MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐÀU............................................................................................................. 1
CHƯƠNG 1: MỘT SÓ VÁN ĐÈ LÝ LUẬN VÈ CHÚNG cú VÀ
THU THẬP CHỨNG cứ TRONG TỐ TỤNG HÌNH sự.............6
1.1.
Một số vẩn đề lý luận về chứng cú’ và nguồn chứng cứ.................. 6
1.1.1.
Khái niệm về chứng cứ và các thuộc tính của chứng cứ...................... 6
1.1.2.
Nguồn chứng cứ và đặc điểm của các loại nguồn chứng cứ................ 8
1.2.
Một số vấn đề lý luận về hoạt động thu thập chứng cứ................11
1.2.1.
Khái niệm, đặc điểm và vai trị của hoạt động thu thập chứng cứ
1.2.2.
Chủ thể, trình tự, thủ tục và các biện pháp thu thập chứng cứ......... 16
1.3.
Thu thập chứng cử trong Luật tố tụng hình sự một số nước
11
trên thế giói......................................................................................... 22
CHƯƠNG 2: QUY ĐỊNH CỦA Bộ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH sự NĂM
2015 VÈ THU THẬP CHỦNG cú VÀ THỤC TRẠNG HOẠT
ĐỘNG THU THẬP CHÚNG cứ TRONG GIÃI QUYẾT vụ
ÁN HÌNH Sự TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HỊA BÌNH TRONG
THỊI GIAN QUA................................................................................ 27
2.1.
Các quy
của Bộ• luật
> •/ định
•
• tố tụng
• CT hình sự• năm 2015 về thu
thập chứng cứ..................................................................................... 27
2.1.1.
Thu thập chứng cứ là vật chứng........................................................... 27
2.1.2.
Thu thập chứng cứ là lời khai, lời trình bày...................................... 30
2.1.3.
Thu thập chứng cứ là dữ liệu điện tử................................................... 37
2.1.4.
Thu thập chửng cứ là Kết luận giám định, định giá tài sản................ 40
2.1.5.
Thu thập chứng cứ là biên bản trong hoạt động khởi tô, điêu tra,
truy tố, xét xử, thi hành án.................................................................. 44
2.1.6.
Thu thập chứng cứ là kết quả thực hiện ủy thác tư pháp và hợp
tác quốc tế khác................................................................................... 46
2.1.7.
Thu thập chứng cứ là các tài liệu, đồ vật khác.................................... 48
2.2.
Thực trạng hoạt động thu thập chứng cứ trong giải quyết vụ
án hình sự trên địa bàn tỉnh Hịa Bình trong thịi gian qua.............. 49
2.2.1.
Tình hình giải quyết các vụ án hình sự trên địa bàn tỉnh Hịa
Bình trong thời gian qua......................................................................49
2.2.2.
Đánh giá, nhận xét kết quả hoạt động áp dụng các quy định
của luật tố tụng hình sự trong thu thập chứng cứ trên địa bàn
tỉnh Hịa Bình...................................................................................... 51
CHƯƠNG 3: YÊU CẦU VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP TIẾP TỤC
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ,
CHÁT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG THU THẬP CHÚNG cứ........ 68
3.1.
Những yêu cầu tiếp tục hoàn thiện các quy định về thu thập
chứng cứ trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và nâng
cao hiệu quả, chất lượng áp dụng.................................................... 68
3.2.
Một số giải pháp tiếp tục hoàn thiện pháp luật và nâng cao
hiệu quả, chất lượng hoạt động thu thập chứng cứ..................... 69
3.2.1.
Hoàn thiện pháp luật về thu thập chứng cứ....................................... 69
3.2.2.
Một số giải pháp nâng cao hiệu quả, chất lượng thu thập các
loại chứng cứ........................................................................................71
KẾT LUẬN.......................................................................................................82
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................... 84
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS
BƠ lt Hình sư
BLTTHS
Bộ luật Tố tụng hình sự
CQĐT
Cơ quan điều tra
VKS
Viên
• kiểm sát
•
•
•
DANH MỤC CÁC BẢNG
r ĩ • S'
SƠ hiêu
•
Bảng 2.1
Bảng 2.2
Bảng 2.3
Tên bảng
Trang
Thống kê việc thụ lý, giải quyết các vụ án hình sự
trên địa bàn tỉnh Hịa Bình (giai đoạn 2015-2019)
50
Thống kê số vụ án tạm đình chỉ và đình chỉ trên
đia
• bàn tỉnh Hịa Bình
57
Thống kê việc trả hồ sơ điều tra bổ sung trong các
giai đoạn tố tụng
58
MỞ ĐÀU
1. Tính câp thiêt cùa đê tài
Đấu tranh, phịng chống tội phạm là một yêu cầu quan trọng để phát
triển đất nước dù ở bất kỳ quốc gia, dân tộc nào. Việc đấu tranh phịng chống
tội phạm khơng chỉ đặt ở ra việc có một BLHS nghiêm khắc với những điều
luật nghiêm minh để bảo vệ chủ quyền, an ninh đất nước, quyền con người,
quyền cơng dân mà cịn đặt ra ở việc phải có một BLTTHS bảo đàm làm sao
để phát hiện chính xác, xử lý cơng minh, kịp thời hành vi phạm tội, mặt khác
phải giúp phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, không để bỏ lọt tội phạm, khơng
làm oan người vơ tội và để có thể làm được những điều đó thì trong số rất
nhiều những nội dung thì chứng cứ là một nội dung đặc biệt quan trọng trong
BLTTHS, nó là cơ sở mang tính chất quyết định trong quá trình giải quyết
một vụ án hình sự.
•
•
•
Đen nay, dù BLTTHS ngày càng được hồn thiệt qua các thời kỳ với
những điều luật ngày càng cụ thể, chi tiết hơn về thu thập, đánh giá, xử lý
chứng cứ nhưng những vụ án oan sai gây chấn động xã hội, những vụ án
không thể giải quyết được, kéo dài dai dẳng hàng chục năm gây bức xúc dư
luận cơ bản đều có những điểm chung là liên quan đến chứng cứ, bởi rất khó
có vụ án nào khơng thể giãi quyết nếu có chứng cứ và chứng cứ đó được thu
thập, đánh giá, xử lý đúng quy định. Những vi phạm về chứng cứ điến hình
là vi phạm, thiếu sót trong việc thu thập chứng cứ dẫn đến khơng có chứng
cứ để đánh giá hoặc có chứng cứ nhưng vi phạm khi thu thập dẫn đến khơng
có giá trị chứng minh từ đó khơng kết luận được một người có tội, cũng
khơng kết luận được là có hành vi phạm tội xảy ra hay không. Đây là những
hạn chế xuất phát từ năng lực, trình độ chuyên môn của những người được
giao nhiệm vụ thu thập chứng cứ, khơng đủ khả năng, khơng nắm rõ trình tự,
thủ tục thu thập chứng cứ, khơng hiểu rõ được tính chất của từng loại chứng
cứ dẫn đến vi phạm khi thu thập, ảnh hưởng nghiêm trong đến khả năng
chứng minh của chứng cứ.
So với BLTTHS năm 2003 thì BLTTHS năm 2015, có hiệu lực từ ngày
1/1/2018 đã bố sung thêm những nguồn chứng cứ mới, do đó bên cạnh việc
phân tích phương pháp, cách thức thu thập của những nguồn chứng cứ từng
được ghi nhận trước đây về mặt lý luận và thực tiễn thì rất cần thiết có những
tài liệu nghiên cứu nhằm đưa ra những phân tích, đánh giá, phương pháp và
cách thức thực hiện đối với những nguồn chứng cứ mới được ghi nhận để làm
tài liệu nâng cao chất lượng thu thập chứng cứ góp phần vào cơng tác đấu
tranh phòng chống tội phạm.
Từ những nhận định trên, học viên nhận thấy cần phải nghiên cứu kỳ
lưỡng, chi tiết và cụ thể cách thức thu thập chứng cứ của từng nguồn chứng
cứ trong BLTTHS, trong đó đặc biệt quan tâm đánh giá và đề ra những nội
dung nham giải quyết hiệu quả những nguồn chứng cứ mới được ghi nhận
trong BLTTHS 2015.
Trên cơ sở đó và với kinh nghiệm thực tiễn là một người đang công tác
liên quan trực tiếp đến hoạt động hình sự nói chung và hoạt động thu thập
chứng cứ nói riêng trên địa bàn tỉnh Hịa Bình, học viên quyết định chọn đề tài:
“Hoạt
động
tố tụng
•
•
O thu thập
• 1 chứng
O cứ theo Bộ
• luật
•
•
o hình sự
• năm 2015 (trên
'
Cơ SỞ thực
• tiễn tại
• tình Hịa Bình)
X ” lm lun
ô vn thc
ã s lut
ã hc
ã ca mỡnh.
2. Tỡnh hình nghiên cứu
Theo tìm hiểu, học viên nhận thấy tình hình nghiên cứu đối với các nội
dung về chứng cứ, thu thập chứng cứ tại Việt Nam thời gian qua có một số
cơng trình tương đối tiêu biểu, được quan tâm như:
Các bài viết của Phó giáo sư Trịnh Tiến Việt về chứng cứ và nguồn
chứng cứ được đăng tại chuyên trang luật hình sự, tố tụng hình sự. Luận án tiến
sĩ năm 2014 của nghiên cứu sinh Vương Văn Bép (2014), “Nhũng vấn đề lý luận
2
và thực tiễn về chế định chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam ”. Sách
"Che định chứng cứ trong Luật tố tụng hĩnh sự Việt Nam ” của Tiến sĩ Trần
Quang Tiệp. Sách “Chứng cứ trong luật tố tụng hình sự Việt Nam ”của thạc sĩ
Nguyễn Văn Cừ, ngồi ra cịn có các nội dung mang tính lý luận của Phó giáo sư
Nguyễn Ngọc Chí tại “Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam ”...
Các nội dung nghiên cứu của các đề tài nêu trên mang giá trị cao về lý
luận, đánh giá chứng cứ, thu thập chứng cứ tuy nhiên nhìn chung vẫn chưa
đưa ra được chi tiết và cụ thề những hoạt động thực tiễn cần làm, biện pháp
để không vi phạm khi thu thập chứng cứ, đặc biệt đây đều là những công trình
nghiên cứu lấy BLTTHS năm 2003 làm nền tảng. Nay BLTTHS năm 2015 đã
được ban hành và có hiệu lực do đỏ những nguồn chứng cứ mới không được
các tác giả đề cập hoặc có đề cập cũng chỉ là giải pháp, kiến nghị do đó chưa
được chi tiết và cụ thể. Qua tìm hiểu, hiện nay có rất ít cơng trình nghiên cứu
tồn diện về thu thập chứng cứ trên cơ sở BLTTHS năm 2015, do đó việc học
viên lựa
chọn
đề tài: “Hoạt
động
chứng
tổ tụng
•
•
•
•
ơ thu thập
•>
ơ cứ theo bộ
• luật
•
•
C5
hình sự năm 2015 (trên cơ sở thực tiễn tại tỉnh Hịa Bình)" là cần thiết và
có tính cấp bách.
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Luận văn có mục đích phân tích, đánh giá để làm rõ những nội dung lý
luận và đưa ra những kinh nghiệm, phương pháp thực tiễn áp dụng pháp luật
về thu thập chứng cứ, đặc biệt là những nguồn chứng cứ mới, từ đó đề xuất
những kiến nghị, giải pháp để nâng cao chất lượng của hoạt động thu thập
chứng cứ nói chung và trên địa bàn tỉnh Hịa Bình nói riêng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hoạt động thu thập chứng cứ
theo quy định tại BLTTHS năm 2015 với cơ sở thực tiễn trên địa bàn tỉnh
Hịa Bình.
3
Với đơi tượng nghiên cún nêu trên, luận văn có phạm vi nghiên cún là
các vấn đề lý luận và thực hiện trong hoạt động thu thập chứng cứ, trong đó tập
trung phân tích, đánh giá và đưa ra những phương pháp nâng cao chất lượng
của hoạt động thu thập chứng cứ đối với từng loại nguồn chứng cứ được quy
định trong BLTTHS năm 2015, kết hợp với đó là thực tiễn áp dụng pháp luật,
những kết quả đạt được, những hạn chế, nguyên nhân và giải pháp trong việc
thực hiện các quy định về thu thập chứng cứ trong việc giải quyết án hình sự
trên địa bàn tỉnh Hịa Bình qua số liệu nghiên cứu từ năm 2015 đến 2019.
5. Nhiệm vụ của đề tài
Luận văn có nhiệm vụ nghiên cứu sau đây:
Thứ nhất: Phân tích và làm rõ khái niệm chứng cứ, các vấn đề lý luận
về thu thập chứng cứ.
Thứ hai: Phân tích và làm rõ những quy định của BLTTHS 2015 về thu
thập chứng cứ.
Thứ ba: Phân tích, so sánh những quy định về thu thập chứng cứ của
Việt Nam và một số nước trên thế giới.
Thứ tư: Đánh giá việc áp dụng các quy định của BLTTHS 2015 về thu
thập chứng cứ trên địa bàn tỉnh Hịa Bình, nhận định, phân tích những ưu
điểm, tồn tại, hạn chế và nguyên nhân cơ bản.
Thứ năm: Đe xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động thu
thập chứng cứ trong BLTTHS 2015.
6. Co' sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm cơ sở
nền tảng cho các nội dung lý luận và chủ trương, đường lối, chính sách của
Đảng, pháp luật của nhà nước Việt Nam trong đấu tranh phòng chống tội
phạm làm cơ sở để đánh giá, phân tích, kiến nghị.
Với cơ sở đó, phương pháp nghiên cứu cùa luận văn lấy chủ nghĩa duy
vật biện chứng làm phương pháp nghiên cứu, ngoài ra đã kết hợp các phương
4
pháp khác như phương pháp phân tích, thơng kê, so sách, tông hợp đê làm rõ,
sáng tỏ những nội dung cần thiết trong luận văn. Đặc biệt luận văn sử dụng
phương pháp thực tiễn là kinh nghiệm, kết quả công tác đấu tranh phòng
chống tội phạm trên địa bàn tỉnh Hịa Bình với vai trị là người trực tiếp tham
gia các hoạt động này.
7. Ý nghĩa và những điếm mói của luận văn
Với mục đích và phương pháp nghiên cứu nêu trên, luận văn đưa ra
những giải pháp, kinh nghiệm nhằm vận dụng và thực hiện hiệu quả những quy
định của pháp luật về thu thập chứng cứ, những giải pháp, kinh nghiệm này khi
áp dụng sẽ hạn chế việc vi phạm khi thu thập chứng cứ, không làm ănh hưởng
đến giá trị chửng minh của chứng cứ, ngoài ra luận văn cũng đưa ra những giải
pháp hoàn hiện pháp luật, kiến nghị những phương pháp để nâng cao chất
lượng chuyên môn cho những người tham gia hoạt động thu thập chứng cứ,
những giải pháp, kiến nghị này khi thực hiện sẽ có ý nghĩa quan trọng góp phần
thực hiện hiệu quả những quy định của BLTTHS về chứng cứ, xa hơn nữa là
góp phần nâng cao hiệu quả đấu tranh, phịng ngừa tội phạm nói chung.
Những điếm mới của luận văn được thể hiện qua những nội dung, kinh
nghiệm thực tiễn trong quá trình thu thập chứng cứ trên địa bàn tỉnh Hịa
Bình, đặc biệt là những phân tích, đánh giá, phương pháp thực hiện những
quy định mới về nguồn chứng cứ mới được ghi nhận trong BLTTHS 2015.
8. Kết cấu của luận văn
Luận văn bao gồm phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo,
với 3 chương nội dung có tên gọi:
Chương ỉ: Một số vấn đề lý luận về thu thập chứng cứ trong luật tố
tụng hình sự.
Chương 2'. Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam năm
2015 về thu thập chứng cứ và thực tiễn áp dụng trên địa bàn tinh Hịa Bình.
Chương 3: u cầu và một số giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động
thu thập chứng cứ.
5
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐÈ LÝ LUẬN VỀ CHỬNG cứ VÀ
THU THẬP CHỦNG cú TRONG TỐ TỤNG HÌNH sụ
1.1. Một số vấn đề lý luận về chứng cứ và nguồn chứng cứ
1.1.1. Khái niệm về chứng cứ và các thuộc tính của chúng cứ
Đe giải quyết, làm sáng tị bất kỳ một sự vật, hiện tượng nào nói chung
và trong tố tụng hình sự nói riêng thì chứng cứ đóng một vai trị vơ cùng quan
trọng, nó là cơ sở vững chắc nhất, khách quan nhất để xác định sự vật gì, hiện
tượng gì là đúng, là sự thật. Trong tố tụng hình sự thì chứng cứ là cơ sở để
xác định những nội dung thiết yếu như điều gì đã xảy ra, xảy ra như thế nào
từ đó xây dựng được lại tồn bộ q trình diễn biến của hành vi phạm tội và
xác định người thực hiện hành vi phạm tội, tránh oan sai và bỏ lọt tội phạm.
Tại Việt Nam, Đảng và Nhà nước Cộng hòa xã hội chù nghĩa Việt Nam
lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng [15],
theo đó BLTTHS Việt Nam lấy chú nghĩa duy vật biện chứng cua chủ nghĩa
Mác - Lênin làm cơ sở của chứng cứ. Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng thì
phản ánh là thuộc tính chung, phổ biến của mọi đối tượng vật chất, phản ánh
là năng lực giữ lại, tái hiện lại của hệ thống vật chất này những đặc điểm của
hệ thống vật chất khác và con người có thề nhận thức được thế giới khách
quan và quy luật của nó, trên cơ sở đó có thế khắng định, trong thế giới khách
quan thì một hành vi phạm tội dù có tinh vi, được che đậy đến đâu cũng sẽ để
lại dấu vết và những dấu vết này sẽ được phản ánh lại một cách khách quan.
Xác định và thu thập đầy đủ những phản ánh này thì con người sẽ xác định
đầy đủ được quá trình một hành vi phạm tội đã xảy ra.
Trên cơ sở lý luận đó cũng như tiếp thu kinh nghiệm lập pháp cùa các
nước trên thế giới, BLTTHS Việt nam năm 2015 quy định:
Chứng cứ là những gi có thật, được thu thập theo trình tự, thủ
6
tục do Bộ luật này quy định, đuợc dùng làm căn cứ đê xác định
có hay khơng có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi
phạm tội và những tình tiết khác có ý nghĩa trong việc giải quyết
vụ án [25, Điều 86].
Quy định về chứng cứ của BLTTHS Việt Nam năm 2015 với nền tảng
là chủ nghĩa duy vật biện chứng đã bao quát được đầy đủ các nội dung cần có
của chứng cứ và thể hiện đầy đủ các thuộc tính cần và đủ mà bất kỳ chứng cứ
nào cũng phải có. Cụ thể “chứng cứ được sử dụng trong vụ án hình sự phải
bảo đảm đầy đủ ba thuộc tính quan trọng sau, đó là tính khách quan (ỉ), tính
liên quan (2) và tỉnh hợp pháp (3) ” [5, tr. 161],
Thuộc tính thứ nhất: Tính khách quan của chứng cứ.
Theo Đại từ điển tiếng Việt, khách quan là: “Cái tồn tại bên ngồi,
khơng phụ thuộc vào ỷ thức của con người” [42, tr. 884], Chứng cứ là những
gi có thật, tức là phải tồn tại trong thực tế khách quan chứ không thể coi nhận
thức hay những thứ tồn tại trong suy nghĩ, trong tương lai chưa xảy ra là
chứng cứ, điều đỏ cũng cỏ nghĩa rằng chứng cứ là những thông tin, tài liệu,
đồ vật khách quan, tồn tại độc lập không phụ thuộc vào ý thức chủ quan của
con người. Trong BLTTHS 2015 thì tính khách quan cùa chứng cứ cịn được
gọi là tính xác thực [25] và để đảm bảo tính khách quan, xác thực của chứng
cứ thì nó phải tồn tại một cách thực tế và độc lập với ỷ thức của người tiến
hành tố tụng, nếu người tiến hành tố tụng lấy ý chí chủ quan để áp đặt, suy
diễn chứng cứ thì “Những tài liệu phán ánh nhận thức của họ sẽ khơng có
thuộc tính khách quan, khơng được cơng nhận là chứng cứ” [27].
Thuộc tính thứ hai: Tính liên quan của chứng cứ.
Tính liên quan của chứng cứ thể hiện ở mối liên hệ khách quan cơ bản
của chứng cứ với sự kiện cần chứng minh. Những gì có thật, tồn tại khách
quan phải có mối liên quan khách quan với những sự kiện cần phải chứng minh
7
trong vụ án hình sự mới đảm bảo tính liên quan của chứng cứ. Ngược lại những
gì tồn tại khách quan nhưng khơng liên quan hoặc sự liên quan đó khơng khách
quan thì cũng khơng đảm bảo thuộc tính này của chứng cứ và khơng phải là
chứng cứ.
Thuộc tính thứ ba: Tính hợp pháp của chứng cứ.
Tính hợp pháp của chứng cứ là một thuộc tính thể hiện chứng cứ phù
hợp với các quy định của pháp luật tố tụng hình sự, tại Việt Nam đây cịn là
một thuộc tính thể hiện pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng hình sự [25].
Thuộc tính hợp pháp của chứng cứ được biểu hiện ở những mặt như:
chứng cứ phải được xác định từ nguồn chứng cứ theo quy định của pháp luật;
chứng cứ phải được thu thập theo đúng trình tự, thủ tục do BLTTHS quy định...
1.1.2. Nguồn chứng cử và đặc điểm của các loại nguồn chủng cứ
về cơ bản, các quan điểm định nghĩa nguồn chứng cứ trong các tài
liệu khoa học hiện nay đều có điểm chung đó là khẳng định nguồn chứng
cử là nơi chứa đựng thơng tin mà từ đó chứng cứ được rút ra để chứng
minh sự thật khách quan của vụ án. Chứng cứ và nguồn chứng cứ là hai
khái niệm có mối quan hệ mật thiết với nhau, một bên là thông tin và một
bên là nơi chứa đựng thơng tin đó, chúng vừa có mối quan hệ giữa cái
chung và cái riêng trong đó nguồn chứng cứ là cái chung cịn chứng cứ là
cái riêng, vừa có mối quan hệ tiền đề, muốn có chứng cứ trước hết phải có
nguồn chứng cứ, chứng cứ phải được và chỉ khi được thu thập từ nguồn
chứng cứ thì mới có giá trị chứng minh.
Tại Điều 87 của BLTTHS 2015 đã quy định 7 loại nguồn chứng cứ,
đây chính là nơi chứa đựng thơng tin, là nguồn chứng cứ mà từ đó sẽ tìm và
rút ra chứng cứ làm căn cứ chứng minh và giải quyết vụ án hình sự. Mồi một
loại nguồn chứng cứ này lại có đặc điểm, tính chất khác nhau, cụ thề:
- Nguồn chứng cứ là vật chứng: Có đặc điếm quan trọng nhất đó là nó
8
phải là “vật”, tức là phải có hình khơi, có kích thước (dài, rộng, cao) và có
trọng lượng mà con người có thể nhận biết được thơng qua các giác quan như
mắt nhìn, tay sờ, cầm, nắm; thơng qua các giác quan đó chúng ta cảm giác
được nặng, nhẹ, to, nhở, dài, ngắn. “Vật” này có giá trị chứng minh tội phạm
và người phạm tội cũng như các tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết
đúng đắn vụ án hình sự.
- Nguồn chứng cứ là lời khai, lời trình bày: Loại nguồn chứng cứ này
là những thơng tin có liên quan đến vụ án được lưu giữ trong ý thức chủ
quan của người tham gia tố tụng. Chính vì vậy nó khơng giống với vật
chứng, khơng thể cầm, nắm, đo, đếm được mà chỉ có thể thu thập thơng
qua việc hỏi, trả lời của người lưu giữ thông tin đó vì nó nằm “trong đầu”,
trong nhận thức của họ, cũng chính vì thế nên nó dễ bị ảnh hưởng bởi
người tham gia tố tụng, khi họ bị chi phối bởi các yếu tố bên ngoài như tâm
sinh lý, mối quan hệ xã hội ...
- Nguồn chứng cứ là dữ liệu điện tử: Đây là một loại nguồn chứng cứ
rất mới, lần đầu tiên được ghi nhận trong BLTTHS. Khác với vật chứng và lời
khai lời trình bày, dữ liệu điện tử là một dạng thông tin được tạo ra, lưu trữ,
truyền đi hoặc nhận được bởi phương tiện điện tử. về bản chất đặc điểm của
loại nguồn chứng cứ này là nó hình thành tự động dưới dạng tín hiệu số và
thời gian tồn tại có giới hạn, phụ thuộc vào thiết bị và phần mềm lưu trữ,
ngoài ra nó rất dễ bị tác động, bị xóa hoặc thay đối trong quá trình lưu trữ,
truyền tải, sao chép ..., bởi các tác nhân như virus, dung lượng bộ nhớ, phần
mềm, phương pháp truy cập, trình độ khai thác, mở, mã hóa, truyền tải trên
mạng, sao lưu, cố ý hoặc vơ ý sửa đổi, xóa ...
- Nguồn chứng cứ là Ket luận giám định, định giá tài sản: Đặc điểm của
loại nguồn chứng cứ này đó là nó được các cơ quan chun mơn sử dụng
khoa học, cơng nghệ, trình độ chun mơn nghiệp vụ để đánh giá, phân tích
9
và kết luận một nội dung được yêu cầu xác định, về mặt lý luận và thực tiễn
có thể đánh giá đây là những nguồn chứng cứ quan trọng, có giá trị chứng
minh rất cao bởi nó là kết quả được thiết lập từ hội đồng, cá nhân có chun
mơn trên cơ sở khoa học, độc lập, tập thể. Giá trị chứng minh, thông tin mà
loại nguồn chứng cứ này mang lại ln mang tính khách quan cao và thường
có giá trị mang tính chất quyết định trong việc giải quyết vụ án hình sự.
- Nguồn chứng cứ là biên bản trong hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố,
xét xử, thi hành án: Đây là các tài liệu được lập bằng văn bản theo mẫu thống
nhất do cơ quan, người có thẩm quyền lập để ghi lại diễn biến cụ thể của một
hoạt động tố tụng hình sự hoặc để ghi lại tình trạng của một sự việc, đối tượng
trong một thời điểm cụ thể để làm căn cứ sử dụng trong quá trình giải quyết
vụ án hình sự. Biên bản tố tụng có vai trị quan trọng, là công cụ đế thực hiện
các hoạt động động tố tụng cũng như là cơ sở để những người tham gia tố
tụng có thế theo dõi q trình tố tụng vụ án hình sự bởi vì biên bản có giá trị
thể hiện những phương pháp, biện pháp nào đã được thực hiện, có hợp pháp,
khách quan hay khơng, diễn biến tố tụng đang và đã thực hiện như thế nào
cũng sẽ được thế hiện qua biên bản tổ tụng.
- Nguồn chứng cứ là kết quả thực hiện ủy thác tư pháp và hợp tác
quốc tế khác: Đây là một nguồn chứng cứ mới được xác định trong
BLTTHS 2015. Đặc điểm quan trọng của nó đó là cần có sự hỗ trợ, tương
trợ của nước ngồi đế có thế thu thập được chứng cứ, chính vì thế ủy thác tư
pháp và hợp tác quốc tế phải luôn tuân thủ các nguyên tắc quan hệ quốc tế
mang tính chất chung của các quốc gia trong cộng đồng quốc tế theo khuôn
khố Tuyên bố của Liên hợp quốc về các nguyên tắc cơ bản của công pháp
quốc tế điều chinh quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa các quốc gia. Trong đó
nguyên tắc quan trọng nhất đó là tơn trọng độc lập, chủ quyền, tồn vẹn lãnh
thổ, khơng can thiệp vào cơng việc nội bộ của nhau, bình đẳng và các bên
10
cùng có lợi, phù hợp với Hiên pháp, pháp luật của quôc gia và điêu ước quôc
tế mà quốc gia đó là thành viên.
- Nguồn chứng cứ là các tài liệu, đồ vật khác: Trong quá trình giải
quyết vụ án hình sự, có rất nhiều những tài liệu, đồ vật có giá trị liên quan
đến vụ• án mà nhà làm luật
• khơng thể dự liệu hết được bởi mồi vụ• án có
những đặc điểm, tài liệu, đồ vật có giá trị khác nhau. Để đảm bảo cho việc
thu thập chứng cứ được khách quan, tồn diện thì nhà làm luật đã dự liệu
trước những tài liệu đồ vật khác vào nguồn chứng cứ, khi những tài liệu, đồ
vật khác này phù hợp, đảm bảo đầy đủ các thuộc tính của chứng cứ thì
hồn tồn có thể là chứng cứ để giải quyết vụ án hình sự.
1.2. Một số vấn đề lý luận về hoạt động thu thập chứng cứ.
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của hoạt động thu thập chủng cứ
1.2.1.1. Khái niệm của hoạt động thu thập chứng cứ
Theo Từ điển tiếng Việt, thu thập nghĩa là “góp nhặt và tập họp lại”
[42, tr. 958], về khái niệm thu thập chứng cứ hiện có nhiều quan điểm khác
nhau như, giáo trình của trường Đại học luật Hà Nội cho rằng: “Thu thập
chứng cứ là tổng hợp các hành vi phát hiện, ghi nhận, thu giữ và bảo quản
chứng cứ” [29]. Quan điểm khác thì cho rằng “Thu thập chứng cứ là hoạt
động của cơ quan tiến hành tố tụng phát hiện, thu giữ, bào quản, các thông
tin, tư liệu liên quan đến vụ án theo các trình tự, thủ tục mà pháp luật tố tụng
hình sự quy định” [17, tr. 22]. Những quan điểm này đã thống nhất việc thu
thập chứng cứ với việc bảo quản chứng cứ và đánh giá chứng cứ, tuy nhiên
đây là các giai đoạn khác nhau của quá trình chứng minh, giai đoạn thu thập
chứng cứ là cách thức để có được chứng cứ, sau khi có được chứng cứ từ việc
thu thập thì mới đến giai đoạn đánh giá chứng cứ và bảo quản chứng cứ, chưa
kể việc thu thập và đánh giá chứng cứ hoàn toàn khác nhau về thấm quyền,
cách thức và phương pháp thức hiện mà các quan điểm này chưa xác định
11
được cụ thể, chính xác. Ngồi ra những quan điểm này chưa thể hiện được
việc thu thập chứng cứ phải bằng những hành vi cụ thể được BLTTHS cho
phép và cơ quan, người được BLTTHS quy định được phép thu thập thì mới
có giá trị chứng minh.
Từ những phân tích trên, theo quan điểm của học viên thì định nghĩa
thu thập chứng cứ phải đảm bảo 2 nguyên tắc sau:
Một là: Thu thập chứng cứ là các hành vi được BLTTHS cho phép thực
hiện để có được chứng cứ, nội dung này nhằm đảm bảo chỉ những hành vi
được BLTTHS cho phép thì mới được thực hiện để thu thập chứng cứ, cũng
như loại trừ những hành vi trái quy định đế có được chứng cứ.
Hai là: Chứng cứ phải do cơ quan, người được BLTTHS cho phép thực
hiện việc thu thập thì mới có giá trị chứng minh, những chứng cứ tuy có liên
quan đến việc giải quyết vụ án hình sự nhưng khơng do cơ quan, người có
quyền thực hiện thì cũng khơng có giá trị chứng minh.
Từ các phân tích trên, học viên đưa ra định nghĩa thu thập chứng cứ
như sau: “Thu thập chứng cứ là tổng hợp các hành vi phát hiện, ghi nhận, thu
giữ chứng cứ theo trình tự, thủ tục quy định trong BLTTHS được cơ quan,
người được BLTTHS cho phép thực hiện để có được chứng cứ. ”
1.2.1.2. Đặc điểm của hoạt động thu thập chứng cứ
Thu thập chứng cứ là một giai đoạn trong quá trình chứng minh, các
đặc điểm cùa giai đoạn này được thể hiện ỡ các điểm sau:
Thứ nhất: Hoạt động thu thập chứng cứ phải khách quan
Nguyên tắc khách quan trong giai đoạn thu thập chứng cứ có thề được
hiểu là chỉ được áp dụng trình tự, thủ tục theo quy định của BLTTHS để thu
thập chứng cứ, những người có thấm quyền thu thập khơng được áp đặt ý chỉ
của mình để thay đồi trình tự, thủ tục thu thập nhằm có được chứng cứ theo
12
hướng có lợi cho q trình chứng minh của mình. Vi phạm nguyên tăc này
được BLTTHS 2015 xác định là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng [25],
Để đảm bảo tính khách quan trong quá trinh thu thập chứng cử, BLTTHS
2015 đã bổ sung thêm quy định kiểm sát việc thu thập chứng cứ, theo đó:
Trong thời hạn 05 ngày kể từ ngày lập biên băn về hoạt động điều
tra, thu thập, nhận được tài liệu liên quan đến vụ án mà Kiểm sát
viên không trực tiếp kiểm sát theo quy định của Bộ luật này thì Cơ
quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt
động điều tra có trách nhiệm chuyển biên bản, tài liệu này cho Viện
kiểm sát để kiểm sát việc lập hồ sơ vụ án... [25, Điều 88],
Thứ hai: Hoạt động thu thập chứng cứ phải toàn diện
Nguyên tắc toàn diện của quá trình thu thập chứng cứ yêu cầu phải đảm
bảo toàn diện hai nội dung: Toàn diện về thấm quyền thu thập chứng cứ và
toàn diện về nguồn chứng cử.
* Toàn diện về thẩm quyền thu thập chứng cứ có thể được hiểu là:
Những cơ quan, người được BLTTHS cho phép thu thập chứng cứ thì được
quyền thực hiện trình tự, thủ tục theo quy định để thu thập chứng cứ, việc càn
trở quyền thu thập chứng cứ là vi phạm BLTTHS
Trước đây, tại BLTTHS năm 2003 xác định thẩm quyền thu thập chứng
cứ chỉ thuộc về CQĐT, VKS và Tòa án, đến BLTTHS 2015 nội dung này
được quy định cụ thể hơn khi xác định cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố
tụng (bao gồm cơ quan tiến hành tố tụng và cơ quan được giao tiến hành một
số hoạt động điều tra) [25, Điều 4] có quyền tiến hành hoạt động thu thập
chứng cứ, bên cạnh đó thẩm quyền thu thập chửng cứ đã được mở rộng cho
người bào chữa, cụ thế:
Đe thu thập chứng cứ, người bào chữa có quyền gặp người mà mình
bào chữa, bị hại, người làm chứng và những người khác biết về vụ
13
án đê hỏi, nghe họ trình bày vê những vân đê liên quan đên vụ án;
đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, dữ liệu
điện tử liên quan đến việc bào chữa [25, Điều 88].
Tuy nhiên trên thực tế thì việc người bào chữa thu thập chứng cứ vẫn cịn rất
khó khăn, đặc biệt là thu thập chứng cứ từ các cơ quan, tố chức do những cơ
quan, tố chức này e ngại những chứng cứ này (thường là chứng cứ gỡ tội)
khi cung cấp sẽ ảnh hưởng đến chứng cứ khác (thường là chứng cứ buộc tội)
của CQĐT.
* Toàn diện về nguồn chứng cứ có thể được hiểu là: Tất cả những
nguồn chứng cứ có liên quan đến vụ án, có cơ sở để xác định ra chứng cứ thì
phải được thu thập đầy đủ và tồn vẹn
Chứng cử có thể cỏ được từ nhiều nguồn chứng cứ, các nguồn chứng
cứ lại có thể có được từ nhiều chủ thể khác nhau, dưới nhiều dạng hình thức
khác nhau do đó q trình thu thập chứng cứ BLTTHS quy định “Những
người tham gia tố tụng khác, cơ quan, tổ chức hoặc bất cứ cá nhân nào đều
có thể đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử và trình bày những
vấn đề có liên quan đến vụ án” [25, Điều 88], Như vậy trong quá trình thu
thập chứng cứ, phải thu thập, tiếp nhận, ghi nhận, thu giữ đầy đủ chứng cứ
từ các nguồn chứng cứ, càng từ nhiều nguồn khác nhau thì càng tạo nên một
“bức tranh” tổng thể hơn, chi tiết hơn về vụ án hình sự. Mặt khác, chỉ khi tập
hợp đầy đủ chứng cứ gỡ tội và chứng cứ buộc tội thì tất cả những nội dung
liên quan, những tình tiết của vụ án mới được làm sáng tở một cách khách
quan và toàn diện nhất.
Thứ Ba: Hoạt động thu thập chứng cứ phải kịp thời
Nguyên tắc kịp thời là một nguyên tắc đặc biệt riêng của quá trình thu
thập chứng cứ. Triết học Mác-Lênin nhận định “Mọi sự vật trong thế giới
khách quan luôn vận động... ” do đó nguồn chứng cứ tồn tại trên thực tế
14
khách quan cũng sẽ ln vận động bât kê có sự tác động ý chí con người hay
khơng, sự tự vận động sẽ dẫn đến tự biển đổi nhưng cái biến đổi này là khách
quan, sự tác động ý chí của con người mới là sự biến đối theo ý chí chủ quan.
Do đó khi thu thập chứng cứ phải nhanh chóng, kịp thời để hạn chế sự biến đổi
khách quan của nguồn chứng cứ. Càng thu thập sớm thì càng đảm bảo giá trị
nguyên vẹn của chứng cứ, trái lại việc thu thập chậm sẽ dẫn đến nguồn chứng
cứ bị biến đối, chứng cứ thu được sẽ khơng có hoặc ít có giá trị chứng minh.
Cần chú ý rằng không phải chứng cứ nào cũng xuất hiện cùng thời
điểm với nhau, có chứng cứ xuất hiện ngay sau khi thực hiện hành vi phạm
tội (hung khí gây án, tài sản trộm cắp....); có chứng cứ xuất hiện trước khi
phạm tội (bệnh án tâm thần đối với chứng cứ để xác định năng lực chịu trách
nhiệm hình sự....); có chứng cứ xuất hiện trong giai đoạn điều tra (lời khai,
lời trình bày....) cũng có những chứng cứ chỉ xuất hiện sau khi có những
chứng cứ khác (kết luận giám định, kết luận định giá...). Do đó trong q
trình thu thập chứng cứ, Cơ quan có thẩm quyền phải đảm nhanh chóng
đánh giá được những nguồn chứng cứ nào của vụ án có thể chứa chứng cứ từ
đó tiến hành những biện pháp thu thập đảm bảo kịp thời, tránh dẫn đến sự tự
biến đổi cùa chứng cứ hoặc bị biến đổi do tác động ý chí chủ quan như đã
phân tích ở trên.
1.2.1.3. Vai trị của hoạt động thu thập chứng cứ
Khơng có hoạt động thu thập chứng cứ sẽ khơng thể xác định được
chứng cứ, từ đó sẽ khơng có căn cứ đề giải quyết vụ án hình sự, vai trò của
hoạt động này thể hiện ở những nội dung sau:
- Có hoạt động thu thập chứng cứ thì mới có thể xác định được chứng
cứ, có xác định được chứng cứ thì mới có thể giải quyết vụ án hình sự.
- Hoạt động thu thập chứng cứ khơng chỉ để xác định sự thật khách
quan của vụ án mà quá trình thực hiện việc thu thập chứng cứ cũng thế hiện
15
được sự khách quan trong quá trình giải quyêt vụ án của cơ quan tiên hành tô
tụng. Cụ thể, thu thập chứng cứ nhằm xác định chửng cử để chứng minh nội
dung vụ án, tuy nhiên quá trình thu thập chứng cứ nó cũng thê hiện việc cơ
quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng có khách quan trong q trình
thu thập hay khơng, thu thập có đúng thấm quyền, trình tự, thủ tục hay khơng,
có sự che đậy, ngụy tạo chứng cứ để thu thập hay không cũng được thể hiện
trong quá trình thu thập chứng cứ.
- Hoạt động thu thập chứng cứ có ý nghĩa góp phân bảo đảm khách
quan trong việc thu thập chứng cứ gỡ tội, cụ thê thì trong BLTTHS người bào
chữa có một số quyền thu thập chứng cứ nhất định; quyền đề nghị cơ quan, tổ
chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử liên quan đến việc bào
chữa. Ngoài ra cơ quan, tồ chức hoặc bất cứ cá nhân nào đều có thể đưa ra
chứng cứ, tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử và trình bày những vấn đề có liên
quan đến vụ án [25, Điều 87], Những quy định này đảm bảo trong quá trình
thu thập chứng cứ thì có thể có được chứng cứ từ nhiều nguồn đa dạng khác
nhau và không chỉ chứng cứ do Cơ quan tiến hành tố tụng (thường là thu
thập chứng cứ buộc tội) mới có giá trị và được sử dụng mà những chứng cứ
từ những nguôn khác, do người khác thu thập, có được theo đúng trình tự,
thủ tục (thường là chứng cứ gỡ tội) cũng có thể được xem xét, làm căn cứ để
1.2.2. Chủ thê, trình tự, thủ tục và các biện pháp thu thập chúng cứ
1.2.2.1. Chủ thê thu thập chứng cứ
“Chủ thê” của một hoạt động có thê hiêu là bộ phận chính, giữ vai trị
chủ yếu trong hoạt động đó, như vậy chủ thể trong hoạt động thu thập chứng
cứ có thể hiểu là những cơ quan, con người chính, giữ vai trò chủ yếu trong
việc thực hiện các hoạt động thu thập chứng cứ. Những cơ quan, con người
này được pháp luật cho phép tiến hành các hoạt động để thu thập chứng cứ và
16
chỉ có những cơ quan, người được cho phép mới có qun thu thập chứng cứ.
Những cơ quan, người khơng phải là chủ thể cúa hoạt động thu thập chứng cứ
thì khơng được tiến hành các hoạt động thu thập chứng cứ và những chứng cứ
không phải do chủ thể thu thập chứng cứ thu thập thì sẽ tùy vào tính chất,
mức độ của nó đế xem xét đến giá trị chứng minh.
Nghiên cứu quy định về chủ thể thu thập chứng cứ thấy rằng, tùy vào
từng giai đoạn của việc giải quyết một vụ án hình sự thì chủ thể lại được phép
thực hiện các hoạt động khác nhau để thu thập chứng cứ như cơ quan có thẩm
quyền tiến hành tố tụng có quyền tiến hành hoạt động thu thập chứng cứ gồm:
Tiến hành hoạt động thu thập chứng cứ được cho phép; yêu cầu cơ quan, tổ
chức, cá nhân cung cấp chứng cứ, tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử, trình bày
những tình tiết làm sáng tỏ vụ án, CQĐT có quyền tiến hành đầy đủ các hoạt
động thu thập chứng cứ trong giai đoạn điều tra; VKS là chủ thể thu thập khi
phát hiện có dấu hiệu oan, sai, bỏ lọt tội phạm và một số trường hợp khác;
Những cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra thì
tùy vào từng giai đoạn, tính chất, mức độ của tội phạm cụ thể thì được áp
dụng những biện pháp thu thập chứng cứ cụ thể. Ngoài ra người bào chừa
cũng là chủ thể được quyền thu thập những chứng cử nhất định như gặp
người mà mình bào chữa, bị hại, người làm chứng và những người khác biết
về vụ án để hởi, nghe họ trình bày về những vấn đề liên quan đến vụ án; đề
nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, dừ liệu điện tử liên
quan đến việc bào chữa.
J.2.2.2. Trình tự, thủ tục và các biện phcip thu thập chứng cứ
Mồi một loại chứng cứ đều có những cơ chế hình thành, tồn tại khác
nhau do đó chúng có những đặc điểm khác nhau nên trình tự, thủ tục và các
biện pháp để thu thập chúng cũng khác nhau. Căn cứ vào những đặc điểm của
từng loại để có những trình tự, thủ tục, biện pháp hợp lý thì mới đảm bảo việc
17
thu thập chứng cứ được khách quan, toàn diện và kịp thời nhât. Cụ thê, trong
thu thập chứng cứ của các vụ án hình sự có thể gồm các trình tự, thủ tục như:
* Thủ tục giải thích quyền và nghĩa vụ-. Là thủ tục được dùng trong các
hoạt động lấy lời khai, lời trình bày, tiến hành đối chất, nhận dạng, nhận biết
giọng nói, khám người ... Đây là thủ tục để đảm bảo những người bị áp dụng
biện pháp này ý thức và biết được quyền và trách nhiệm của mình trong q
trình điều tra, từ đó đảm bảo họ được thực hiện quyền và trách nhiệm của
mình được đầy đủ, đảm bảo chứng cứ thu thập từ đây được khách quan.
Trong thực tiễn thì thủ tục này vẫn thường được xem nhẹ, CQĐT thường tiến
hành ngay các hoạt động lấy lời khai, hỏi cung mà không giải thích quyền và
nghĩa vụ cho người bị áp dụng, điều này xuất phát từ tâm lý chung đánh giá
việc giải thích quyền và nghĩa vụ là khơng cần thiết, ngồi ra còn xuất phát từ
tâm lý rằng người bị áp dụng biết càng ít quyền thì càng tốt.
* Thủ tục chứng kiến: Đây là thủ tục để đảm bảo các hoạt động tố tụng
được khách quan khi có người khơng liên quan đến nội dung vụ án được yêu
cầu xem, chứng kiến một hoạt động tố tụng như: Nhận biết giọng nói; Khám
xét người; Khám xét chỗ ở, nơi làm việc, địa điểm, phương tiện.... Mục đích
của thù tục là để bảo đảm cho các hoạt động tố tụng hình sự được tiến hành
đúng quy định, khách quan, vô tư; bảo đảm giá trị chứng minh của các tài liệu
chứng cứ thu thập được.
* Thủ tục kiêm sát: Đây là một thù tục để đảm bảo thực hiện nguyên tắc
trách nhiệm thực hành quyền công tố và kiếm sát việc tuân theo pháp luật
trong tố tụng hình sự của VKS. Theo đó, trong một số trường hợp như đối
chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói, khám xét .... thì trước khi tiến hành
thực hiện, CQĐT phải thông báo cho VKS để cử Kiểm sát viên trực tiếp tham
gia cùng CQĐT. Đối với các trường hợp như khám xét, thu giữ thư tín, điện
tín, bưu kiện, bưu phẩm tại cơ quan, tổ chức bưu chính, viễn thơng thi trước
18
khi thực hiện phải được VKS phê chuân. Đặc biệt có một nội nội dung mới
trong thủ tục này được quy định trong BLTTHS 2015 đó là trong thời hạn 05
ngày kể từ ngày lập biên bản về hoạt động điều tra, thu thập, nhận được tài liệu
liên quan đến vụ án mà Kiểm sát viên không trực tiếp kiểm sát theo quy định
của BLTTHS thì CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt
động điều tra có trách nhiệm chuyển biên bản, tài liệu này cho VKS để kiểm
sát việc thu thập ....
* Thủ tục lập biên bản'. Đây là thủ tục về mặt hình thức của hoạt động
thu thập chứng cứ và là yêu cầu bắt buộc khi tiến hành các hoạt động tố tụng
nói chung và hoạt động thu thập chứng cứ nói riêng. Thủ tục này có ý nghĩa
để ghi nhận một hành động, một cách thức nào đó đã được thực hiện để
chuyển hóa nguồn chứng cứ thành chứng cứ và đưa vào hồ sơ vụ án, ngồi ra
nó cịn có một ý nghĩa khác là cơ sở để đánh giá tính khách quan trong q
trình thu thập chứng cứ rằng có hay khơng việc “hợp lý hóa” tài liệu, đặc biệt
là việc “hợp lý hóa” q trình thu giữ đồ vật, tài liệu hay chuyển hóa tài liệu
trinh sát vào tài liệu điều tra vụ án. Thực tiễn quá trình thu thập chứng cứ
thường được sử dụng 3 loại biên bản sau.
- Một là biên băn ghi nhận: Đây là loại biên bản ghi nhận, chuyển hóa,
thu thập từ nguồn chứng cứ vơ hình như lời khai, lời trình bày thành chứng cứ
hữu hình có thể đọc được, nhìn được và ký xác nhận được (Biên bàn lấy lời
khai, biên bản hỏi cung, biên bản xác minh, biên băn làm việc).
- Hai là biên bản thực
hiện:
Đâyụ là loại
biên bản được
ban hành để thể
•
•
•
•
hiện một q trình thu thập chứng cứ nào đó đã được thực hiện để thu thập
chứng cứ, ví dụ như: Biên bản khám nghiệm hiện trường, biên bản khám xét....
- Ba là biên bản thu giữ: Đây là loại biên bản thể hiện quá trình thu thập
chứng cứ đã thu giữ những tài liệu, chứng cứ gì.
19
* Thủ tục ra vãn bản áp dụng: Trong quá trình thu thập chứng cứ, có
những hoạt động có thể thực hiện ngay như hỏi cung, lấy lời khai, lập biên
bản xác minh ... cũng có những trường hợp BLTTHS yêu cầu phải có văn
bản của người có thấm quyền áp dụng mới được thực hiện như: Khám xét
người, chồ ở, nơi làm việc, địa điểm, phương tiện, trưng cầu giám định....
Những quy định về thủ tục này là để đảm bảo những hoạt động thu thập này
không bị áp dụng tràn lan hoặc lợi dụng để sử dụng vào mục đích cá nhân của
người trực tiếp thực hiện. Ngồi ra, có những trường hợp văn bản áp dụng đó
phải được sự phê chuẩn bằng một văn bản khác của VKS. Ví dụ như Lệnh
khám xét trừ trường hợp khám xét khẩn cấp...
* Các thủ tục đặc biệt: Ngoài những thủ tục cơ bản trên thường được
áp dụng trong hầu hết các vụ án thì cũng có những thủ tục đặc biệt được áp
dụng đối với các hoạt động thu thập đặc biệt như:
- Thù tục điều tra tố tụng đặc biệt: Đây là hoạt động lần đầu tiên được
ghi nhận trong pháp luật tố tụng hình sự, theo đó để thu thập tài liệu, chứng
cứ thì sau khi khởi tố vụ án người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có thể áp
dụng các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt gồm: Ghi âm, ghi hình bí mật,
nghe điện thoại bí mật và thu thập bí mật dữ liệu điện tử. Đây là những hoạt
động có khả năng xâm phạm danh dự, nhân phẩm, tài sản của đối tượng bị
áp dụng, tuy nhiên trước yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm, pháp luật
đã ghi nhận những quy định này và nó cũng chỉ có thế được sử dụng vào
mục đích đấu tranh với tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia, tội phạm về
ma túy, tội phạm về tham nhũng, tội khủng bố, tội rửa tiền và tội phạm khác
có tố chức thuộc loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
- Thủ tục điều tra đối với pháp nhân: Pháp nhân là một chủ thể đặc biệt
trong pháp luật Việt Nam, chủ thể này mới lần đầu được ghi nhận trong pháp
luật tố tụng hình sự, cụ thể chương XXIX BLTTHS 2015 quy định thủ tục tố
20
tụng truy cứu trách nhiệm hình sự pháp nhân. Do là những quy định mới nên
nhìn chung luật cũng chưa quy định cụ thể, chi tiết các biện pháp thu thập
chứng cứ đối với pháp nhân, hiện tại mới chỉ quy định biện pháp thu thập
chứng cứ đó là lấy lời khai người đại diện theo pháp luật của pháp nhân, hoạt
động này phải do Điều tra viên, cán bộ điều tra của cơ quan được giao nhiệm
vụ tiến hành một số hoạt động điều tra thực hiện tại nơi tiến hành điều tra, tại
•
4
•
4
4
4^2
4
2
4
4
trụ sở Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt
động điều tra hoặc tại trụ sở của pháp nhân. Trước khi lấy lời khai, Điều tra
viên, cán bộ điều tra phải thông báo cho Kiểm sát viên và người bào chừa thời
gian, địa điểm lấy lời khai. Trước khi tiến hành lấy lời khai lần đầu, Điều tra
viên, cán bộ điều tra của cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt
động điều tra phải giải thích cho người đại diện theo pháp luật của pháp nhân
biết rõ quyền và nghĩa vụ ...
- Thủ tục với người dưới 18 tuổi. Đây là một thủ tục đặc biệt thể hiện
chính sách hình sự của Nhà nước về việc truyJ cứu trách nhiệm hình sự đối với
•
4
4
4
người chưa thành niên là giúp đỡ, cải tạo, giáo dục đề người chưa thành niên
nhận ra sai lầm của mình, tạo điều kiện để tái hịa nhập cộng đồng; mục đích
giáo dục, giúp đỡ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành cơng dân
có ích cho xã hội.
Muốn thu thập được chứng cứ thì phải có biện pháp thu thập chứng cứ
hay nói cách khác phương pháp thu thập chứng cứ chính là cách thức được
chủ thể thực hiện để nhằm thu thập được chứng cứ. Biện pháp thu thập chứng
có thể chia làm hai loại trực tiếp và gián tiếp.
- Thu thập theo hình thức trực tiếp: Đây là những hoạt động mà người
thu thập chứng cứ tự mình trực tiếp tiến hành các thao tác, cách thức để thu
thập chửng cứ như: Khám nghiệm hiện trường, khai quật tử thi, xem xét dấu
vết trên thân thể, đối chất, nhận dạng, thực nghiệm điều tra, lấy lời khai, hòi
21