng cá nhân tại Việt
Nam và giải thích mối liên hệ giữa các vướng mắc từ thực tiễn với thực trạng
pháp luật hiện hành;
Luận văn cung cấp mơ hình về họp đồng tín dụng nhằm giảm thiểu rủi
ro cho các Ngân hàng thương mại và không cản trở quyền tiếp cận vốn của cá
nhân. Ngoài ra, những giải pháp hoàn thiện pháp luật là cơ sở quan trọng để
các cơ quan chức năng trong phạm vi, thẩm quyền của mình sửa đổi, bổ sung,
hồn thiện pháp luật trong lĩnh vực tương ứng. Bên cạnh đó, luận văn sẽ là tài
liệu tham khảo hữu ích khơng chỉ với đội ngũ giảng viên, sinh viên mà cịn có
6
giá trị đôi với các cán bộ đang làm công tác hoạch định chính sách và xây
dựng pháp luật về dân sự/ngân hàng ở Việt Nam, đặc biệt là chế định liên
quan đến hợp đồng vay.
6. Bố cục của luận văn
Ngồi lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
chính của luận văn gồm 3 chương, cụ thể:
Chương 1. Một số vấn đề lý thuyết về hợp đồng vay giữa các ngân
hàng thương mại và cá nhân.
Chương 2. Thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện về hợp đồng vay
giữa Ngân hàng thương mại và cá nhân tại Việt Nam.
Chương 3. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực
hiện về hợp đồng vay giữa Ngân hàng thương mại và cá nhân tại Việt Nam.
7
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ THUYẾT VÈ HỢP ĐỒNG VAY GIŨA CÁC
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ CÁ NHÂN
1.1. Khái niệm hợp đồng vay giữa ngân hàng thương mại và cá nhân
Khái niệm về hợp đồng vay giữa ngân hàng thương mại và khách hàng
cá nhân (trong luận văn này sẽ gọi là “hợp đồng tín dụng cá nhân”, trừ những
trường hợp nào phải hiểu theo cách khác do ngữ cảnh) không phải một vấn đề
pháp lý quá phức tạp. Tuy nhiên, để hiểu rõ tất cả các khía cạnh của vấn đề và
đồng thời để đánh giá đúng các vấn đề pháp lý đặt ra, thì nghiên cứu tồn bộ
lý thuyết về loại hợp đồng này là một công việc có ý nghĩa to lớn về cả mặt
khoa học cũng như mặt thực tiễn.
Trên cơ sở nhận thức đó, trong Chương này, các khái niệm cơ bản sẽ
được tác giả trình bày lần lượt, qua đó làm rõ những vấn đề mang tính nguyên
tắc, nền tảng cốt yếu nhất của chế định hợp đồng tín dụng cá nhân trong pháp
luật Việt Nam.
1.1.1. Khái niệm hợp đồng
Không thể nghi ngờ gì, hợp đồng là một phần rất quan trọng của đời
sống xã hội. Con người sử dụng hợp đồng như là công cụ pháp lý vô cùng hiệu
quả để thỏa mãn các mong muốn, nhu cầu của mình thơng qua giao dịch với
những chủ thể khác. Nhiều luật gia cho ràng thuật ngữ hợp đồng được hình
thành từ một thuật ngữ tiếng La-tinh có ý nghĩa là “ràng buộc” [20 tr. 27],
được xuất hiện lần đầu tiên ở đế chế La Mã cổ đại. Các luật gia La Mã đã định
nghĩa hợp đồng là căn cứ làm phát sinh, thay đối hoặc chấm dứt quan hệ pháp
luật với hai dấu hiệu đặc trưng khơng thề thiếu: phải có sự thỏa thuận, tức là có
sự thống nhất ý chí giữa các chủ thể; và phải có mục đích nhất định [21, tr. 38].
Các bên tham gia hợp đồng đều phải dựa trên sự tự nguyện, nếu khơng
thì khơng thề nói rằng đó có sự gặp gỡ và thống nhất về ý chí. Vi thế mà
8
BLDS năm 2015 đã đặt ra một trong những nguyên tăc của giao dịch dân sự
là phải dựa trên sự tự do, tự nguyện thỏa thuận [38, Điều 3.2],
Các quy định về hợp đồng của BLDS không phải chỉ được áp dụng cho
các quan hệ dân sự mà còn được áp dụng chung cho tất cả các quan hệ họp
đồng trong các quan hệ kinh doanh, thương mại, lao động, thậm chí là các
thỏa thuận trong lĩnh vực hơn nhân gia đình như là thỏa thuận phân chia tài
săn... tức là bao trùm lên tất cả các lĩnh vực cụ thể của luật tư. Trước đây thì
thuật ngữ “hợp đồng dân sự” mà BLDS năm 2005 đề cập có gây ra sự lúng
túng nhất định về mặt pháp lý, bởi lẽ thuật ngữ này có thế hiếu theo nghĩa
rộng như trên, mà cũng có thể hiểu theo nghĩa hẹp là các hợp đồng trong một
số quan hệ nhằm đáp ứng nhu cầu của con người trên phương diện sinh hoạt
hàng ngày, tiêu dùng [16, tr. 212]. Vì thế mà BLDS năm 2015 đã sử dụng
thuật ngữ “hợp đồng” (bỏ đi đuôi “dân sự”) để tránh những sự hiểu lầm hoặc
rắc rối khơng đáng có. Cụ thể [38, Điều 385], BLDS năm 2015 đã quy định:
“Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đôi hoặc chẩm
dứt quyền, nghĩa vụ dân sự". Các quyền, nghĩa vụ dân sự này không được
pháp luật định nghĩa, tuy nhiên cũng đã được hiểu theo nghĩa rộng một cách
phổ biến trong thực tiễn.
Theo quy định trên, một họp đồng có nghĩa là một sự thỏa thuận (sự
thống nhất về mặt ý chí) giữa các bên, đem lại một hậu quả pháp lý là sự xác
lập, thay đổi hay chấm dứt một quyền, nghĩa vụ dân sự nào đó.
Vậy có thể tóm tắt lại như sau:
Hợp đồng theo nghĩa pháp lý là một sự thống nhất một cách tự nguyện
về mặt ý chí của hai chủ thể; sự thống nhất đó mang lại một hậu quả pháp lý
là sự xác lập/thay đổi/chấm dứt một quyền/nghĩa vụ. Trong nội dung của họp
đồng có thể hàm chứa các nghĩa vụ có tính chất trao đổi, có qua có lại hoặc
các nghĩa vụ độc lập.
9
Hợp đơng theo nghĩa hình thức, mặt khác, chỉ là biêu hiện bên ngồi
của sự thống nhất đó, mà thường gặp nhất chính là các văn bản ghi nhận nội
dung của sự thống nhất. Đây chỉ là vấn đề về hình thức bên ngồi của hợp
đồng, chứ khơng phải vấn đề nội dung.
1.1.2. Khái niệm hợp đồng vay
Hợp đồng vay như cách dùng thông thường hiện nay thường được hiểu
là hợp đồng vay tiền. Tuy nhiên, nghĩa rộng của thuật ngữ này bao trùm các
loại tài sản, và được gọi tên là họp đồng vay tài sản, quy định tại Mục 4
Chương XVI BLDS năm 2015. Định nghĩa được luật đưa ra như sau:
Hợp đồng vay tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên
cho vay giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải
hoàn trả cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng,
chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có
quy định [38, Điều 463],
Trong thực tế cuộc sống hiện nay, vay tiền vẫn là hoạt động vay nổi bật
hơn cả.
Bên cạnh đó, cũng cần phân biệt thuật ngữ “vay” theo nghĩa pháp lý
này với thuật ngữ “vay mượn” thông thường mà thường được người dân sử
dụng. Nhìn chung, cụm từ “vay mượn” còn bao gồm cả việc “mượn” (đồ vật),
tức là việc người này muốn sử dụng tạm thời vật gì của người kia nhưng
không chuyến giao quyền sở hữu. Trong khi đó, đổi với hành động “vay” theo
nghĩa pháp lý, thì bên vay nhận tài sản từ bên cho vay kèm với quyền sở hữu
tài sản đó, và có nghĩa vụ trả lại tài sản đó hoặc một tài sản cùng loại, cùng
chất lượng (trong trường hợp vay tiền thì sẽ hiểu mặc định là trả lại cùng một
khoăn tiền, việc trả lại khác loại tiền tệ sẽ phải xem xét quy định pháp luật có
cho phép khơng và hai bên thỏa thuận ra sao).
Hiểu theo nghĩa chung nhất, vay tài sản là một quan hệ xã hội, quan hệ
10
sử dụng vôn lân nhau giữa chủ thê này với chủ thê khác trên ngun tăc có
hồn trả. Mục đích và tính chất của quan hệ vay tài sản do mục đích và tính
chất của nền sản xuất trong xã hội quyết định. Sự vận động của quan hệ vay
tài sản luôn luôn chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế của phương thức
trong xã hội đó. Dưới góc độ pháp lý, sự xuất hiện của quan hệ vay tài sản
kéo theo sự ra đời của chế định hợp đồng vay tài sân - đây là phương tiện
pháp lý giúp các chù thể thỏa mãn nhu cầu về vốn của mình. Nó là cơng cụ
mà nhờ đó những cam kết vay tài sản được thực hiện và tôn trọng [22],
Tóm lại: họp đồng vay là loại hợp đồng mà trong đó bên cho vay
chuyển giao quyền sở hữu một tài sản cho bên vay trong một thời hạn; bên
vay có nghĩa vụ trả lại tài sản đó (vật cùng loại, cùng chất lượng hoặc tiền)
khi hết thời hạn, có thế kèm với một khoản lãi suất, về mặt hình thức, mặc dù
khơng bắt buộc phải xuất hiện nhưng lãi suất vẫn là biểu hiện đặc trưng nhất
của hợp đồng vay. BLDS năm 2015 không định nghĩa lãi suất, nhưng có thể
hiểu lãi suất là một khoản tiền được tính thêm trên cơ sở giá trị khoản vay và
phải trả cho bên cho vay cùng với tài sản vay.
1.1.3. Khái niệm hợp đồng tín dụng cá nhân
Hợp đồng tín dụng là dạng hợp đồng vay đặc biệt. Cụ thể, hợp đồng tín
dụng thực chất là hợp đồng vay tiền mà bên cho vay là tổ chức tín dụng.
“Tín dụng” là một khái niệm để chỉ mối quan hệ giữa người vay và
người cho vay. Thuật ngữ này được sử dụng lần đầu tại Anh năm 1520. Từ
“credit” (tín dụng) bắt nguồn từ tiếng La-tinh “credo”, nghĩa là “tôi tin”, hay
là “creditum”, nghĩa là một khốn vay nợ. Tín dụng tức là việc vay nợ để
phục vụ một mục đích cụ thể nào đó, thơng thường là mục đích thương mại
như đầu tư kinh doanh. Tuy nhiên, tín dụng cũng có thể phục vụ mục đích phi
thương mại, tức là vay tiêu dùng. Sự khác biệt lớn nhất giữa hợp đồng tín
dụng và hợp đồng vay là ở chỗ hợp đồng tín dụng chỉ cho phép vay bằng tiền
11
thay vì các loại tài sản, tức là khá giơng với cách hiêu dân gian vê hợp đông
vay hiện nay. Sự khác biệt lớn thứ hai là về vấn đề chủ thể cho vay: bên cho
vay trong hợp đồng tín dụng phải là các tổ chức tín dụng.
về mặt ngữ nghĩa, tại các nước “khoản vay” (loan) và “khoản tín dụng”
(credit) hay được phân biệt dựa vào sự khác nhau mang tính kỹ thuật. Cụ thể,
một khoản vay thường được hiểu là sự chuyển giao một lần số tiền vay; trong
khi một khoăn tín dụng được coi như một lượng tiền mà bên vay có thể lấy từ
bên cho vay trong bất kỳ thời điểm nào, miễn là còn trong giới hạn số tiền
(hạn mức tín dụng/hạn mức vay) và trong thời hạn mối quan hệ cấp tín dụng
giữa hai bên cịn tồn tại. Tại Việt Nam, thuật ngữ tín dụng thường được hiểu
là một trong các loại hoạt động cho vay của ngân hàng, được tiêu biếu bởi
“thẻ tín dụng”.
Hình thức đầu tiên của tín dụng trong lịch sử là tín dụng nặng lãi. Cùng
với sự phát triển của nền sãn xuất hàng hóa tiền tệ, tín dụng khơng ngừng phát
triển. Dần dần trong xã hội xuất hiện một tổ chức trung gian có nhiệm vụ huy
động vốn nhàn rồi trong xã hội và dùng vốn đó cho các chủ thể khác vay. Đó
chính là các tổ chức tín dụng [49, tr. 7], Loại hình tổ chức tín dụng phổ biến
nhất là các ngân hàng.
Như vậy, về bản chất hợp đồng tín dụng là họp đồng vay, tuy nhiên sẽ
chỉ có một số khác biệt mang tính quy ước dựa trên vấn đề kỳ thuật. Do đó,
hai thuật ngữ “hợp đồng vay” và “hợp đồng tín dụng” có thể được sử dụng
thay thế nhau trong đa số các trường họp thường thấy trong cuộc sống.
Tại Việt Nam, có một số định nghĩa hợp đồng tín dụng ngân hàng tiêu
biểu như:
Giáo trình của Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội định nghĩa:
Hợp đồng tín dụng ngân hàng là sự thỏa thuận bằng vàn băn giữa tố
chức tín dụng (gọi là bên cho vay) và khách hàng vay vốn (gọi là
12
bên đi vay), theo đó bên cho vay câp cho bên đi vay một khoản tiên
nhất định để sử dụng trong một khoảng thời gian nhất định và khi
hết hạn đó, bên đi vay phải hồn trả lại cả gốc và lãi [48].
Hoặc như giáo trình cùa Đại học Luật Hà Nội định nghĩa:
Hợp đồng tín dụng là sự thỏa thuận bằng văn bản giữa tổ chửc tín
dụng (bên cho vay) với tổ chức, cá nhân có đũ điều kiện do luật
định (bên vay), theo đó tố chức tín dụng thỏa thuận ứng trước một
số tiền cho bên vay sử dụng trong thời gian nhất định, với điều kiện
hoàn trả cả gốc lẫn lãi, dựa trên sự tín nhiệm [47],
Hai định nghĩa này có sự khác biệt nhất định về diễn đạt, cũng như định
nghĩa của Đại học Luật Hà Nội có sự đi sâu vào vấn đề chi tiết hơn khi đề cập
đến cả yếu tố pháp lý của chủ thể vay, nhưng về cơ bản vẫn hoàn toàn thống
nhất với nhau. Vì vậy, chúng ta cỏ thể rút ra từ đó một định nghĩa chung như
sau: hợp đồng tín dụng ngân hàng là sự thỏa thuận bằng văn bản giữa một
bên là tơ chức tín dụng ngân hàng với bên kia là tô chức, cá nhân thỏa mãn
điều kiện luật định, theo đó bên cho vay cấp cho bên đi vay một khoản tiền để
sử dụng vào mục đích và trong thời hạn đã thỏa thuận, hết thời hạn đỏ bên đi
vay phải hoàn trả gốc và lãi [49, tr. 9],
Từ đây ta có thế định nghĩa hết sức đơn giản hợp đồng tín dụng cá
nhân là hợp đồng tín dụng được ký kết giữa ngân hàng thương mại và khách
hàng vay là cá nhân. Hợp đồng tín dụng cá nhân do đó vẫn mang đầy đủ các
đặc điểm pháp lý của hợp đồng tín dụng, tuy nhiên sẽ có khác biệt về mặt
chù thể. Nhưng sẽ được trình bày trong các phần tiếp theo của luận văn, chỉ
riêng sự khác biệt này sẽ dẫn đến nhiều vấn đề pháp lý cần quan tâm, và kéo
theo đó là mở rộng đáng kể phạm vi những quy định pháp luật cần khảo sát
ra ngồi khn khố các quy định chun ngành điều chỉnh họp đồng tín
dụng nói chung.
13
1.2. Bản chât pháp lý ciía hợp đơng tín dụng
Là một dạng hợp đồng vay, hợp đồng tín dụng cũng có bản chất pháp
lý tương tự với hợp đồng vay. Do đó khi muốn tìm hiểu bẳn chất pháp lý của
hợp đồng tín dụng thì trước tiên chúng ta cần tìm hiểu bản chất của hợp
đồng vay trước.
Đứng trên góc độ khoa học pháp lý, có ba câu hỏi về vấn đề phân loại
đổi với hợp đồng vay rất quan trọng mà ta cần trả lời: loại hợp đồng này là (i)
hợp đồng ưng thuận hay hợp đồng thực tế; (ii) hợp đồng đơn vụ/đơn phương
hay họp đồng song vụ; và (iii) họp đồng có đền bù hay khơng có đền bù. Ba
câu hởi này sẽ giúp hiểu sâu sắc hơn bản chất pháp lý của hợp đồng vay hay
là bản thân hoạt động cho vay.
* Hợp đồng vay là một hợp đồng đơn vụ: PGS.TS. Ngơ Huy Cương dứt
khốt cho rằng hợp đồng vay là một hợp đồng đơn vụ điển hình [10, tr. 27].
Tuy nhiên, dường như ơng sử dụng một hệ thống lý thuyết khác biệt với
những gì mà luật thành văn của Việt Nam thể hiện. Cụ thể, BLDS năm 2015
định nghĩa hợp đồng song vụ là hợp đồng mà “Hợp đồng song vụ là hợp
đồng mà mỗi bên đều có nghĩa vụ đối với nhau"', và hợp đồng đơn vụ là hợp
đồng mà “chỉ một bên cỏ nghĩa vụ” [38, Điều 402.1 và Điều 402.2]. Mà,
nghĩa vụ lại được luật quy định là “việc mà theo đỏ, một hoặc nhiều chủ thê
[...] phải chuyển giao vật, chuyên giao quyền, trả tiền hoặc giấy tờ có giả,
thực hiện công việc hoặc không được thực hiện công việc nhất định vì lợi ích
[38, Điều 274], Như vậy khi khảo sát
của một hoặc nhiều chủ thê khác
các quy định về nghĩa vụ của bên cho vay trong chế định hợp đồng vay tài
sản của BLDS năm 2015 ta có thế thấy: ngồi việc bên vay phải trả lại tài
sản vay và lãi, thì bên cho vay cũng cịn có thể có nghĩa vụ đối với bên vay,
đó là chuyển giao (quyền sở hữu) tài sản nếu các bên có thỏa thuận về vấn
đề giao tài sản [38, Điều 465.1]. Như vậy theo quan điểm của các nhà làm
14
luật Việt Nam, hợp đơng vay có thê là hợp đông song vụ hoặc đơn vụ, tùy
vào việc hợp đồng có quy định cụ thể về một nghĩa vụ chuyển giao tài sản
đối với bên cho vay hay không.
* Hợp đồng vay là một hợp đồng ưng thuận: vấn đề này chưa được
thống nhất hoàn toàn tại Việt Nam. Nếu xem xét quan điểm cùa các tổ chức
hành nghề luật khác nhau được công khai trên mạng thông qua các trang web
hoặc diễn đàn, ta có thể thấy hai quan điểm họp đồng vay là hợp đồng ưng
thuận hay hợp đồng thực tế cùng tồn tại. PGS.TS. Ngô Huy Cương cho rằng
họp đồng vay là một họp đồng đơn vụ điển hình [10]. PGS.TS. Nguyễn Ngọc
Điện thì lại bình luận hợp đồng vay theo luật Pháp là hợp đồng thực tế và hợp
đồng đơn vụ, “khác với luật Việt Nam”, điều này gợi ý rằng đối với pháp luật
Việt Nam thì họp đồng vay là hợp đồng ưng thuận (?). Trong khi đó, một số
người có quan điểm trung dung, chẳng hạn tác giả Đoàn Thị Ngọc Hải cho
rằng tùy vào nội dung giao kết thì họp đồng vay vừa có thể là hợp đồng ưng
thuận, vừa có thể là hợp đồng thực tế tùy theo thỏa thuận của các bên [52].
Neu tiếp tục nghiên cứu sâu hơn các quy định của pháp luật Việt Nam thì ta
sẽ khơng đi đến kết luận mang tính trung dung này, bới: BLDS năm 2015 đã
quy định rõ ràng rằng hiệu lực của hợp đồng sẽ phát sinh kể từ thời điểm
giao kết, “trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật liên quan có quy định
khác” [38, Điều 401], Như vậy phải đồng ý với quan điểm của PGS. TS.
Nguyễn Ngọc Điện rang trong pháp luật Việt Nam, hợp đồng tín dụng là hợp
đồng ưng thuận.
* Hợp đồng vay có thể là hợp đồng có đền bù hoặc khơng đền bù'.
một hợp đồng có đền bù thường được hiểu là hợp đồng mang lại lợi ích cho
cả đơi bên, mồi bên đều nhận được của bên kia cái gì đó. Vậy nếu hợp
đồng vay có lấy lãi thì đó là hợp đồng có đền bù; nếu khơng lấy lãi thì là
hợp đồng không đền bù.
15
Vậy có thể tóm tắt lại như sau:
Hợp đồng vay là một hợp đồng mà có một bên chuyển giao tài sản của
mình, và sau một thời gian sẽ nhận lại tài sản hoặc vật tương ứng, có thể kèm
theo một khoản lãi. Họp đồng vay là hợp đồng thực tế hay ưng thuận, đơn vụ
hay song vụ đều phụ thuộc vào từng trường họp cụ thế các bên thỏa thuận với
nhau như thế nào; như vậy theo luật Việt Nam thì sự phân nhóm này là linh
hoạt. Ngồi ra hợp đồng vay là hợp đồng có đền bù hay khơng có đền bù cũng
sẽ dựa vào việc các bên có quy định về lãi suất hay khơng (Vấn đề này sẽ phải
được đề cập lại trong phần sau khi trình bày về lãi (suất) vay và lãi chậm trả,
hai khoản lãi có quan hệ gần gũi nhưng rất khác nhau).
Như đã đề cập, hợp đồng tín dụng cũng thể hiện những tính chất tương
tự hợp đồng vay và do đó, có thể được phân loại tương tự họp đồng vay. Tuy
nhiên trong thực tế, các hợp đồng này thường được xác định là hợp đồng ưng
thuận và song vụ. Lấy ví dụ các hợp đồng mở thẻ tín dụng: trong thời hạn thẻ
tín dụng có hiệu lực (thường là 24 - 36 tháng), mỗi khi người dùng thê cần
vay một khoản tiền thì thẻ sẽ tự kích hoạt và chi ra khoản tiền mà người đó
mong muốn (nhưng phải trong hạn mức). Neu thẻ khơng hoạt động thì người
dùng thẻ có thể yêu cầu ngân hàng kiểm tra và sửa lỗi. Như vậy là khi ký kết
họp đồng mở thẻ sau, ngân hàng ngay lập tức có nghĩa vụ phải cấp tín dụng
theo yêu cầu cùa người này, nên họp đồng mờ thẻ đó là loại hợp đồng ưng
thuận và cũng là hợp đồng song vụ.
1.3. Đặc điểm và phân loại các họp đồng tín dụng giữa các ngân
hàng thu’O’ng mại và cá nhân
1.3.1. Đặc điểm của hợp đồng tín dụng cá nhân
Thơng qua những phân tích trên, có thể rút ra những đặc điểm của hợp
đồng tín dụng cá nhân như sau:
Một là, chủ thể cho vay trong hợp đồng tín dụng cá nhân là các tổ chức
tín dụng, như ngân hàng, cơng ty tài chính, cơng ty cho thuê tài chính... Luật
16
các tơ chức tín dụng hiện hành đưa ra định nghĩa như sau: “7ơ chức tín
dụng là doanh nghiệp thực hiện một, một sổ hoặc tất cả các hoạt động ngân
hàng. Tổ chức tín dụng bao gồm ngân hàng, tổ chức tín dụng phi ngân hàng,
tơ chức tài chỉnh vi mơ và quỹ tín dụng nhãn dân" [36, Điều 4.1]. Trong
khuôn khổ luận văn này chỉ quan tâm đến một loại hình tổ chức tín dụng nổi
bật nhất, đó là các ngân hàng thương mại. Luật Các tổ chức tín dụng đưa ra
định nghĩa như sau: “Ngăn hàng thương mại là loại hình ngân hàng được
thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác
theo quy định của Luật này nhằm mục tiêu lợi nhuận" [36, Điều 4.3]. Bản
chất của các tổ chức tín dụng đều là những doanh nghiệp tiến hành hoạt động
kinh doanh, tìm kiếm lợi nhuận bằng kinh doanh tiền tệ. Nguồn vốn cho vay
của họ lại chính là nguồn vốn huy động tạm thời từ người dân, chẳng hạn như
tiền gửi tiết kiệm. Với những dòng tiền ra - vào hết sức phức tạp và liên quan
đến nhiều chủ thể như vậy, khơng khó hiểu tại sao sự cẩn trọng, sự an toàn là
những vấn đề được đặt ra cực kỳ nặng nề đối với hệ thống ngân hàng. Đây
cũng là một lý do giải thích tại sao hoạt động tín dụng được điều chinh bởi
một hệ thống pháp luật riêng biệt, chuyên ngành; hệ thống này tách biệt khởi
chế định hợp đồng vay tài sản chung [1, tr. 109],
Hai là, chủ thể đi vay là cá nhân, bất kể là cá nhân Việt Nam hay là cá
nhân nước ngoài [28, Điều 2.3], có năng lực hành vi dân sự và đáp ứng các
điều kiện mà bên cho vay đặt ra. Các cá nhân vay vốn thường không vay các
khoản lớn như khách hàng là pháp nhân. Ngoài ra, tập khách hàng cá nhân
thông thường phải vay tiền dựa vào hợp đồng mẫu soạn sẵn do ngân hàng quy
định, do đó có thế nói họ thường khơng có địa vị tương đương với ngân hàng
trong vấn đề đàm phán hợp đồng, mà chỉ có quyền chấp nhận hay khơng chấp
nhận các điều khoản của hợp đồng. Do đó, có thể coi như khách hàng vay
trong các trường hợp này là một “bên yếu thế” trong quan hệ hợp đồng. Điều
17
này có ảnh hưởng lớn đên việc giải thích hợp đơng và giải qut tranh châp
(nếu có) giữa các bên, nhất là về thanh toán nợ và tiền lãi.
Ba là, hình thức của hợp đồng là văn bản, và phải có một số nội dung
bắt buộc bao gồm thơng tin của các bên; mục đích sử dụng khoản vay; hạn
mức cho vay/hạn mức thấu chi; đồng tiền cho vay, đồng tiền trả nợ; phương
thức cho vay... [28, Điều 23], Các hợp đồng này đa phần là họp đồng theo
mẫu [58]. Quy định bắt buộc phải vay bằng văn bản này là nhằm đảm bảo sự
an toàn pháp lý cho các bên, bởi lẽ hợp đồng tín dụng là loại hợp đồng ẩn
chứa rủi ro rất cao, do đó rất cần sự kiểm sốt chặt chẽ. Có những quan điểm
cho rằng, quy định này đã khiến cho hợp đồng tín dụng trở nên một hợp đồng
trọng thức, tức là loại hợp đồng có hiệu lực phụ thuộc vào việc hình thức giao
kết có đúng với quy định cùa luật hay khơng; điều này khiến hạn chế quyền tự
do ý chí của các bên trong giao kết hợp đồng. Tuy nhiên theo tác giả quan
niệm như vậy là chưa hợp lý, vì khi đánh giá một quy định có phải sự hạn chế
quyền q đáng hay khơng cần phải xem xét tính hợp lý của quy định đó. Ở
đây quy định hợp đồng phải lập thành văn bản là một quy định hết sức đơn
giản, mà lại giúp giảm thiểu tối đa rủi ro cho các bên ký kết hợp đồng trong
việc chứng minh nếu như có tranh chấp nào xảy ra. Bản thân các ngân hàng
khi cấp tín dụng cho cá nhân cũng thường sừ dụng văn bản họp đồng mẫu vì
mục đích tiện lợi của chính họ. Do đó nếu nói rằng đây là quy định hạn chế tự
do ý chí một cách khơng phù hợp thì đó là quan điểm chưa tồn diện.
Bốn là, hợp đồng tín dụng mang bản chất của “sự tín nhiệm”. Các Mác
đã chỉ ra: ‘7z'n dụng là sự tín nhiệm ít nhiều có căn cứ đã khiến cho người này
giao cho một người khác một so tư bản nào đó dưới hình thải hàng hỏa" [19].
Trong bối cảnh pháp lý hiện đại, sự tín nhiệm đó rất cần phải dựa trên nhũng
tiêu chí rõ ràng được pháp luật quy định và bởi thỏa thuận giữa các bên, trong
đó phải cung cấp cho bên cho vay sự đảm bảo là khoản vay sẽ được hoàn trả
18
lại đúng hạn cùng với sô tiên lãi mà bên cho vay đã mong mn. Đây cũng là
lý do vì sao hệ thống pháp luật điều chỉnh hợp đồng tín dụng rất chặt chẽ và
nghiêm ngặt, thể hiện một sự can thiệp rất sâu rộng của nhà nước vào quan hệ
hợp đồng tín dụng.
Năm là, đối tượng của hợp đồng là tiền tệ. về nguyên tắc, việc cho vay
chỉ được thực hiện bằng đồng tiền Việt Nam, nhưng việc cho vay bằng ngoại tệ
vẫn được cho phép trong một số trường họp cho vay ngắn hạn và trung hạn cụ
thể (Hiện nay chỉ bao gồm các trường họp tại điểm b, d, đ, e Điều 1.1 Thông tư
42/2018/TT-NHNN sửa đổi bổ sung Thông tư Thông tư số 24/2015/TT-
NHNN). Điều này phù hợp với tinh thần của Pháp lệnh ngoại hối, theo đó, với
mục tiêu bảo vệ chính sách tiền tệ quốc gia, Pháp lệnh này đã quy định mọi
giao dịch, thanh tốn trên lãnh thổ Việt Nam khơng được thực hiện bằng ngoại
hối, trừ trường họp Ngân hàng nhà nước có quy định khác [50, Điều 22], về
mặt lý thuyết, có hai khoản tiền độc lập được chuyển giao tại hai thời điểm
khác nhau trong hợp đồng vay lần lượt là khoản tiền vay (bên cho vay chuyển
giao cho bên vay) và khoản tiền nợ vay được thanh toán (bên vay chuyển giao
cho bên cho vay). Tuy nhiên Quy chế cho vay hiện hành cùa nhà nước (được
quy định trong Thông tư 39/2016/TT-NHNN) đã quy định đồng tiền trả nợ
phải là đồng tiền cho vay của khoản vay, nên sự phân biệt hai khoản tiền này
chỉ còn ý nghĩa xác định bên bị thiệt hại trong trường hợp có tội phạm xảy ra
(Khi có một tranh chấp dân sự liên quan đến khoản vay, thì bên nguyên đơn
hay bên bị thiệt hại là bên có quyền yêu cầu đối với bên kia. Tuy nhiên, trong
một vụ án hình sự, thì bên bị thiệt hại về tài sản là chủ sở hữu hay người đang
chiếm hữu tài sản đó. Cụ thể hơn, nếu tranh chấp về nghĩa vụ trả nợ một
khoản tiền X. nào đó xảy ra thi bên bị thiệt hại là chủ nợ; nhung nếu khoản
tiền X. bị chiếm đoạt trái pháp luật thì con nợ - tức chủ sở hữu của khoản tiền
tại thời điểm đó - là bên bị thiệt hại hay là bị hại của vụ án).
19
1.3.2. Phân loại hợp đơng tín dụng cá nhân
Tùy vào từng tính chất mà hợp đồng tín dụng có cách phân loại riêng
theo từng loại tín dụng như sau:
* Nếu căn cứ vào thời hạn cho vay, thì họp đồng tín dụng chia thành 3
loại như dưới đây [28, Điều 10]. Cách phân loại này rất đáng được chú ý, đặc
biệt là về mặt pháp lý, bởi lẽ dựa vào thời hạn cho vay mà các ngân hàng sẽ
có thể đưa ra mức lãi suất phù hợp, cũng như đánh giá rủi ro và quyết định
hạn mức cấp tín dụng.
Hợp đồng tín dụng ngắn hạn: Là loại họp đồng tín dụng có thời hạn
vay dưới 01 năm.
Hợp đồng tín dụng trung hạn : Là loại họp đồng tín dụng có thời hạn từ
01-05 năm. Loại họp đồng này được áp dụng cho vay để mua sắm tài sản cố
định, cải tiến, đổi mới kỹ thuật công nghệ, xây dựng và mở rộng các cơng
trình quy mơ nhở, thời gian thu hồi vốn nhanh.
Họp đồng tín dụng dài hạn: Là hợp đồng tín dụng có thời hạn trên 05
năm. Loại hợp đồng này rất hiếm khi có khách hàng là cá nhân, mà đa phần là
các doanh nghiệp cần vay vốn để thực hiện các dự án đàu tư có quy mô lớn,
thời gian thu hồi vốn lâu như xây dựng dự án nhà ờ, nhà máy...
* Nếu căn cứ vào mục đích của khoản vay, có thể chia thành hợp
đồng tín dụng phục vụ sản xuất kinh doanh và hợp đồng tín dụng phục vụ
tiêu dùng [49, tr. 13],
Họp đồng để phục vụ sản xuất kinh doanh, dịch vụ: Đây là loại hợp
đồng phổ biến, theo đó bên đi vay vốn nhằm phục vụ nhu cầu sản xuất kinh
doanh, dịch vụ. Thường thì loại hợp đồng này sẽ có giá trị cao hon loại họp
đồng phục vụ tiêu dùng.
Hợp đồng để phục vụ tiêu dùng, học tập: là loại hợp đồng tín dụng
trong đó vốn được vay đế giải quyết các nhu cầu sinh hoạt tiêu dùng hoặc học
20
tập. Thường thì loại hợp đơng này có giá trị nhỏ. Loại hợp đông này khá phô
biến với các khách hàng cá nhân do sự phát triển của các hàng hóa, dịch vụ
mua trả góp và dịch vụ thẻ tín dụng.
* Nếu căn cứ vào mức độ tín nhiệm các tố chức tín dụng. Hợp đồng tín
dụng chia thành 2 loại:
Hợp đồng tin dụng không cần đảm bảo: Biểu hiện thơng qua hình thức
đảm bảo bàng uy tín cá nhân, được các tổ chức tín dụng áp dụng đối với
những khách hàng đáng tin cậy.
Hợp đồng tín dụng có đám bảo: Áp dụng với những khách hàng có
năng lực tài chính thấp, hiệu quả kinh doanh khơng cao hoặc ít có quan hệ tín
dụng với ngân hàng, và sẽ bị ngân hàng đánh giá là tập khách hàng có rủi ro
cao. Tổ chức tín dụng u cầu cần có tài sản tương đương để thế chấp như
động sản, bất động sàn, những giấy tờ có giá trị hoặc địi hởi sự bảo lãnh từ
một chủ thể hợp pháp khác.
1.4. Pháp luật điều chỉnh họp đồng tín dụng giữa ngân hàng thương
mại và cá nhân
Để xác định hệ thống các quy định pháp luật điều chỉnh hợp đồng tín
dụng cá nhân, theo tác giả có hai vấn đề lớn cần được đặt ra. Trước tiên, hợp
đồng tín dụng cá nhân thuộc sự điều chỉnh của ngành luật dân sự hay ngành
luật thương mại. Thứ hai, có những nguồn luật nào điều chỉnh loại quan hệ
hợp đồng này.
1.4.1. Ngành luật điều chỉnh
Để trà lời câu hởi thứ nhất ta cần phài quay lại vấn đề phân biệt hợp
đồng dân sự và hợp đồng thương mại. Hay nói cách khác, ta cần chỉ ra sự
khác nhau giữa hành vi dân sự và hành vi thương mại. Sự phân biệt này là
quan trọng bởi, như GS. Phạm Duy Nghĩa đã chỉ ra, giữa luật dân sự và luật
thương mại có mối quan hệ luật chung - luật riêng [30]. Ta cũng đã biết có
21
những quy định riêng cho hợp đơng tín dụng cá nhân như đã trình bày trên.
Tuy nhiên, nếu như có vấn đề mà các quy định chuyên ngành đó chưa được
đề cập đến thì ta sẽ phải tìm đến các quy định của luật chung. Nếu các hợp
đồng này thuộc phạm vi điều chỉnh của ngành luật thương mại thì cũng theo
nguyên tắc luật chung - luật riêng, các đạo luật thuộc ngành luật này sẽ được
ưu tiên áp dụng thay vì Bộ luật Dân sự để giải quyết các vấn đề đó.
Xác định hợp đồng tín dụng chịu sự điều chinh của ngành luật dân sự
hay thương mại có ý nghĩa thực tiễn là xác định xem đạo luật chung nào sẽ
điều chỉnh chúng: Bộ luật Dân sự năm 2015 hay là Luật Thương mại năm
2005. Điều này rất có ý nghĩa vì hai đạo luật này có nhiều khác biệt đáng kể
trong nhiều vấn đề như định nghĩa vi phạm cơ bản, mức trần phạt vi phạm
hợp đồng, nghĩa vụ thông báo để được miễn trách nhiệm dân sự khi vi phạm
nghĩa vụ hợp đồng... Ngoài ra, việc xác định ngành luật điều chỉnh cũng có ý
nghĩa xác định loại tranh chấp tại Tòa án để xác định tranh chấp là vụ án dân
sự hay vụ án kinh doanh thương mại và chọn Tịa chun ngành có thấm
quyền cũng như chuyên môn phù hợp nhất.
Luật Thương mại năm 1997 đã quy định “Hành vi thương mại là hành
vi của thương nhân trong hoạt động thương mại làm phát sinh quyền và nghĩa
vụ giữa các thương nhân với nhau hoặc giữa thương nhân với các bên có liên
quan” [34, Điều 5.1], Như vậy, tính chất rất nồi trội của hành vi thương mại là
để phục vụ mục tiêu theo đuổi lợi nhuận. Một cách tương đối giản đơn, có thể
nói: hành vi thương mại thực chất là hành vi dân sự, nhưng hướng đến lợi
nhuận thay vì chỉ hướng đến mục đích tiêu dùng. Với hợp đồng tín dụng, về
mặt thực hành, ta thấy rằng hợp đồng này chắc chắn phải có một bên tham gia
là một tổ chức tín dụng - một doanh nghiệp có đăng ký - có nghĩa là một
thương nhân phù hợp với quy định pháp luật thương mại [35, Điều 6.1].
Ngoài ra, chúng ta cịn thấy trong hợp đồng tín dụng, lợi nhuận cùa
22