Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

Định tội danh đối với tội cướp tài sản và tội cưỡng đoạt tài sản theo luật hình sự việt nam (trên cơ sở thực tiễn địa bàn thành phố hải phòng) (luận văn thạc sỹ luật học)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (26.68 MB, 103 trang )

MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bia

Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt

Danh mục các bảng, biểu đồ

MỞ ĐÀU.........................................................................................................................1

CHƯƠNG 1: MỘT SĨ VẤN ĐÈ CHUNG VÈ ĐỊNH TỘI DANH ĐĨI VĨI

TƠI CƯỚP TÀI SẢN VÀ TỘI CƯỠNG ĐOẠT TÀI SẢN THEO
LUẬT HÌNH Sự VIỆT NAM......................................................................... 7
1.1.

Khái niệm, ý nghĩa, căn cứ pháp lý và căn cứ khoa học của việc
định tội danh................................................................................................... 7

1.1.1.

Khái niệm, ý nghĩa của việc định tội danh........................................................ 7

1.1.2.

Căn cứ pháp lý của việc định tội danh............................................................. 12

1.1.3.


Căn cứ khoa học của việc định tội danh..........................................................14

1.2.

Khái niệm, đặc điểm của việc định tội danh đối với tội cướp tài săn ... 17

1.2.1.

Khái niệm định tội danh đối với tội cướp tài sản........................................... 17

1.2.2.

Đặc điếm của việc định tội danh đối với cướp tài sản................................... 17

1.3.

Khái niệm, đặc điểm của việc định tội danh đối vói tội cưỡng đoạt







1



tài sản...............................................................................................................21
1.3.1.


Khái niệm định tội danh đối với tội cưởng đoạt tài sản................................. 21

1.3.2.

Đặc điểm của việc định tội danh đối với tội cưỡng đoạt tài sản.................. 22

1.4.

Một số nội dung cần phân biệt, làm rõ khi định tội danh giữa tội











^2



cướp tài sản vói tội cưỡng đoạt tài sản; giữa tội cướp tài sản, tội
cưỡng đoạt tài sản với một số tội xâm phạm sử hữu có tính chất

chiếm đoạt khác............................................................................................ 25
1.4.1.


Một số nội dung cần lưu ý, phân biệt, làm rõ khi định tội danh giữa tội
cướp tài sản với tội cưỡng đoạt tài sản........................................................... 25

1.4.2.

Một số nội dung cần phân biệt, làm rõ khi định tội danh giữa tội cướp

tài sản với một số tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt khác.......27




1






1.4.3.

Một sô nội dung cân phân biệt, làm rõ khi định tội danh giữa tội cường

đoạt
• tài sản với một
• số tội
• xâm Jphạm
L • sở hữu có tính chất chiếm đoạt
• khác.... 30

KẾT LUÂN CHƯƠNG 1...............................................................................................34

CHƯƠNG 2: NHỮNG ĐIÊU KIỆN BẢO ĐẢM VÀ THựC TIỄN ÁP DỤNG
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH sự VIỆT NAM VÈ ĐỊNH TỘI
DANH ĐĨI VỚI TÔI CƯỚP TÀI SẢN VÀ TỘI CƯỠNG ĐOẠT TÀI
SẢN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHĨ HẢI PHỊNG.................................... 35

2.1.

Những điều kiện đảm bảo cho việc định tội danh đối vói tội cưó’p




o





1



tài sản và tội cưỡng đoạt tài sản
2.1.1.

Năng lực chun môn của người định tội danh............................................. 35

2.1.2.


Đạo đức, trách nhiệm nghề nghiệp của người định tội danh........................42

2.1.3.

Hệ thống pháp luật hồn chỉnh........................................................................ 43

2.2.

Thực tiễn định tội danh đối vói tội cưó’p tài sản và tội cưõng đoạt

tài sản trên địa bàn thành phố Hải Phòng................................................ 44
2.2.1.

Khái quát về điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội ... trên địa bàn thành

phố Hải Phòng................................................................................................... 44

2.2.2.

Thực tiễn định tội danh đối với tội cướp tài sản và tội cưỡng đoạt tài
sản trên địa bàn thành phố Hải Phịng............................................................ 47

2.3.

Một sơ tơn tại hạn chê và nguyên nhân CO’ bản trong thực tiên định





X-



V

9





-

tội danh đơi vói tội cưó’p tài sản, tội cưỡng đoạt tài sản trên địa

bàn thành phố Hải Phòng............................................................................ 52
2.3.1.

Một số tồn tại, hạn chế...................................................................................... 52

2.3.2.

Các nguyên nhân cơ bản................................................................................... 68

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2.............................................................................................. 70

CHƯƠNG 3: MÔT
SỔ GIẢI PHÁP NHẲM HỒN THIÊN
VÀ NÂNG



CAO HIỆU QUẢ VIỆC ĐỊNH TỘI DANH ĐĨI VỚI TỘI CƯỚP

TÀI SẢN VÀ TỘI CƯỠNG ĐOẠT TÀI SẢN.......................................... 71
3.1.

Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả của việc định tội danh đối với

tội cướp tài sản và tội cưỡng đoạt tài sản.................................................. 71
3.1.1.

về phương diện chính trị - xã hội................................................................... 71

3.1.2.

về phương diện lý luận và thực tiễn............................................................... 73


3.2.

Giải pháp hồn thiện pháp luật hình sự Việt Nam nhằm nâng cao
hiệu
của việc
định tội danh đối vói tội
♦ quả
>
•••
♦ cướp
± tài sản và tội


cưỡng đoạt tài sản........................................................................................ 74

3.2.1.

Nhận xét chung................................................................................................. 74

3.2.2.

Những đề xuất sửa đổi, bổ sung cụ thể........................................................... 75

3.3.

Một số giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả của việc định tội

danh đối vói tội cưóp tài sản và tội cưỡng đoạt tài sản trên địa bàn
thành phố Hải Phịng.................................................................................... 80
3.3.1.

Giải pháp nâng caonănglực chunmơn của người định tội danh............. 80

3.3.2.

Giải pháp về công tác tổchức, cánbộ.............................................................84

3.3.3.

Các

giải pháp khác......................................................................................... 88


KẾT LUẬN CHƯƠNG 3............................................................................................ 92

KẾT LUẬN.................................................................................................................. 93

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................ 95


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLHS

: Bơ• lt
• hình sư•

BLTTHS

: Bộ luật tố tụng hình sự

TNHS

: Trách nhiêm
• hình sư•


DANH MỤC CÁC BẢNG, BIẺU ĐỊ

SƠ niêu
pẤ


• xA

Tên bảng

e

Bảng 2.1

Diện tích, dân số và mật độ dân số phân theo đơn vị hành chính

Bảng 2.2

Tồng số vụ án về tội cướp tài sản, tội cưỡng đoạt tài sản và
một số tội phạm khác trong nhóm các tội phạm xâm phạm sở
hữu có tính chất chiếm đoạt bị Tịa án nhân dân các Cấp tại
thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm trong thời gian 05 năm

Tồng số vụ án và số bị cáo bị Tòa án nhân dân các cấp tại
thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm về tội cướp tài sản trong

thời gian 05 năm (2016-2020)
Bảng 2.4

Bảng 2.5

Bảng 2.6

49

Tồng số vụ án và số bị cáo bị Tòa án nhân dân các cấp tại

thành phố Hải Phòng xét xử sơ thấm về tội cưỡng đoạt tài sản
trong thời gian 05 năm (2016-2020)

50

Tổng số bị cáo về tội cướp tài sản, tội cường đoạt tài sản và một
số tội phạm khác trong nhóm các tội phạm xâm phạm sở hũư có
tính chất chiếm đoạt bị Tịa án nhân dân các cấp tại thành phố
Hải Phòng xét xử sơ thẩm trong thời gian 05 năm (2016-2020)

51

Tổng số vụ án và tổng số bị cáo phạm tội cướp tài sản bị thay
đối tội danh của Tòa án nhân dân các cấp tại thành phố Hải

Phòng trong thời gian 05 năm (2016-2020)
Bảng 2.7

F
SƠ niêu

Biểu 2.1

51

Tổng số vụ án và tổng số bị cáo phạm tội cường đoạt tài sản bị
thay đối tội danh của Tòa án nhân dân các cấp tại thành phố Hải

Phịng trong thời gian 05 nãm (2016-2020)
rpA

•Ầ
Ten biêu đơ
7

-7

52

Trang

Tồng số vụ án và số bị cáo bị Tòa án nhân dân các cấp tại
thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm về tội cướp tài sản trong
thời gian 05 năm (2016-2020)

Biểu 2.2

45

48

(2016-2020)
Bảng 2.3

Trang

49

Tồng số vụ án và số bị cáo bị Tòa án nhân dân các cấp tại
thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm về tội cưỡng đoạt tài sản
trong thời gian 05 năm (2016-2020)


50


MỞ ĐẦU
1. Tính câp thiêt của đê tài
Quyền sở hữu tài sản là một trong những quyền quan trọng của cơng dân
được pháp luật nói chung và pháp luật hình sự nói riêng của các quốc gia bảo vệ
khỏi sự xâm hại của các hành vi phạm tội. Ớ Việt Nam, ngay sau khi Cách mạng

tháng Tám năm 1945 thành cơng, Nhà nước ta đã từng bước hồn thiện hệ thống
pháp luật để ghi nhận và bảo vệ quyền sở hữu hợp pháp của công dân.

Trải qua các giai đoạn, các bản Hiến pháp của nước đều ghi nhận quyền sở
hữu là quyền thiêng liêng, được Nhà nước bảo hộ. Gần đây nhất, Hiến pháp năm
2013 tiếp tục ghi nhận và khẳng định:
1. Mọi người có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành,

nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, phần vốn góp trong doanh

nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác.

2. Quyền sở hừu tư nhân và quyền thừa kế được pháp luật bảo hộ.
3. Trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phịng, an ninh hoặc vì lợi ích

quốc gia, tình trạng khẩn cấp, phịng, chống thiên tai, Nhà nước trưng
mua hoặc trưng dụng có bồi thường tài sản của tố chức, cá nhân theo giá

thị trường [33, Điều 32].
Thể chế hóa quy định của Hiến pháp, đồng thời kế thừa quy định cùa BLHS


1999; BLHS năm 2015 cũng tiếp tục giành 01 Chương quy định các tội xâm phạm sở

hữu (Chương XVI) gồm các Điều từ Điều 168 đến Điều 180. Trong đó, hai loại tội

phạm xâm phạm sở hữu mang tính chất chiếm đoạt là tội cướp tài sản và tội cưỡng
đoạt tài sản là loại tội phạm phố biến, có tính chất phức tạp và ngày càng gia tăng.

Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay, cùng với phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước, tội phạm tội cướp tài sản và tội phạm cường đoạt tài sản ở nước ta đã trở

nên báo động và khá nghiêm trọng. Các tội phạm này không chỉ gây thiệt hại về tài
sản cho Nhà nước, xã hội và cơng dân mà cịn ảnh hưởng rất lớn đến tình hình an
ninh và trât tư xã hơi.

1


Từ thực tiễn giải quyết các vụ án hình sự liên quan đến các tội xâm phạm sở

hữu có tính chất chiếm đoạt, có thể thấy các cơ quan tiến hành tố tụng cịn gặp

nhiều khó khăn, vướng mắc trong việc định tội danh đối với loại tội phạm này, đặc
biệt là hai loại tội phạm có một số dấu hiệu tương đồng là tội cưó’p tài sản và tội
cưỡng đoạt tài sản. Do đó, việc nghiên cứu, làm rõ các đặc điểm, cơ sở pháp lý của

việc định tội danh đối với tội cướp tài sản và tội cưỡng đoạt tài sản, cũng như tình
hình áp dụng thực tiễn tại phạm vi địa bàn cụ thể là thành phố Hải Phịng, là nội
dung cần thiết và có ý nghĩa quan trọng đế đảm bảo việc định tội danh và quyết


định hình phạt thực sự đúng đắn, bảo vệ quyền và lợi ích hợp của tổ chức, cá nhân.
Đồng thời, trên cơ sở đó đề xuất hướng hồn thiện quy định pháp luật, các biện

pháp đấu tranh, phòng ngừa và vận dụng linh hoạt quy định vào thực tiễn nhằm phát

huy hiệu quả quy định của pháp luật hình sự, góp phần vào cơng tác đấu tranh
phịng chống, giảm thiểu thiệt hại cho xã hội do tội cướp tài sản và tội cưỡng đoạt
tài sản gây ra cho xã hội.
Với mục tiêu đó, tơi lựa chọn và nghiên cứu về đề tài “Định tội danh đối với

tội
i cướp
r tài sản và tội
• cưỡng
CJ đoạt
• tài sản theo Luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở






X

thực tiễn địa bàn thành phố Hải Phòng)” để thực hiện luận văn thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Tội cướp tài sản và tội cưỡng đoạt tài sản là tội phạm phố biển, mang tính
truyền thống được quy định và dần hồn thiện trong pháp luật hình sự của Việt
Nam. Vì vậy, đề tài cũng đã được quan tâm nghiên cứu ở các cấp độ và mức độ


khác nhau:

- Ở cấp độ giáo trình,: 1) Giáo trình sau đại học “Những vấn đề cơ bản trong
khoa học Luật Hình sự phần chung” của TSKH.GS Lê Vãn Cảm, Khoa Luật-

Trường đại học Quốc gia Hà Nội năm 2019, 2) Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam
của trường Đại học Luật Hà Nội, NXB Công an nhân dân năm 2011, - Ở cấp độ

sách chuyên khảo: 1) Nguyễn Mai Bộ (2009), Các tội xâm phạm sở hữu trong Bộ
luật hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009, Nxb. Chính trị quốc gia,

Hà Nội, 2) Dương Tuyết Miên (2007), Nxb. Lao động - Xã hội, Hà Nội; 3) Trịnh

2


Quốc Toản (1999), Một số vấn đề lý luận về định tội danh và hướng dẫn phương

pháp định tội danh, Nxb, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội ... .
- Ở cấp độ bình luận khoa học. 1) Nguyễn Mai Bộ, “Các tội xâm phạm sở

hữu có tính chất chiếm đoạt” Tạp chí Tịa án nhân dân (2007), 2) Phạm Văn Báu,
“Tội cướp tài sản trong Luật hình sự Việt Nam”, Tạp chí Luật học (2010), (3) Triệu

Thị Tuyết ’’Phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với một số tội phạm xâm phạm


••








X



A



sờ hữu khác”, Tạp chí Tòa án nhân dân điện tử (ngày 03/10/2019) ... .
- Ở cấp độ luận án, luận văn: 1) Nguyễn Ngọc Chí (2000), "Trách nhiệm

hình sự
• đối vó'i các tội
9 xâm Ẫ.phạm
9 sở hữu”,' Luận
9 án tiến sĩ luật học, Viện Nhà nước

và pháp luật; 2) Trần Thị Phường (2011/ “Định tội danh đối với nhóm tội xâm

phạm sở hữu trên địa bàn tỉnh Bình Định giai đoạn 2006-20ỉ ỉ ”, Luận văn Thạc sỹ
Luật học, Khoa Luật, Trường Đại học Quốc gia Hà Nội; 3) Lê Trung Nhẫn (2016),
“Định tội danh đối với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trong Luật

Hình sự Việt Nam (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Hà Giang) ", Luận văn
thạc sỹ Luật học, Khoa Luật, Trường Đại học Quốc gia Hà Nội; 4) Bùi Quốc Hà


(2011), “Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo Luật Hĩnh sự Việt Nam ”, Luận
văn thạc sỹ Luật học, Khoa Luật, Trường Đại học Quốc gia Hà Nội... .

Mặc dù các cơng trình nghiên cứu đã đề cập ở trên đều đã cơ bản làm sáng tỏ
những vấn đề lý luận và thực tiễn về định tội danh đối với các tội xâm phạm sở hữu

nhưng ở các góc độ, phạm vi, địa bàn khác nhau. Ớ góc độ nghiên cứu tồng quát và
cụ thể nhất về định tội danh đối với 02 tội phạm cụ thể là tội cướp tài sản và tội

cưỡng đoạt tài sản trong giai đoạn mới (kế từ khi Bộ luật Hình sự năm 2015 có hiệu
lực thi hành) và bài học kinh nghiệm, thực tiễn áp dụng tại địa bàn thành phố Hải

Phịng thì chưa có một cơng trình khoa học nào đề cập đến. Trên cơ sở học hỏi và
tiếp thu kiến thức và kết quả từ các cơng trình đã cơng bố, tơi mong muốn tiến hành

nghiên cứu và hồn thiện một cơng trình mới với định hướng nghiên cứu toàn diện,

chuyên sâu và kinh nghiệm thực tiễn áp dụng quy định về định tội danh đối với các

tội phạm này trên địa bàn thành phố Hải Phịng đề góp phần hồn thiện pháp luật

hình sự Việt Nam trong thời gian tới.

3


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đê tài







Mục đích tồng qt là: nghiên cứu, làm rõ một số vấn đề lý luận về định tội

danh đối với tội cướp tài sản và tội cường đoạt tài sản theo pháp luật hình sự, đánh
giá khách quan thực tiền việc định tội danh tội cướp tài sản và tội cường đoạt tài sản

trên địa bàn cụ thể là thành phố Hải Phịng; từ đó đề xuất giải pháp hồn thiện quy
định pháp luật, nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của Bộ luật Hình sự đối với tội

cướp tài sản và tội cường đoạt tài sản. Các mục tiêu cụ thể:
(1) Phân tích, làm sáng tỏ căn cứ pháp lý, càn cứ khoa học của việc định tội

danh; khái niệm, đặc điếm của việc định tội danh đối với tội cướp tài sản và tội
/



X












1



cưỡng đoạt tài sản nói riêng. So sánh, phân biệt dấu hiệu pháp lý, việc định tội danh

giữa tội cưóp tài sản và tội cưỡng đoạt tài sản, giữa các tội phạm này với một số tội
phạm xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt khác
(2) Phân tích, đánh giá thực trạng định tội danh đối với tội cướp tài sản và tội

cưỡng đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Hải Phòng trong giai đoạn 05 năm (2016-

2020); từ đó, chỉ ra tồn tại, hạn chế và một số nguyên nhân chủ yếu;
(3) Đề xuất giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật, nâng cao hiệu quả áp dụng

quy định của pháp luật hình sự về định tội danh đối với tội cướp tài sản và tội cưỡng

đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Hải Phịng nói riêng và cả nước nói chung.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- về đối tượng'. Luận văn tập trung nghiên cứu vấn đề định tội danh đối với

tội cướp tài sản và tội cưỡng đoạt tài sản (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn thành
phố Hải Phòng).
- về Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu phân tích chuyên sâu vấn đề

định tội danh đối với 02 tội phạm cụ thể là tội cướp tài sản và tội cưỡng đoạt tài sản.
Đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật về định tội danh với các tội phạm này tại các


tòa án nhân dân trên địa bàn Thành phố Hải Phòng, về phân tích và đánh giá thực

trạng, luận văn tập trung vào giai đoạn từ năm 2016 đến 2020 và đề xuất các kiến
nghị, giải pháp trong thời gian tới.

4


5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thu thập tài liệu thứ cấp: luận vàn tiến hành liệt kê và chọn
lọc các dữ liệu, kết quả thông qua các báo cáo tổng kết của các cơ quan có thẩm
quyền, cơng trình nghiên cún như: luận văn, các tài liệu tham khảo chuyên ngành,
bài đăng trên tạp chí luật chuyên đề về định tội danh, dữ liệu của tòa án các cấp.

- Phương pháp tổng hợp và phương pháp lịch sử được sử dụng chú yếu tại
Chương 1 nhằm đạt hiệu quả cao trong việc nghiên cứu tài liệu liên quan đến những

vấn đề lý luận về tội danh đối với tội cưóp tài sản và tội cường đoạt tài sản trong
pháp luật hình sự Việt Nam
- Phương pháp so sánh, đối chiếu kết hợp với phương pháp phân tích quy

phạm pháp luật nhằm phân tích thực trạng các tồn thể các quy định cụ thế của pháp

luật về tội danh đối với tội cướp tài sản và tội cưỡng đoạt tài sản.
- Phương pháp thu thập số liệu và đánh giá số liệu thu thập được về thực

tiễn áp dụng áp dụng pháp luật về tội danh đối với tội cướp tài sản và tội cưỡng

đoạt tài sản từ các tòa án cấp huyện và tòa án cấp thành phố tại thành phố Hải

Phòng tại Chương 2.
- Phương pháp tổng hợp kết quả và phân tích để chỉ ra các hạn chế, nguyên

nhân và kiến nghị một số biện pháp nhàm hồn thiện pháp luật hình sự Việt Nam,
nâng cao hiệu quả áp dụng quy định pháp luật về tội danh đối với tội cướp tài sản và

tội cường đoạt tài sản trong thời gian tới tại Chương 3.

6. Ý nghĩa khoa học và lý luận của luận văn
Nghiên cứu lý luận về nghiên cứu, làm rõ một số vấn đề lý luận về định tội
danh đối với tội cướp tài sản và tội cưỡng đoạt tài sản theo pháp luật hình sự hiện

hành, từ đó có giá trị tham khảo, nghiên cứu và là cơ sở khoa học cho các đề tài sau

này. Đồng thời, Luận văn đề cập những nội dung mới như sau:
(1) So sánh, đối chiếu, rút ra các đặc điểm cơ bản, đặc trưng trong việc định

tội danh đối với tội cướp tài sản và tội cưỡng đoạt tài sản.
(2) Phân tích, đánh giá tồn diện thực trạng áp dụng quy định về định tội

danh đối với tội cướp tài sản và tội cưỡng đoạt tài sản từ năm 2016-2020 trên địa

5


bàn thành phơ Hải Phịng, thơng qua sơ liệu thứ câp và sô liệu thực tê các vụ án liên

quan tội phạm này tại các tòa án nhân dân hai cấp thành phố Hải Phòng.
(3) Đề xuất kiến nghị, phương hướng hồn thiện pháp luật hình sự Việt Nam


về luận về định tội danh đối với tội cướp tài sản và tội cưỡng đoạt tài sản và các

nhóm giải pháp cốt lõi nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật trong việc định
tội danh với các tội phạm này tại địa bàn thành phố Hải Phòng và cả nước.

7. Những điểm mói của Luận văn
Đề tài phân tích, đánh giá dựa trên những bản án, quyết định, báo cáo cơng
tác ngành Tịa án tại thành phố Hải Phịng, góp phần làm rõ hơn thực trạng về định

tội danh trên địa bàn đã nêu.

Đề tài nghiên cứu cứu toàn diện, chuyên sâu về định tội danh đối với 02 tội
phạm cụ thế là tội cướp tài sản và tội cưỡng đoạt tài sản trong giai đoạn 2016-2020
và bài học kinh nghiệm, thực tiễn áp dụng tại địa bàn thành phố Hải Phịng. Từ đó
chỉ ra những hạn chế và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật trong

việc định tội danh với các tội phạm này tại địa bàn thành phố Hải Phòng và cả nước.

8. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, lời cam đoan, danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn gồm 3 chương:
Chương ỉ. Một số vấn đề chung về định tội danh đối với tội cướp tài sản và

tội cường đoạt tài sản theo luật hình sự Việt Nam.
Chương 2. Những điều kiện bảo đảm và thực tiễn áp dụng quy định của pháp

luật hình sự về định tội danh đối với tội cướp tài sản và tội cường đoạt tài sản trên









JL





^2



địa bàn thành phố Hải Phịng.
Chương 3. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc định tội danh

đối với tội cướp tài sản và tội cưỡng đoạt tài sản.

6


Chương 1

MỘT SÓ VÁN ĐÈ CHUNG VÈ ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI

TỘI CUỚP TÀI SẢN VÀ TỘI CƯỠNG ĐOẠT TÀI SẢN
THEO LUẬT HÌNH sự VIỆT NAM
1.1. Khái niệm, ý nghĩa, căn cứ pháp lý và căn cứ khoa học của việc định

tội danh

/. /. /. Khái niệm, ỷ nghĩa của việc định tội danh
Trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện nay, cùng
với việc nghiên cứu các quy định mới của BLHS năm 2015 thì việc nghiên cứu

chuyên sâu những vấn đề lý luận cơ bản về định tội danh vẫn luôn được các nhà
khoa học, các luật gia quan tâm, nghiên cứu bởi đây là vấn đề khơng những có ý

nghĩa quan trọng về mặt khoa học mà cịn về mặt thực tiễn.
Do đó, trước khi đi vào phân tích khái niệm và các đặc điểm của việc định
tội danh đối với các tội phạm cụ thế là tội cướp tài sản và tội cưởng đoạt tài sản thì
cần làm rõ khái niệm định tội danh theo nghĩa chung nhất.

Đối với khái niệm định tội danh, hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau của
các nhà nghiên cứu được đưa ra, các quan điểm này cơ bản đều đưa ra nội hàm cơ

bản và thống nhất về khái niệm này.

Theo GS.TSKH Lê Văn Cảm, định nghĩa khoa học của khái niệm định tội
danh như sau:

Định tội danh là một quá trình nhận thức lý luận có tính logic, đồng thời là
một trong những dạng của hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự,

cũng như pháp luật tố tụng hình sự được các chủ thể có thẩm quyền theo
quy định pháp luật tiến hành bằng cách - trên cơ sở các chứng cứ, các tài
liệu thu thập được và các tình tiết khách quan của vụ án hình sự đế đối

chiếu, so sánh và kiểm tra nhằm xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu

của hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện với các dấu hiệu của cấu
thành tội phạm cụ thế tương ứng được luật hình sự quy định [10, tr 21].

7


Theo quan điêm của PGS.TS Trịnh Quôc Toản:

Định tội danh là việc xác nhận về mặt pháp lý sự phù hợp (đồng nhất)
giữa các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội cụ thể đã được

thực hiện với các yếu tố cấu thành tội phạm cụ thể tương ứng được

quy định trong Bộ luật hình sự. Nói cách khác định tội là việc xác
định hành vi cụ thể đà thực hiện thoa mãn đầy đủ các dấu hiệu cùa tội




J









nào trong các trong số các tội phạm được quy định trong Bộ luật hình

sự, đồng thời Kết luận, định tội danh là một quá trình logic nhất định,

là hoạt động tư duy do người tiến hành tố tụng thực hiện. Nó đồng
thời cũng là một trong những hình thức hoạt động về mặt pháp lý, thể

hiện sự đánh giá về mặt pháp lý đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội
đang được kiếm tra, xác định trong mối tương quan với các quy phạm
pháp luật hình sự [40, tr. 7-8].

Theo quan điểm của PGS.TS Dương Tuyết Miên:

Định tội danh được hiểu là hoạt động thực tiễn của các cơ quan tiến hành
tố tụng (Cơ quan điều tra, Viện Kiềm sát, Tòa án) và một số cơ quan

khác có thẩm quyền theo quy định của pháp luật để xác định một người

có phạm tội hay khơng, nếu phạm tội thì đó là tội gì, theo điều luật nào

của Bộ luật hình sự hay nói cách khác đây là quá trình xác định tên tội

cho hành vi nguy hiểm đã thực hiện [21, tr. 9].
Còn theo PGS.TS Lê Văn Đệ, định tội danh được hiểu dưới hai nghĩa:
Với ý nghĩa thứ nhất: Định tội danh là một quá trình logic nhất định, là

hoạt động của cán bộ có thẩm quyền trong việc xác nhận sự phù hợp
giừa trường hợp phạm tội cụ thể đang xem xét với các dấu hiệu của cấu
thành tội phạm được quy định trong một quy phạm pháp luật thuộc phần
các tội phạm Bộ luật hình sự.



1









Với ỷ nghĩa thứ hai, định tội danh là sự đánh giá về mặt pháp lý đối với

hành vi nguy hiểm cho xã hội đã xảy ra trong thực tế mà cán bộ có thấm

quyền đang xem xét nhằm xác định hành vi đó thỏa mãn những dấu hiệu
của cấu thành tội phạm được quy định tại điều khoản nào cùa Bộ luật


JL



JL



hình sự [14, tr. 10-11].

8




••


Trên cơ sở tham khảo quan điêm đúng đăn, khoa học cùa GS.TSKH Lê Văn
Cảm, tác giả kế thừa các khái niệm và xin nêu lại như sau: Định tội danh là một q

trình nhận thức lỵ luận có tính logic, đồng thời là một trong những dạng của hoạt
động thực tiễn áp dụng phcip luật hĩnh sự, cũng như pháp luật tố tụng hình sự được

các chủ thể có thâm quyền theo quy định pháp luật tiến hành bằng cách - trên cơ sỏ'
các chúng cứ, các tài liệu thu thập được và các tĩnh tiết khách quan của vụ án hình
sự để đổi chiếu, so sánh và kiểm tra nhằm xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu
của hành vỉ nguy hiếm cho xã hội được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành
tội phạm cụ thê tương ứng được luật hình sự quy định. [10, tr. 21]

Như vậy, từ khái niệm này có thể khẳng định một cách xác đáng và có căn
cứ rằng: mục đích định tội danh là nhằm đạt được sự thật khách quan - đưa ra sự










4


<



X

đánh giá chính xác tội phạm về mặt pháp lý hình sự, làm tiền đề cho việc cá thế hóa
và phân hóa TNHS một cách cơng minh, có căn cứ và đúng pháp luật.
Đồng thời, cũng trên cơ sở tham khào quan điểm nghiên cứu khách quan và

toàn diện của GS.TSKH. Lê Văn Cảm, tác giả xin kế thừa và tổng hợp những đặc
điếm cơ bản của việc định tội danh như sau:

Thứ nhất, định tội danh là một quấ trình nhận thức lý luận có tính logic được
thể hiện dưới hai khía cạnh: Xác định xem các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho
xã hội được thực hiện có phù hợp (tương đồng) với các dấu hiệu của cấu thành tội

phạm cụ thể do điều tương ứng trong Phần các tội phạm BLHS quy định hay khơng.
Trên cơ sở đó, đưa ra sự đánh giá nhất định về mặt pháp lý hình sự đối với một hành

vi nguy hiểm cho xã hội cụ thể đã xảy ra trong thực tế khách quan [11, tr.21-22].
Thứ hai, định tội danh cịn có thế được hiếu là một hình thức hoạt động thực
7








4





^2



tiễn pháp lý của các cơ quan tư pháp hình sự - các cơ quan điều tra, truy tố và xét xử

để cụ thể hố các quy phạm pháp luật hình sự trừu tượng vào đời sống thực tế, tức là
lựa chọn đúng quy phạm pháp luật hình sự để áp dụng đối với hành vi nguy hiểm cho
xã hội cụ thế nào đó được thực hiện trong thực tế khách quan và từ đó, đưa ra kết

luận là: hành vi được xem xét ấy có đày đủ các dấu hiệu của tội phạm tương ứng đ-

ược qui định trong pháp luật hình sự thực định hay không (?). [11, tr.22]

9


Thứ ba, việc thiêt lập các dâu hiệu đặc trưng cơ bản và điên hình đê xác định

bản chất pháp lý của hành vi nguy hiềm cho xã hội được thực hiện trong thực tế khách

quan là một vấn đề rất quan trọng của quá trình định tội danh, mà tồn bộ q trình này
phải tn thủ nghiêm chỉnh các quy phạm của luật nội dung (vật chất) - được quy định


trong BLHS, cũng như của luật hình thức - được quy định trong BLTTHS. [11, tr.21]
Thứ tư, định tội danh với tính chất là một dạng của hoạt động thực tiễn áp
dụng pháp luật hình sự được tiến hành về cơ bản theo bốn bước cụ thề là: (l)Xem
xét và thiết lập đúng các tình tiết thực tế của vụ án trong sự phù họp với hiện thực

khách quan; (2) Nhận thức một cách thống nhất và chính xác nội dung các qui phạm
pháp luật hình sự đang có hiệu lực thi hành; (3) Lựa chọn đúng Điều (các điều) tương
ứng trong Phần các tội phạm BLHS quy định TNHS đối với tội phạm cụ thể để so
sánh, đối chiếu và kiếm tra các dấu hiệu của cấu thành tội phạm đó với các tình tiết cụ
thể của hành vi nguy hiềm cho xã hội đà được thực hiện và, cuối cùng; (4) Sau khi đà

so sánh, đối chiếu và kiểm tra đầy đủ và chính xác xong, thì ra một văn bản áp dụng
pháp luật mà trong đó đưa ra kết luận có căn cứ và đảm bảo sức thuyết phục về sự
phù hợp (tương đồng) của hành vi thực tế đã được thực hiện với cấu thành tội phạm
cụ thể tương ứng được qui định trong luật hình sự. [11, tr. 22-23]

Định tội danh là một quá trình nhận thức lý luận có tính lơgic diễn ra theo ba
giai đoạn mà nội dung cùa chúng dược thế hiện dưới đây:

* Giai đoạn thứ nhất - xác định quan hệ pháp luật. Giai đoạn này thể hiện

bằng việc phân tích các dấu hiệu cơ bản nhất của hành vi nguy hiềm cho xã hội
được thực hiện để xác định xem hành vi đó có các dấu hiệu của tội phạm hay khơng
(?) - có phải là hành vi bị luật hình sự cấm khơng (hay chỉ là hành vi vi phạm pháp

luật khác). Tức là phải dựa vào Điều 143 BLTTHS năm 2015 quy định về các căn
cứ khởi tố vụ hình sự (như: tố giác của cơng dân, tin báo của cơ quan nhà nước
hoặc tố chức xã hội, v.v...) đế “xác định dấu hiệu của tội phạm”. Trong giai đoạn


thơng thường sẽ có ba khả năng như sau xảy ra:
1) Không được khởi tố vụ án hình sự khi có 1 trong 8 căn cứ được quy định
tại Điều 157 BLTTHS năm 2015;

10


2) Nêu hành vi được thực hiện là vi phạm pháp luật khác, thì tùy theo giai
đoạn tố tụng hình sự tương ứng mà cơ quan chức năng gửi tin báo hoặc đơn báo

hoặc đơn tố giác cho cơ quan nhà nước (tồ chức xã hội) hữu quan để giải quyết theo
thẩm quyền;
3) Hành vi nguy hiểm cho xã hội mà chủ thể thực hiện có các dấu hiệu của

tội phạm, thi có nghĩa là phát sinh quan hệ pháp luật hình sự và như vậy chuyển

sang giai đoạn thứ hai. [11, tr. 24]
* Giai đoạn thứ hai - tìm nhóm quy phạm pháp luật hình sự. Đây là giai đoạn

xác định xem tội phạm mà chủ thề thực hiện thuộc chương tương ứng nào trong Phần
các tội phạm BLHS quy định và nó được thể hiện bằng việc: (1) Xác định xem khách

thể loại (nhóm quan hệ xã hội nào) được pháp luật hình sự bảo vệ đã bị tội phạm xâm
hại đến; (2) Người phạm tội, ngoài các dấu hiệu chung chủ thế của tội phạm cịn có

các dấu hiệu riêng bố sung khác của chủ thể đặc biệt (như: người có chức vụ hoặc
quân nhân, v.v...) hay khơng và sau đó chuyển sang giai đoạn thứ ba. [11, tr. 25-26]
* Giai đoạn thứ ba - tìm quy phạm pháp luật hình sự cụ thể. Đây là giai đoạn

so sánh, đối chiếu và kiểm tra xem các dấu hiệu của tội phạm mà người phạm tội đã

thực hiện thuộc Chương của Phần các tội phạm BLHS đã tìm được (ở giai đoạn

trên) là do Điều luật cụ thể nào trong Chương ấy qui định, tức là phải xác định xem
đó là tội phạm gì, đồng thời tương ứng với cấu thành tội phạm cụ thể nào (cấu thành
tội phạm cơ bản, cấu thành tội phạm tàng nặng, cấu thành tội phạm đặc biệt tăng

nặng hoặc cấu thành tội phạm giảm) và cấu thành tội phạm ấy thuộc khoản nào
trong Điều luật cụ thể đã tìm được [9, tr. 15-16].

Việc định tội danh đúng có ý nghĩa khơng chỉ về pháp luật mà cả về mặt

chính trị - xã hội, cụ thể:
Một là, định tội danh là một trong những giai đoạn cơ bản, một nội dung

quan trọng của quá trình áp dụng pháp luật hình sự và là một trong những biện pháp

đưa các quy phạm pháp luật hình sự vào cuộc sống. Với việc cụ thế hóa các quy

phạm pháp luật hình sự trừu tượng vào đời sống thực tế, việc định tội danh đúng là
tiền đề, là cơ sở cho việc áp dụng các quy phạm pháp luật khác của pháp luật hình

11


sự và pháp luật tố tụng hình sự vào thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử. Chẳng hạn,
trong quá trình xét xử, thì chỉ sau khi thực hiện xong việc định tội danh, Tồ án mới

có cơ sở để giải quyết vấn đề áp dụng hình phạt này hay hình phạt khác đối với

người phạm tội ... .

Hai là, định tội danh đúng sẽ hỗ trợ cho việc thực hiện một loạt các nguyên tắc
tiến bộ được thừa nhận chung của luật hình sự quốc tế và luật hình sự trong Nhà nước

pháp quyền (như: pháp chế, trách nhiệm do lỗi, trách nhiệm cá nhân, bình đăng trước
luật hình sự, không tránh khỏi trách nhiệm, công minh và nhân đạo) [10, tr. 17-18]
Ba là, định tội danh đúng còn là một trong những cơ sở đề áp dụng chính xác

các quy phạm pháp luật tố tụng hình sự về tạm giam, thời hạn tạm giam, thẩm
quyền điều tra, thẩm quyền xét xử ... góp phần có hiệu quả vào việc bảo vệ các
quyền và tự do của công dân trong lĩnh vực tư pháp hình sự [10, tr. 18]

Ngược lại, định tội danh sai sẽ dẫn đến một loạt hậu quả tiêu cực như: khơng bảo
đảm được tính cơng minh, có căn cứ và đúng pháp luật của hình phạt do Tịa án quyết

định, truy cứu TNHS người vơ tội, bỏ lọt kẻ phạm tội, thậm chí xâm phạm thô bạo danh

dự và nhân phấm, các quyền và tự’ do của công dân như là những giá trị xã hội cao quí

nhất được thừa nhận chung trong Nhà nước pháp quyền, cũng như xâm phạm pháp
chế, đồng thời còn làm giảm uy tín và hiệu lực của các cơ quan bảo vệ pháp luật và Tòa
án, giảm hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm, v.v... [10, tr. 18]

1.1.2. Căn cứ pháp lý của việc định tội danh
Dưới góc độ khoa học luật hình sự những căn cứ pháp lý của việc định tội danh

có thế được hiểu trên hai bình diện (hoặc theo hai nghĩa) rộng và hẹp dưới đây.
(1) Trên bình diện rộng (hiểu theo nghĩa cả về nội dung và hình thức), thì

những căn cứ pháp lý của việc định tội danh là hệ thống các qui phạm pháp luật
hình sự với tính chất là cơ sở pháp lý duy nhất (trực tiếp), cũng như hệ thống các


qui phạm pháp luật tố tụng hình sự với tính chất là cơ sở pháp lý bố trợ (gián tiếp)

cho tồn bộ q trình xác định các dấu hiệu của hành vi nguy hiếm cho xã được
thực hiện là tội phạm. [11, tr. 26]
(2) Trên bình diện hẹp (chỉ hiểu theo nghĩa về nội dung), thì những căn cứ

12


pháp lý của việc định tội danh là chỉ có hệ thơng các qui phạm pháp luật hình sự với

tính chất là cơ sở pháp lý duy nhất (trực tiếp) cho tồn bộ q trình xác định các dấu

hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện là tội phạm. [10, tr.27]
Ngoài việc áp dụng điều luật quy định tội phạm cụ thể, thực tiễn vụ án có sự
đa dạng về nhiều vấn đề khác mà địi hởi khi định tội danh cần căn cứ vào các điều

luật trong phần chung Bộ luật hình sự như: chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt,

đồng phạm, tái phạm nguy hiểm, ... mới xác định tội danh chính xác [16, tr 18].
Từ đó có thế thấy Bộ luật hình sự - cơ sở pháp lý trực tiếp của việc định tội

danh. Như vậy trong quá trình định tội danh nếu hiếu theo nghĩa hẹp (chỉ về nội
dung) thì BLHS có ý nghĩa quyết định và quan trọng nhất, vì nó đóng vai trị là cơ

sở pháp lý duy nhất (trực tiếp) của việc định tội danh.
GS.TS Võ Khánh Vinh đã nhận định: "Suy cho cùng thì quá trình định tội
danh phải đưa ra kết luận; viện dẫn điều nào trong Bộ luật hình sự" [45, tr. 7].


Theo GS. TSKH Lê Văn Cảm thì việc khẳng định “Bộ luật hình sự - cơ sở

pháp lý trực tiếp của việc định tội danh ” có những lý do đúng đắn như sau:
(1) Hiện nay theo pháp luật hình sự Việt Nam, thì BLHS hiện hành được coi

là nguồn trực tiếp và duy nhất ghi nhận toàn bộ hệ thống các quy phạm pháp luật

hình sự được áp dụng trong thực tiễn đấu tranh phịng và chống tội phạm nói chung,
cũng như quá trình định tội danh và quyết định hình phạt nói riêng. [ 1 o,tr 27]

(2) Bản chất của việc định tội danh suy cho cùng là so sánh, đối chiếu và kiểm

tra để xác định
• xem các dấu hiệu
• của hành vi nguy hiểm cho xã hội
• được
• thực
• hiện

trong thực tế khách quan có phù hợp với các dấu hiệu tương ứng của một tội phạm cụ
thể nào đó được qui định trong Phần các tội phạm BLHS hay không. [10, tr 27].
(3) Nhà làm luật khi xây dựng hệ thống các quy phạm của Phần các tội phạm

của BLHS - trong q trình tội phạm hóa các hành vi nguy hiểm cho xã hội - đà
tìm xem các dấu hiệu nào là đặc trưng cơ bản nhất, phố biến nhất và hay được lặp đi

lặp lại nhiều nhất trong những hành vi ấy, sau đó điển hình hóa và quy định chúng
trong BLHS với tính chất là các dấu hiệu bắt buộc tương ứng của các cấu thành tội

phạm cụ thể (cẩu thành tội phạm cơ bản, cấu thành tội phạm tăng nặng, cẩu thành


13


tội phạm đặc biệt tàng nặng hoặc câu thành tội phạm giảm nhẹ) đê các cơ quan tư

pháp hình sự dùng làm mơ hình pháp lý của việc định tội danh. [10, tr 27, 28]

(4) BLHS quy định và liệt kê tất cả những hành vi nguy hiểm cho xã hội

thường xảy ra trong thực tế bị nhà làm luật nhân danh nhà nước coi là tội phạm. Nói
một cách khác, BLHS với tính chất là cơ sở pháp lý duy nhất của việc định tội danh
chứa đựng những mẫu (mơ hình) pháp lý của các tội phạm, mà dựa vào đó nhừng ng­

ười có thẩm quyền tiến hành việc định tội danh xác định sự phù hợp của các dấu hiệu
của những hành vi nguy hiểm cho xã hội cụ thế tương ứng được thực hiện. [10, tr 28]
(5) BLHS bao gồm hệ thống các nhóm quy phạm pháp luật được nhà làm

luật sắp xếp thành hai Phần - Phàn chung và Phần các tội phạm, - mà những người
có thẩm quyền tiến hành việc định tội danh đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội

được thực hiện trong thực tế khách quan phải đồng thời dựa vào cả hai nhóm quy
phạm pháp luật hình sự này. [10, tr 28, 29]
(6) Đối với các quy phạm pháp luật hình sự, thì về cơ bản phần giả định

được đề cập trong Phần chung BLHS, còn phần quy định và phần chế tài - trong
Phần các tội phạm. [10, tr 29]
(7) Xét về mặt cấu trúc, thì mặc dù các quy phạm pháp luật hình sự khi mơ tả
các dấu hiệu của mỗi tội phạm trong Phần các tội phạm BLHS năm 2015 về cơ bản


là đều theo một quy định chung - mỗi điều luật đều đề cập đến một mơ hình tội

phạm, nhưng cũng có những trường hợp một điều luật đề cập đến nhiều (hai hoặc
thậm chí ba) mơ hình tội phạm với một chế tài chung. Ngồi ra, cấu trúc của quy

phạm pháp luật hình sự cịn có ý nghĩa quan trọng đối với việc định tội danh khi nó

xác định vị trí và vai trị cúa tình tiết tàng nặng (hoặc giảm nhẹ) nào đó trong một
cấu thành tội phạm cụ thể. [10, tr 30]

1.1.3. Căn cú' khoa học của việc định tội danh








Hầu hết các quan điểm nghiên cứu hiện nay đều thống nhất cho rằng: cấu
thành tội phạm chính là căn cứ khoa học của việc định tội danh. Hiện tại trong khoa


JL
















học luật hình sự khái niệm cấu thành tội phạm vẫn cịn được hiểu theo nhiều nghĩa










JL





khác nhau Trong khoa học luật hình sự Việt Nam, về cơ bản, quan điểm được thừa

14



nhận rộng rãi vê khái niệm của câu thành tội phạm là tông hợp những dâu hiệu đặc
trưng cho loại tội phạm cụ thế được quy định trong pháp luật hình sự.
Trên cơ sở phân tích khoa học lý luận về cấu thành tội phạm và nghiên cứu

thực tiễn áp dụng các quy phạm pháp luật hình sự về định tội danh, theo quan điểm
cùa tác giả, có thể đưa ra định nghĩa khoa học ngắn gọn của khái niệm cấu thành tội
phạm là tổng hợp các dấu hiệu pháp lý (khách quan và chủ quan) do luật hình sự quy

định thể hiện một hành vi nguy hiểm cho xã hội cụ thể là tội phạm, tức là căn cứ vào
các dấu hiệu đó một hành vi nguy hiếm cho xã hội bị coi là tội phạm. Nói cách khác,

một cấu thành tội phạm cụ thể là tổng hợp các dấu hiệu khách quan và chủ quan bát
buộc, mà bằng các dấu hiệu đó, nhà làm luật quy định tại quy phạm của Phần các tội
phạm BLHS tính chất tội phạm và tính chất bị xử phạt (hay cịn gọi là tính chất bị xừ

lý về hình sự) của hành vi nguy hiểm cho xã hội tương ứng bị luật hình sự cấm, đồng
thời chỉ ra loại hình phạt nào và trong giới hạn nào nó có thể được Tồ án áp dụng đối

với người có lỗi trong việc thực hiện tội phạm ấy. [10, tr. 35].
Việc nghiên cứu những vấn đề về cấu thành tội phạm, chính vì thế, có ý

nghĩa pháp lý hình sự rất quan trọng đối với q trình định tội danh, vì định tội danh
chính xác tức là xác định đúng sự phù hợp giữa các dấu hiệu của một hành vi nguy
hiểm cho xã hội nhất đinh nào đó được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội
phạm tương ứng - các dấu hiệu được quy định tại một quy phạm pháp luật hình sự

cụ thể của Phần các tội phạm trong BLHS.
Từ khái niệm cấu thành tội phạm đã được đưa ra trên đây cho thấy, bất kỳ


cấu thành tội phạm cũng phải có các đặc điểm cần và đủ như sau: [10, tr. 36]
Một là, cấu thành tội phạm là một hệ thống các dấu hiệu pháp lý khách quan
và chủ quan có tính chất bắt buộc;

Hai là, các dấu hiệu pháp lý này của cấu thành tội phạm nhất thiết phải được

quy định trong pháp luật hình sự thực định;

Ba là, chỉ có trên cơ sở tống hợp đầy đủ các dấu hiệu pháp lý này của cấu thành
tội phạm thì mới có cãn cứ để khẳng định một hành vi nguy hiểm cho xã hội nào đó bị

luật hình sự cấm và đã được thực hiện trong thực tế chính là một tội phạm;










4^2

15








JL



'


Và ci cùng, câu thành tội phạm chính là mơ hình pháp lý của tội phạm.
[10, tr. 36]
Yếu tố của cấu thành tội phạm có thể được định nghĩa là bộ phận hợp thành

của cấu trúc trong cấu thành ấy và bao gồm một nhóm các dấu hiệu tương ứng với

các phương diện (các mặt) cùa hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm
(tức là hành vi bị nhà làm luật coi là tội phạm). Quan điềm truyền thống được thừa

nhận chung trong khoa học luật hình sự là: cấu thành tội phạm có bốn yếu tố -

khách thể (1), mặt khách quan (2), chù thể (3) và mặt chù quan (4) của tội phạm. Đe
nhận thấy rõ bản chất của mỗi yếu tố cấu thành tội phạm, dưới đây chúng ta Cần

phải đưa ra định nghĩa khoa học về khái niệm cùa từng yếu tố như sau:
- Khách thế của tội phạm - đó là quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo

vệ tránh khỏi sự xâm hại có tính chất tội phạm, nhưng bị tội phạm xâm hại đến và
gây nên (hoặc có thể gây nên) thiệt hại đáng kể nhất định. [12, tr 327]

- Mặt khách quan của tội phạm - đó là mặt bên ngồi cùa sự xâm hại nguy

hiểm đáng kể cho xã hội đến khách thể được bảo vệ bằng pháp luật hình sự, tức là
sự thế hiện cách xử sự có tính chất tội phạm trong thực tế khách quan. [12, tr 327]
- Chủ thể của tội phạm - đó là người đã có lồi (cố ý hoặc vô ý) trong việc thực
hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm, có năng lực TNHS và đủ tuối

chịu TNHS theo luật định (ngoài ra, trong một số trường họp cụ thể còn là có một số dấu

hiệu bố sung đặc biệt do quy phạm pháp luật hình sự tương úng quy định). [12, tr 327]
- Mặt chủ quan của tội phạm - đó là mặt bên trong của sự xâm hại nguy

hiểm đáng kể cho xã hội đến khách thể được bảo vệ bằng pháp luật hình sự, tức
là thái độ tâm lý của chủ thể được thể hiện dưới hình thức cố ý hoặc vô ý đối với
hành vi nguy hiểm cho xã hội bị do mình thực hiện và đối với hậu quả của hành

vi đó (lỗi). [12, tr 327]

Với bốn yếu tố cẩu thành tội phạm nêu trên, chúng có mối quan hệ hữu cơ
chặt chẽ với nhau, mỗi yếu tố cấu thành tội phạm đều biểu hiện một nội dung cụ thể
và tổng hợp bốn yếu tố cấu thành tội phạm phản ánh mối liên hệ quan hệ tâm lý,

thái độ bên trong của một người với hành vi do chính họ thực hiện ra bên ngồi thế
giới khách quan gây ra những hậu quả nguy hiếm cho xã hội [25, tr. 16].

16


1.2. Khái niệm, đặc điêm của việc định tội danh đơi vói tội cướp tài sản

1.2.1. Khái niệm định tội danh đối với tội cướp tài sản









JT

Tội cướp tài sản là loại tội phạm đặc trưng, phổ biến được thực hiện trong
nhóm các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt. Việc định tội danh đối với


X











tội cướp tài sản là hoạt động tố tụng cụ thể của các cơ quan tiến hành tố tụng và

những người tiến hành tố tụng trên cơ sở những dấu hiệu cơ bản của cấu thành tội

phạm của tội cướp tài sản phân tích, đánh giá nhằm xác định hành vi phạm tội đó có

thỏa mãn các dấu hiệu của hành vi cưóp tài sản, thuộc khoản (khung) cụ thể nào đế

từ đó ban hành các quyết định tố tụng tương ứng theo quy định pháp luật.
BLHS năm 2015 quy định về tội “Cướp tài Sếỉrc” như sau: “ỉ. Người nào

dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người
bị tấn cơng lâm vào tình trạng khơng thê chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản,
thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm...." [34, Điều 168 ].
Dưới góc độ khoa học luật hình sự, tác giả thống nhất với quan điểm định

nghĩa về tội cướp tài sản như sau: Tội cướp tài sản là hành vi của một người đủ tuối
chịu TNHS và có năng lực TNHS cố ý dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức

khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng khơng thể

chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản [25, tr. 24-25].
Trên cơ sở các khái niệm định tội danh và tội cướp tài sản đã phân tích nêu
trên,J có thế đưa ra khái niệm
định tội danh đối với tội
•••
• cướp1 tài sản như sau: Định
••tội

danh đổi với tội cướp tài sán là một quá trình nhận thức lý luận có tính logic, đồng
thời là một trong những dạng của hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự,

được tiến hành bằng cách — trên cơ sở các chứng cứ, các tài liệu thu thập được và
các tình tiết khách quan của vụ án hình sự đê đối chiếu, so sánh và kiểm tra nhằm

xác định hành vỉ phạm tội có thỏa mãn nhưng dấu hiệu của cấu thành tội cướp tài


sản hay khơng, nếu có thì thuộc điếm, khoản nào của Điều 168 Bộ luật hình sự.

1.2.2. Đặc
tội
• điếm của việc
• đinh

• danh đối với cướp
X tài sản
Thứ nhất, định tội danh đối với tội cướp tài sản là một quá trình nhận thức lý
luận có tính logic được thế hiện với việc xác định xem các dấu hiệu của hành vi


4^7









17




nguy hiêm cho xã hội được thực hiện có phù hợp (tương đông) với các dâu hiệu của


cấu thành tội phạm cụ thể tại điều 168 BLHS năm 2015.
Thứ hai, định tội danh đối với tội cướp tài sản được tiến hành bằng cách -

trên cơ sở các chứng cứ, các tài liệu thu thập được và các tình tiết khách quan của
vụ án cướp tài sản để đối chiếu, so sánh, kiểm tra để xác định sự phù hợp giữa các

dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện với các dấu hiệu cúa cấu
thành tội phạm quy định tại điều 168 BLHS năm 2015.

Thứ ba, căn cứ pháp lý của việc định tội danh đối với tội cướp tài sản chính

là BLHS (bao gồm Phần chung và Phần các tội phạm), cụ thể là điều 168 BLHS.
Trong khi đó căn cứ khoa học của việc định tội danh đối với tội cướp tài sàn chính

là cấu thành tội phạm này (bốn yếu tố: khách thế của tội phạm, mặt khách quan của
tội phạm, chú thế của tội phạm và mặt chủ quan của tội phạm). Cụ thế:
- Khách thể của tội phạm: Đối với tội cướp tài sản, khách thề của tội phạm bao

gồm cả quan hệ về tài sản và quan hệ nhân thân, hay nói cách khác, tội cướp tài sản là
tội phạm cùng một lúc xâm phạm hai khách thể, nhưng khách thể bị xâm phạm trước

là quan hệ nhân thân, thông qua việc xâm phạm đến nhân thân mà người phạm tội
xâm phạm đến quan hệ tài sản (dùng vũ lực nhằm chiếm đoạt tài sản), nếu không xâm

phạm đến quan hệ nhân thân thì người phạm tội cướp tài sản không thể xâm phạm

đến quan hệ tài sản được. Đây cũng là đặc trưng cơ bản của tội cướp tài sản, nếu chỉ
xâm phạm đến một trong hai quan hệ xã hội thì chưa phản ảnh đầy đủ bản chất của
tội cướp tài sản, đây cũng là dấu hiệu để phân biệt tội cướp tài sản với các tội khác


xâm phạm sở hữu và các tội mà người phạm tội có hành vi dùng vũ lực hoặc đe dọa
dùng vũ lực ngay tức khắc nhưng không nhằm chiếm đoạt tài sản.

Do tội cướp tài sản cùng một lúc xâm phạm đến hai khách thề, nên trong

cùng một vụ án có thể có thể có một người bị hại, nhưng cũng có thể có nhiều người
bị hại, có người bị hại chỉ bị xâm phạm đến tài sản; có người bị hại bị xâm phạm

đến tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự; có người bị hại bị xâm phạm đến cả
tài sản, tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự.
Những tài sản không phải là đối tượng của tội cưóp tài sản cũng như các tội

18


phạm sở hữu khác: Những tài sản mang tính chât tự nhiên như: rừng nguyên sinh,
khoáng sản, động vật hoang dã trong rừng; Những tài sản có tính năng đặc biệt như:
vũ khí, vật liệu nồ, tàu bay, tàu thủy, cơng trình quan trọng liên quan đến an ninh

quốc gia. Đối với các tài sản này, BLHS đã có tội riêng để quy định và khi định tội
danh thì định tội danh theo những tội riêng đó.

- Mặt khách quan cùa tội phạm: Mặt khách quan của tội cướp tài sản được thể
hiện ở hành vi chiếm đoạt tài sản bằng các thủ đoạn được mô tả trong điều luật: Dùng
vũ lực; đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc; hoặc các hành vi khác làm cho người bị tấn

công lâm vào tình trạng khơng thề chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản. Hành vi

chiếm đoạt là hành vi mong muốn dịch chuyển tài sản của người khác thành tài sản


của mình trái pháp luật và trái ý chí của chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản.
Hành vi dùng vũ lực được hiểu là dùng sức mạnh vật chất (có vũ khí hoặc
cơng cụ, phương tiện khác) để chủ động tấn công người quản lý tài sản hoặc người

khác; hành động tấn cơng này có khả năng gây nguy hại đến tính mạng, sức khỏe
của người bị tấn công và làm cho họ mất khả năng chống cự lại hoặc công khai đế

cho người bị tấn công biết.

Đe dọa dùng ngay tức khắc thông thường được kết hợp giữa hành vi sử dụng
vũ lực với những thái độ, cử chỉ, lời nói hung bạo tạo cảm giác cho người bị tấn
công sợ và tin ràng người phạm tội sẽ dùng bạo lực ngay tức khắc nếu không giao

tài sản. Hành vi khác làm cho người bị tấn cơng lâm vào tình trạng khơng thể chống
cự được là hành vi cho người bị tấn công tuy biết sự việc đang xảy ra nhưng khơng
có cách nào chống cự được hoặc tuy khơng bị nguy hại đến tính mạng, sức khỏe

song không thể nhận thức được sự việc đang xảy ra.
Việc xác định thế nào là đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc là dấu hiệu rất quan
trọng để phân biệt tội cưóp tài sản với tội cường đoạt tài sản, nếu đe doạ dùng vũ lực

nhưng không ngay tức khắc thỉ đó là là dấu hiệu của tội cưỡng đoạt tài sản. Ngay tức
khắc là ngay lập tức không chần chừ, khả năng xảy ra là tất yểu nếu người bị hại không
giao tài sản cho người phạm tội. Khả năng này không phụ thuộc vào lời nói hoặc hành
động của người phạm tội mà nó tiềm ẩn ngay trong hành vi của người phạm tội. Đe

19



doạ dùng vũ lực ngay tức khăc, cũng có nghĩa là nêu người bị hại không giao tài sản

hoặc không đế cho người phạm tội lấy tài sản thì vũ lực sẽ được thực hiện.
Tội cướp tài sản là tội phạm có cấu thành hình thức và được coi là hoàn
thành từ thời điểm người phạm tội đã thực hiện một trong các hành vi dùng bạo lực,

đe dọa dùng ngay tức khắc vũ lực hoặc hành vi khác làm cho người bị tấn cơng lầm
vào tình trạng khơng thể chống cự được, khơng kể người phạm tội có chiếm đoạt

được tài sản hay không.
- Chủ thể của tội phạm: Chủ thể của tội cướp tài sản là chủ thể thường. Bất

kỳ người nào từ đủ 14 tuổi trở lên và có năng lực TNHS đều có thể trở thành chủ

thế của tội cướp tài sản.
- Mặt chủ quan của tội phạm: Người phạm tội không chỉ cố ý thực hiện hành

vi phạm tội mà cịn phải có mục đích chiếm đoạt tài sản thì mới là tội cướp tài sản.

Như vậy, ý thức chiếm đoạt của người phạm tội phải có trước khi thực hiện hành vi
dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người

bị tấn công lâm vào tinh trạng khơng thể tự vệ được. Nếu có hành vi tấn cơng nhưng
vì động cơ và mục đích khác chứ khơng nhằm chiếm đoạt tài sản, nhưng sau đó

người bị tấn công bở chạy, để lại tài sản và người có hành vi tấn cơng lấy tài sản đó
thi không phải là tội cướp tài sản mà tuỳ vào trường hợp cụ thể mà truy cứu TNHS

người có hành vi tấn công theo các tội tương ứng, riêng hành vi chiếm đoạt của


người có hành vi tấn cơng có thể là hành vi phạm tội công nhiên chiếm đoạt hoặc
chiếm giữ trái phép tuỳ thuộc vào tùng trường họp cụ thể.

Nhiều trường hợp tuy lúc đầu người phạm tội khơng có ý định chiếm đoạt tài
sản, nhưng trong q trình thực hiện hành vi phạm tội, người phạm tội đã nảy sinh ý

định chiếm đoạt và sau đó tiếp tục có hành vi dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực
ngay tức khắc để chiếm đoạt bằng được tài sản thì hành vi chiếm đoạt tài sản vẫn bị
coi là hành vi phạm tội cướp tài sản.
Như vậy, mục đích giữ lại tài sản sau khi đã chiếm đoạt được bằng cách

dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc, hoặc có hành vi khác làm cho

người bị tấn cơng lâm vào tình trạng khơng thể chống cự được là cướp tài sản.
Tội cướp được thực hiện do lỗi cố ý trực tiếp. Người phạm tội nhận thức rõ

20


×