LỜI CAM ĐOAN
Tôi xỉn cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng
tơi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được cơng bổ trong bất kỳ
cơng trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm
bảo tỉnh chính xác, tin cậy và trung thực. Tơi đã hồn thành tất cả các
mơn học và đã thanh tốn tất cả các nghía vụ tài chính theo quy định
của Khoa Luật Đại học Quắc gia Hà Nội.
Tỏi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Dương Thị Thúy
LỜI CÂM ƠN
Qua thời gian học tập, nghiên cứu lý luận và tim hiểu công tác thực tiễn,
được sự hướng dẫn, giảng dạy của Quý thầy cô, sự quan tâm giúp đờ nhiệt tình của
cơ quan cùng với sự đóng góp của bạn bè, tơi đã hồn thành Luận văn Thạc sĩ Luật
học. Qua đây tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến:
Ban giám hiệu cùng Quý thầy cô Trường Đại học quốc gia Hà Nội, các Giáo
sư, Phó Giáo sư, Tiến sĩ, Giảng viên đã tận tình giảng dạy, truyền đạt nhiều kiến
thức, kinh nghiệm quý báu trong suốt thời gian học tập tại trường.
Cảm ơn Khoa Luật, Trường Đại học quốc gia Hà Nội thực hiện quản lý đào
tạo, cung cấp thông tin cần thiết về quy chế đào tạo cũng như chương trinh đào tạo
một cách kịp thời, tạo điều kiện giúp tơi hồn thành Luận văn này đúng tiến độ.
Cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã động viên giúp đỡ tôi trong suốt
thời gian học tập.
Đặc biệt, tôi xin gửi lời biết oư sâu sắc đến PGS.TS. Chu Hồng Thanh đã
luôn tận tỉnh, sát sao hướng dẫn, giúp đỡ tơi trong q trình học tập và hoàn thiện
luận văn./.
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU...................................................................................................................... 1
Chương 1: cơ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN
ĐƯỢC XÉT XỬ CÔNG BẰNG.................................................................. 6
1.1.
Nhận thức chung về bảo đảm quyền được xét xử cơng bằng.................. 6
1.1.1.
Khái niệm, tính chất của quyền được xét xử công bằng............................... 6
1.1.2.
Nội dung cơ bản của quyền được xét xử cơng bằng....................................... 9
1.1.3.
Vai trị của quyền được xét xử công bằng.....................................................27
1.2.
Hậu quả của việc vi phạm quyền đưực xét xử công bằng đối với
một số quyền con người khác......................................................................32
1.2.1.
Hậu quả cùa việc vi phạm quyền được xét xử công bằng đối với
quyền sống....................................................................................................... 32
1.2.2.
Hậu quả của việc vi phạm quyền được xét xử công bằng đối với
quyền tự do...................................................................................................... 33
1.3.
Pháp luật và kinh nghiệm của một số nước về bảo đảm quyền
đưọc xét xử công bằng..................................................................................34
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1............................................................................................. 41
Chương 2: THỤC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN ĐƯỢC XÉT xử CÔNG
BẢNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.............................................................42
2.1.
Quy định của pháp luật Việt Nam về bảo đảm quyền được xét xử
công bằng...................................................................................................... 42
2.1.1.
Bảo đảm công bằng trong giai đoạn trước xét xử......................................... 42
2.1.2.
Bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật và toà án, được xét xử bởi
toà án độc lập, không thiên vị, công khai và được thành lập theo luật........ 45
Bảo đảm công bằng về quyền được suy đốn vơ tội..................................... 47
2.1.4.
Bảo đảm công bằng về quyền bào chữa.........................................................48
2.1.5.
Bảo đảm công bằng về quyền được xét xử theo thủ tục riêng của
người chưa thành niên.....................................................................................49
2.1.6.
Bảo đảm công bằng về quyền được yêu cầu Toà án cấp cao hơn xem
xét lại bản án và hinh phạt với mình theo quy định của pháp luật............... 50
2.1.7.
Bảo đảm công bàng về quyền được bồi thường trong trường hợp oan sai.....51
2.1.8.
Bảo đảm công bàng về quyền khơng bị áp dụng các luật có hiệu lực
hồi tố, không bị xét xử hai lần về cùng một tội............................................. 52
2.2.
Thực trạng pháp luật đảm bảo quyền đưực xét xủ’ công bằng ờ
Việt Nam hiện nay......................................................................................... 53
2.2.1.
Đánh giá chung về thực trạng thực hiện pháp luật đảm bảo quyền
được xét xử công bằng ở Việt Nam hiện nay................................................ 53
2.2.2.
Những quyền được xét xử công bằng thường bị vi phạm trong thực tế
ở Việt Nam hiện nay và nguyên nhân dẫn đến những vi phạm đó.............. 60
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2............................................................................................. 80
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUYỀN
ĐƯỢC XÉT XỬ CÔNG BẰNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY................. 81
3.1.
Phương hướng bảo đảm quyền được xét xử công bằng ở Việt Nam
hiện nay...........................................................................................................81
3.2.
Giải pháp bảo đảm quyền được xét xử công bằng ở Việt Nam
hiện nay...........................................................................................................85
3.2.1.
Giải pháp nâng cao một số quyền trước giai đoạn xét xử............................. 85
3.2.2.
Giải pháp nâng cao quyền được xét xử bời một toà án độc lập, công
khai và không thiên vị................................................................................... 86
3.2.3.
Bảo đảm quyền bào chữa................................................................................96
3.2.4.
Bảo đảm quyền được suy đốn vơ tội.......................................................... 101
3.2.5.
Bảo đảm quyền được bồi thường do bị xét xử oan sai................................ 102
3.2.6.
Bảo đảm thời hạn trong các giai đoạn tố tụng.............................................103
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3........................................................................................... 105
KỂT LUẬN................................................................................................................ 107
TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................................... 110
DANH MUC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLDS
BƠ• lt
• dân sư•
BLHS
Bơ• lt
• hình sư•
BLTTDS
Bộ luật tố tụng dân sự
BLTTHS
Bộ luật tố tụng hình sự
CQĐT
Cơ quan điều tra
ĐTV
Điều tra viên
HĐXX
Hội đồng xét xử
ICCPR
Cơng ước về các quyền dân sự chính trị
TAND
Tịa án nhân dân
TNHS
Trách nhiêm
• hình sư•
TTHS
Tố tụng hình sự
TTHSVN
Tố tụng hình sự Việt Nam
UDHR
Tun ngơn thế giới về quyền con người
VAHS
Vu• án hình sư•
VKS
Viên
• kiểm sát
VKSNDTC
Viên
• kiểm sát nhân dân tối cao
MỎ ĐẦU
rp F
1
Ỉ
• Tính
_ Ạ
J 1
• Ạ J
_
-> Ạ
J y •
1. •
cap thiêt cua đê tài nghiên cứu
Với mọi quốc gia, quyền được xét xử cơng bằng đóng vai trị cực kỳ quan
trọng trong việc bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, đảm bảo an ninh chính trị,
trật tự an tồn xà hội, là điều kiện tạo mơi trường ổn định cho sự phát triển kinh tế
của đất nước, là tiêu chí thước đo đánh giá mức độ bền vững, biếu tượng cho việc
theo đuổi văn minh và tiến bộ của một xã hội. Quyền được xét xử công bằng thực
chất là một tập hợp các thủ tục tố tụng nhằm đảm bảo quá trình xét xử được cơng
bằng, trong đó bao gồm các khía cạnh như được bình đẳng trước tịa án, được suy
đốn vơ tội, bảo đảm quyền bào chữa, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, không bị buộc phải
nhận tội... Đây là một trong những quyền cơ bản của con người được ghi nhận trong
Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền của Liên Hợp quốc năm 1948 (ƯDHR) tại điều
10 và điều 11, cụ thể:
Mọi người đều bình đẳng về quyền được xét xử cơng bằng và cơng khai
bởi một tồ án độc lập và khách quan để xác định các quyền và nghĩa vụ
của họ, cũng như về bất cứ sự buộc tội nào đối với họ (Điều 10).
Điều 11 bổ sung thêm một số khía cạnh cụ thể, theo đó:
Mọi người, nếu bị cáo buộc về hình sự, đều có quyền được coi là vô tội cho
đến khi được chứng minh là phạm tội theo pháp luật tại một phiên tồ xét
xử cơng khai, mọi người đó được bảo đảm những điều kiện cần thiết để bào
chữa cho mình. Khơng ai bị cáo buộc là phạm tội vì bất cứ hành vi hoặc sự
tắc trách nào mà không cấu thành một phạm tội hình sự theo pháp luật quốc
gia hay pháp luật quốc tế vào thời điểm thực hiện hành vi hay có sự tắc
trách đó. Cũng khơng ai bị tun phạt nặng hơn mức hình phạt được quy
định vào thời điếm hành vi phạm tội được thực hiện (Điều 11).
Các quy định kể trên sau đó được tái khẳng định và cụ thể hố trong điều 14
Cơng ước về các quyền dân sự, chính trị (ICCPR). Quyền này sau đó cũng được
quy định trong nhiều công ước quốc tế khác như: Công ước Châu Âu về quyền con
người, Tuyên ngôn nhân quyền ASEAN năm 2012...
Hiện nay Việt Nam đang trên con đường hội nhập và phát triên, đê đạt được
mục tiêu đó nhà nước phải có những biện pháp để nâng cao việc thượng tôn pháp
luật, đảm bảo quyền xét xử công bằng ngày càng được chú trọng và nâng cao.
Trong hệ thống văn bản pháp luật Việt Nam, quyền được xét xử công bàng được
ghi nhận rất cụ thể tại Hiến pháp và các văn bản pháp luật khác như Bộ luật Tố tụng
hình sự, Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật tổ chức Toà án nhân dân... Đảng và Nhà
nước ta cũng đặt ra nhiều đường lối, chính sách cải cách tư pháp như Nghị quyết số
49- NQ/TW năm 2005 của Bộ chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020. Nghị quyết đã đặt ra mục tiêu “Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh,
dân chủ, nghiêm minh” và “hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử
được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao”. Thơng qua đó nâng cao hiệu quả tố
tụng và đảm bảo được quyền xét xử công bằng trên thực tế.
Vấn đề quyền được xét xử công bằng mặc dù đà được Nhà nước ta rất quan
tâm, tuy nhiên trên thực tế quyền này vẫn bị vi phạm ở một số nơi, việc nhận thức
về bản chất vai trò của pháp luật trong việc bảo vệ quyền này còn nhiều hạn chế, đề
lại hậu quả nghiêm trọng trong việc thụ hưởng các quyền con người. Do đó, vấn đề
đảm bảo quyền được xét công bằng ngày càng trở nên cấp thiết và cần có nhừng
bảo vệ kịp thời một cách có hiệu quả trong giai đoạn hiện nay.
Từ những lý do trên, tôi chọn đề tài "Bảo đảm quyền được xét xử công bằng
ớ Việt Nam hiện nay” làm đề tài nghiên cứu của mình với mong muốn góp phần làm
rõ được vai trò, cơ sở khoa học và thực tiễn áp dụng cũng như tầm quan trọng của
quyền xét xử công bằng trong giai đoạn hiện nay. Cùng với các cơng trình nghiên
cứu khác, luận văn sẽ góp phần nêu lên thực trạng và giải pháp nhằm thúc đẩy
quyền được xét xử công bằng tại Việt Nam được thực thi có hiệu quả hơn qua đó
thúc đẩy và bảo vệ quyền con người.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề quyền được xét xử công bằng là vấn đề thu hút được rất nhiều sự
quan tâm cùa toàn xã hội. Một số học giả, tác giả có đề tài, bài viết liên quan đến
vấn đề quyền được xét xử bình đẳng như: "Oan, sai và bồi thường thiệt hại oan, sai
2
trong tơ tụng hình sự" của tác giả Ngun Ngọc Chí; đê tài “Bảo đảm quyên con
người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam" luận án
tiến sĩ luật học năm 2011 của tác giả Lại Văn Trình; “Quyền được xét xử cơng bằng
trong Tố tụng hình sự Việt Nam" luận vãn thạc sĩ năm 2015 của tác giả Nguyễn Thị
Liên Hương; “Hệ thống những nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự Việt Nam
theo Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015" trong “Những nội dung mới trong Bộ luật
tổ tụng hình sự năm 2015 ", Nxb Chính trị quốc gia - sự thật, Hà Nội, 2016.
Tuy nhiên, việc làm rồ nội dung cũng như tầm quan trọng của quyền được
xét xử cơng bằng và tìm hiểu thực trạng vấn đề đảm bảo quyền được xét xử công
bằng ở Việt Nam dường như chưa có nhiều cồng trình nghiên cứu, chưa có nhiều
bài viết hoặc các bài viết, nghiên cứu đã lâu khơng cịn mang tính ứng dụng vào
thực tiễn. Cùng với đó, xã hội khơng ngừng vận động và phát triến, các vụ án, vụ
việc xảy ra trên thực tế ngày càng có tính chất phức tạp, khó lường trước, hơn nữa
Việt Nam hiện nay đang trên đà hội nhập và phát triển, quyền con người ngày càng
được mở rộng và được quan tâm, do đó pháp luật cần ngày càng hoàn thiện để phù
hợp với yêu cầu thực tế. Vì vậy, việc nghiên cứu vấn đề này là rất cần thiết để tiếp
tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, đồng thời đảm bảo và thúc đẩy quyền được xét
xử công bằng cho mọi người.
3. Mục tiêu nghiên cứu
3.1. Mục tiêu tổng quát
Mục tiêu tồng quát là làm sáng tỏ được một số vấn đề lý luận cơ bản của
quyền được xét xử công bằng. Những nội dung bao hàm và lý do vì sao phải đám
bảo quyền được xét xử cơng bằng. Trên cơ sở đó, đánh giá thực trạng quy định của
pháp luật về quyền được xét xử công bàng tại Việt Nam; đánh giá thực tiễn các quy
định này trong đời sống xã hội. Đưa ra các nguyên nhân và đề xuất giải pháp nhằm
nâng cao quyền được xét xử công bằng tại Việt Nam.
3.2. Mục tiêu cụ thể
Để đạt được mục tiêu tổng quát trên đây, luận văn có nhừng mục tiêu cụ thể sau:
- Nghiên cứu làm sáng rõ một số vấn đề lý luận cơ bản về quyền được xét
3
xử công băng như: làm rõ khái niệm, đặc điêm, nội dung cơ bản, vai trị, vị trí và
tầm quan trọng của quyền được xét xử công bằng.
- Nghiên cứu đánh giá vấn đề đảm bảo quyền được xét xử cơng bằng tại Việt
Nam trong đó nêu ra được các quy định của pháp luật Việt Nam về quyền được xét
xử công bằng, nét tương đồng và hạn chế đối với pháp luật quốc tế. Thực tiễn vấn đề
đảm bảo quyền được xét xử công bàng tại Việt Nam từ đó đưa ra được những quyền
được xét xử cơng bằng nào hay bị vi phạm trong thực tế và nguyên nhân của nó.
- Nghiên cứu đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao vấn đề đảm bảo quyền
được xét xử cơng bằng tại Việt Nam trên thực tế.
4. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Luận văn có thể sẽ là cơng trình nghiên cứu một cách tồn diện, có hệ thống
nhằm góp phần phát triển, bổ sung cơ sở lý luận và thực tiễn về đảm bảo quyền
được xét xử công bằng tại Việt Nam. Làm sáng tỏ vì sao phải bảo đảm quyền được
xét xử cơng bằng và tính cấp thiết cùa việc bảo đảm quyền này.
Các kết quả nghiên cứu của luận văn là nguồn tài liệu tham khảo cần thiết và
đáng tin cậy đối với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong hoạt động ban hành,
sửa đổi, bồ sung các quy định của pháp luật về đảm bảo quyền được xét xử cơng
bằng. Đồng thời, luận văn có giá trị tham khảo hữu ích trong cơng tác giảng dạy và
học tập mơn học Pháp luật về quyền con người tại các cơ sở đào tạo cũng như trong
hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật quyền con người nói chung và
pháp luật về đảm bảo quyền được xét xử công bằng nói riêng. Bên cạnh đó, các giải
pháp mà học viên đưa ra có thể được các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền
tham khảo và ứng dụng vào thực tiễn công tác đảm bảo quyền được xét xử công
bằng tại Việt Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở vận dụng phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp duy vật biện chứng và phương pháp duy vật lịch của chủ
nghĩa Mác - Lênin nhằm nghiên cứu vấn đề trong trạng thái biến đối không ngừng
và trong mối quan hệ tổng thể tác động qua lại giữa vấn đề nghiên cứu và các vấn
4
đề khác. Đồng thời xem xét vấn đề nghiên cứu trong quá trình từ hình thành đến
phát triển qua các giai đoạn khác nhau.
- Phương pháp phân tích được sử dụng chủ yếu trong việc phân tích các khái
niệm, các điều khoản của pháp luật về đảm bảo quyền xét xử công bàng, nội dung
bao hàm của quyền được xét xử công bằng.
- Phương pháp tổng hợp chủ yếu được sừ dụng trong việc tổng họp các số
liệu trong các quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền liên quan đến vấn đề
bảo đảm quyền xét xử công bàng. Phương pháp này cịn được sử dụng để có được
những nhận xét, đánh giá trình bày của luận văn.
- Phương pháp thống kê được sử dụng nhằm xử lý các tài liệu, số liệu thu
thập được trong quá trình đánh giá cơng tác xét xử của Tồ án.
- Phương pháp so sánh áp dụng trong việc so sánh các quy định của pháp
luật trong nước và quốc tế về việc đảm bảo quyền được xét xử công bằng, thông
qua đó rút ra được những điểm mới tiến bộ cũng như hạn chế của hệ thống văn bản
pháp luật trong nước.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Ké mặt lỷ luận'. Đe tài nghiên cứu lý luận về quyền được xét xử cơng bằng từ
đó đưa ra những phương hướng, giải pháp góp phần vào việc sửa đối, bổ sung các
quy định pháp luật về quyền xét xử công bằng nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng các
chế định pháp luật này trên thực tế.
về mặt thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần đánh giá đúng thực
trạng áp dụng pháp luật về đảm bảo quyền được xét xử cơng bằng tại Việt Nam hiện
nay. Qua đó khác phục những thiếu sót, bất cập trong hoạt động này trên thực tế.
5
Chương 1
Cơ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ BẢO ĐẢM
QUYỀN ĐƯỢC XÉT xử CÔNG BẰNG
1.1. Nhận thức chung về bảo đảm quyền đưọc xét xử công bằng
1.1.1. Khái niệm, tỉnh chất của quyền được xét xử công bằng
“Xét xử” là hoạt động của Toà án, đây là một hoạt động đặc trưng của việc
thực hiện chức nàng Tư pháp của Nhà nước. Bao gồm nhiều hoạt động như xem
xét, đánh giá bản chất pháp lý của vụ việc nhằm đưa ra một phán xét về tính chất,
mức độ pháp lý của vụ việc, từ đó nhân danh Nhà nước đưa ra một phán quyết
tương ứng với bản chất, mức độ trái hay không trái pháp luật của vụ việc. Hoạt
động này được tiến hành theo cách thức (thủ tục) nhất định dựa trên nguyên tắc tố
tụng hết sức nghiêm ngặt. Bởi lẽ kết quả của nó ảnh hưởng rất lớn đến quyền và lợi
ích họp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan.
“Cơng bằng” là một tình trạng mà trong đó tất cả mọi người trong xã hội hay
nhóm cụ thể nào đó có địa vị, tình trạng pháp lý tương tự như nhau ở những khía
cạnh nhất định. Theo từ điển tiếng Việt “cơng bằng” cịn được hiểu là “đúng lẽ phải,
khơng thiên vị”. Vậy xét xử cơng bằng có thể được hiểu là việc tn thủ q trình tố
tụng, tơn trọng những giá trị đúng đắn, những quy tắc chuẩn mực chung hoặc cách
thức hành động phù họp được luật pháp thừa nhận.
Trong Tuyên ngôn Dakar về quyền được xét xử công bằng tại Châu Phi có nêu:
Quyền được xét xử cơng bàng là một quyền tổng hợp gồm những quyền
cụ thể sau: Quyền bình đẳng trước tồ án và được xét xử bởi tồ án độc
lập, khơng thiên vị, cơng khai; Quyền bào chữa; Quyền được xét xử theo
thủ tục riêng của người chưa thành niên; Quyền kháng cáo; Quyền được
bồi thường khi bị kết án oan; Quyền không bị xét xử hai lần về cùng một
tội danh; Khơng bị truy cứu hình sự vì lý do khơng thực hiện được nghĩa
vụ họp đồng; Khơng bị coi là có tội nếu hành vi không cấu thành tội
phạm theo pháp luật vào thời điểm thực hiện hành vi; Không áp dụng hồi
tố cũng như nghiên cứu khi đề cập đến quyền được xét xử công bằng.
6
Theo PGS.TS. Nguyễn Ngọc Chí xây dựng khái niệm:
Quyền được xét xử công bằng là quyền cơ bản của người bị buộc tội
trong vụ án hình sự và các bên trong các vụ án phi hình sự trước cơ quan
tư pháp (Cơng an, Viện kiếm sát và Tồ án), được pháp luật quốc gia và
quốc tế ghi nhận và bảo vệ, bao gồm nhiều quyền cụ thể (như được bảo
đảm quyền bào chữa, được xét xử nhanh chóng, cơng khai bởi Tồ án
độc lập, khơng thiên vị...) nhằm bảo đảm cho việc xét xử được công
bằng, cũng như các quyền và lợi ích hợp pháp của mọi cá nhân [5].
Giáo trình lý luận và pháp luật về quyền con người của Nhà xuất bản Đại học
Quốc Gia Hà Nội có định nghĩa:
Quyền về xét xử công bằng (the right to a fair trial) thực chất là một tập
hợp các bảo đảm tố tụng nhằm bảo đảm quá trình xét xử được cơng
bằng, trong đó bao gồm các khía cạnh như được bình đẳng trước tịa án
(equality before a court), được suy đốn vơ tội (assumption of innocence);
khơng bị áp dụng hồi tố (prohibition of ex post facto laws); và không bị
bỏ tù chỉ vì khơng hồn thành nghĩa vụ theo hợp đồng (prohibition of
imprisonment for debt). Trong một số tài liệu, mỗi bảo đảm này được coi
như là một quyền con người cụ thể [8, tr. 168].
Như vậy có thế thấy rằng, quyền được xét xử công bằng là một nhân quyền
cơ bản có tính phổ qt cao, thường được nhắc đến như một quyền càn bản hay sự
đảm bảo tối thiểu về xét xử theo đúng pháp luật tố tụng. Pháp luật nhiều quốc gia
quy định quyền này với quan niệm rằng nó là quyền thiết yếu trong mọi quốc gia
pháp trị. Việc đối xử với một người khi họ bị buộc tội phản ánh rõ nhà nước tôn
trọng nhân quyền đến mức nào, bởi vậy, quyền được xét xừ công bằng đã được đặc
biệt coi trọng trong một xã hội dân chủ. Xét xừ công bằng tức là cho đương sự được
bình đẳng cả về vũ khí, phương tiện và cơ hội trong phiên xử. Các bên liên quan
đến vụ án phải được đối xử ngang nhau khi tham dự phiên tồ, tức là phải được
thơng tin giống nhau, được trỉnh bày và biện hộ trong những điều kiện như nhau.
Muốn đảm bảo cho việc xét xử được cơng bằng thì quyền của các bị cáo phải được
bảo vệ nghiêm túc trong suốt quá trình tố tụng.
7
Từ những phân tích ở trên, có thê nêu một cách khái quát khái niệm quyên
được xét xử công bàng như sau: “Quyền được xét xử công bằng là một quyền con
người cơ bản và có tính phơ qt cao, tồn tại trong tất cả các vụ án hình sự và phi
hình sự. Bao gồm một tập họp các bảo đảm tố tụng được pháp luật quốc gia và
quốc tế ghi nhận và bảo vệ nhằm bảo đảm quá trình xét xử được cơng bằng, trong
đó bao gồm các quyền như: Quyền bình đẳng trước tồ án và được xét xử bởi tồ
án độc lập, khơng thiên vị, cơng khai; Quyền bào chữa; Quyền được xét xử theo thủ
tục riêng của người chưa thành niên; Quyền khảng cảo; Quyền được bồi thường khi
bị kết án oan; Quyền không bị xét xử hai lần về cùng một tội danh; Không bị truy
cứu hình sự vì lý do khơng thực hiện được nghĩa vụ họp đồng; Khơng bị coi là có
tội nếu hành vi không cấu thành tội phạm theo pháp luật vào thời điểm thực hiện
hành vỉ; Không áp dụng hồi tổ...”
Như vậy, Bảo đảm quyền được xét xử công bằng là các biện pháp, phương
thức, công cụ để chống lại sự xâm phạm quyền được xét xử công bằng đã được
pháp luật của các quốc gia ghi nhận cho các chủ thê tham gia vào quan hệ phảp
luật không bị xâm phạm và có tính khả thi trong thực tế.
Quyền được xét xử công bằng là một quyền con người. Vì vậy nó có các tính
chất (ngun tắc) chung của quyền con người đó là: tính phổ biến, tính khơng thể
tước bở, tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau.
Tính phổ biến (universal) của quyền được xét xử công bàng được thể hiện ở
chỗ quyền này được áp dụng bình đẳng cho tất cả mọi thành viên trong gia đình
nhân loại, khơng có sự phân biệt đối xử vì bất cứ lý do gì, ví dụ như về chủng tộc,
dân tộc, giới tính, tơn giáo, thành phần xuất thân...Nhưng cũng cần lưu ý rằng bình
đẳng ở đây là bỉnh đẳng về tư cách chủ thể của quyền được xét xử công bằng. Ở
đây, mọi thành viên của nhân loại đều được cơng nhận có các quyền được xét xử
cơng bằng, tuy nhiên, mức độ hưởng thụ các quyền phụ thuộc vào năng lực của cá
nhân từng người, cũng như vào hồn cảnh chính trị, kinh tế, xã hội, văn hố...mà
người đó đang sống.
Tính khơng thể tước bỏ (inalienable) của quyền được xét xử công bằng thể
8
hiện ở chô những quyên này không thê bị tước đoạt hay hạn chê một cách “tuỳ tiện”
bởi bất cứ chủ thể nào, kế cả các cơ quan và quan chức nhà nước.
Tính khơng thể phân chia (indivisible) của quyền được xét xử công bằng
được thể hiện ở chỗ trong quyền được xét xử công bằng được chia ra thành những
quyền nhỏ như: Quyền bình đắng trước tồ án và được xét xử bởi tồ án độc lập,
khơng thiên vị, công khai; Quyền bào chữa; Quyền được xét xử theo thủ tục riêng
của người chưa thành niên; Quyền kháng cáo; Quyền được bồi thường khi bị kết án
oan; Quyền không bị xét xử hai lần về cùng một tội danh.. .những quyền này đều có
tầm quan trọng như nhau, nên về ngun tắc khơng có quyền nào được coi là có giá
trị cao hơn quyền nào. Việc tước bỏ hay hạn chế bất kỳ quyền nào thì đều có thể tác
động tiêu cực đến nhân phẩm, giá trị và sự phát triển của con người.
Tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau (interrelated, interdependent) của quyền
được xét xử công bằng được thể hiện ở chỗ việc đảm bảo quyền được xét xử cơng
bằng sẽ có mối liên kết phụ thuộc và tác động đến các quyền khác. Cụ thể, khi
quyền được xét xử công bằng bị vi phạm, không được đảm bảo sẽ trực tiếp hoặc
gián tiếp ảnh hưởng, tác động đến các quyền khác. Trên thực tế, một người bị vi
phạm quyền được xét xử cơng bằng rất có nguy cơ dẫn đến xét xử oan, sai về tội mà
mình bị kết án, từ đó người này có thể bị ảnh hưởng đến các quyền khác như quyền
tự do đi lại, quyền sống, quyền sở hữu... và ngược lại nếu quyền được xét xử cơng
bằng được đảm bảo thì các quyền khác cũng được tôn trọng, đảm bảo theo. Việc
đảm bảo quyền được xét xử cơng bằng có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc bảo
đảm những quyền con người khác đồng thời chủ động phòng ngừa, ngăn chặn tội
phạm, phát hiện chính xác nhanh chóng và xử lý công minh kịp thời mọi tội phạm,
không xét xử oan người vô tội.
1.1.2. Nội dung cơ bản của quyền được xét xử công bằng
Quyền được xét xử công bằng tương đối rộng, bao trùm nhiều quyền cụ thể.
Có thể nói đây là một quyền tổng họp bao gồm: Một số quyền trong giai đoạn trước
khi xét xử; Quyền bình đẳng trước toà án và được xét xử bởi toà án độc lập, không
thiên vị, công khai; Quyền được suy đốn vơ tội; Quyền của người bị buộc tội;
9
Quyên được xét xử theo thủ tục riêng của người chưa thành niên; Quyên được xem
xét bởi một toà án cấp cao hơn; Quyền được bồi thường trong trường hợp oan sai;
Quyền khơng bị xét xử hai lần vì cùng một tội.
1.1.2.1. Một số quyền trong giai đoạn trước xét xử
Trên thực tế, quyền được xét xừ công bằng liên quan nhiều nhất đến hoạt
động xét xử của Toà án, nhưng giai đoạn tiền xét xử lại có quan hệ chặt chẽ, làm
tiền đề cho giai đoạn xét xử, chính vì vậy các quyền cơ bản nếu bị xâm hại từ giai
đoạn đầu này sẽ ảnh hưởng đến các quyền ở giai đoạn sau. Chẳng hạn quyền được
thông báo về thời gian hợp lý về ngày, giờ và địa điểm của phiên tồ, quyền khơng
bị tra tấn, bức cung hay nhục hình nếu bị xâm hại, rất dễ dẫn đến những lời khai
khơng khách quan, từ đó nội dung vụ án bị sai lệch. Mặt khác, Toà án trong giai
đoạn này đã có vai trị xem xét về tính hợp pháp của việc bắt giữ người. Không bị
bắt hoặc giam giữ vô cớ là một quyền sơ đẳng, bảo đảm quyền tự do và an toàn về
thân thể của cá nhân. Điều 9 Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền năm 1948, cũng như
Điều 9/1 ICCPR khẳng định khơng ai có thể bị bắt hoặc giam giữ vô cớ. Khi bị bắt,
người bị bắt có quyền được biết lý do bắt (Điều 9/2). Cũng ngay từ giai đoạn bị bắt,
người bị bắt có quyền khơng bị tra tấn, bị đối xử tàn ác hay vô nhân đạo, đây là
quyền được ghi nhận trong Điều 7 Tun ngơn, Điều 7 ICCPR, bình luận chung số
7 và số 20, cũng như trong Công ước chống tra tấn, đối xử hay trừng phạt tàn ác, vô
nhân đạo hay bị hạ nhục (1984). Hơn thế nữa, bị can cịn có quyền được giam giữ,
đối xử nhân đạo, theo Điều 10 ICCPR, Bình luận chung số 9, cũng như trong Các
nguyên tắc về bảo vệ tất cả những người bị giam hay tù dưới bất kỳ hình thức nào
(1988). Điều 9/4 ICCPR quy định về quyền được Tồ án nhanh chóng xem xét về
tính họp pháp của việc bắt giữ người. Tồ án với vai trị là cơ quan tư pháp sẽ đánh
giá việc bắt giữ có họp pháp hay khơng, tránh việc bắt giữ người bất họp pháp hoặc
không cần thiết. Đây cũng là một quyền cơ bản của công dân, được hiến pháp nhiều
quốc gia ghi nhận. Khi đề cập đến các quyền trong giai đoạn tiền xét xử, nhiều
quyền khác của bị can được quan tâm như quyền được bào chữa và trợ giúp pháp lý
kịp thời trong giai đoạn ngay khi bị bắt hoặc bị giam giữ, quyền được liên lạc với
thế giới bên ngồi, quyền được thực hành tơn giáo...
10
1.1.2.2. Qun bình đăng trước phảp luật và Tồ án, được xét xử bởi Tồ án
độc lập, khơng thiên vị, được thành lập theo luật và cơng khai
Quyền bình đẳng trước pháp luật và Toà án là quyền mà phạm vi áp dụng
của nó khơng chỉ giới hạn đối với cơng dân của một quốc gia, mà cịn được áp dụng
bình đẳng cho tất cả mọi người. Quyền này đóng vai trò là cơ sở và nguyên tắc
chung trong việc bảo vệ tất cả các quyền con người. Đây cũng là những quyền tuyệt
đối, được áp dụng trong mọi thời gian và mọi tỉnh huống, kể cả trong tỉnh trạng
khẩn cấp quốc gia hay xung đột vũ trang.
Theo khoản 1 điều 14 công ước về các quyền dân sự và chính trị - ICCPR quy
định: “Mọỉ người đều bình đẳng trước các toà án và cơ quan tài phán ” trong đoạn 7
bình luận chung số 32, HRC cũng khẳng định bảo đảm này khơng chỉ áp dụng cho
các Tịa án như trong nội dung câu thứ hai trong đoạn này của điều 14, mà còn phải
được áp dụng cho bất cứ cơ quan tài phán nào được quy định theo pháp luật của
quốc gia. Quyền bình đẳng trước Tồ án và cơ quan tư pháp có thể được hiểu như
một biểu hiện cụ thể của nguyên tắc không phân biệt đối xử, nhằm đảm bảo rằng
các bên tham gia tố tụng được đối xử khơng có phân biệt nào. Nội hàm của quyền
bình đẳng trước Tồ án và cơ quan tư pháp được thể hiện cụ thể ở các kliía cạnh:
Thứ nhất, quyền tiếp cận với Tịa án trong mọi trường họp xác định tội hình
sự và các quyền, nghĩa vụ trong một vụ phi hình sự. Tiếp cận cơng lý cần được đảm
bảo có hiệu quả trong mọi trường hợp, để đảm bảo rằng theo thủ tục, cá nhân khơng
bị tước quyền địi cơng lý. Trong một tình huống mà một cá nhân không thể tiếp cận
được với Tịa án thì có nghĩa là quốc gia đó đã không đảm bảo được quy định tại
khoản 1 Điều 14 trong pháp luật của mình cũng như trong thực tiễn. Quyền này
cũng có nghĩa là nó địi hởi các quốc gia thành lập các Toà án và đặt ở những nơi
mà tất cả mọi người (trong quốc gia đó) đều có thể tiếp cận được (cả người khuyết
tật). Điều đảm bảo này cũng cấm mọi sự phân biệt về quyền tiếp cận với Tịa án mà
khơng dựa trên luật pháp và không thế biện minh bàng những càn cứ hợp lý và
khách quan. Sẽ là vi phạm bảo đảm này nếu người nào đó khơng thế đưa một vụ ra
tịa với lý do: chủng tộc, màu da, giới tính, ngơn ngừ, tơn giáo, quan điểm chính trị,
11
dân tộc hay nguôn gôc, tài sản, nơi sinh hoặc tỉnh trạng khác. Quyên tiêp cận các
phiên toà, Toà án và bình đẳng trước Tồ án khơng chỉ giới hạn cho công dân cùa
các Công ước mà cho tất cả các cá nhân, bất kể có quốc tịch nước nào hay là người
khơng quốc tịch, hoặc có bất cứ vị thế nào, ví dụ như người tị nạn, người xin tị nạn,
lao động di trú, trẻ em khơng có người chăm sóc và những người khác mà hiện diện
trên lãnh thồ quốc gia đó hoặc nằm dưới quyền tài phán cúa quốc gia.
Thứ hai, về trợ giúp pháp lý tại đoạn 10 bình luận chung số 32 của HRC nêu
ràng: Việc có hay khơng có trợ giúp pháp lý thường cho thấy thực tế một người có
thể hoặc khơng thể tiếp cận được các thủ tục tố tụng hoặc tham gia vào quá trình tố
tụng một cách thực chất. Các quốc gia thành viên được khuyến khích cung cấp trợ
giúp pháp lý miễn phí cho các cá nhân trong trường họp mà họ khơng có khả nàng
trả tiền. Trong một số trường hợp, các quốc gia thậm chí cịn có nghĩa vụ làm như
vậy, chẳng hạn, nếu có người bị kết án tử hình mà khơng đủ khả năng đế trả các chi
phí trợ giúp pháp lý để khiếu nại về tính bất hợp hiến của một Tịa án hình sự thì
nhà nước có nghĩa vụ cung cấp trợ giúp pháp lý theo khoản 1 Điều 14, cùng với
quyền có biện pháp khắc phục hiệu quả được nêu tại khoản 3 Điều 2 của ICCPR.
Thứ ba, về án phí, các lệ phỉ mà đương sự phăi nộp cho Tòa án cũng có
thể ảnh hưởng đến sự bình đắng. Tương tự, việc áp dụng lệ phí với các bên tố tụng
mà trên thực tế ngăn cản sự tiếp cận công lý trong thực tế có thể bị coi là trái với
quy định tại khoản 1 Điều 14. Đặc biệt, theo luật thì bắt buộc phải cho bên thắng
kiện được miễn những chi phí mà nếu khơng xem xét những ngụ ý hoặc khơng cung
cấp các hỗ trợ pháp lý thì có thể có ảnh hưởng khác nhau tới khả năng của người đó
chứng minh quyền của họ theo Cơng ước trong các thủ tục tố tụng áp dụng với họ.
Thứ tư, nguyên tắc bình đẳng giữa các bên, đoạn 13 bình luận chung số 32
đề cập đến việc giải thích về nguyên tắc quan trọng này như sau: “điều này có nghĩa
là các quyền tố tụng sẽ được dành cho tất cả các bên, trừ khi có sự phân biệt được
luật định và có thế giải thích một cách hợp lý, khách quan và không dẫn đến sự bất
lợi hoặc bất công cho bên tố tụng khác. Chẳng hạn, sẽ không có sự bình đẳng giữa
các bên nếu chỉ có những cơng tố viên có thể kháng cáo phán quyết của tòa trong
12
khi bị đơn thi khơng thê. Ngun tăc bình đăng giữa các bên cũng được áp dụng
trong tố tụng dân sự, trong đó yêu cầu mồi bên được nêu quan điểm về lập luận và
bằng chứng do bên kia viện dẫn”.
Quyền được xét xử bởi tồ án độc lập, khơng thiên vị, được thành lập
theo luật và công khai là một quyền tuyệt đối đồng thời cũng là một nguyên tắc
chung của luật tập quán quốc tế, nên nó có tính rằng buộc nghĩa vụ đối với tất cả
các quốc gia, tại mọi thời điểm, bao gồm các khía cạnh [18]: (i) quyền được xét xử
bởi một tòa án được thành lập theo luật; (ii) quyền được xét xử bởi một tịa án có
thẩm quyền; (iii) quyền được xét xử bởi một tòa án độc lập; và (iv) quyền được xét
xử bởi một tịa án khơng thiên vị và cơng khai.
Tòa án ở đây bao gồm tất cả các Tòa án (Tịa thơng thường, Tịa đặc biệt,
Tịa dân sự hoặc Tòa quân sự), phải được thành lập bởi Hiến pháp hoặc luật được
thơng qua bởi cơ quan lập pháp, có thấm quyền tài phán đối với các vụ việc. Tòa án
phài độc lập (thiết chế độc lập, thẩm phán độc lập, ra phán quyết độc lập), khách
quan và không thiên vị (ra quyết định dựa trên chứng cứ và phù hợp với luật). Đây
chính là những điều cơ bản đế duy trì sự tơn trọng đối với cơng lý.
Quyền được xét xử bởi một tịa án độc lập và khơng thiên vị được ghi nhận
tại điều 14 ICCPR “mọi người có quyền được bình đẳng và xét xử cơng khai bởi
một Tịa án có thẩm quyền, độc lập và khơng thiên vị được thiết lập bởi pháp luật
khi quyết định trách nhiệm hình sự của cá nhân hoặc các quyền và nghĩa vụ của cá
nhân đó”. Điều 40 Quy chế tịa án hình sự Quốc tế quy định “các thẩm phán được
độc lập trong khi thực hiện nhiệm vụ của mình” [18]
Trong đoạn 19, Bình luận chung số 32, HRC khẳng định, các yêu cầu về
thẩm quyền, tính độc lập và tính khơng thiên vị của cơ quan tư pháp theo ỷ nghĩa
của khoán 1 Điều 14 ICCPR là mang tính tuyệt đối, khơng thể bị hạn chế hay vi
phạm trong bất kỳ trường hợp ngoại lệ nào, đồng thời làm rõ thêm như sau:
Yêu cầu về tính độc lập đề cập cụ thể tới thủ tục và năng lực của việc bổ
nhiệm thấm phán, đảm bảo nhiệm kỳ cùa họ đến tuổi nghỉ hưu, các điều
kiện liên quan đến thăng tiến, chuyển nơi làm việc, đình chỉ và chấm dứt
13
các chức vụ của họ, và độc lập tư pháp thực sự khỏi sự can thiệp chính trị
từ các ngành hành pháp và lập pháp. Các quốc gia cần áp dụng các biện
pháp cụ thể để đảm bảo sự độc lập của tư pháp, bảo vệ thẩm phán khỏi
bất kỳ ảnh hưởng chính trị nào thơng qua những quy định trong Hiến
pháp hoặc luật pháp đế xác định những thủ tục pháp lý và tiêu chuẩn
khách quan trong việc tuyền chọn, bổ nhiệm, trả lương, nhiệm kỳ, thăng
tiến, đình chỉ và miễn nhiệm các thành viên của ngành tư pháp và việc kỷ
luật đối với họ. Những trường hợp các chức năng và thấm quyền của các
ngành tư pháp và hành pháp khơng có sự khác biệt rõ ràng hoặc trong
trường hợp ngành hành pháp có thể chỉ đạo tư pháp là khơng phù hợp
với địi hỏi của một tịa án độc lập [30].
về địi hỏi khách quan, khơng thiên vị của tịa án, trong đoạn 21 Bình luận
chung số 32, HRC giải thích về hai khía cạnh Cấu thành cúa yêu cầu này như sau:
Thứ nhất, các thẩm phán không được để cho phán quyết của họ bị ảnh hưởng
bời sự thiên vị hay định kiến cá nhân, và cũng khơng được dựa trên các quan niệm
có sẵn hay hành động vì lợi ích của một trong các bên tham gia tố tụng và làm tổn
hại tới bên khác.
Thứ hai, phiên tịa phải chứng tỏ sự khơng thiên vị đối với một người quan sát
bình thường. Chẳng hạn, phiên tòa do một thẩm phán mà theo pháp luật quốc gia
không đủ năng lực thực hiện việc xét xử thông thường sẽ bị coi là không khách quan.
Nguyên tắc độc lập, khơng thiên vị có nghĩa là khi xét xừ Tịa án độc lập,
khơng bị ràng buộc bởi ý kiến của bất cứ ai, không bị chi phối bởi quan điểm của
người nào. Không một cơ quan, tổ chức hay cá nhân nào được can thiệp trái pháp
luật vào hoạt động xét xử, đặc biệt là của thẩm phán. Thẩm phán và hội thẩm độc
lập trong xét xử và tuân theo pháp luật, phải căn cứ vào các quy định của pháp luật
để đưa ra ý kiến, quyết định của mình, khơng được tùy tiện, qua loa hay bằng cảm
tính. Tính độc lập trong xét xử cịn được biểu hiện ở tính độc lập cả bên trong và
độc lập bên ngoài. Độc lập bên ngoài tức là độc lập giữa cơ quan xét xử với các cơ
quan, tổ chức, cá nhân khác. Độc lập bên trong tức là độc lập giữa những người
14
tham gia vào Hội đông xét xử, độc lập giữa những các câp và đơng nghiệp trong
Tồ án. Ngồi việc độc lập giữa cơ quan xét xử và cơ quan điều tra, kiểm sát cũng
là một yêu cầu vô cùng quan trọng trong việc đảm bảo tính cơng bằng của bản án.
Quyền được xét xử công khai là một yêu cầu trong Điều 14 ICCPR: “mọi
phán quyết trong vụ án hình sự hoặc vụ kiện dân sự phải được tuyên cơng khai, trừ
trường họp vì lợi ích cua người chưa thành niên hay vụ việc liên quan đến những tranh
chấp hôn nhân hoặc quyền giám hộ trẻ em” [15]. Tuy nhiên việc xét xử cơng khai có
thể bị hạn chế vì lý do bao gồm: đạo đức, an ninh quốc gia, trật tự công cộng (chủ yếu
liên quan đến trật tự trong phịng xử án) hoặc để giữ kín đời tư của các bên hay trong
các hoàn cảnh đặc biệt khi tịa án nhận thấy cơng luận có thể làm ảnh hưởng đến lợi
ích của cơng lý. Trong đoạn 25 Bình luận chung số 32, HRC xác định:
Khái niệm xét xử cơng bằng (fair trial) bao gồm: đảm bảo có việc xem
xét công khai và công bằng. Công bằng trong thủ tục tố tụng là việc
khơng có những ảnh hưởng gián tiếp và trực tiếp, áp lực hay gợi ý hay áp
đặt của bất cứ phía nào, nhằm bất cứ mục đích nào với việc xét xử.
Chẳng hạn, phiên tịa sẽ không được coi là công bằng nếu bị cáo phải đối
mặt với thái độ thù địch từ phía cơng chủng hay bởi một bên trong phòng
xử án mà lại được tịa án chấp thuận, có thể ảnh hưởng tới quyền bào
chữa. Nếu bồi thẩm đoàn thể hiện thái độ phân biệt, thành kiến về chủng
tộc không thể chấp nhận được tại tịa án thì cũng là vi phạm tính cơng
bằng của thủ tục [30].
Một khía cạnh quan trọng của phiên tịa cơng bàng, nêu tại khoản 3(c) Điều
14, đã được HRC nhấn mạnh là sự nhanh chóng. Theo đó, sự chậm trễ trong thủ tục
tố tụng mà không thế biện minh bởi sự phức tạp của vụ việc là trái với nguyên tắc
xét xử công bằng theo khoản 1. Trong trường họp chậm trễ do thiếu nguồn lực tài
chính thì quốc gia cần phải bố sung ngân sách cho hệ thống tư pháp.
về nguyên tắc công khai, trong đoạn 28 Bình luận chung số 32, HRC làm rồ
thêm như sau:
15
Tât cả các xét xử vụ• hinh sự• hoặc
dân sự9 phải được thực hiện theo
•
JL
nguyên tắc tranh tụng miệng và cơng khai tại phiên tịa. Phiên tịa cơng
khai đảm bảo sự minh bạch của các thủ tục tố tụng và do đó có ý nghĩa
quan trọng để bảo vệ lợi ích của các cá nhân và của toàn xã hội. Tồ án
phải cung cấp thơng tin về thời gian và địa điếm của phiên tịa cho cơng
chúng và cung cấp những cơ sở đủ để đảm bảo sự tham dự của các thành
viên quan tâm trong công chúng, trong thời hạn hợp lý, có tính đến sự
liên quan về lợi ích nhất định trong vụ việc. Đòi hỏi về một phiên tịa
cơng khai khơng nhất thiết phải áp dụng cho tất cả các thủ tục phúc thẩm
mà có thể xét xử căn cứ vào văn bản, hoặc các quyết định ở giai đoạn
trước khi xét xử của Tòa án hoặc của các cơ quan cơng quyền khác.
Qun được suy đốn vô tội là một quy phạm cùa luật tập quán qc tê, vì
vậy được áp dụng tại mọi thời điểm và trong mọi tình huống. Tại Điều 11(1)
UDHR; Điều 14(2) ICCPR; Điều 66 Quy chế Rome có quy định về quyền suy đốn
vơ tội như sau: “Mọi người, nếu bị cáo buộc về hình sự, đều có quyền được coi là
vô tội cho đến khi được chứng minh là phạm tội theo pháp luật tại một phiên tịa xét
xử cơng khai mà người đó được bảo đảm những điều kiện cần thiết để bào chữa cho
mình”. Tại điều 9 Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp (1789) đà khẳng
định: “mọi người đều được coi là vô tội cho đến khi bị tuyên bố phạm tội”. Quyền
này được quy định tại Điều 14 1CCPR: “Người bị buộc là phạm tội hình sự có quyền
được coi là vơ tội cho tới khi tội của người đó được chứng minh theo pháp luật”.
Điều 7(1 )(b) của Hiến Chương Châu Phi về quyền con người và quyền của các Dân
tộc, Điều 8(2) cùa công ước Châu Mỹ về quyền con người, và điều 6(2) của công ước
Châu Âu về quyền con người đều có những quy định về quyền được suy đốn vô tội,
điều 11 UDHR “mọi người, nếu bị cáo buộc về hình sự, đều có quyền được coi là vơ
tội cho đến khi được chứng minh là phạm tội theo pháp luật tại một phiên tịa xét xử
cơng khai với mọi đảm bảo biện hộ cần thiết”. Gần đây hơn, ngun tắc suy đốn vơ
tội đã được đưa vào điều 20(3) Quy chế tịa án hình sự Quốc tế xét xử Ru-an-đa, điều
16
21(3) quy chê Tịa án hình sự qc tê xét xử Nam Tư cũ. Đoạn 30 của Bình luận
chung số 32 làm rõ thêm về các yêu cầu của giả định vô tội như sau:
Giả định vô tội, yếu tố cơ bản cho việc bảo vệ quyền con người, đòi hỏi
bên công tố phải chứng minh rằng không ai bị kết tội đến khi việc chứng
minh khơng cịn nghi ngờ nào, đảm bảo rằng bị cáo có quyền suy đốn
có lợi khi có sự nghi ngờ, và địi hỏi người bị cáo buộc hỉnh sự cần được
xử lý phù hợp với nguyên tắc này. Mọi cơ quan công quyền không được
có định kiến về kết quả xét xử, chẳng hạn như không được thông báo cho
công chúng về tội danh của bị cáo. Khơng được phép xiềng xích hoặc
nhốt bị cáo trong cũi khi xét xử hoặc để họ xuất hiện trước tòa theo cách
thức cho thấy họ là những kẻ phạm tội hình sự nguy hiểm. Báo chí nên
tránh viết làm tổn hại đến quyền giả định vô tội. Hơn nữa, thời gian tạm
giữ không bao giờ được coi là chỉ dấu của việc phạm tội và mức độ
phạm tội. Việc bị cáo khơng có tiền bảo lãnh hay phải chịu trách nhiệm
trong tố tụng dân sự không ảnh hưởng tới nguyên tắc giả định vô tội.
Như vậy quyền này được áp dụng trong tồn bộ q trình tố tụng, ngay cả
trước khi nghi
cáo buộc cho đến khi sự•••
kết tội được xác nhận
4^7 Xphạm
• chính thức bị••
• sau
lần kháng cáo cuối cùng. Do đó, quyền này chứa đựng rất nhiều khía cạnh và nội
dung, trong đó ở giai đoạn xét xử chủ yếu là: (i) bị cáo phải được coi là vô tội cho tới
khi lỗi của họ được chứng minh; (ii) việc truy tố và xét xử phải được tiến hành theo
một trình tự thủ tục do pháp luật quy định; (iii) trách nhiệm chứng minh tội phạm
thuộc về người buộc tội; (iv) bị cáo khơng có trách nhiệm chứng minh sự vơ tội của
mình; (v) lời nhận tội của bị cáo chỉ được coi là chứng cứ nếu phù hợp với các chứng
cứ khác của vụ án, và khơng dùng đó là chứng cứ duy nhất để kết tội; (vi) bị cáo có
quyền khơng trả lời các câu hởi của cơ quan tố tụng và người tiến hành tố tụng; (vii)
mọi hoài nghi về lỗi của bị cáo cần được giải thích theo hướng có lợi cho bị cáo.
1.1.2.4. Quyền của người bị buộc tội
Tại khoản 3, Điều 14 - ICCPR đã liệt kê những quyền tối thiểu mà mọi người
được hưởng đầy đủ và bình đẳng trong một tiến trinh tố tụng hình sự, những quyền
này bao gồm:
17
a. Được thông báo không chậm trễ và chi tiết bằng một ngơn ngữ mà
người đó hiểu về bản chất và lý do buộc tội mình;
b. Có đù thời gian và điều kiện đế chuẩn bị bào chữa và liên hệvới người
bào chữa do chính mình lựa chọn;
c. Được xét xử mà khơng bị trì hỗn một cách vơ lý;
d. Được có mặt trong khi xét xử và được tự bào chữahoặc thông qua sự
trợ giúp pháp lý theo sự lựa chọn của mình; được thơng báo về quyền
này nếu chưa có sự trợ giúp pháp lý; và được nhận sự trợ giúp pháp lý
theo chỉ định trong trường hợp lợi ích của cơng lý địi hỏi và khơng phải
trả tiền cho sự trợ giúp đó nếu khơng cỏ đù điều kiện trả;
e. Được đối chất hoặc yêu cầu đối chất những nhân chứng buộc tội mình,
và được mời người làm chứng gỡ tội cho mình tham gia;
f. Được có phiên dịch miễn phí nếu khơng hiểu hoặc khơng nói được
ngơn ngữ sử dụng trong phiên tồ;
g. Khơng bị buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc
phải nhận là mình có tội.
Quyền của tất cả những người bị buộc tội là được thông báo kịp thời và chi
tiết bằng một ngôn ngữ mà họ hiểu về bản chất và nguyên nhân của tội danh đó.
Quyền này được nêu tại khoản 3(a), là một trong những bảo đảm tối thiểu trong tố
tụng hình sự nêu ở Điều 14. Bảo đảm này áp dụng cho tất cả nhừng bị can, bị cáo
trong các vụ việc hình sự, bao gồm nhũng người không bị tạm giam nhưng trong
dạng bị điều tra hình sự trước khi bị kết tội. Bảo đảm việc thông báo về lý do bắt
giữ cũng được đề cập riêng tại Điều 9 Khoản 2 của Công ước. Quyền được thông
báo "kịp thời" yêu cầu thông tin được cung cấp ngay sau khi bên liên quan bị chính
thức kết tội hình sự theo nội luật, hay cơng chúng biết tới cá nhân đỏ là có
tội. Những yêu cầu cụ thể nêu ở khoản 3(a) có thề được đáp ứng bằng hình thức
thơng báo bằng lời - nếu sau này được xác nhận bằng văn bản, trong đó chứa đựng
thông tin về cơ sở buộc tội dựa trên luật và sự thực. Điều 14 khoản 3 (a) yêu cầu
trong trường họp xét xử vắng mặt bị cáo tòa án vẫn phải thực hiện các biện pháp để
thông báo cho bị cáo về những thủ tục tố tụng [29].
18
Khoản 3(b) quy định răng bị cáo phải có đây đủ thời gian và điêu kiện đê
chuẩn bị• cho việc
bào chữa và liên hệ•••••
với luật sư mà họ lựa chọn. Điều khoản nàyJ là
•
một yếu tố quan trọng của việc đảm bảo xét xử công bằng và áp dụng các nguyên
tắc bình đẳng quyền lực. Quyền bào chữa của người bị buộc tội bao gồm quyền tự
bào chữa và quyền nhờ Luật sư. Điều này được quy định tại điều 13(3)(d) ICCPR,
điều 7(1 )(c) Hiến chương châu Mỹ về quyền con người và quyền của các dân tộc,
điều 8(2)(d) của công ước châu Mỹ về quyền con người, điều 6 (3)(c) Công ước
châu âu về quyền con người, điều 20(4)(d) và 21(4)(d) cùa quy chế Tịa án hình sự
Quốc tế xét xử Ruanda và quy tế tịa án hình sự xét xử Nam Tư cũ. Khắp nơi trên
thế giới, Luật sư có vai trị đặc biệt quan trọng trong việc đảm bảo quyền bào chữa
của người bị buộc tội. Nguyên tắc 10 trong các nguyên tắc về bảo vệ tất cả những
người bị giam giữ hay tù dưới bất kỳ hình thức nào [2, tr. 152] cũng khẳng định quyền
của bị can, bị cáo được liên lạc, tham khảo ý kiến với luật sư, việc tiếp xúc với Luật
sư phải ngoài tầm nghe cùa quan chức thi hành pháp luật. Các nguyên tắc cơ bản về
vai trò của luật sư (1990) cũng đặc biệt chú ý đến vai trò của luật sư trong tư pháp
hình sự. Theo đó, các Chính phủ có nghĩa vụ đảm bảo cho người bị bát nhanh chóng,
trong mọi trường hợp khơng q 48 giờ tiếp xúc với Luật sư [3, tr. 105J. Trong trường
hợp một bị đơn khơng có khả năng chi trả thì tịa án phải cung cấp một thơng dịch
viên miễn phí trong giai đoạn trước xét xử và khi xét xử. Thời gian chuẩn bị như thế
nào là đủ phụ thuộc vào từng vụ. Luật sư có thể trong một số trường hợp xin hoàn
xét xử nếu thấy chưa đủ thời gian chuẩn bị việc bào chữa. Tồ án chỉ có thể ra quyết
định hoãn xét xử khi bị đơn bị kết tội hình sự nghiêm trọng và cần thời gian chuẩn
bị cho việc bào chữa.
"Điều kiện đầy đù" bao gồm quyền tìm kiếm các tài liệu, chứng cứ khác;
việc tiếp cận này bao gồm các tài liệu liên quan đến việc khởi tố và thơng tin có thể
dùng để bào chữa. Các tài liệu nội dung để bào chữa được hiểu không những bao
gồm tài liệu đế chứng minh sự vô tội mà cả các bằng chứng khác có thế giúp bào
chữa (ví dụ, lời thú tội khơng tự nguyện). Trong trường hợp có phản đối về chứng
cứ thư được là vi phạm Điều 7 của Công ước, thông tin về hoàn cảnh thu thập
19