MỤC LỤC
MỞ ĐẦU......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: DOANH NGHIỆP Tư NHÂN VÀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN
DOANH NGHIỆP TU NHÂN...................................................................... 5
1.1. Khái niệm, bản chất và đặc điểm của doanh nghiệp tư nhân.......................... 5
1.2. Khái niệm, bản chất pháp lý và đặc điểm của hợp đồng mua bán doanh
nghiệp tư nhân.................................................................................................... 8
1.3. Giao kết và nội dung của hợp đồng mua bán doanh nghiệp tư nhân...... 17
CHƯƠNG 2: THỤC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN
DOANH NGHIỆP TƯ NHÂN Ở VIỆT NAM.......................................... 27
2.1. Thực trạng về giao kết hợp đồng mua bán doanh nghiệp tư nhân.......... 27
2.2. Thực trạng về nội dung của hợp đồng mua bán doanh nghiệp tư nhân... 37
2.3. Hiệu lực của hợp đồng mua bán doanh nghiệp tư nhân........................... 39
2.4. Thực trạng các qui định về vi phạm và chế tài do vi phạm hợp đồng mua
bán doanh nghiệp tư nhân............................................................................... 46
2.5. Thực trạng quy trình tiến hành giao dịch mua bán doanh nghiệp tư nhân .. 50
2.6. Đánh giá về pháp luật hiện hành.............................................................. 57
CHƯƠNG 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÈ HỌP ĐỒNG MUA BÁN
DOANH NGHIỆP TU NHÂN VÀ KINH NGHIỆM CHO TỈNH ĐẮK
•
9
LẮK................................................................................................................ 59
3.1. Những định hướng cơ bản nhăm hoàn thiện pháp luật vê họp đông mua
bán doanh nghiệp tư nhân............................................................................... 59
3.2. Một số kiến nghị cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật về họp đồng mua bán
doanh nghiệp tư nhân...................................................................................... 61
3.3. Kinh nghiệm cho tỉnh Đắc Lắc................................................................ 67
KẾT LUẬN.................................................................................................... 72
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................... 74
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLDS:
Bơ• lt
Dân sư•
•
DNTN:
Doanh nghiệp tư nhân
LSHTT:
Lt
• sở hữu trí t•
M&A:
Mua bán và sáp nhập
QSHCN:
Quyền sở hữu công nghiệp
SHCN:
Sờ hữu công nghiệp
MỎ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đê tài
Hoạt động đầu tư mua bán sáp nhập doanh nghiệp đã diễn ra khá lâu
trên thế giới, tuy nhiên ở Việt Nam, M&A mới được quan tâm từ khi ra đời
Luật doanh nghiệp năm 1999. Trong bối cảnh xây dựng nền kinh tế thị trường
và hội nhập kinh tế quốc tế, vấn đề mua bán doanh nghiệp nói chung và mua
bán doanh nghiệp tư nhân nói riêng ngày càng trở thành một vấn đề quan
trọng trong sinh hoạt kinh tế của đất nước.
Mua bán doanh nghiệp là một hiện tượng kinh tể, pháp lý khá mới ở
Việt Nam, trong những năm gần, đã và đang có sức hút mạnh mẽ đối với các
nhà đầu tư, các tổ chức, cá nhân kinh doanh. Mua bán doanh nghiệp là một
trong những cách khác nhau để giải quyết tình trạng bế tắc trong sản xuất
kinh doanh, khi doanh nghiệp gặp khó khăn về tài chính hay khi chủ doanh
nghiệp muốn chuyển sang lĩnh vực kinh doanh mới hay khi chủ đầu tư muốn
khới đầu một công việc kinh doanh mà chưa có đú khả năng về tài chính, về
hệ thống cung cấp hàng hóa, dịch vụ, hoặc chưa có một tên thương mại nổi
tiếng, vì vậy các nhà đầu tư thường tìm đến với hoạt động mua bán doanh
nghiệp.
Ờ Việt Nam, thực tể là các doanh nghiệp, các tổ chức, cá nhân trong
nước chưa có nhiều thông tin về các điều kiện, thủ tục mua bán doanh nghiệp
dẫn đến sự lủng túng, gặp phải rủi ro khi tham gia mua bán doanh nghiệp.
Khung pháp lý cho hoạt động mua bán doanh nghiệp cũng chưa được quy
định cụ thế, đồng bộ, hoạt động mua bán doanh nghiệp chưa thực sự hiệu quả.
Vấn đề mua bán doanh nghiệp tư nhân được pháp luật đề cập trước tiên từ khi
ra đời Luật doanh nghiệp tư nhân năm 1990, đã ghi nhận quyền bán doanh
nghiệp tư nhân của chủ sở hữu doanh nghiệp tư nhân. Tuy nhiên, từ đó đến
nay khung pháp lý điều chỉnh hoạt động này còn hạn chế, chưa nêu bật được
bản chât mua bán doanh nghiệp tư nhân, sự khác biệt của hoạt động mua bán
doanh nghiệp tư nhân với các hoạt động mua bán doanh nghiệp khác. Mặt
khác, các qui định pháp luật về hợp đồng mua bán doanh nghiệp tư nhân chưa
thực sự được chú ý tới, do đó đã gây khó khăn, cản trở cho các chú thể khi
giao kết và thực hiện hợp đồng này. Việc khơng hồn thiện của khung pháp lý
quan trọng này có thể gây cản trở bởi thiếu sự hướng dẫn chính thức về mặt
pháp lý cho sự phát triển kinh tế thị trường ở các tinh vùng sâu, vùng xa mà
trong đó có tỉnh Đắk Lắk.
Từ những lý do trên, học viên lựa chọn đề tài “Hợp đồng mua bán
doanh nghiệp tư nhân và bài học kinh nghiệm cho các thưong nhân hoạt
động
trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk” để làm luận
văn thạc
sĩ.
•
Oi
•
•
2. Tình hình nghiên cứu
Hiện có một số cơng trình nghiên cứu tiêu biểu bao gồm: “Bình luận
khoa học về tài sản trong luật dân sự Việt Nam” (2001) của tác giả Nguyễn
Ngọc Điện [14]; “Giáo trình Luật thương mại Việt Nam” (2002) của tác giả
Phạm Duy Nghĩa [18]; “Quyền sở hữu trí tuệ” (2006) của tác giả Lê Nết [17];
“Các bước trong quy trình mua doanh nghiệp” của các tác giả Nguyễn Trí
Thanh & Bùi Anh Tuấn [30]; “Thực trạng pháp luật Việt Nam về mua bán
doanh nghiệp” (2008) của tác giả Trần Thị Bảo Ánh [2]; Luận văn “Sự điều
chỉnh pháp luật về thị trường mua bán, sáp nhập doanh nghiệp: Kinh nghiệm
quốc tế và thực tiền ở Việt Nam” (2009) của tác giả Nguyễn Thị Hoàng Oanh
[19]; Luận văn “Họp đồng mua bán doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam”
(2009) của Mai Vân Anh [1]. Cụm công trình: “Luật Thương mại: Khái niệm
và phương pháp điều chỉnh” (2008); “Nghĩa vụ dân sự và quan niệm nghía vụ
dân sự ở Việt Nam” (2008); “Trách nhiệm dân sự - so sánh và phê phán”
(2009); “Vài bĩnh luận về pháp luật doanh nghiệp tư nhãn” (2010); “Giáo
trình luật thương mại- phần chung và thương nhân” (2013) của tác giả Ngô
Huy Cương [8, 9, 10, 11, 12]; Luận án tiến sĩ “V7 phạm cơ bản hợp đồng theo
2
quy định của Công ước Viên năm 1980 vê họp đơng mua bán hàng hóa qc
tế và định hướng hồn thiện các quy định có liên quan của pháp luật Việt
Nam” (2015) của tác già Võ Sĩ Mạnh [16].
Nhìn chung những bài nghiên cứu trên mới chỉ đề cập đến tổng quan về
hoạt động mua bán doanh nghiệp, không đi vào cụ thể vấn đề pháp lý mua
bán doanh nghiệp tư nhân trong đó có hợp đồng mua bán doanh nghiệp tư
nhân. Do vậy, có thể nói hiện nay chưa có một cơng trình nào nghiên cứu đầy
đủ, chi tiết về hợp đồng mua bán doanh nghiệp tư nhân ở Việt Nam dưới giác
độ• luật
dân sự• thực
hành và rút ra bài học
kinh nghiêm
cho tỉnh Đắk Lắk.
•
•
•
•
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu chủ yếu của luận văn là nhằm làm sáng tỏ các
vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến hợp đồng mua bán doanh nghiệp tư
nhân; làm sáng tõ các qui định pháp luật hiện hành về loại hợp đồng này,
đồng thời nêu ra những bất cập, vướng mắc từ đó đóng góp những kiến nghị,
giải pháp đế xây dựng và hoàn thiện pháp luật về mua bán doanh nghiệp tư
nhân và rút ra bài học cho tỉnh Đắk Lắk.
Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận, những quy
định pháp lý hiện hành và thực tiễn giao kết, thực hiện hợp đồng mua bán
doanh nghiệp tư nhân, không nghiên cứu rộng sang các lĩnh vực liên quan.
4. Phuong pháp nghiên cửu
Trên cơ sở cùa chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch
sử, luận văn sừ dụng một số phương pháp nghiên cứu sau đây:
- Phương pháp phân tích, tồng hợp: phân tích lý giải, lập luận những
vấn đề lý luận về hợp đồng mua bán DNTN theo pháp luật hiện hành.
- Phương pháp so sánh dùng để so sánh những sự khác nhau giữa hợp
đồng mua bán tài sản doanh nghiệp tư nhân và hợp đồng mua bán doanh
nghiệp tư nhân, so sánh để thấy những khác biệt của hợp đồng mua bán doanh
nghiệp tư nhân với hợp đồng mua bán doanh nghiệp khác.
3
5. Ỷ nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài luận văn
Ỷ nghĩa lý luận-. Các kết quả nghiên cứu của Luận văn cho thấy, Luận
văn có thể góp phần trong q trình hồn thiện lý thuyết về hợp đồng mua bán
doanh nghiệp tư nhân trong một số trường hợp đặc thù, cụ thể là địa bàn Tây
Nguyên của Việt Nam, nơi còn nhiều tiềm năng về phát triển loại hình thị
trường này.
Ỷ nghĩa thực tiễn'. Từ việc phân tích và chỉ ra thực trạng pháp luật về
hợp đồng mua bán doanh nghiệp, thực tiễn này tại địa phương, luận văn cung
cấp các căn cứ trong quá trình ban hành chính sách, pháp luật điều chỉnh
trong lĩnh vực hợp đồng mua bán nói chung, lĩnh vực hợp đồng mua bán
doanh nghiệp nói riêng. Luận văn cũng là tài liệu tham khảo hữu ích cho các
cơ sở đào tạo luật ở Việt Nam.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
khóa luận được trình bày trong ba chương:
Chương 1: Doanh nghiệp tư nhân và hợp đồng mua bán doanh nghiệp
tư nhân;
Chương 2: Thực trạng pháp luật về hợp đồng mua bán doanh nghiệp tư
nhân ở Việt Nam;
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật về hợp đồng mua bán doanh nghiệp tư
nhân và kinh nghiệm cho tĩnh Đắk Lắk.
4
CHNG 1
DOANH NGHIỆP TU NHÂN
VÀ HỢP ĐỊNG MUA BÁN DOANH NGHIỆP TU NHÂN
1.1. Khái niệm, bản chât và đặc diêm của doanh nghiệp tư nhân
1.1.1. Khái niệm và bản chất của doanh nghiệp tư nhân
Doanh nghiệp tư nhân là một từ ngữ pháp lý được các văn bản qui
phạm pháp luật của nước ta sử dụng chính thức bắt đầu từ Luật Doanh nghiệp
tư nhân 1990. Hiểu về doanh nghiệp tư nhân trước hết cần bắt đầu từ chủ thể
kinh doanh hoặc chủ thể thương mại (thương nhân).
Chủ thể của các quan hệ pháp luật nói chung bao gồm hai loại chủ yếu
là thể nhân và pháp nhân. Thể nhân chỉ con người tự nhiên như chúng ta. Còn
pháp nhân là một loại chủ thề không phải là thể nhân nhưng được nhà làm
luật thừa nhận là có tư cách chủ thế, có quyền và nghĩa vụ pháp lý gắn với nó.
Thể nhân được Bộ luật Dân sự 2015 gọi là cá nhân- những người có
năng lực pháp luật đương nhiên kể từ khi người đó sinh ra và chấm dứt khi
người đó chết (Điều 16, khoản 3). Tuy nhiên đến một độ tuổi nhất định, một
thể nhân hay cá nhân mới có năng lực hành vi dân sự. Bộ luật Dân sự 2015
qui định cá nhân có năng lực hành vi dân sự đầy đủ kể từ khi đủ 18 tuổi, trừ
một số trường hợp đặc biệt (Điều 20).
Khác với thể nhân, pháp nhân là một tổ chức có đủ các yếu tố do luật
định
mới được
thừa nhận:
•
•
•
- Được thành lập theo qui định cúa pháp luật;
- Có cơ cấu tổ chức theo qui định cùa pháp luật;
- Có tài sản độc lập với cá nhân, pháp nhân khác và tự chịu trách nhiệm
bằng tài sản của mình;
- Nhân danh mình tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập (Điều
74, khoản 1).
5
Các qui định này cho thây pháp nhân là một loại chủ thê do pháp luật
qui định và không đương nhiên có năng lực pháp luật và năng lực hành vi.
Một tổ chức chỉ có thể trở thành chủ thể của pháp luật khi nó đáp ứng đủ các
yêu cầu của pháp luật.
Cùng một gốc về chủ thể của quan hệ pháp luật nói chung, chủ thể kinh
doanh hay chủ thể thương mại cũng bao gồm hai loại là cá nhân kinh doanh
và pháp nhân kinh doanh. Các loại chủ thể này có thể gọi chung là thương
nhân và được chia thành thương nhân thể nhân và thương nhân pháp nhân.
Thương nhân thể nhân có bản chất là cá nhân kinh doanh, cịn thương nhân
pháp nhân là các cơng ty thương mại [12, tr.71-78].
Từ những dẫn giải này, chúng ta có thể kết luận doanh nghiệp tư nhân
là một cá nhân kinh doanh hay còn gọi là thương nhân thể nhân. Luật Doanh
nghiệp 2020 qui định:
“Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự
chịu trách nhiệm bằng tồn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh
nghiệp”. (Điều 188, khoản 1).
Đối với các công ty, chủ sở hữu công ty, tùy theo từng loại hình cơng ty
mà phải chịu trách nhiệm về hoạt động của cơng ty khác nhau, ví dụ: đối với
cơng ty hợp danh, thì thành viên hợp danh phải chịu trách nhiệm liên đới và
vô hạn định với các viên hợp danh khác; đối với công ty trách nhiệm hữu hạn
một thành viên, thì chủ sở hữu cơng ty chỉ phải chịu trách nhiệm hữu hạn tới
phần vốn hùn vào công ty..v..v... Nhưng với doanh nghiệp tư nhân, chủ sở
hữu phải
chịu
đối với các khoản nợ• của doanh
1
• trách nhiệm
• vơ hạn
• định
•
nghiệp tư nhân.
Doanh nghiệp tư nhân có bản chất là một doanh nghiệp do một cá nhân
kinh doanh làm chủ sở hữu. Doanh nghiệp ở đây chính là một loại tài sản
thuộc chủ doanh nghiệp tư nhân và đây chính là đối tượng của hợp đồng mua
bán doanh nghiệp tư nhân.
6
1.1.2. Đặc diêm của doanh nghiệp tư nhân
Định nghĩa doanh nghiệp tư nhân ở trên cho biết doanh nghiệp tư nhân
có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, doanh nghiệp tư nhân khơng phải là một pháp nhân nên
khơng có tư cách pháp nhân. Khi doanh nghiệp tư nhân hoạt động tức là cá
nhân chủ doanh nghiệp tư nhân hoạt động kinh doanh. Nhiều ý kiến cho rằng
doanh nghiệp tư nhân không có tư cách pháp nhân khi nói tới đặc điểm của
loại hình doanh nghiệp này là chưa hồn tồn chính xác bởi bản chất nó
khơng phải là một pháp nhân cho nên nó khơng thể có tư cách pháp nhân
được. Do đó mang vấn đề tư cách pháp nhân để bàn về nó là chưa thấu hiểu
hết về vấn đề chủ thể của pháp luật nói chung và chủ thể kinh doanh nói
riêng.
Thứ hai, chủ doanh nghiệp tư nhân phải chịu trách nhiệm vô hạn định
đối với các khoản nợ của doanh nghiệp tư nhân. Đây là một vấn đề hồn tồn
lo- gích vì thực chất chù doanh nghiệp tư nhân mới là người kinh doanh vì
vậy người này phải chịu trách nhiệm bằng cả tài sản của mình. Cịn doanh
nghiệp tư nhân chỉ là một cánh tay nối dài của chủ doanh nghiệp tư nhân [12,
tr.143]. Trong luật về chủ thể kinh doanh, chế độ trách nhiệm của chủ sờ hữu
doanh nghiệp hay thành viên công ty luôn được nhắc tới để phân biệt giữa
hình thức cơng ty này với hình thức cơng ty khác, về ngun tắc ai kinh
doanh thì đều phải chịu trách nhiệm đến cùng với các hành vi kinh doanh của
mình. Doanh nghiệp tư nhân thực chất là một cá nhân kinh doanh vì vậy cá
nhân này phải chịu trách nhiệm đến cùng với các hành vi kinh doanh của
mình, tức là phải chịu trách nhiệm bằng tất cả tài sản của người này. Một
công ty - được xem là thưong nhân pháp nhân, cũng phải chịu trách nhiệm
bằng tất cả tài sản của mình đổi với các khoản nợ của mình. Nhưng các thành
viên của cơng ty có thể phải chịu trách nhiệm vơ hạn định cùng công ty nếu là
công ty hợp danh hoặc phải chịu trách nhiệm hữu hạn tới phần hùn vào công
7
ty nêu là công ty trách nhiệm hữu hạn hay cơng ty cơ phân. Việc chịu trách
nhiệm bằng tồn bộ tài sản của mình dù có đưa vào kinh doanh hay không
đưa vào kinh doanh được gọi là chịu trách nhiệm vô hạn.
77iứ ba, doanh nghiệp tư nhân là tài sản thuộc quyền sở hữu của chủ
doanh nghiệp tư nhân. Doanh nghiệp tư nhân nói đơn giản là doanh nghiệp
thuộc một cá nhân kinh doanh. Nó có thể bị cá nhân chủ sở hữu bán đi hay
cho thuê. Nói cách khác nó là đối tượng của các giao dịch. Nó là tài sản. Tài
sản này thường không phải là đơn chiếc mà là một tố hợp nhiều tài sản dùng
cho việc kinh doanh của chù sở hữu doanh nghiệp có sự tách biệt rất tương
đối với các tài sán khác của chủ sở hữu doanh nghiệp. Do đó khi khai thác tài
sản này để kinh doanh mà vướng phải các khoản nợ thì chủ sờ hữu tài sản này
phái chịu trách nhiệm bằng cả tài sản đó và bằng cả tải sản khác khơng đưa
vào kinh doanh. Vì vậy việc kê khai phần vốn đưa vào kinh doanh của doanh
nghiệp tư nhân hầu như khơng mang tình chất pháp lý gì cả mà chỉ mang tính
chất xác định về qui mơ kinh tế.
Các đặc diểm này có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định hợp đồng
mua bán doanh nghiệp tư nhân từ chủ thề cho tới đối tượng và các nội dung
của hợp đồng.
1.2. Khái niệm, bản chất pháp lý và đặc điếm của họp đồng mua bán
doanh nghiệp tư nhân
1.2. ỉ. Khái niệm và bản chất pháp lý của hợp đồng mua bán doanh
nghiệp tư nhân
Hoạt động mua bán doanh nghiệp nói chung và mua bán doanh nghiệp
tư nhân nói riêng ngày càng diễn ra sơi động ở Việt Nam, tuy nhiên có thể bị
chững lại vì đại dịch covid-19, nhưng có thế lại trỗi dậy khi dịch đã tạm lắng.
Dưới khía cạnh phát triển đàu tư, nếu một doanh nghiệp đang trong tình trạng
khó khăn thì nhà đầu tư mới sẽ vực doanh nghiệp dậy, nếu một doanh nghiệp
8
đang hoạt động có hiệu quả thì nhà đâu tư mới càng làm cho nó phát triên hơn
lên.
Trong tồn cảnh về hoạt động mua bán doanh nghiệp tại Việt Nam, thì
hoạt động mua bán DNTN chiếm một vị trí khơng nhở. Trong q trình thực
hiện cơng cuộc đối mới nền kinh tế nước nhà, DNTN đã giữ vai trò rất quan
trọng. Với ưu thế về đầu tư như chi phí khơng q lớn, có khả năng thích nghi
cao với sự biến động của thị trường, phù hợp với trình độ quản lý kinh doanh
trong nước,... Tuy nhiên, hiện nay các DNTN trong nước cũng đang đứng
trước những khó khăn về vốn, cơng nghệ, khó khăn trong quản lý doanh
nghiệp nhất là trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực như hiện nay.
Vấn đề mua bán DNTN vừa là giải pháp cho doanh nghiệp vừa là giải pháp
cho cả nền kinh tế khi lâm vào khó khăn cũng như muốn thúc đẩy tiềm năng
phát triển. Muốn hoạt động này vận hành một cách hợp lý, lành mạnh, hiệu
quả trong nền kinh tế thì khơng thế khơng quan tâm đến khung pháp lý điều
chỉnh nó.
Việc xác lập quan hệ hợp đồng được xem là nhân tố vô cùng quan
trọng ràng buộc các bên khi thiết lập các điều khoản liên quan về những cam
kết, trách nhiệm pháp lý với nhau và với các cơ quan công quyền. Để làm rõ
các vấn đề pháp lý liên quan đến hợp đồng mua bán DNTN, trước tiên chúng
ta cần làm rõ khái niệm và bản chất của hoạt động mua bán DNTN, đặt trong
tương quan nghiên cứu các khái niệm về mua bán tài sản theo luật dân sự đến
mua bán hàng hóa theo luật thương mại và các ngành luật liên quan.
Mua bán DNTN là một hợp đồng mà theo đó bên bán chuyển giao
doanh nghiệp và quyền sở doanh nghiệp cho bên mua; còn bên mua phải trả
tiền cho bên bán.
Theo Bộ luật Dân sự năm 2015, hợp đồng mua bán tài sản có thể hiểu
là hoạt động chuyển giao quyền và nghĩa vụ giữa bên mua và bên bán theo đó
bên bán có nghĩa vụ giao tài sản cho bên mua và nhận tiền, cịn bên mua có
9
nghĩa vụ nhận tài sản và trả tiên cho bên bán. Điêu này cũng có thê được hiêu:
mua bán tài sản là thoả thuận giữa các bên theo đó bên bán có nghĩa vụ
chuyển giao tài sản cho bên mua và nhận tiền bán tài sản, cịn bên mua có
nghĩa vụ nhận tài sản và trả tiền cho bên bán theo thời hạn, số lượng và
phương thức mà các bên đã thoả thuận [31, tr. 119].
DNTN không phải một thực thể độc lập mà DNTN là một tổ hợp tài
sản mở rộng của cá nhân sở hữu nó dù ràng doanh nghiệp tư nhân có tên
thương mại riêng và có con dấu riêng [11], Chủ DNTN có tồn quyền định
đoạt, quản lý, điều hành doanh nghiệp và để đảm bảo an tồn pháp lý cũng
như tạo niềm tin cho cơng chúng, chủ DNTN phải chịu trách nhiệm vô hạn
đối với các khoản nợ và nghĩa vụ của doanh nghiệp bằng tồn bộ tài sản của
mình. Bao gồm cả những tài sản đưa vào kinh doanh và cả những tài sản
không đưa vào kinh doanh. DNTN thuộc sở hữu của một cá nhân cụ thể
khơng có sự hiệp vốn cùng những cá nhân khác nên chủ doanh nghiệp có tồn
quyền quyết định trong việc cho thuê toàn bộ doanh nghiệp, quyền bán doanh
nghiệp hoặc sáp nhập doanh nghiệp vào một doanh nghiệp khác, quyền giải
thể hoặc phá sản doanh nghiệp. Trên cơ sở đó LDN 2020 qui định: “Chú
doanh nghiệp tư nhân có quyền bán doanh nghiệp tư nhân của mình cho cá
nhân, tổ chức khác”(Điều 192, khoản 1).
Neu nói: mua bán DNTN là thỏa thuận chuyển giao quyền sở hữu
doanh nghiệp thì có thế dẫn đến cách hiểu thơng thường là tồn bộ thực thể
kinh doanh đó được chuyến giao khơng ngoại trừ yếu tố nào của nó. Tư cách
pháp lý của doanh nghiệp được đồng hóa với chủ doanh nghiệp, toàn bộ tài
sản của chủ doanh nghiệp là vật thế chấp chung của các chù nợ, chủ doanh
nghiệp chịu trách nhiệm cá nhân và không giới hạn về các khoản nợ của
doanh nghiệp [3, tr.205]. Doanh nghiệp tư nhân khơng có sản nghiệp riêng,
sản nghiệp thương mại này khơng tách bạch với sản nghiệp của chủ doanh
nghiệp mà thống nhất với khối tài sản của người chủ. DNTN có thể là đối
10
tượng của một hợp đông mua bán. Do vậy, cân xác định rõ bán doanh nghiệp
tư nhân là bán một phần tài sản trong sản nghiệp của chủ sở hữu doanh
nghiệp, một phần tài sản này chính là được tạo lập qua doanh nghiệp tư nhân.
Trong đó bán là bán tài sản có, cịn tài sản nợ gắn liền với thương nhân là chủ
sở hữu doanh nghiệp. Bên mua lại sẽ chịu trách nhiệm khi khai thác khối tài
sản có này, chủ sở hữu doanh nghiệp cũ sẽ chịu trách nhiệm đối với các
khoản nợ mà doanh nghiệp chưa hoàn thành.
Tóm lại, mua bán DNTN là thỏa thuận chuyển giao một phần tài sản có
của chủ sở hữu doanh nghiệp tư nhân đã đưa vào doanh nghiệp. Sau khi bán
doanh nghiệp chủ DNTN cũ sẽ khơng cịn là chủ doanh nghiệp nữa mà người
mua sẽ là chủ doanh nghiệp. Kể từ ngày bán DNTN, coi như DNTN này
chấm dứt tồn tại, mặc dù sau đó người mua vần có thể đăng ký kinh doanh lại
với tên doanh nghiệp và toàn bộ cơ sở vật chất đã có của DNTN cũ.
Nếu mua bán doanh nghiệp nói chung là sự thoả thuận giữa các bên,
theo đó bên bán có nghĩa vụ chuyển giao tồn bộ doanh nghiệp (gồm có tài
sản và các quyền, nghĩa vụ khác của doanh nghiệp) cho bên mua và nhận tiền,
cịn bên mua có nghĩa vụ nhận tồn bộ doanh nghiệp (gồm có tài sản và các
quyền, nghĩa vụ khác của doanh nghiệp) và trả tiền cho bên bán thì mua bán
DNTN có khác biệt ở chồ, chủ doanh nghiệp bán doanh nghiệp cho người
khác nhưng về nguyên tắc, chủ doanh nghiệp vẫn phải chịu trách nhiệm về tất
cả các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác mà doanh nghiệp chưa thực hiện.
Người bán doanh nghiệp có thể thỏa thuận để mua chịu nốt phần trách nhiệm
còn lại đối với các khoản nợ cũ của doanh nghiệp. Trong khái niệm này, thoâ
thuận là cơ sở của quan hệ mua bán giữa các bên; đối tượng của quan hệ mua
bán là doanh nghiệp, bao gồm toàn bộ tài sản, các quyền và nghĩa vụ khác của
doanh nghiệp.
Theo pháp luật Việt Nam, sau khi mua lại DNTN chủ sở hữu mới của
doanh nghiệp phải tiến hành đăng ký kinh doanh lại, điều này cho thấy quan
11
hệ mua bán DNTN được nhìn nhận như những quan hệ mua bán tài sản thông
thường khác. Tức là việc mua bán DNTN là việc chuyển nhượng tài sản của
doanh nghiệp mà không chuyển nhượng tư cách pháp lý của doanh nghiệp
được bán [32, tr.96].
Bán DNTN là một hình thức pháp lý thể hiện quyền định đoạt đối với
tài sản của chủ doanh nghiệp mà quyền định đoạt là một trong những quyền
quan trọng nhất thể hiện vị trí của chủ sở hữu đối với khối tài sản của mình.
Chủ doanh nghiệp hồn tồn có thế bán tài sản đó nhằm mục đích lợi nhuận
hay để giải quyết tình trạng khó khăn của doanh nghiệp, về mặt hình thức,
bản chất của hoạt động mua bán DNTN chính là việc chuyển nhượng quyền
sở hữu tài sản doanh nghiệp từ bên bán sang bên mua DNTN, không chuyển
nhượng tư cách pháp lý. Đồng thời, hoạt động lại này mang bản chất của hành
vi thương mại sâu sắc khi xét tới các yểu tố về chủ thề và mục đích của hành
vi. về mặt chủ thể: ln có một bên là bên bán - thương nhân, bên kia có thể
là thương nhân hoặc không là thương nhân. Thương nhân được hiểu chủ thể
thực hiện hành vi thương mại một cách thường xuyên, chuyên nghiệp và lấy
đó làm nghề nghiệp của mình [8], bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập
họp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên có
đăng ký kinh doanh (khoản 1 Điều 6 Luật thương mại năm 2005). Bên bán -
chủ sớ hữu DNTN là thương nhân thể nhân, bên mua có thể là thương nhân
hoặc phi thương nhân tham gia vào giao dịch thương mại với thương nhân;
mục đích của các bên khi tham gia vào quan hệ này là tìm kiếm lợi nhuận cho
mình một cách tối đa, bên mua sau khi mua lại có thể tiến hành đăng ký kinh
doanh lại đế hoạt động sản xuất kinh doanh. Mua bán DNTN là hoạt động
thương mại theo đó các bên thỏa thuận với nhau về việc chuyển giao quyền sờ
hữu doanh nghiệp từ bên bán sang bên mua thông qua một hợp đồng mua bán
doanh nghiệp.
12
Từ đây có thê rút ra: Hợp đơng mua bán doanh nghiệp tư nhân là sự
thoả thuận giữa các bên, theo đó bên bán có nghĩa vụ chuyển giao quyền sở
hữu phần tài sản có mà chù sở hữu doanh nghiệp đã đưa vào DNTN cho bên
mua và nhận tiền, cịn bên mua có nghĩa vụ nhận tất cả tài sản trên và trả giá
cho việc nhận được quyền sở hữu tài sản đó. Hợp đồng mua bán DNTN là sự
tạo lập hậu quả pháp lý làm phát sinh quyền và nghĩa vụ bởi sự thống nhất ý
chí của bên mua và bên bán. Thực chất hợp đồng mua bán DNTN là hợp đồng
chuyển nhượng tài sản mà không chuyển nhượng tư cách pháp lý, đồng thời
hợp đồng này cũng mang bản chất thương mại sâu sắc.
1.2. 2. Đặc điểm pháp lý của họp đồng mua bán doanh nghiệp tư nhãn
Như trên đã nói mua bán DNTN là mua bán tài sàn của chủ sở hữu
doanh nghiệp. Chính tính chất này quyết định những đặc điểm pháp lý của
DNTN.
Hợp đồng mua bán DNTN có các đặc điểm sau:
Thử nhất, hợp đồng mua bán doanh nghiệp tư nhân là hợp đồng dân sự
mang một vài đặc thù thương mại. Sự phân biệt giữa họp đồng dân sự và hợp
đồng thương mại chỉ là tương đối. Nhưng sự phân biệt này có ý nghĩa quan
trọng trong việc lựa chọn luật áp dụng. Việc xác định hợp đồng mua bán
DNTN là họp đồng có đối tượng là mua bán tài sản. Mặc dù tài sản này là tài
sản dùng trong kinh doanh, nhưng tài sản này khơng phải là hàng hóa và
khơng phải là đổi tượng thường xuyên của hoạt động thương mại. Luật
thương mại chỉ điều chinh các hoạt động có tính chất nghề nghiệp của thương
nhân. Vì vậy hợp đồng mua bán DNTN không nằm trong phạm vi nghề
nghiệp của họ mà chỉ là những hoạt động bất thường khi xảy ra những tình
huống đặc biệt. Vì vậy khi nói về mua bán doanh nghiệp tư nhân. Luật Doanh
nghiệp 2020 cũng chỉ nói ngắn gọn trong một điều qui định vài nét đặc thù
liên quan tới thương mại của loại hợp đồng này. Còn tất cả những vấn đề chủ
yếu của hợp đồng này thuộc phạm vi điều chỉnh cũa luật dân sự.
13
Thứ hai, họp đông mua bán DNTN là họp đông chú ý tới hình thức.
Thơng thường DNTN là một tài sản lớn, phức tạp với nhiều chi tiết. Do đó
họp đồng này thường được yêu cầu phải lập thành văn bân và có cơng chứng
hoặc chứng thực. Ví dụ một DNTN liên quan tới sản xuất cơ khí thì các tài
sản của nó bao gồm nhiều loại máy móc, trang thiết bị đặc chủng, chưa kế tới
những loại tài sản khác kèm theo như qui trình cơng nghệ, bí quyết kinh
doanh...
Thứ ba, hợp đồng mua bán DNTN là họp đồng song vụ cỏ đền bù. Khái
niệm trên cho thấy họp đồng này cả hai bên đều cam kết ràng buộc mình vào
nghĩa vụ. Bên bán phải chuyển giao DNTN và quyền sở hữu DNTN choi bên
mua. Ngược lại, bên mua phải trả cho bên bán một số tiền nhất định do các
bên thỏa thuận. Ngồi ra các bên cịn có những nghĩa vụ khác liên quan. Như
vậy bên này phải một tài sản này cho phía bên kia để đồi lại một tài sản khác
từ phía bên kia giống như những họp đòng mua bán khác.
Thử tư, hợp đồng mua bán DNTN là hợp đồng ưng thuận. Các bên giao
kết họp đồng có quyền tự do thỏa thuận về tất cả các nội dung, điều khoản
của hợp đồng. Hợp đồng này nhẽ ra có hiệu lực kể từ khi các bên thỏa thuận
hoàn tất nhưng do đặc điếm là hợp đồng chú ý tới hình thức vì vậy nó có hiệu
lực và thời điểm các bên hồn tất hình thức giao kết theo qui định của pháp
luật.
Các đặc điểm này có ảnh hưởng tới việc áp dụng luật trong giải quyết
tranh chấp hợp đồng.
Hợp đồng mua bán doanh nghiệp tư nhân và hợp đồng mua bán tài sản
của doanh nghiệp tư nhân có một vài khác biệt, và thường được phân biệt như
sau:
Chủ sở hữu DNTN là người chủ duy nhất của doanh nghiệp, có tồn
quyền quyết định trong việc sản xuất kinh doanh cũng như bán hay không bán
tài sân doanh nghiệp, bán hay không bán doanh nghiệp của mình.
14
Hợp đông mua bán DNTN khác với những hợp đông mua bán tài sản
thông thường khác, mua bán doanh nghiệp nói chung và mua bán DNTN nói
riêng như đã phân tích ở phân đầu được hiểu là hoạt động thương mại theo đó
các bên thỏa thuận với nhau về việc chuyển giao quyền sở hữu doanh nghiệp
từ bên bán sang bên mua thông qua một hợp đông mua bán doanh nghiệp.
Chủ sở hữu DNTN cũng có thê bán các tài sản DNTN cho cá nhân hay
tổ chức thông qua hợp đồng mua bán tài sản dân sự hoặc mua bán sản nghiệp
thương mại. Mua bán tài sản doanh nghiệp có thể hiểu là sự chuyển nhượng
một phần hay toàn bộ tài sản của doanh nghiệp cho tổ chức, cá nhân khác
thơng qua sự thỗ thuận giữa chủ doanh nghiệp và tơ chức hay cá nhân đó.
Cần hiểu tài sản doanh nghiệp theo nghĩa là sản nghiệp thương mại bao gồm
tài sản thuộc quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng họp pháp của thương nhân;
phục vụ cho hoạt động thương mại.
Hai hoạt động mua bán DNTN và mua bán tài sản DNTN này đêu cân
phải có sự quyết định của chủ sở hữu DNTN là người đứng đầu doanh
nghiệp, người chủ duy nhất có tồn quyền quyết định mọi cơng việc liên quan
đến doanh nghiệp, về cách thức tiến hành giao dịch thì suy cho cùng hai hoạt
động này đều là chuyển nhượng quyền sở hữu tài sản theo đó người mua và
người bán có quyền và nghĩa vụ nhất định, thông qua việc mua bán làm chấm
dứt quyền sở hữu của người bán đối với tài sản, đồng thời làm phát sinh
sơ hưu cua ngươi mua.
Điêm giông nhau tiêp theo giữa hợp đông mua bán DNTN và hợp đông
mua bán tài sản DNTN là đều phải tiến hành quá trình xác định tài sản và
định giá tài sản doanh nghiệp: bán doanh nghiệp thì phải xác định và định giá
tồn bộ tài sản doanh nghiệp đê định giá giá trị doanh nghiệp, trong khi đó
bán tài sản là q trình xác định và định giá tài sản đem bán.
Tuy nhiên, đây cũng là hai vân đê hoàn toàn khác nhau vê bản chât.
Trong hợp đồng mua bán DNTN thì đối tượng của giao dịch mua bán là
15
DNTN - một thực thê kinh doanh, tô chức kinh tê có tên riêng, có tài sản, có
trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp
luật; nó khác với đối tượng là tài sản doanh nghiệp trong mua bán tài sản
doanh nghiệp. Từ đó dẫn đến những hệ quả khác nhau của mỗi giao dịch. Đó
là: hợp đồng mua bán DNTN dẫn tới sự thay đối địa vị của chủ sở hữu doanh
nghiệp cụ thề là sự chuyển đối chủ sở hữu của doanh nghiệp từ bên bán sang
bên mua, chấm dứt tư cách pháp lý của chủ sở hữu doanh nghiệp tư nhân cũ;
cịn hợp đồng bán một phần hoặc tồn bộ tài sản của DNTN không làm thay
đổi địa vị của chủ sở hữu doanh nghiệp.
Việc bán các tài sản của doanh nghiệp khơng ảnh hưởng gì tới các hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp. Sau khi bán tài sản của doanh nghiệp,
doanh nghiệp vẫn tồn tại, vẫn hoạt động. Trong khi đó việc bán doanh nghiệp
sẽ chấm dứt sự tồn về mặt pháp lý của doanh nghiệp cũ, DNTN cũ sẽ bị xóa
tên trong số đăng ký doanh nghiệp, tư cách pháp lý của doanh nghiệp chấm
dứt ngay khi doanh nghiệp được chuyến giao cho bên mua. Bên mua nếu
muốn tiếp tục hoạt động kinh doanh trên cơ sở nền tảng doanh nghiệp đã mua
về thì có thể đăng ký kinh doanh lại theo luật định đế thành lập doanh nghiệp
thuộc quyền sở hữu của mình.
Trên đây là những vấn đề cơ bản về hợp đồng mua bán DNTN, việc
bán toàn bộ doanh nghiệp tư nhân được hiểu là việc chuyển giao quyền sở
hữu doanh nghiệp tư nhân cho người khác, cũng giống như việc cho thuê
doanh nghiệp, bán doanh nghiệp cũng bao gồm việc bán những tài sản và
những giá trị khác của doanh nghiệp (không giới hạn ở những giá trị hữu
hình). Tuy nhiên, bán DNTN khơng có nghĩa là sau khi hoàn tất thủ tục mua
bán, bên mua có thể sử dụng tư cách pháp lý của DNTN đã mua để tiến hành
các hoạt động kinh doanh. Bên mua phải đăng ký kinh doanh lại để hoạt động
trên cơ sở doanh nghiệp tư nhân đã mua [32, tr.95J.
16
1.3. Giao kêt và nội dung của họp đông mua bán doanh nghiệp tư
nhân
1.3.1. Chủ thể hợp đồng mua bán doanh nghiệp tư nhân
DNTN thuộc sở hữu của một cá nhân cụ thể nên chủ doanh nghiệp có
tồn quyền quyết định, định đoạt tài sản doanh nghiệp, các hoạt động của
doanh nghiệp, các phương án sản xuất, kinh doanh. Chủ doanh nghiệp cũng
có thể khơng trực tiếp điều hành hoạt động của doanh nghiệp mà thuê người
khác quản lý doanh nghiệp. Dù trực tiếp quản lý hay khơng thì chủ DNTN
vẫn là người chịu trách nhiệm về mọi hoạt động cùa doanh nghiệp trước pháp
luật, nhà nước, trước các đối tác, người lao động.
Trong hoạt động mua bán doanh nghiệp, chủ DNTN có quyền bán
doanh nghiệp của mình cho người khác, tham gia vào quan hệ họp đồng mua
bán DNTN. Điều này xuất phát từ việc quyền sở hữu tài sản trong DNTN
thuộc về cá nhân tạo lập ra nó. Việc bán một doanh nghiệp là một thù tục
phức tạp vì nó có liên quan đến nhiều người khác như các chủ nợ, các bên còn
mắc nợ doanh nghiệp, người lao động, các cơ quan quản lý nhà nước về
doanh nghiệp, về nguyên tắc, ngay cả khi đã bán doanh nghiệp, chủ doanh
nghiệp vẫn phải chịu trách nhiệm về tất cả các khoản nợ và các nghĩa vụ tài
sản khác mà doanh nghiệp chưa thực hiện trừ trường hợp người mua, người
bán và chủ nợ doanh nghiệp có thỏa thuận khác [33, tr.l 10].
Bên bán trong quan hệ mua bán DNTN là chù sở hữu DNTN muốn bán
vì mục đích kiếm lời, cũng có thế đế cứu vãn doanh nghiệp khi lâm vào tình
trạng khó khăn. Cịn bên mua có thể là thương nhân hoặc không phải thương
nhân, với nhu cầu mua doanh nghiệp để tiếp tục đầu tư sản xuất kinh doanh
hoặc kiếm lời. Trong quan hệ mua bán DNTN nếu bên mua chỉ đơn thuần
mua lại
với mục
đích mua lại
khối tài sản để kiếm lời thì cá nhân chỉ cần có
•
•
•
đủ năng lực hành vi dân sự và có khả năng về tài chính là có thể mua. Neu
17
mua lại doanh nghiệp nhăm tiêp tục hoạt động đâu tư sản xuât kinh doanh thì
phải xét đến những điều kiện luật định về thành lập và quán lý doanh nghiệp.
Việc bán DNTN khơng có nghĩa là sau khi hồn tất thủ tục mua bán,
bên mua có thế sử dụng tư cách pháp lý của DNTN đã mua để tiến hành các
hoạt động kinh doanh. Bên mua phải đăng ký kinh doanh lại mới có thế tiến
hành hoạt động kinh doanh trên cơ sở DNTN đã mua, như vậy người mua
khơng nhất thiết phải thực hiện mục đích kinh doanh bằng cơ sở DNTN sằn
có. Điều này cũng đồng nghĩa với việc bán DNTN thực chất là việc chỉ
chuyển nhượng các tài sản của doanh nghiệp mà không chuyển nhượng tư
cách pháp lý.
1.3.2. Đoi tượng hợp đồng mua bán doanh nghiệp tư nhân
Đối tượng của hợp đồng mua bán tài sản theo luật dân sự là tài sản
được phép giao dịch. Neu tài sản là vật thì vật phải được xác định rõ, trong
trường hợp đối tượng của hợp đồng mua bán là quyền tài sản thì phải có giấy
tờ hoặc các bằng chứng khác chứng minh quyền đó thuộc sở hữu của bên bán.
Từ việc tiếp cận đối tượng giao dịch mua bán hàng hóa trong dân luật ta hiểu
rõ hơn về đối tượng giao dịch mua bán DNTN. Đối tượng của quan hệ mua
bán DNTN là một doanh nghiệp. Theo phân tích ờ trên, mua bán DNTN thực
chất là chuyển nhượng tài sản mà không chuyển nhượng tư cách pháp lý nên
đối tượng của hợp đồng mua bán DNTN là một phần sản nghiệp của chủ
doanh nghiệp tư nhân tạo dựng qua doanh nghiệp tư nhân [18, tr.47]. Tài sản
kinh doanh mà chủ DNTN đưa vào đế khai thác doanh nghiệp là một tổ hợp
tài sản bao gồm nhiều yếu tố cả hữu hình lẫn vơ hình. Việc xác định như vậy,
sẽ giúp ta xác định chính xác các loại tài sản và định giá chúng.
Tài sản hữu hình có thể kể đến như đất đai, nhà xưởng, trang thiết bị,
máy móc, dây truyền cơng nghệ săn xuất; tài sản vơ hình có thể kể đến là uy
tín của doanh nghiệp, tên doanh nghiệp, bí quyết kinh doanh. Bên cạnh đó,
các quyền và nghĩa vụ phát sinh trong các họp đồng mà chù sở hữu doanh
18
nghiệp đang sở hữu, đang là một bên của hợp đơng cũng là một bộ phận tài
sản có thể định giá để bán hoặc chuyển giao cho chủ sở hữu mới kế thừa.
Dưới góc độ Luật Dân sự, đối tượng của quan hệ mua bán DNTN là một tài
sản được phép lưu thông, đáp ứng được các điều kiện về giao dịch dân sự.
Đồng thời, các loại tài sản và các quyền tài sản của doanh nghiệp cũng hồn
tồn có thể chuyển nhượng thông qua hợp đồng dân sự như hợp đồng chuyển
giao công nghệ, hợp đồng nhượng quyền thương mại, hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất, hợp đồng chuyển giao quyền đòi nợ. Điểm đáng
chú ý là đối tượng được chuyển giao trong hợp đồng mua bán DNTN ln là
các quyền về tài sản (tài sản có), trừ trường hợp các bên có thỏa thuận chuyển
giao các nghĩa vụ về tài sản (tài sản nợ). Điều này có nghĩa là nếu các bên
khơng có thỏa thuận trước về việc chuyển giao nghĩa vụ thì mặc nhiên các
khoản nợ, các nghĩa vụ về tài sản là đối tượng không được đưa vào giao dịch
mua bán DNTN.
Dựa trên những phân tích về đối tượng của họp đồng mua bán DNTN
chúng ta có thể rút ra hợp đồng mua bán DNTN là một họp đồng hồn họp
hoặc hợp đồng phức hợp gồm nhiều yếu tố của các loại họp đồng chuyên biệt
họp lại như hợp đồng mua bán tài sản thông thường, hợp đồng mua bán trái
quyền [11],
1.3.3. Giá bán doanh nghiệp tư nhân
Trong hợp đồng mua bán doanh nghiệp, vấn đề định giá tài sản doanh
nghiệp là rất quan trọng, luôn được các bên quan tâm, bên mua thường mong
muốn mua được với giá thấp nhất có thế, bên bán thì mong muốn giá bán phải
cao nhất có thể nhằm tối đa hóa lợi nhuận của mình. Do đó việc mồi bên đưa
ra những cách đánh giá khác nhau về giá trị doanh nghiệp trong thương vụ
mua bán là điều rất dễ hiểu. Làm thế nào để đưa ra được một mức giá phù hợp
được cả bên mua và bên bán đồng tình, hiện nay có nhiều phương pháp định
giá doanh nghiệp được đưa ra. Các doanh nghiệp, các nhà đầu tư thường tìm
19
đên các công ty tư vân định giá tài sản hay những cơng ty thâm định giá có
đầy đủ chức năng và điều kiện thấm định theo luật định với đội ngũ thẩm định
viên về giá đủ điều kiện hành nghề [5, 6], vấn đề định giá tài sản doanh
nghiệp nói chung và DNTN nói riêng càng trở nên phức tạp hơn khi tài sản
của doanh nghiệp không chỉ bao gồm tài sản hữu hình như nhà xưởng, máy
móc, thiết bị,... mà cịn bao gồm các tài sản vơ hình khác trong đó đáng chú ý
là các quyền sở hữu trí tuệ. Do đó, u cầu xác định chính xác các loại tài sản
này cũng như định giá chúng trở nên khó khăn hơn.
Định giá tài sản có thể được hiểu là việc đánh giá giá trị của tài sản phù
hợp với thị trường tại một địa điểm, thời điểm nhất định. Theo luật kinh
doanh bất động sản thì định giá bất động sản là hoạt động tư vấn, xác định giá
của một bất động sản cụ thể tại một thời điểm xác định. Như vậy, định giá
theo Luật Kinh doanh bất động sản là hoạt động tư vấn, xác định giá của một
tài sản cụ thể tại một thời điếm xác định.
Tóm lại'. Định giá tài sản là việc tư vấn, định các mức giá cụ thế cho
từng loại tài sản làm căn cử cho các hoạt động giao dịch mua bán tài sản,
hàng hóa, dịch vụ đó trên thị trường. Đối với các loại tài sản, hàng hóa, dịch
vụ do nhà nước định giá (các cơ quan có thẩm quyền quy định) thì các mức
giá cụ thể của từng loại tài sản, hàng hóa mang tính bắt buộc mọi đối tượng
tham gia hoạt động giao dịch, mua bán phải thực hiện. Đối với các tài sản,
hàng hóa, dịch vụ khơng thuộc danh mục Nhà nước định giá thì do các tố
chức, cá nhân tự định giá theo quy luật thị trường làm cơ sở cho các hoạt
động giao dịch mua bán, trao đổi.
Một số nguyên tắc trong hoạt động định giá dựa trên những nguyên tắc
pháp lý về hoạt động thấm định giá do pháp luật quy định:
- Tuân thủ pháp luật, tiêu chuẩn định giá
- Chịu trách nhiệm trước pháp luật về hoạt động nghề nghiệp và kết quả
định giá.
20
- Bảo đảm tính độc lập vê chun mơn nghiệp vụ và tính trung thực,
khách quan cùa hoạt động định giá.
- Bảo mật các thông tin của đơn vị được định giá, trừ trường hợp đơn vị
được định giá đồng ý hoặc pháp luật có quy định khác.
Hoạt động định giá là một khâu quan trọng trong quá trình mua bán
doanh nghiệp nói chung và mua bán DNTN nói riêng. Việc định giá sẽ giúp
các bên đưa ra những quyết định đầu tư đúng đắn, làm cơ sở cho giao dịch
mua bán diễn ra hữu ích, có lợi cho cả đơi bên. Đối với việc định giá tài sản
hữu hình ta cỏ thể áp dụng hai phương pháp là phương pháp xác định theo giá
trị tài sản (Phương pháp tài sản) và phương pháp xác định theo dòng tiền chiết
khấu (Phương pháp dòng tiền chiết khấu). Thực chất đây là hai phương pháp
do Chính phủ ban hành dùng để xác định giá trị doanh nghiệp đối với các
doanh nghiệp Nhà nước khi chuyển sang hình thức cơng ty cổ phần. Tuy
nhiên, khi định giá các hình thức doanh nghiệp khác cũng thường được nhiều
tổ chức vận dụng.
Đối với cả hai phương pháp xác định nêu trên thì khi áp dụng, yếu tố
cơ sở để thực hiện trước tiên phải là hồ sơ pháp lý cùa doanh nghiệp, và số
liệu trên báo cáo tài chính, số kế tốn của doanh nghiệp. Theo phương pháp
tài sàn thì giá trị doanh nghiệp được xác định dựa trên cơ sở đánh giá giá trị
thực tế tồn bộ tài sản hiện có của doanh nghiệp tại thời điểm xác định (ngoại
trừ các tài sản không cần dùng, chờ thanh lý, tài sản thuê mượn, công nợ
khơng có khả năng thu hồi...). Theo đó khi đánh giá, cơ sở quan trọng của
phương pháp này là dựa vào số lượng và chất lượng tài sản theo kiểm kê và
phân loại thực tế, tính năng kỳ thuật của tài sản, nhu cầu sử dụng và giá trị
thực tế trên thị trường của tài sản. Chất lượng của tài sản thường được xác
định bằng giá trị cịn lại tính theo tỷ lệ phần trăm so với nguyên giá tài sản
mới mua hoặc mới bắt đầu xây dựng. Giá thị trường dùng để tính giá trị thực
tế là giá đang mua bán trên thị trường cộng với chi phí vận chuyển, lắp đặt
21
(nêu có) đơi với những tài sản là máy móc thiêt bị, phương tiện vận tải có lưu
thơng trên thị trường. Nếu đó là những tài sản đặc thù thì căn cứ theo giá mua
cùa tài sản cùng loại, có cùng cơng suất, có tính năng tương đương. Trường
hợp khơng có tính năng tương đương thì căn cứ vào sổ sách kế tốn. Ngồi ra
cịn tính đến giá trị quyền sử dụng đất hoặc khả năng sinh lời của doanh
nghiệp nếu có.
Theo phương pháp dịng tiền chiết khấu xác định giá tài sản dựa trên cơ
sở đánh giá khả năng sinh lời của doanh nghiệp trong tương lai. Theo đó, cơ
sở chủ yếu để thực hiện phương pháp này là phụ thuộc vào báo cáo tài chính
của doanh nghiệp trong 5 năm liền kề trước khi xác định giá, lãi suất trả trước
của trái phiếu Chính phủ có kỳ hạn từ 10 năm trở lên ở thời điểm gàn nhất với
thời điểm xác định giá và giá trị quyền sử dụng đất đã được giao [4, Xem:
mục A, phần III].
Quyền sử dụng đất là một tài sản có giá trị trong khối tài sân của doanh
nghiệp. Theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay, đất đai là tài sản
thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu, doanh nghiệp được
trao quyền sử dụng đất thơng qua các hình thức như giao đất hoặc th đất.
Doanh nghiệp tư nhân đa phần thường chọn hình thức thuê đất để phục vụ
hoạt động sản xuất kinh doanh. Đổi với một doanh nghiệp giá trị quyền sử
dụng đất nhiều khi chiếm phần lớn giá trị tài sản của doanh nghiệp. Giá đất
(giá quyền sử dụng đất) được hiểu là số tiền tính trên một đơn vị diện tích đất
do Nhà nước quy định hoặc được hình thành trong giao dịch về quyền sử dụng đất.
Giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất được xác định theo khung giá do cơ
quan có thẩm quyền (Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
hoặc Chính phủ) quyết định theo Luật đất đai năm 2013.
Đối với tài sản vơ hình, Tài sản vơ hình ngày càng khắng định vị trí của
mình trong việc làm nên tên tuồi của doanh nghiệp trên thương trường. Các
doanh nghiệp cũng ngày càng chú trọng đến việc đầu tư, phát triển các tài sản
22
vơ hình. Cơ sở nào cho việc xác định giá trị tài sản vơ hình trong doanh
nghiệp một cách hợp lý, chuẩn xác nhất. Trong mua bán doanh nghiệp, có
một thực tế là rất khó xác định chính xác giá trị của các tài sán vơ hình, đặc
biệt là các tài sản vơ hình là quyền sở hữu trí tuệ. Đến nay, vẫn chưa có một
văn bản pháp lý thống nhất nào quy định cụ thế về việc định giá tài sản vơ
hình của doanh nghiệp. Giá trị vơ hình của các doanh nghiệp là một đại lượng
có thật, có the tính tốn được và trong nhiều trường hợp nó có giá trị rất lớn,
thậm chí lớn hơn cả giá trị hữu hình của doanh nghiệp. Ớ Việt Nam trong q
trình liên doanh đã có một sổ doanh nghiệp xác định được giá trị nhãn mác
của một số sán phẩm như: nhãn thuốc đánh rang p/s là 5,3 triệu USD, nhãn
bia 333 là 9 triệu USD, nhãn bia Halida là 500 ngàn USD. Việc tìm phương
pháp tính giá trị vơ hình phù hợp với điều kiện của Việt Nam là rất cần thiết
và bức bách [34, tr.232].
Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, tác giả đề cập đến hai phương
pháp xác định giá trị tài sản vơ hình theo cuốn “Các phương pháp xác định
giá trị tài sản vô hình” của tác giả Đồn Văn Trường. Các bên có thề lựa chọn
áp dụng một trong hai phương pháp này [34, tr.232-233].
Thứ nhất, phương pháp tính trực tiếp, khi giá trị vơ hình của doanh
nghiệp được thể hiện chủ yếu dưới dạng có thể tính tốn được thì nên dùng
phương pháp này tức là cộng các chi phí lại. Cách này vừa dễ tính vừa có sức
thuyết phục, người mua khó từ chối trả giá. Nhược điếm của cách tính này là
khơng tính hết giá trị vơ hình của doanh nghiệp. Nhưng cũng cần lưu ý rằng
giá trị vơ hình của doanh nghiệp luôn luôn biến động, thay đồi bới những yếu
tố chủ quan và khách quan nên hầu như khơng thể tính chính xác tuyệt đối
được.
Thứ hai, phương pháp tính gián tiếp, khi giá trị vơ hình của doanh
nghiệp về cơ bản không được biểu hiện bằng các chi phí thì cách tốt nhất là
áp dụng phương pháp này. Có nhiều phương pháp tính gián tiếp như thơng
23