MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục
lục
•
•
MỞ ĐẦU............................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1: KHÁI QT VÈ HỢP ĐỊNG VẬN CHUYẾN HÀNG
HĨA QUỐC TẾ BẰNG ĐƯỜNG BIỂN........................................... 6
1.1.
Hoạt động vận chuyển hàng hoá quốc tế bằng đường biển.......... 6
1.1.1.
Khái niệm vận chuyển hàng hoá quốc tế bàng đường biển................ 7
1.1.2.
Đặc điểm của hoạt động vận chuyển hàng hố quốc tế bằng
đường biển........................................................................................... 9
1.1.3.
Vai trị của hoạt động vận chuyển hàng hoá quốc tế bằng đường
biển đối với thương mại quốc tế........................................................ 11
1.2.
Hợp đồng vận chuyển hàng hoá quốc tế bằng đường biễn...........13
1.2.1.
Khái niệm họp đồng vận chuyển hàng hoá quốc tế bằng đường biển..... 13
1.2.2.
Đặc điểm của hợp đồng vận chuyển hàng hoá quốc tế bằng
đường biển........................................................................................... 17
1.2.3.
Đối tượng của hợp đồng vận chuyển hàng hoá quốc tế bằng
đường biển........................................................................................... 18
1.2.4.
Nội dung hợp đồng vận chuyển hàng hoá quốc tế bằng đường biển..... 19
1.2.5.
Người vận chuyển và người vận chuyển thực tế............................... 28
1.2.6.
Hợp đồng vận chuyển hàng hoá quốc tế bằng đường biển trong
vận tải đa phương thức........................................................................ 29
1.2.7.
Điều kiện cơ sở giao hàng với hợp đồng vận chuyển hàng hoá
quốc tế bằng đường biển.................................................................... 33
1.2.8.
Vận đơn sử dụng trong giao nhận vận chuyển hàng hóa quốc tế
bằng đường biển.................................................................................. 34
1.2.9.
Trách nhiệm, giới hạn trách nhiệm và miễn trách của các bên
trong hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bàng đường biển...... 41
1.2.10. Chậm trả hàng.................................................................................... 47
1.2.11. Tổn thất chung.................................................................................... 48
1.2.12. Giải quyết tranh chấp liên quan đến hợp đồng vận chuyển hàng
hố quốc tế bằng đường biển............................................................. 51
CHNG 2: THỤC
TIỄN THI HÀNH PHÁP LUẬT
VIỆT
NAM VÈ
•
•
•
HỢP ĐỒNG VẬN CHUYẺN HÀNG HOÁ QUỐC TÉ BẰNG
ĐƯỜNG BIỂN VÀ MỘT SỐ KIÉN NGHỊ.................................... 56
2.1.
Tổng quan về nguồn pháp luật điều chỉnh hợp đồng vận
chuyển hàng hoá quốc tế bằng đường biển..................................... 56
2.1.1.
Điều ước quốc tế về vận chuyển hàng hóa đường biển mà Việt
Nam tham gia.......................................................................................56
2.1.2.
Bộ luật dân sự năm 2015..................................................................... 57
2.1.3.
Bộ luật Hàng hải Việt Nam năm 2015................................................ 58
2.1.4. Tập quán, thói quen trong hoạt động hàng hải................................... 61
2.1.5.
Hợp đồng mẫu...................................................................................... 64
2.2.
Thực trạng ký kết và thực hiện họp đồng vận chuyển hàng
hoá quốc tế bằng đường biển........................................................... 65
2.3.
Đánh giá chung về hệ thống văn bản pháp luật điều tiết quan
hệ hợp đồng vận chuyển hàng hoá quốc tế bằng đường biển..... 67
2.4.
Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về hợp đồng vận
chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển....................................70
KÉT LUẬN...................................................................................................... 75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................... 77
MỞ ĐÀU
1. Tính câp thiêt của việc nghiên cứu đê tài
Trong lịch sử giao thưong thế giới, việc buôn bán của các thương nhân
giữa các quốc gia với nhau hoặc giữa các vùng lãnh thố bị chia cắt bởi đại
dương được tiến hành qua con đường hàng hải. Lịch sử hàng hải gắn liền với
lịch sử phát triển của thương mại quốc tế. Nước Anh từng là quê hương của
cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất và cũng là nơi tư bản đế quốc phát
triển mạnh thì tại đó, hàng hải Anh với những hạm đội mạnh và những cuộc
viễn chinh đã đi vào lịch sử. Khi thế giới càng tiến tới sự giao thông, mở rộng
cửa tiếp nhận các thành quả kinh tế từ các nước khác, cũng là lúc vận tải biển
trở nên phố biến và cần thiết hơn hết với mồi doanh nghiệp xuất nhập khẩu.
Việc vận chuyển đường biển không chỉ là vấn đề của mồi quốc gia mà
còn liên quan đến lãnh thổ, đường biến đến chủ quyền cùa mồi quốc gia. Với
tầm quan trọng như vậy, đòi hỏi các quy định pháp luật điều chỉnh lĩnh vực vận
chuyển hàng hải phải có những đặc thù riêng. Và, để cho thương mại quốc tế
phát triển, việc vận chuyển đường biển cũng cần phải có sự quan tâm nhất định
của Quốc hội, Đảng, Chính phù và những nhà làm luật. Thêm nữa, tại Việt
Nam, khối lượng vận chuyển hàng hóa xuất nhập khẩu bằng phương thức vận
tải đường biển chiếm tới 90% tổng khối lượng hàng hóa xuất nhập khẩu quốc
gia. Như vậy có nghĩa rằng, về mặt vận tải hàng hóa quốc tế, việc vận chuyển
hàng hóa xuất nhập khẩu bằng đường biển đóng vai trò quan trọng nhất trong
tất cả các phương thức vận tải. Quá trình tham gia vào hoạt động vận chuyển
hàng hóa quốc tế bằng đường biển góp phần tạo điều kiện để các doanh nghiệp,
cá nhân, tổ chức của Việt Nam thu hút được nguồn ngoại tệ không nhỏ cho đất
nước chúng ta. Tuy nhiên, quá trình tham gia vào hoạt động vận chuyển hàng
hóa bằng đường biển cịn đặt ra rất nhiều khó khăn, thử thách mà các doanh
nghiệp, cá nhân, tổ chức này phải trả giá khá đắt mới rút ra được bài học kinh
nghiệm cho chính mình. Và một trong những khó khăn, thách thức mà các
doanh nghiệp, cá nhân, tố chức của Việt Nam gặp phải chính là việc giao kết và
thực thi hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển. Do đó nội
dung chính của luận văn chù yếu tìm hiểu về vấn đề vận chuyển hàng quốc tế
trong hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển
Trong vịng 2 năm nay, tình hình kinh tế thế giới có nhiều bất ổn: giá
dầu thế giới tăng liên tục rồi lại tụt xuống một cách bất ngờ; lạm phát tại hầu
hết các nước trong đó có Việt Nam; khủng hoảng tài chính và kinh tế thế giới
gia tăng, nhiều người mất việc, các doanh nghiệp cắt giảm nhân công và sản
lượng. Cũng bị ảnh hưởng bởi hoàn cảnh chung: Chủ tàu dầu khó kiếm nguồn
hàng, tàu container rơi vào cuộc khủng hoảng thừa còn cước tàu hàng rời vẫn
tiếp tục là nỗi lo lớn với chủ tàu khi không hề có chút dấu hiệu hồi phục nào.
Giá cước vận tải giảm liên tục từ tháng 7/2008 tới nay, thậm chí với mức
giảm đến 70%, nhiều doanh nghiệp vận tải đã phải ngừng khai thác để tránh
lồ. Và nhiều doanh nghiệp khác thì bị ép giá, phải chấp nhận mức giá rẻ để
đổi lấy việc vận chuyển thường xuyên. Do vậy, quyền và lợi ích của các
doanh nghiệp vận chuyển bị đe dọa.
Với mục đích giúp các doanh nghiệp xuất nhập khấu và vận tải Việt
Nam hiểu sâu hơn, đúng hơn các quy định của pháp luật về lĩnh vực này, trên
cơ sở đó, bảo vệ các quyền và lợi ích của mình người viết quan tâm nghiên
cứu đề tài “Hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển”. Tăng
sức cạnh tranh, kiến thức pháp lý của doanh nghiệp cũng vừa là đối phó với
khủng hoảng kinh tế, vừa là tạo tiền đề để hoạt động vận chuyển phát triển
mạnh sau thời khủng hoảng. Suy cho cùng, khủng hoảng cũng chính là thời
cơ, là thách thức để ngành vận tải biến thay đối phù hợp với tình hình mới. Là
cơ hội để khảo nghiệm, kiểm tra tính khả thi của hệ thống pháp luật về vận
chuyển hàng hỏa quốc tế bàng đường biển.
2
Đe tài cũng mong muốn qua đó góp phần vào việc hiểu thêm về lý
luận, đánh giá thêm về sự phù họp của các quy định của pháp luật Việt Nam
>
r
\
điêu chỉnh vân đê này.
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn:
Tìm hiểu những chế định pháp luật cơ bản trong sự so sánh tương đồng
pháp luật về hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển giữa
pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế.
Quan tâm đến các tranh chấp phát sinh trong hoạt động vận chuyển
hàng hóa quốc tế và đưa đến một vài giải pháp để hạn chế tình trạng này cả
về phía các bên trong việc ký kết hợp đồng cũng như các quy định pháp
luật điều chỉnh.
Kiến nghị nhằm hoàn thiện hon nữa hệ thống pháp luật điều chỉnh họp
đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển.
3. Đơi tương và phạm vi nghiên cứu
Đối tưọng nghiên cứu của Luận văn là họp đồng vận chuyển hàng hóa
quốc tế bằng đường biển.
Luận văn tập trung vào phạm vi những nội dung cơ bản nhât của một
hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển, về những quy định
pháp luật thực định điều chỉnh lĩnh vực này trong sự tương quan so sánh với
lịch sử pháp luật trong nước và pháp luật quốc tế.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu duy vật biện chứng của
chủ nghĩa Mác - Lênin dựa trên nghiên cứu từ thực tiễn tranh chấp và giải
quyết tranh chấp pháp luật về hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế
bằng đường biển.
Luận văn còn sử dụng phương pháp so sánh, tổng họp, đối chiếu
3
những quy định của pháp luật Việt Nam với các điêu ước qc tê thơng qua
đó phân tích sự phù hợp của pháp luật Việt Nam điều chỉnh vấn đề vận
chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển. Nhờ vậy mà đưa ra những giãi
pháp mang tính đúng đắn có khả năng giải quyết được những mục tiêu mà
vấn đề nghiên cứu đặt ra.
5. Những đóng góp của khố luận
Góp phần giới thiệu và làm rõ những nội dung cơ bản của loại hình
hợp đồng vận chuyển hàng hóa bàng đường biển và tầm quan trọng của
phương thức này.
Đặt ra vấn đề hiện trạng quy định pháp luật điều chỉnh lĩnh vực hợp
đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển, từ đó chỉ ra những lồ hổng pháp
luật cần được khắc phục.
Nghiên cứu và đê xuât những giải pháp có căn cứ, khoa học và có tính
khả thi nhằm hồn thiện những vấn đề có có tính chất lý luận về hợp đồng vận
chuyển hàng hóa quốc tế bàng đường biển và làm rõ một số vấn đề pháp lý.
6. Bơ cục
• của khố luận
•
Hoạt động vận chuyển đường biển gồm hai lĩnh vực: vận chuyển hành
khách bằng đường biển và vận chuyển hàng hoá bằng đường biển. Mồi lĩnh
vực lại do các quan hệ pháp luật có tính chất đặc thù riêng điều chỉnh. Trong
khn khổ khố luận, tơi xin được đi vào tìm hiểu và trình bày những hiểu
biết nhất định của mình về "Họp đồng vận chuyên hàng hoả quổc tể bằng
đường biên
Ngoài phân mở đâu, kêt luận, danh mục tài liệu tham khảo và
phụ lục, nội dung của luận văn bao gồm 2 chương:
Chương 1: Khái quát về hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng
đường biển.
Chương 2'. Thực tiễn thi hành pháp luật Việt Nam về họp đồng vận
chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển và một số kiến nghị
4
Trong phạm vi khố luận của mình, những vân đê tơi đưa ra được tiêp
cận chủ yếu dưới góc độ lý thuyết có tham khảo một số tranh chấp nảy sinh
trong quá trình thực hiện hoạt động vận chuyển hàng hố đường biển. Rất
mong nhận được những ý kiến đóng góp tích cực để việc nghiên cửu thêm
hồn chỉnh, đồng thời cũng là đỏng góp cho hoạt động vận chuyển hàng hải
ngày càng hồn thiện nhằm góp phần thúc đẩy thương mại quốc tế phát triển.
5
Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ HỢP ĐỒNG VẬN CHUYỀN
HÀNG HÓA QUÓC TÉ BẰNG ĐƯỜNG BIẾN
1.1. Hoạt động vận chuyển hàng hoá quốc tế bằng đường biển
Từ 3200 năm trước công nguyên con người đã biết sử dụng đường biển
để giao lưu giữa các vùng đất với nhau, 2750 năm trước những người Ai Cập
đã bắt đầu những chuyến thám hiếm đầu tiên, và phát hiện vĩ đại nhất của
ngành hàng hải là việc Christopher Columbus tìm ra Châu Mỹ vào thế kỷ XV.
Con người ngày càng ham muốn khám phá thế giới rộng lớn, ham muốn
chinh phục những miền đất lạ. Những thương nhân của vùng đất Phoenica
cũng bắt đàu những chuyến giao lưu với vùng đất mới từ thế kỷ VII trước
Công Nguyên. Người Trung Quốc phát minh ra chiếc la bàn đầu tiên mở màn
cho việc phát triển ngành khoa học hàng hải. Rồi theo thời gian, vận tải biển
càng ngày càng phát triển theo sự hợp tác quốc tế. Ngành vận tải biển phát
triển mạnh và trở thành ngành vận tải hiện đại trong hệ thống vận tải quốc tế.
Hàng hải Việt Nam có nhiều lợi thế với tổng chiều dài đường bờ biển
lên tới 3260km, lại nằm trên con đường hãi hải nối liền Đông - Tây, có
nhiều cảng nước sâu. Hiện nay có tới trên 100 cảng biền lớn nhỏ với tống
chiều dài bến trên 30.000m. Hệ thống các cảng phía Bắc (từ Quảng Ninh
đến Ninh Bình) gồm 22 cảng, trong đó quan trọng nhất là cảng Cái Lân và
cụm cảng Hải Phòng. Hệ thống các cảng miền Trung (từ Thanh Hố đến
Bình Thuận) gồm 37 cảng với các cụm cảng quan trọng nhất là Đà Nang
(tổng hợp) và Nghi Sơn, Dung Quất (chuyên dùng). Hệ thống các cảng miền
nam (Từ Bà Rịa - Vũng Tàu đến Kiên Giang) gồm 45 cảng, hiện là khu vực
có mật độ lưu thơng hàng hố lớn nhất trên cả nước, đặc biệt là khu vực
cảng Sài Gòn - Thị Vải - Vũng Tàu. Các tuyến đường biển nội địa quan
6
trọng nhất đều xuất phát từ các trung tâm trung chuyển nêu trên. Các tuyến
đường biển quốc tế quan trọng nhất xuất phát từ Hải Phịng/TP Hồ Chí Minh
đi khu vực Đông Á (Nga, Nhật, Hàn Quốc, Hong Kong...). Rõ ràng ràng
thiên nhiên đang ưu đãi cho chúng ta rất nhiều trong việc phát triển vận tải
biển. Cùng tốc độ tăng trưởng nhanh chóng của thương mại quốc tế, ngành
vận tải biển Việt Nam đang có những cơ hội to lớn. Theo thống kê, lượng
hàng hóa quốc tế vận chuyển qua đường biển chiếm 80% tổng lưu lượng
hàng xuất nhập khẩu của Việt Nam. Vì vậy, vai trị của nó tới hoạt động xuất
nhập khẩu của Việt Nam là rất quan trọng.
1.1.1. Khái niệm vận chun hàng hố qc tê băng đường biên
Hoạt động hàng hải bao gồm nhiều lĩnh vực khác nhau trong đó có hoạt
động vận chuyển đường biển. Mang trong mình những tính chất chung của
hoạt động vận chuyển, vận chuyển đường biển có những yếu tố có tính chất
đặc thù của loại hình vận chuyển.
Vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển là q trình sử dụng tàu
biển để phục vụ cho vận chuyển hàng hải, theo tuyến đường cố định hoặc
không, đê vận chuyên hàng hóa từ nước này qua nước khác trong mua bán
hàng hóa quốc tế. Theo nghĩa rộng nó là sự tập hợp các yếu tố kinh tế kỹ thuật
nhằm khai thác, chuyên chở bằng tàu biền một cách có hiệu quà hàng hóa
xuất nhập khẩu trong thương mại quốc tế. Vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng
đường biển được tiến hành thông qua các doanh nghiệp, tổ chức chuyên
ngành thực hiện.
Vận chuyển hàng hóa đường biển là một ngành dịch vụ, do vậy nó có
những sự khác biệt cơ bản so với những ngành sản xuất vật chất khác:
\
9
F
-
9
Đâu tiên, việc sản xuât của ngành vận chuyên không tạo ra sản phâm có
hình thái vật chât cụ thê. Sản phâm của vận tải là sự di chuyên vị trí cùa đơi
tượng. Nó cũng khơng có khả năng dự trữ sản phấm để tiêu dùng mà chỉ cỏ
khả năng dự trữ năng lực vận tải như dự trữ số lượng tàu ...
7
Thứ hai, thông qua hoạt động vận chuyên nguời và hàng hóa, vận
tải biển đảm bảo cho các mối liên hệ trên không gian, phục vụ sản xuất và
sinh hoạt, mối giao lưu kinh tế - xã hội giữa các vùng và giữa các nước.
Sự phát triển vận tải biển có ý nghĩa hết sức to lớn trong phân cơng lao
động theo lãnh thổ.
Thứ ba, các điều kiện tự nhiên ảnh hường chủ yếu tới các khía cạnh kỳ
thuật của sự phân bố và khai thác của mạng lưới các tuyến vận tải biến. Còn
các điều kiện kinh tế - xã hội có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển và
phân bố cũng như sự hoạt động của ngành.
Thứ tư, đối tượng lao động ở đây là hàng hóa. Nhưng vận chuyển đường
biển làm thay đổi vị trí trong khơng gian của hàng hóa chứ khơng tác động kỹ
thuật làm thay đổi hình dáng, kích thước hay phẩm chất của đối tượng.
Hàng hóa quốc tế được mua bán trong loại hình vận chuyển này tuân
theo điều 27, khoản 1 Luật Thương mại Việt Nam năm 2005: “mua bán hàng
hóa quốc tế được thực hiện qua hình thức xuất khẩu, nhập khẩu, tạm nhập, tái
xuất, tạm xuất, tái nhập và chuyển khẩu”. Tức là theo tinh thần của Luật
thương mại Việt Nam, mua bán hàng hóa được coi là có yếu tố quốc tế khi
hàng hóa đó đi qua lãnh thổ quốc gia hay còn gọi là hàng hỏa xuất nhập khẩu.
Vì vậy, được coi là hoạt động vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển
khi hoạt động đó phải vượt qua biên giới.
Như vậy, vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển là một phương
thức vận chuyển đáp ứng nhu cầu di chuyển vị trí của đối tượng vận chuyển
mà cụ thể ở đây là hàng hỏa xuất nhập khẩu. Qua đó ta có thể xác định vận
chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển là việc di chuyển hàng hóa xuất
nhập khẩu từ nơi này đến nơi khác bằng phương tiện chuyên chở đường biển
mà cu thể là tàu biển.
8
1.1.2. Đặc điêm của hoạt động vận chuyên hàng hoá qc tê băng
đường biển
Hoạt động vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển từ hàng thế
kỷ nay luôn chiếm vai trị quan trọng trong việc thơng thương giữa các quốc
gia. Lịch sử lâu đời của ngành vận tải này làm cho nó có những đặc điểm và
ưu thế riêng có so với những phương thức vận chuyển khác. Cụ thể:
Vận chuyển đường biển khơng địi hỏi kỳ thuật, cơng nghệ cầu kỳ và
khắt khe.
Có khả năng kết nối nhiều quốc gia, châu lục trên toàn cầu
Tuyến đường trong vận chuyển đường biển là trên mặt biển, nó là
những tuyến đường tự nhiên. Vì vậy mà vận tải biển khơng bị lệ thuộc vào địa
hình gồ ghề của trái đất.
Vận tải đường biển có thể phục vụ chuyên chớ tất cả các loại hàng hố
trong bn bán quốc tế với cước phí phải chăng. Thật vậy, tất cả các loại hàng
hóa trong bn bán quốc tế đều có thể được chuyên chở bằng đường biển: Từ
các loại hàng thể rắn như máy móc, trang thiết bị, sản phẩm dệt may đến thể
lỏng, khí như dầu thơ, khí ga... thậm chí cả các loại nhiên liệu. Các loại hàng
hóa đặc biệt như hạt nhân, súng đạn, các loại khí hóa lõng cũng đều có thể
được vận chuyển bằng tàu biển. Khác với vận tải hàng không chủ yếu vận
chuyển những loại hàng nhẹ trong thời gian nhanh chóng, vận tải hàng hải có
thể trở được những loại hàng với khối lượng hoặc thể tích lớn mà khơng ảnh
hưởng nhiều đến cước phí.
Các tuyến đường vận tải trên biển hầu hết là những tuyến đường giao
thông tự nhiên. Vận tải biển rẻ cịn ở chồ khơng ai phải bỏ tiền ra để xây
dựng, quản lý, kiểm tra các tuyến đường mà các tàu hàng đi qua. Các tàu cũng
không nhất nhất phải đi trên một cái rãnh nhất định như đường sắt. Tàu xác
định hướng đi và vị trí của mình trên bản đồ tọa độ thế giới thông qua la bàn
và trung tâm điều khiển tàu.
9
Năng lực chuyên chở của vận tải đường biển rất lớn. Nhìn chung năng
lực chun chở của cơng cụ vận tải đường biến (tàu biển) không bị hạn chế
như các công cụ của các phương thức vận tải khác.
Vận chuyển đường biển không cần lượng vốn quá lớn để đầu tư cho cơ
sở hạ tầng và kiểm soát đường biển. Loại hình này phù hợp với tất cả các
nước có đường bờ biển kề cả các nước đang và kém phát triển.
Tuy nhiên, vận chuyển đường biển cũng có những nhược điểm nhất định:
Vận tải đường biến phụ thuộc rất nhiều vào điệu kiện tự nhiên. Điều
kiện tự nhiên ở đây là thời tiết, là điều kiện địa lý của các vùng biển.
Dù bản thân ngành hàng hài là một ngành kinh tế quan trọng nhưng
hoạt động hàng hải lại phụ thuộc hoàn toàn vào thương mại quốc tế. Trong
điều kiện hiện nay, do ảnh hưởng của cuộc suy thoái kinh tế thế giới, lưu
lượng hàng xuất nhập khẩu giảm mạnh kẻo theo sự kém sắc của vận tải biển.
Tốc độ của tàu biển còn thấp và việc tăng tốc độ khai thác của tàu biển
còn bị hạn chế. Tốc độ trung bình của tàu biến thường là vài chục hải lý một
giờ. Do đó việc chuyên chở hàng hóa từ nước này qua nước khác mất nhiều
thời gian, thậm chí có thể lên tới hàng tháng trời. Điều này ảnh hưởng khơng
nhỏ tới tốc độ ln chuyển hàng hóa và gây khó khăn cho việc đảm bảo chất
lượng của hàng.
Phức tạp về chứng từ và thủ tục, nếu việc điền chứng từ không cẩn thận
dễ gây tranh chấp. Hàng hóa trong vận chuyển quốc tế thường có giá trị lớn,
do vậy, chỉ một chi tiết nhỏ cũng ảnh hưởng đến lợi ích lớn cùa các bên trong
trường hợp có mất mát xảy ra.
Vận
tải biển chứa nhiều rủi ro: rủi ro về cướp1 biển. Đặc
biệt
nhiều vụ4
•
4
•
cướp biển và bắt cóc sỳ quan, thuyền viên để tống tiền xảy ra ở khu vực eo
biển Malacca, Xô-ma-li đã làm cho các chủ tàu, các nhà khai thác tàu biển
trong khu vực quan tâm và hết sức lo ngại, thậm chí họ đã đề nghị đưa một số
10
vùng biên thuộc eo Malacca, Philippine, Indonesia, vào danh sách “vùng có
rủi ro cao” đế tăng phí bảo hiểm đối với chủ tàu ... Rủi ro thứ hai là rủi ro về
việc tàu bị bắt giữ:Việt Nam đang nằm trong “danh sách đen” cúa Tổ chức
Hợp tác kiểm tra Nhà nuớc tại các cảng biển khu vực Châu Á - Thái Bình
Dương (Tokyo - MOU) do có tỷ lệ tàu bị lưu giữ cao và đứng thứ 09 trong số
các quốc gia có tỷ lệ tàu bị lưu giữ cao nhất thể giới, số tàu treo cờ Việt Nam
bị lim giữ năm 2004 là 38 tàu (so với 19 tàu năm 2002). Ngồi ra cịn nhiều
rủi ro khác như tàu bị đâm va, bị đắm, bị lật tàu, tràn dầu, thủng vỏ, mất tích,
mắc cạn hay đâm phải đá ngầm...
Trang bị tàu cần một lượng vốn lớn mà nguồn kinh tế của nước ta lại có
hạn. Thêm nữa, tuổi thọ tàu để đủ khả năng đi biển an toàn phải là dưới 20
năm. Tuồi thọ tàu trung bình cùa chúng ta trong vài năm trước là 17 tuổi đã
được tính là tuổi thọ già.
1.1.3. Vai trò của hoạt động vận chuyển hàng hoá quốc tế bằng
đường biển đoi với thương mại quốc tế
Vận chuyển đường biển đã có bề dày lịch sử phát triển và khẳng định
được vai trò của nó. Chỉ cần xem qua hệ thống những tập quán và điều ước
quốc tế điều chỉnh hoạt động của ngành hàng hải cũng đủ để biết nỏ quan
trọng và đáng được lưu tâm thế nào với phần lớn các nước trên thế giới.
Thương mại hàng hải gồm ba yếu tố cấu thành: vận tài biển, câng biển
và quản lý điều hành hoạt động vận tải biển. Các yếu tố này đều nhằm mục
đích cho ngành hàng hải mà cụ thể và vận tải biển phát triển. Vận chuyển
hàng hóa quốc tế, đối với Việt Nam mà nói, đóng vai trị quan trọng trong
việc thực hiện chủ trương mở cửa đề hội nhập với kinh tế thế giới.
Vận tải biển quốc tế trong đó có vận tải hàng hóa quốc tế đóng vai trị
quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Việc vận chuyển hàng hóa của các
doanh nghiệp vận tải biển giúp thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Lợi nhuận mà
11
ngành mang lại là không nhỏ và là một bộ phận trong cán cân thanh tốn qc
tế, đóng góp khơng nhỏ vào tống sản phấm xã hội và thu nhập quốc dân. Vận
tải biển đáp ứng nhu cầu lưu thông, trao đổi hàng hóa, rút ngắn khoảng cách
giữa các vùng miền. Thêm nữa, ngành vận tải biền lại là một thị trường tiêu
thụ rất lớn các sản phẩm của các ngành kinh tế kỹ thuật khác.
Thúc đẩy quá trình xuất nhập khẩu hàng hóa, cũng là động lực thúc đẩy
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Bởi lẽ trong sản xuất cơng nghiệp, chi phí cho
việc vận tải ngun liệu, thành phẩm, hàng hóa nhất là từ quốc gia này tới
quốc gia khác, châu lục này đến châu lục chiếm tỷ trọng lớn. Sức cạnh tranh
của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trên thị trường quốc tế trong thời
điểm hiện nay không chỉ phụ thuộc vào chất lượng và giá thành của sản phẩm
mà còn phụ thuộc nhiều vào chi phí vận tải mà doanh nghiệp đó phải chi trả
trong quá trình bao tiêu sản phẩm. Vận tải biển với ưu điểm về chi phí của
mình giúp tăng sức cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị trường thế giới.
Theo đó, nó cũng thúc đẩy sự phát triển của thương mại quốc tế.
Vận tải đường biển càng phát triển thì nó càng giúp đảm bảo chuyên
chở khối lượng hàng hóa ngày một tăng trong thương mại quốc tế. Cho tới
năm 2005, số lượng hàng hóa chun chở trong bn bán quốc tế đạt 7 tỷ
tấn/ năm thì trong đó trên % lượng hàng hóa đó được chuyên chở bằng
đường biển [35, tr. 23]. Với khả năng chuyên chở lớn như vậy mà cước
phí vận tải lại rất rẻ, cho nên lượng hàng hóa được tiêu thụ trên thị trường
cũng rẻ hơn.
Trong khi vận tải bằng đường biển hầu như không phải làm đường mà
chỉ xây dựng cảng và mua sắm phương tiện vận tải. Vì thế mà chi phí cho
việc vận chuyển đã được giảm rất nhiều. Đó là khơng kể ưu điểm của vận tải
biển có khả năng vận chuyển khối lượng hàng hóa lớn với chi phí thấp nhất.
Xu thế vận tải hiện nay là sử dụng tàu có trọng tải lớn, áp dụng các
cơng nghệ vận tải tiên tiến, đặc biệt là vận tải đa phương thức. Việt Nam lại
12
có nhiêu cảng nước sâu và đang được đâu tư nhiêu trang thiêt bị hiện đại và
công nghệ quản lý điều hành tiên tiến. Do vậy, Việt Nam có nhiều ưu điềm để
tham gia vào thương trường hàng hải quốc tế. Điều đó cũng góp phần tạo điều
kiện cho việc tăng và mở rộng chủng loại hàng hóa. Vận tải đường biến càng
phát triển, giá thành càng rẻ thì việc luân chuyển hàng hóa trên thị trường thế
giới ngày một nhanh chóng.
Có thể nói, vận chuyển hàng hóa bằng đường biển là hoạt động giúp
phát triển giao thông nối liền với nhiều quốc gia nhất và có chi phí vận tải
thấp nhất nhưng lại có thể đáp ứng khối lượng vận tải lớn nhất. Hàng hải Việt
Nam ra đời vào những năm 1945, trong điều kiện đất nước bị chia cắt, chiến
tranh tàn phá. Nhưng tới nay, với sự nỗ lực khơng ngừng của tồn ngành, tới
nay chúng ta đã cỏ bước phát triển lớn mạnh khơng ngừng. Uy tín của vận tải
Việt Nam trên thị trường thế giới ngày một nâng cao, giúp ngành phấn đấu
vươn lên cùng sự phát triền của thế giới. Hồ Chí Minh đã nói:
Giao thông vận tải rất quan trọng, quan trọng đối với chiến đấu, đối
với sản xuất, đối với đời sống nhân dân. Nó như mạch máu của con
người. Muốn chiến đấu tốt, muốn sản xuất tốt, muốn đời sống nhân
dân bình thường, thì giao thơng vận tải phải làm tốt [35, tr. 20].
Điều đó nói lên tầm quan trọng của giao thơng vận tái đối với sản xuất.
Thì ở đây vận tải đường biển trong thương mại quốc tế cũng như mạch máu
để thương mại quốc tế phát triển vậy.
1.2. Họp đồng vận chuyển hàng hoá quốc tế bằng đường biển
1.2.1. Khái niệm hợp đồng vận chuyển hàng hoá quốc tế bằng đường biển
1.2.1. ỉ. Khải niệm họp đồng vận chuyên hàng hoá quốc tế bằng đường
biên theo pháp luật Việt Nam
Tiếp cận với hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường
biển, trước hết phải tiếp cận với những khái niệm khác nhau do các ngành
13
luật khác nhau điêu chỉnh, và đi từ khái niệm tông quát nhât “hợp đông vận
chuyển” tới việc cụ thể hóa khái niệm đó trong lĩnh vực quan tâm thuộc
phạm vi đề tài này.
Theo điều 530 Bộ luật dân sự 2015:
Họp đồng vận chuyển tài sản là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó
bên vận chuyển có nghĩa vụ chuyển tài sàn đến địa điểm đã định
theo thoả thuận và giao tài săn đó cho người có quyền nhận, cịn
bên th vận chuyển có nghĩa vụ trả cước phí vận chuyển.
Như vậy là theo Bộ luật dân sự Việt nam thì việc chuyên chờ trong
họp đồng chuyên chở là để lấy tiền. Điều đó có nghĩa rằng việc chuyên chở ở
đây mang tính chất chun nghiệp. Vậy có thể nói bộ luật dân sự áp dụng cho
vận chuyển với tính cách là một hành vi thương mại.
Quan điểm của các luật gia: Theo tiến sĩ Ngô Huy Cương, hợp đồng
vận chuyển tài sàn là một họp đồng cung cấp dịch vụ di chuyển từ một nơi
này tới một nơi khác bằng những phương tiện nhất định. Và có hai loại
chun chở: chun chở có lấy tiền và khơng lấy tiền. Sự khác nhau giữa hai
loại hình này dẫn đến các quy chế pháp lý khác biệt. Còn theo tiến sĩ Trần
Hịe thì họp đồng vận chuyển hàng hóa đường biển đó là văn bản thỏa thuận
về vận chuyển hàng hóa đường biển trong đó quy định rõ quyền lợi của người
chuyên chở và người thuê vận chuyển [35].
Qua các khái niệm trên với mỗi cách tiếp cận khác nhau ta có thể hình
dung sơ bộ về hợp đồng vận chuyển mà cụ thể là hợp đồng vận chuyển tài
sản. Họp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển là một loại hợp
đồng vận chuyển tài sản nên nó cũng mang những đặc điểm của hợp đồng vận
chuyển tài sản:
Là một loại họp đồng dịch vụ
Là sự thỏa thuận giữa các bên
14
Theo đó bên vận chuyên nhận hàng hóa từ bên thuê vận chuyên đê vận
chuyển hàng hóa từ điểm nhận hàng tới một nơi nhất định theo thỏa thuận
trong hợp đồng vận chuyển.
Bên vận chuyển sẽ giao hàng cho người có quyền nhận- người cầm giữ
chứng từ vận chuyển.
Hiểu sâu hơn nữa là về hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bàng
đường biển. Khái niệm hàng hóa quốc tế đã được đề cập đến trong phần khái
niệm vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển. Do vậy, người viết xin
phép không đề cập đến ở đây. Theo luật chuyên ngành và sách chuyên khảo
về hợp đồng thì:
Hợp đồng chuyên chở hàng hóa bằng đường biển là:
Hợp đồng chuyên chở hàng hóa trong đó người chuyên chở cam
kết chuyên chớ hàng hóa từ một hay nhiều cảng này và giao cho
người nhận ờ một hay nhiều cảng khác, còn người đi thuê tàu
cam kết trả tiền cước thuê tàu đúng như hai bên đã thỏa thuận
trong hợp đồng [38, tr. 178].
Hợp đồng vận chuyển hàng hoá bằng đường biển là hợp đồng được
giao kết giữa người vận chuyển và người thuê vận chuyển, theo đó
người vận chuyển thu tiền cước vận chuyển do người thuê vận
chuyển trà và dùng tàu biển để vận chuyển hàng hoá từ cáng nhận
hàng đến cảng trả hàng [23, Điều 70, Khoản 1],
Qua các khái niệm đã được trình bày, ta thấy về cơ bản hợp đồng vận
chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển khơng khác gì so với nhũng hợp
đồng vận chuyển tài sản thơng thường ngồi một vài điểm khác biệt do đặc
trưng của loại hình vận chuyển như chủ thể, đối tượng, phương tiện... Và
quan trọng hơn là yếu tố quốc tế của hàng hóa tạo nên yếu tố quốc tế của hoạt
động vận chuyển.
15
1.2.1.2. Khải niệm hợp đồng vận chuyên hàng hoả quốc tể bằng đường
biển theo điều ước quốc tế
Theo Công ước của Liên Hợp quốc về Vận chuyển hàng hóa bằng
đường biển [7, tr. 570]:
“Hợp đồng vận chuyển bằng đường biển” là bất kỳ họp đồng nào mà
theo đó người vận chuyển đảm nhận việc vận chuyển hàng hóa bằng
đường biển từ một cảng này đến một cảng khác để thu tiền cước.
Theo quy tắc Hague - Visby năm 1968:
Họp đồng vận chuyển đó: Được điều chỉnh bởi một vận đơn hoặc
bất kỳ một chứng từ tương tự nào về quyền sở hữu liên quan tới vận
chuyển hàng hóa bằng đường biển, kể cả bất kỳ vận đơn hoặc
chứng từ nào nói trên đây được ký phát theo một hợp đồng thuê tàu,
kể từ khi vận đơn hoặc chứng từ đó điều chỉnh quan hệ giữa người
vận chuyển và người nắm giữ vận đơn hay chứng từ đó.
Điểm khác biệt là những quy định trong Công ước Hamburg và Hague-
Visby đề cập tới là yếu tố quốc tế trong phạm vi áp dụng. Theo đó:
Cảng bốc, trả hàng thực tế hoặc quy định trong họp đồng nằm ở một
nước thành viên Công Ước;
Vận đơn hoặc chứng từ khác làm bằng chứng cho hợp đồng vận chuyển
bằng đường biển được phát hành tại một nước thành viên công ước;
Vận đơn hoặc chứng từ đã nêu ở điềm trên quy định rằng những quy
định của Công ước này hoặc luật của bất kỳ quốc gia nào cho thi hành những
quy định của Công ước là luật điều chỉnh họp đồng.
Khác với quan niệm về yếu tố quốc tế trong Bộ luật dân sự, yếu tố quốc
tể đề cập tới trong Công ước không phụ thuộc vào quốc tịch của tàu hay của
các bên liên quan trong hợp đồng vận chuyển. Yeu tố quốc tế trong Cơng ước
đề cập tới tính quốc tế của hoạt động vận chuyển và chứng từ vận chuyển
cũng như luật áp dụng.
16
Kêt luận
Những quy định nêu trên giúp chúng ta có những hình dung, định dạng
khá rõ về khái niệm hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển
và sự sai khác trong quan niệm giữa pháp luật Việt Nam và các Điều ước
quốc tế. Nhưng tựu chung lại, có thể quan niệm hợp đồng vận chuyển hàng
hóa quốc tế như sau:
Là hợp đồng vận chuyển tài sản
Đối tượng của hợp đồng là hàng hóa mang tính chất quốc tế, nói cách
khác là hàng hóa xuất nhập khẩu. Theo đó quãng đường vận chuyển phải đi
qua lãnh thổ của ít nhất hai quốc gia.
Phưong thức vận chuyển bằng đường biển
Là loại hợp đồng có tính chất quốc tế
1.2.2. Đặc điểm của hợp đồng vận chuyến hàng hoá quốc tế bằng
đường biển
Nói đến đặc điểm của hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bàng
đường biền là nói đến nhũng yếu tố khác biệt của loại hợp đồng này so với
những loại hợp đồng vận chuyển khác, đặc biệt là đến pháp luật điều chỉnh.
Hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển có những đặc điểm
riêng, đó là:
Đầu tiên, hợp đồng có đổi tượng là hàng hóa xuất nhập khẩu, và vận
chuyển qua vùng biển quốc tế nên nó có yếu tố quốc tế, có sự chồng chéo
trong hệ thống pháp luật điều chinh hoạt động vận chuyển.
Tiếp đến, đổi tượng của hợp đồng là hàng hóa có tính chất quốc tế. Hay
cịn gọi là hàng hóa ngoại thương.
Thêm nữa, hàng hóa được vận chuyển tới lãnh thố của quốc gia khác,
do vậy bắt buộc phải đi qua vùng biển của một hoặc một số quốc gia khác, vì
vậy bị ảnh hưởng bởi pháp luật những quốc gia đó.
17
Cuôi cùng, phải khăng định những thỏa thuận trong họp đông vận
chuyển bị ảnh hưởng bởi tập quán hàng hải.
1.2.3. Đối tượng của hợp đồng vận chuyển hàng hoá quốc tế bằng
đường biển
Đối tượng của họp đồng chuyển hàng hoá quốc tế bằng đường biển là
hàng hóa. Hàng hóa này theo định nghĩa của quy tắc Hague-Visby thì là “của
cải, đồ vật,hàng hóa, vật phẩm bất kỳ loại nào, trừ súc vật sống và hàng hóa
theo hợp đồng vận tải được khai là chở trên boong và thực tế được trở trên
boong” (““goods” includes goods, wares, merchandise, and articles of every
kind whatsever except live animals and cargo which by the contract of
carriage is stated as being carried on deck and is so carried”) Có nghĩa rang
nếu hàng hóa là súc vật sống hoặc hàng chuyên chở trên boong thì chủ hàng
khơng có quyền áo dụng quy tắc Hague - Visby đề ràng buộc trách nhiệm của
người chuyên chở.Và hàng hóa trờ trên boong không thuộc thuộc sự điều
chỉnh của công ước nếu nó phải thỏa mãn hai điều kiện: được ghi trong họp
đồng vận chuyến và thực tế đã được chở trên boong. Từ đó suy ra người
chuyên chở vẫn phải chịu trách nhiệm theo Quy tắc này nếu:
Hàng hóa được ghi trên hợp đồng là chở trên boong mà thực tế khơng
chở trên boong. Hoặc
Hàng hóa khơng được ghi trong hợp đồng là chở trên boong nhưng
thực tế lại chở trên boong.
Còn theo Bộ luật Hàng hải Việt Nam 2015 và Cơng ước Hamburg thì
hàng hóa đó là: máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu, nhiên liệu, hàng tiêu dùng
và các động sản khác, kế cả động vật sống, công-te-nơ hoặc công cụ tương tự
do người gửi hàng cung cấp để đóng hàng được vận chuyển theo họp đồng
vận chuyển hàng hoá bằng đường biển. Tức là đối với hai nguồn luật nói trên
thì động vật sống và container (hay cơng cụ tương tự) khi hàng được bao gói
18
miễn là do người thuê vận chuyến cung cấp, khi thiệt hại xảy ra, người
chuyên chở sẽ phải bồi thường- kề cả phí cho container, pallet...
Ngồi những loại hàng hóa thơng thường, hàng hóa là động vật sống đã
được nói đến, cịn có các loại hàng hóa đặc biệt khác. Bộ luật hàng hải Việt
Nam nhấn mạnh vào hàng nguy hiểm. Hàng nguy hiểm - tạm hiểu là những
hàng hóa khi vận chuyển có khả năng gây nguy hại tới tính mạng, sức khỏe
con người, mơi trường và an ninh quốc gia. Hàng nguy hiểm còn bao gồm
hàng dễ cháy, nố. Với loại hàng hóa này thì việc vận chuyển đòi hỏi phải tuân
theo quy định của Bộ luật Hàng hải Việt Nam và các quy định của pháp luật
liên quan. Tổ chức hàng hải quốc tế IMO cũng có quy định về hàng nguy
hiểm trong Công ước về trách nhiệm dân sự trong lĩnh vực vận chuyển vật
liệu hạt nhân bằng đường biển và Công ước quốc tế về trách nhiệm và bồi
thường tổn thất liên quan đến vận chuyển các chất nguy hiểm và độc hại bằng
đường biển. Với loại hàng hóa được quy định trong danh mục hàng độc hại
nguy hiểm của chính phù thì việc lưu hành phải có giấy phép lưu hành cùa Bộ
Giao thơng vận tải.
Với vũ khí, chất phóng xạ, chất phế thải độc hại, chất ma tuý không
được vận chuyển trừ khi được cơ quan có thẩm quyền cho phép.
Ngồi ra, với những loại hàng hóa khác nhau địi hỏi các bên phải có
những quy định lưu ý riêng trong hợp đồng.
1.2.4. Nội dung hợp đồng vận chuyển hàng hoá quốc tế bằng đường biển
Bộ luật Hàng hải Việt Nam phân biệt vận chuyển hàng hóa quốc tế
bằng đường biển thành hai loại: hợp đồng vận chuyển theo chứng từ và họp
đồng vận chuyển theo chuyến.
Hợp đồng vận chuyển theo chứng từ
Họp đồng vận chuyển theo chứng từ vận chuyển là họp đồng vận
chuyển hàng hoá bàng đường biển được giao kết với điều kiện người vận
19
chuyên không phải dành cho người thuê vận chuyên nguyên tàu hoặc một
phần tàu cụ thề mà chỉ căn cứ vào chủng loại, số lượng, kích thước hoặc trọng
lượng của hàng hoá để vận chuyển.
Họp đồng vận chuyển theo chuyến
Họp đồng vận chuyển theo chuyến là họp đồng vận chuyển hàng
hoá bàng đường biển được giao kết với điều kiện người vận chuyển
dành cho người thuê vận chuyển nguyên tàu hoặc một phần tàu cụ
thể để vận chuyển hàng hoá theo chuyến Điều 146 khoản 2 Bộ luật
Hàng hải Việt Nam.
Hợp đồng vận chuyển theo chuyến thường rất phức tạp bởi lẽ nó phải
quy định chi tiết và dự liệu được nhiều tình huống để tránh mâu thuẫn tranh
chấp giữa các bên.
Các bên cũng thường tham khảo các họp đông mâu đó các tơ chức hàng
<
e
r
F
-í 2 -í
'
hải qc gia, qc tê đưa ra đê khun cáo doanh nghiệp.
Thường thì một hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường
biển thường có những nội dung chủ yếu sau:
Chủ thê của họp đông
Chủ thể của hợp đồng vận chuyển hàng hóa quốc tế bằng đường biển
gồm bên vận chuyển và bên th vận chuyển. Ngồi ra cịn có các bên liên
quan đến việc vận chuyển: người đại lý hoặc ủy thác (nếu có), thuyền trưởng,
chủ tàu (nếu chủ tàu khơng là bên vận chuyển) và những người làm công của
người vận chuyển.
Cần ghi rõ thông tin của các bên. Trong trường hợp nhũng người đại
diện hoặc người môi giới được ủy thác để ký hợp đồng, tư cách ủy thác của
họ cần được ghi rõ trong họp đồng. Điều này tránh được những rắc rối về khi
có tranh chấp xảy ra giữa các bên.
Tất cả những bên có liên quan đến quyền sở hữu, sử dụng con tàu cũng
20
cần được nêu lên. Bởi có những trường hợp chủ sở hữu của con tàu có thể
khơng là người trực tiếp khai thác con tàu. Họ có thể cho đối tượng khác thuê
lại con tàu để khai thác. Và người khai thác đó lại rất có thể ủy thác cho người
đàm phán và ký kết hợp đồng vận chuyển... Khi khiếu kiện xảy ra, bên thuê
vận chuyển hoặc bên bảo hiểm rất khó xác định đối tượng khiếu nại trước tịa.
Ví dụ như vụ tranh chấp ở cảng Gdanrk- Balan chẳng hạn [32, tr. 51]
Cũng cần nêu ra rằng, có sự chênh lệch giữa các điều ước quốc tế về
cách hiếu thuật ngữ “người vận chuyến” hay “người chuyên chở” - carrier.
Quy tắc Hague- Visby, điều 1 mục a: “người vận chuyển (carrier) có thể là
chù tau(ship-owner) hay là người thuê tàu định hạn(charterer), họ là một bên
ký kết hợp đồng vận tải với chủ hàng”. Trong khi điều 147 Bộ luật Hàng hải
Việt Nam: “Người vận chuyển là người tự mình hoặc uỷ quyền cho người
khác giao kết hợp đồng vận chuyển hàng hoá bằng đường biển với người
thuê vận chuyển”. Cịn Cơng ước Hamburg lại định nghĩa “người vận
chuyển là bất kỳ người nào, tự mình hoặc nhân danh bản thân mình ký kết
một hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển với người gửi hàng”.
Ba cách hiểu này sẽ dẫn đến ba hệ quả pháp lý khác nhau về trách nhiệm của
người vận chuyến.
Thêm vào đó, tư cách của người ký hợp đồng vận chuyển cũng là vấn
đề đáng để bàn tới. Họ có thể hoặc sẽ không là người chịu trách nhiệm về các
rủi ro và tổn thất xảy ra. Bởi có thể người ký hợp đồng là đại lý. Họ được ủy
quyền để giải quyết các vấn đề liên quan đến hoạt động của con tàu. Theo đó,
hợp đồng do đại lý ký sẽ ràng buộc người vận chuyển nếu như đại lý không
vượt quá quyền hạn của mình. Và trong hợp đồng do đại lý ký kết thường nêu
rõ: đại lý hoạt động như là một đại diện của người vận chuyến. Theo TS
Nguyễn Như Tiến, có hai cách ghi: “chỉ là đại lý”-as agent only và “với tư
cách đại lý”-as agent. Nhưng bên đại lý cũng sẽ bị ràng buộc trách nhiệm nếu
21
có lơi hoặc vượt q thâm qun của mình (An lệ Seatrade Groningen vs
Geest Industies) [32, tr. 53]. Điều này được quy định tại Luật Thương mại
Việt Nam năm 2005.
Điều khoản về con tàu
Đây là điều khoản quan trọng và nếu khơng thận trọng có thể gây ra
thiệt hại và tranh chấp lớn giữa các bên.
Điều khoản về con tàu cần mơ tả chi tiết loại tàu, về tình trạng cũng
như tiêu chuẩn chất lượng của tàu. Con tàu được vận chuyển phải đảm bảo
vận hành an toàn, ổn định, được cấp chứng nhận tàu đủ khả năng đi biển.
Đồng thời con tàu cũng phải phù hợp để chuyên chở khối lượng cũng như
chủng loại hàng hóa được quy định trong hợp đồng, về phía chủ hàng, ngồi
những tiêu chí về đảm bảo vận chuyển an toàn, họ cũng muốn làm sao để tiết
kiệm được chi phí thuê tàu.
Các đặc trưng cơ bản của con tàu thường được quy định một cách cụ
thể: tên, quốc tịch, năm đóng, nơi đóng, cờ tàu, trọng tải tồn phần, dung tích
đăng ký tồn phần, dung tích đăng ký tịnh, dung tích chứa hàng rời, hàng bảo
kiện, mớn nước, chiều dài tàu, chiều ngang tàu, vận tốc, hô hiệu, cấu trúc của
tàu (một boong hay nhiều boong), số lượng thuyền viên, vị trí con tàu lúc ký
họp đồng, số lượng cần cẩu và sức nâng...
Trong họp đồng vận chuyển theo chuyển, theo Bộ luật Hàng hải Việt
Nam, người vận chuyền có nghĩa vụ dùng tàu đã được chỉ định trong hợp
đồng để vận chuyển hàng hóa. Người vận chuyển chỉ được thay thế con
thuyền khác nếu được sự đồng ý của người thuê vận chuyển. Cho nên, trong
hợp đồng cần nêu rõ về trường hợp thay thế tàu. Neu người vận chuyển muốn
giành quyền thay thế con tàu, có thể ghi thêm bên cạnh tên con tàu: “hoặc một
con tàu thay thế khác” - Ship named and/or Substitute Sister Ship [32, tr. 16].
Và con tàu thay thế phải được đảm bảo rằng cũng có những đặc điểm kỳ thuật
22
tương tự như con tàu đã quy định trong hợp đơng. Tuy nhiên, người vận
chuyển vẫn phải có nghĩa vụ thông báo trước cho bên thuê vận chuyển biết.
Thực tế các tranh chấp về tàu chuyên chở thường là về khả năng đi biển
của tàu, về thời gian tàu đến cảng xếp hàng. Pháp luật quy định người vận
chuyển có nghĩa vụ cung cấp con tàu có đủ khả năng đi biển, có thuyền bộ
thích hợp, được cung ứng đầy đủ trang thiết bị và vật phẩm dự trữ; các hầm
hàng, hầm lạnh và khu vực khác dùng để vận chuyển hàng hố có đủ các điều
kiện nhận, vận chuyển và bảo quản hàng hố phù họp với tính chất của hàng
hố. Đó là điều kiện tiên quyết của hợp đồng, nếu vi phạm thì người th có
quyền hủy họp đồng.
Theo Bộ luật ISM (luật quản lý an toàn quốc tế) thuật ngữ “khả năng đi
biển của tàu” - seaworthiness khơng cịn cách hiểu như trước đây. Theo đó,
chủ tàu có nghĩa vụ đảm bảo “khả năng đi biển” khơng chỉ khi bắt đầu chuyến
đi như trong các Công ước mà phải trong suốt hành trình. Do vậy, để đảm bảo
quyền lợi của mình, bên thuê vận chuyền nên yêu cầu quy định trong hợp
đồng con tàu phải đáp ứng được tiêu chí đó.
Thời gian tàu đến cảng xếp hàng
Để tàu khởi hành đúng lịch trình đã thỏa thuận, tàu phải đến cảng xếp
hàng để nhận hàng chuyên chở vào thời gian phù họp và trong tư thế sẵn sàng
nhận xếp hàng. Thời gian được quy định có thế là ngày giờ cụ thể, là khoảng
thời gian được xác định hoặc khoảng thời gian sau khi ký hợp đồng. Trước
thời hạn đó, người th vận chuyển khơng nhất thiết phải giao hàng.
Thời gian tàu đến cảng bốc hàng (laydays cancelling) được quy định là
khoảng thời gian mà người vận chuyển phải đưa thông báo sẵn sang (NORnotice of readiness) tới người vận chuyến. Quá thời gian đó người thuê vận
chuyển có quyền hủy hợp đồng. Neu hợp đồng bị hủy, mọi chi phí cho việc
đưa tàu đến cảng xếp hàng đều sẽ do bên vận chuyển chịu. Việc hủy hợp đồng
do bên thuê vận chuyển quyết định.
23