Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Chuyen de bao cao 02 ung dung CNTT day manh CP dien tu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (104.48 KB, 17 trang )

HUYÊN ĐỀ BÁO CÁO 02
ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN ĐẨY MẠNH XÂY DỰNG
CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1. Một số khái niệm
1.1. Khái niệm ứng dụng cơng nghệ thơng tin
1.2. Khái niệm chính phủ điện tử
1.3. Mục tiêu và lợi ích của chính phủ điện tử
1.4. Các mơ hình chính phủ điện tử
2. Thực trạng xây dựng chính phủ điện tử ở Việt Nam hiện nay
2.1. Thực trạng dịch vụ công trực tuyến
2.2. Thực trạng cơ sở hạ tầng viễn thông
2.3. Thực trạng nguồn nhân lực xây dựng chính phủ điện tử
3. Kế hoạch phát triển chính phủ điện tử ở Việt Nam trong thời gian tới
4. Một số giải pháp đẩy mạnh chính phủ điện tử ở Việt Nam


1. Một số khái niệm
1.1. Khái niệm ứng dụng công nghệ thông tin
Ngày nay, ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ quan nhà nước,
hướng tới phát triển Chính phủ điện tử là xu thế tất yếu, là mơ hình phổ biến của
nhiều quốc gia. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 (CMCN 4.0) đang mở ra một
thời đại mới trong tiến trình phát triển của nhân loại - thời đại số. Với những thành
tựu khoa học - công nghệ tác động ngày càng mạnh mẽ lên mọi mặt hoạt của xã hội,
chính phủ số cùng với nền kinh tế số và xã hội số đang trở thành xu thế phát triển tất
yếu của nhiều chính phủ và quốc gia trên thế giới
Theo Luật công nghệ thông tin số 67/2006/QH11 ngày 29 tháng 6 năm 2006,
Ứng dụng công nghệ thông tin là việc sử dụng công nghệ thông tin vào các hoạt động
thuộc lĩnh vực kinh tế - xã hội, đối ngoại, quốc phòng, an ninh và các hoạt động khác
nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả của các hoạt động này.
Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 01 tháng 7 năm 2014 của Bộ Chính trị Ban Chấp
hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam về đẩy mạnh ứng dụng, phát triển công


nghệ thông tin đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế đã khẳng
định: Ứng dụng công nghệ thông tin góp phần quan trọng thực hiện ba đột phá chiến
lược: (1) Triển khai có hiệu quả chương trình cải cách hành chính, gắn kết chặt chẽ
với việc xây dựng Chính phủ điện tử và cung cấp dịch vụ cơng trực tuyến ở mức độ
cao và trong nhiều lĩnh vực; (2) Ứng dụng công nghệ thông tin trong hiện đại hóa hệ
thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, trước hết là các lĩnh vực liên quan tới nhân dân
như giáo dục, y tế, giao thông, điện, thuỷ lợi, hạ tầng đô thị lớn và cung cấp các dịch
vụ công trực tuyến cho nhân dân; (3) Tạo chuyển biến mạnh mẽ về chất lượng nguồn
nhân lực, đổi mới nội dung, phương thức dạy và học, thúc đẩy xã hội học tập, đáp ứng
yêu cầu phát triển đất nước.
Ngày nay, ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ quan nhà nước
(CQNN), hướng tới phát triển Chính phủ điện tử là xu thế tất yếu, là mô hình phổ biến
của nhiều quốc gia, xây dựng chính phủ điện tử trở thành nhiệm vụ hàng đầu của bất


cứ Chính phủ nào, chính phủ điện tử cho phép người dân tương tác, nhận được các
dịch vụ từ Chính phủ 24/7, tăng tính minh bạch, giảm chi phí, nâng cao hiệu lực, hiệu
quả hoạt động của Chính phủ, góp phần làm giảm tiêu cực, thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế - xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng.
1.2. Khái niệm chính phủ điện tử
Chính phủ điện tử là Chính phủ ứng dụng công nghệ thông tin - truyền thông
nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của cơ quan nhà nước, tăng cường công
khai, minh bạch thông tin, cung cấp dịch vụ công tốt hơn cho người dân và doanh
nghiệp.
Ở mức độ phát triển này, Chính phủ tập trung vào việc số hoá các nguồn tài
nguyên, ứng dụng cơng nghệ thơng tin, tin học hố quy trình nghiệp vụ đã có nhằm
nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động, tập trung cung cấp dịch vụ trực tuyến phục vụ
người dân và doanh nghiệp.
Chính phủ điện tử là thuật ngữ chỉ “Sự hoạt động của bộ máy hành chính nhà
nước được ứng dụng một cách có hiệu quả những thành tựu của khoa học, công nghệ

thông tin, điện tử để điều hành các lĩnh vực của đời sống xã hội cần có sự tham gia
của nhà nước và cung ứng đầy đủ, khẩn trương, liên tục với chi phí thấp các dịch vụ
công cho mọi tổ chức, cá nhân thông qua các phương tiện thông tin điện tử”.
1.3. Mục tiêu và lợi ích của chính phủ điện tử
Trong kỷ ngun chính phủ điện tử, mọi cơng dân có thể được hưởng các dịch
vụ của chính phủ mọi lúc mọi nơi, với chi phí thấp hơn và được phục vụ nhiệt tình
hơn. Chính phủ điện tử cũng ảnh hưởng rất lớn lên giới doanh nghiệp, đặc biệt là các
doanh nghiệp nhỏ. Các cơng ty giờ đây có thể hồn thành các u cầu của chính phủ
trên mạng, tìm kiếm các chương trình hỗ trợ doanh nghiệp, thực hiện các giao dịch
hoặc nộp thuế ngay trên mạng.
Chính phủ điện tử là chính phủ đảm bảo được cung cấp đầy đủ thơng tin cần
thiết và đúng lúc cho việc ra quyết định. Chính phủ điện tử lý tưởng là một chính phủ
cung cấp đầy đủ thông tin, đúng thời điểm cho những người quyết định, đó là lợi thế


lớn nhất của CNTT. Chính phủ điện tử sử dụng CNTT để tự động hóa các thủ tục
hành chính của chính phủ, áp dụng CNTT vào các quy trình quản lý, hoạt động của
chính phủ do vậy tốc độ xử lý các thủ tục hành chính nhanh hơn rất nhiều lần.
Chính phủ điện tử cho phép cơng dân có thể truy cập tới các thủ tục hành chính
mà thơng qua phương tiện điện tử, ví dụ như: Internet, điện thoại di động, truyền hình
tương tác.
Chính phủ điện tử giúp cho các doanh nghiệp làm việc với chính phủ một cách
dễ dàng bởi mọi thủ tục đều được hiểu, hướng dẫn và mỗi bước công việc đều được
đảm bảo thực hiện tốt, tin cậy. Mọi thơng tin kinh tế mà chính phủ có đều được cung
cấp đầy đủ cho các doanh nghiệp để hoạt động hiệu quả hơn. Đối với công chức,
CNTT dùng trong Chính phủ điện tử là một cơng cụ giúp họ hoạt động hiệu quả hơn,
có khả năng đáp ứng nhu cầu của công chúng về thông tin truy cập và xử lý chúng.
Về mặt lợi ích, Chính phủ điện tử có nhiều ưu điểm và lợi ích hơn so với Chính
phủ truyền thống:
Thứ nhất, sự vận hành của chính phủ truyền thống diễn ra thủ cơng, nhiều thủ

tục, tốn nhiều cơng sức và tài chính cho cả nhà nước, doanh nghiệp và nhân dân;
người dân chỉ có thể liên hệ với Chính phủ 5 ngày/tuần, 8h/ngày tại trụ sở của các
CQNN. Với lợi thế của việc ứng dụng CNTT &TT, Chính phủ điện tử có thể khắc
phục được những hạn chế trên của Chính phủ truyền thống. Thơng qua Chính phủ
điện tử, người dân có thể thực hiện nhiều dịch vụ hành chính như đăng ký kinh doanh,
làm khai sinh, khai tử hay đóng thuế trước bạ 365 ngày/năm, 7 ngày/tuần, 24 giờ/ngày
ở bất kỳ nơi nào
Thứ hai, xét về tốc độ xử lý các dịch vụ giữa Chính phủ điện tử và Chính phủ
truyền thống, việc tin học hóa và tự động hố thủ tục hành chính của Chính phủ điện
tử cho phép giải quyết các dịch vụ nhanh hơn, thuận tiện hơn, gọn hơn, đơn giản hơn
rất nhiều. Chính phủ điện tử làm đơn giản hóa các thủ tục, giảm bớt các khâu rườm rà
trong thủ tục và nâng cao hiệu quả của quá trình phê duyệt, chú trọng việc cung cấp
các dịch vụ nhanh chóng, hiệu quả.


Thứ ba, với những khách hàng trực tuyến, Chính phủ điện tử sẽ giúp làm giảm
thiểu sự tham gia của các cán bộ chính phủ trong việc cung cấp một cách hiệu quả các
dịch vụ công cộng cho người dân. Thơng qua việc tham gia rộng rãi của người dân,
Chính phủ điện tử cũng giúp nâng cao tính minh bạch và tin cậy của chính phủ, đồng
thời có thể thu thập rộng rãi ý kiến của người dân trong quá trình hoạch định, thực thi
và giám sát chính sách của chính phủ.
Thứ tư, Chính phủ điện tử sẽ khắc phục và đẩy lùi những tiêu cực diễn ra trong
hoạt động cơng vụ đó là cửa quyền, hách dịch, sách nhiễu, trì trệ, quan liêu …., các
“thủ tục bơi trơn”. Với việc cung ứng các dịch vụ công trực tuyến, CPĐT sẽ giải
quyết các công việc của người dân, doanh nghiệp theo đúng thủ tục, trình tự, thời
gian, chất lượng đã được quy định sẵn theo tiêu chuẩn.
Thứ năm, Chính phủ điện tử là nền tảng để chuyển từ nền hành chính truyền
thống sang nền hành chính phát triển, mà thực chất là chuyển từ nền hành chính cai trị
sang nền hành chính phục vụ. Trong Chính phủ điện tử, cơng dân là khách hàng; quan
hệ “xin – cho” phổ biến trong Chính phủ truyền thống được chuyển thành quan hệ

“phục vụ, cung ứng dịch vụ” trong Chính phủ điện tử.
– Đối với Chính phủ.
+ Tăng cường tính hiệu quả và chất lượng dịch vụ của bộ máy nhà nước (hay
đồng nghĩa với giảm trì trệ – quan liêu).
+ Giảm “nạn giấy tờ” văn phịng – cơng sở, tiết kiệm thời gian, hợp lý hóa việc
vận hành cơng việc, cho phép các cơ quan Chính phủ cung cấp các dịch vụ chất
lượng cao hơn và giảm ngân sách chi tiêu của chính phủ.
+ Hợp lý hóa việc vận hành cơng việc, cho phép các cơ quan chính phủ cung
cấp các dịch vụ chất lượng cao hơn và giảm ngân sách vận hành bộ máy nhà nước.
+ Tăng cường sự minh bạch, giảm tham nhũng: Do không bị giới hạn bởi
không gian và thời gian, Chính phủ điện tử tạo ra luồng thông tin thông suốt và minh
mạch cũng như khả năng tiếp cận thông tin, dịch vụ một cách dễ dàng, thuận tiện.
Những thông tin này liên quan đến hoạt động mua sắm công, kế hoạch đấu thầu,


thông qua báo mời thầu, biên bản mở thầu và kết quả đấu thầu. Chính phủ điện tử
góp phần thúc đẩy cạnh tranh trên phương diện số lượng (tham gia) và chất lượng
(cơng khai và cơng bằng).
+ Giảm chi phí cho chính phủ: giúp hoạt động mua sắm cơng của chính phủ
hiệu quả hơn nhờ giảm chi phí giao dịch từ 10-20%. Thơng qua việc tự động hóa các
quy trình đấu thầu giúp giảm thiểu chi phí đáng kể cho cả bên mời cao hơn, nhờ vào
3 đặc điểm của Chính phủ điện tử: minh bạch về giá, kích thích cạnh tranh và đổi
mới quy trình. Minh bạch về giá bằng cách công khai kết quả đấu thầu trên mạng đã
tránh được tình trạng ký hợp đồng với giá quá cao và giúp điều chỉnh giá hàng hóa,
xây lắp hay dịch vụ theo đúng giá thị trường.
1.4. Các mơ hình chính phủ điện tử
Một mơ hình Chính phủ điện tử hiệu quả sẽ bao gồm cách thức giải quyết quan
hệ tương tác về thơng tin giữa ba chủ thể: chính phủ, công dân và doanh nghiệp.
Trên cơ sở quan hệ giữa các chủ thể trên, ta có thể phân loại Chính phủ điện tử
ra thành 4 loại, tương ứng với 4 dạng dịch vụ Chính phủ bao gồm:

G2C (Government to Citizens): Chính phủ cung cấp thơng tin và dịch vụ cho
người dân, ví dụ : Tổ chức bầu cử của cơng dân, thăm dị dư luận, quản lý quy hoạch
xây dựng đô thị, tư vấn, khiếu nại, giám sát và thanh tốn thuế, hóa đơn của các
ngành với người th bao, dịch vụ thơng tin trực tiếp 24×7, phục cơng cộng, môi
trường giáo dục.
G2B (Government to Business): Dịch vụ và quan hệ chính phủ đối với các
doanh nghiệp, các tổ chức phi chính phủ, nhà sản xuất như: dịch vụ mua sắm, thanh
tra, giám sát doanh nghiệp (về đóng thuế, tuân thủ luật pháp,…); thông tin về quy
hoạch sử dụng đất, phát triển đô thị, đấu thầu, xây dựng;cung cấp thông tin dạng văn
bản, hướng dẫn sử dụng, quy định, thi hành chính sách nhà nước,… cho các doanh
nghiệp. Đây là thành phần quan hệ cơ bản trong mơ hình nhà nước là chủ thể quản
lý vĩ mô nền kinh tế, xã hội thơng qua chính sách, cơ chế và luật pháp và doanh


nghiệp như là khách thể đại diện cho lực lượng sản xuất trực tiếp của cải vật chất
của nền kinh tế.
G2E (Government to Employees): chỉ các dịch vụ, giao dịch trong mối quan hệ
giữa chính phủ đối với cơng chức, viên chức bảo hiểm, dịch vụ việc làm, trợ cấp thất
nghiệp, chăm sóc sức khỏe, nhà ở…
G2G (Government to Government): được hiểu như khả năng phối hợp, chuyển
giao và cung cấp các dịch vụ một cách có hiệu quả giữa các cấp, ngành, tổ chức, bộ
máy nhà nước trong việc điều hành và quản ly nhà nước, trong đó chính bản thân bộ
máy của chính phủ vừa đóng vai trị là chủ thể và khách thể trong mối quan hệ này.
Tồn bộ hệ thống quan hệ, giao dịch của chính phủ như G2C, G2E, G2B,và
G2G phải được đặt trên một hạ tầng vững chắc của hệ thống: độ tin cậy (trust), khả
năng đảm bảo tính riêng tư (privacy) và bảo mật – an toàn (security) và cuối cùng tất
cả đều dựa trên hạ tầng CNTT & TT với các quy mơ khác nhau: mạng máy tính,
mạng Intranet, Extranet và Internet.
2. Thực trạng xây dựng chính phủ điện tử ở Việt Nam hiện nay
Theo đánh giá của Liên hợp quốc, Việt Nam đã có sự thăng hạng về chính phủ

điện tử liên tục trong 06 năm qua (từ vị trí thứ 99 năm 2014 lên vị trí thứ 86/193 quốc
gia trong năm 2020). Cụ thể, Liên hợp quốc đánh giá chỉ số về chính phủ điện tử theo
bốn mức: rất cao (trên 0,75 điểm); cao (từ 0,5 đến 0,75 điểm); trung bình (từ 0,25 đến
0,5 điểm), thấp (dưới 0,25 điểm). Năm 2020, chỉ số dịch vụ công trực tuyến của Việt
Nam là 0,6529 điểm; chỉ số về cơ sở hạ tầng viễn thông là 0,6694 điểm (đều ở mức
cao theo chỉ số đánh giá của Liên hợp quốc). Bên cạnh đó, chỉ số nguồn nhân lực của
Việt Nam tăng không đáng kể với 0,6779 điểm.
Chính phủ Việt Nam đang từng bước hướng tới chính phủ số, nền kinh tế số và
xã hội số bằng cách nắm bắt những cơ hội do cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư
mang lại. Tuy nhiên, đánh giá trong năm 2020 của Liên hợp quốc cũng chỉ ra những
thách thức và rủi ro đang tồn tại ở các nước đang phát triển, bao gồm cả Việt Nam


như: an ninh mạng, bảo mật dữ liệu, thiếu cơ sở hạ tầng kỹ thuật số và nguồn lực hạn
chế để thực hiện chính sách về chính phủ số.
2.1. Thực trạng dịch vụ công trực tuyến
Về chỉ số dịch vụ công trực tuyến, năm 2014 Việt Nam chỉ đạt mức trung bình
là 0,4173 điểm. Tuy nhiên, nhờ sự nỗ lực cung cấp dịch vụ công trực tuyến cho người
dân, doanh nghiệp và các tổ chức tăng cả về số lượng và chất lượng của các bộ, ngành
cũng như các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nên năm 2020 Việt Nam đã đạt
chỉ số dịch vụ công trực tuyến ở mức cao với 0,6529 điểm.
Theo số liệu thống kê năm 2019 của Bộ Thơng tin và Truyền thơng, Việt Nam
có 127.270 dịch vụ công trực tuyến mức độ 1 và mức độ 2, có 26.734 dịch vụ cơng
trực tuyến mức độ 3 (chiếm 16,73%) và 5.792 dịch vụ công trực tuyến mức độ 4
(chiếm 3,62%). So với 06 năm trước đó, cũng theo số liệu thống kê từ Sách trắng
Cơng nghệ thông tin và Truyền thông năm 2014 của Bộ Thơng tin và Truyền thơng thì
Việt Nam chỉ có 2.366 dịch vụ công trực tuyến mức độ 3 (xấp xỉ 2,27%) và 30 dịch
vụ công trực tuyến mức độ 4 (xấp xỉ 0,03%).
Đến nay, 100% bộ, ngành, địa phương đã kết nối, liên thông, gửi, nhận văn bản
điện tử với Trục liên thông văn bản quốc gia; tỷ lệ văn bản dưới dạng điện tử được

trao đổi trên toàn quốc đạt 90,81%; tỷ lệ dịch vụ công trực tuyến mức độ 4 tăng
khoảng 3 lần, từ 10,76% năm 2019, lên trên 31% vào tháng 12/2020.
Từ ngày 09/12/2019, Cổng Dịch vụ công Quốc gia đã được đưa vào vận hành
tại địa chỉ www.dichvucong.gov.vn, được kết nối, tích hợp với cổng dịch vụ công và
hệ thống một cửa điện tử tại các bộ, ngành, địa phương. Đây là nơi cung cấp thông tin
về thủ tục hành chính và dịch vụ cơng trực tuyến; hỗ trợ thực hiện, giám sát, đánh giá
việc giải quyết thủ tục hành chính, dịch vụ cơng trực tuyến và tiếp nhận, xử lý phản
ánh, kiến nghị của cá nhân, tổ chức trên tồn quốc.
Cổng dịch vụ cơng quốc gia là đầu mối kết nối với các Cổng dịch vụ công và
các hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu của các Bộ, ngành, địa phương, giúp công khai,
minh bạch các thông tin liên quan về thủ tục hành chính và cung cấp, hỗ trợ thực hiện


dịch vụ công theo yêu cầu sử dụng của người dân, doanh nghiệp, phù hợp với từng
đối tượng. Với một địa chỉ truy cập duy nhất (www.dichvucong.gov.vn), bằng một tài
khoản duy nhất, người dùng có thể đăng nhập được tất cả các cổng dịch vụ công cấp
Bộ, cấp tỉnh để thực hiện dịch vụ cơng trực tuyến. Người dùng có thể theo dõi tình
trạng giải quyết, đánh giá chất lượng giải quyết và gửi phản ánh, kiến nghị mà không
phụ thuộc vào thời gian, địa giới hành chính. Các thơng tin, dữ liệu được chia sẻ, tái
sử dụng, giúp tiết kiệm thời gian chuẩn bị hồ sơ, từ đó giảm đáng kể chi phí xã hội
trong thực hiện thủ tục hành chính, đặc biệt là những thủ tục hành chính có liên quan
đến nhiều cơ quan.
Theo đó, cổng dịch vụ cơng cung cấp các chức năng chính sau: Một là, chức
năng đăng nhập một lần, sử dụng một tài khoản của Cổng dịch vụ công quốc gia để
đăng nhập, thực hiện dịch vụ Cổng dịch vụ công của Bộ, của địa phương. Hai là, tra
cứu về thông tin thủ tục hành chính, dịch vụ cơng của tất cả các ngành, lĩnh vực, các
địa phương trên toàn quốc. Ba là, hỗ trợ thực hiện thủ tục hành chính, dịch vụ cơng
theo hướng số hóa thơng tin, cung cấp các tiện ích liên quan đến việc thực hiện dịch
vụ công. Bốn là, theo dõi chi tiết tồn bộ q trình giải quyết thủ tục hành chính,
dịch vụ cơng. Năm là, tiếp nhận, xử lý phản ánh kiến nghị của người dân, doanh

nghiệp về khó khăn, vướng mắc trong quy định và thực hiện quy định hành chính.
Sáu là, thanh tốn trực tuyến nghĩa vụ tài chính trong thực hiện thủ tục hành chính,
dịch vụ cơng. Bảy là, đánh giá sự hài lịng trong giải quyết thủ tục hành chính, dịch
vụ cơng.
Từ 8 nhóm dịch vụ cơng trực tuyến được cung cấp ở thời điểm khai trương, đến
ngày 06/8/2020 (sau gần 8 tháng triển khai), Cổng dịch vụ cơng quốc gia đã tích hợp,
cung cấp 991 dịch vụ công trực tuyến (457 dịch vụ cho công dân; 604 dịch vụ cho
doanh nghiệp). Cổng dịch vụ cơng quốc gia đã tích hợp với 18 Bộ, ngành, 63/63 địa
phương, 12 tập đồn, tổng cơng ty, ngân hàng, trung gian thanh tốn. Đến nay, đã có
hơn 212,5 nghìn tài khoản đăng ký; hơn 55,4 triệu lượt truy cập tìm hiểu thơng tin và
thực hiện dịch vụ; hơn 13,3 triệu hồ sơ đồng bộ trạng thái để phục vụ tra cứu, theo


dõi, giám sát, đánh giá quá trình giải quyết hồ sơ thủ tục hành chính; hơn 250 nghìn
hồ sơ thực hiện trực tuyến từ Cổng dịch vụ công quốc gia; hơn 4 nghìn giao dịch
thanh tốn trực tuyến thành cơng sau hơn 3 tháng đưa vào triển khai hệ thống thanh
tốn trực tuyến; tiếp nhận, xử lý hơn 7,4 nghìn phản ánh, kiến nghị và hỗ trợ, giải đáp
hơn 21,3 nghìn cuộc gọi tổng đài.
Thơng qua việc chuẩn hóa thủ tục hành chính, tái cấu trúc quy trình, dịch vụ, bảo
đảm việc theo dõi, giám sát, đánh giá toàn bộ q trình thực hiện, Cổng dịch vụ cơng
quốc gia giúp chuẩn hóa việc cung cấp dịch vụ cơng trực tuyến của các Bộ, ngành, địa
phương thực chất, hiệu quả hơn, ngăn ngừa tệ nạn nhũng nhiễu, tiêu cực trong giải quyết
thủ tục hành chính, từ đó nâng cao ý thức trách nhiệm, kỷ luật, kỷ cương hành chính và
chất lượng phục vụ Nhân dân.
Như vậy, Việt Nam đã có sự thay đổi lớn về cung cấp dịch vụ công trực tuyến,
đặc biệt là dịch vụ công trực tuyến mức độ cao (mức độ 3 và mức độ 4) với số lượng
tăng vượt trội so với những năm trước đây. Đây là kết quả quan trọng mà Việt Nam đã
đạt được nhờ ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của các cơ quan nhà
nước, cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức độ cao, trên diện rộng để phục vụ người
dân và doanh nghiệp, đặc biệt là nỗ lực tích hợp dịch vụ cơng trực tuyến mức độ 3 và

mức độ 4 lên Cổng Dịch vụ công Quốc gia.
Trong thời gian tới, Việt Nam sẽ tập trung lựa chọn các thủ tục hành chính, dịch
vụ cơng có đối tượng sử dụng lớn để tái cấu trúc quy trình nghiệp vụ, tích hợp, cung
cấp trên Cổng dịch vụ cơng quốc gia, hoàn thành mục tiêu tối thiểu 30% dịch vụ công
trực tuyến mức độ 3, 4 thuộc thẩm quyền giải quyết của Bộ, ngành, địa phương lên
Cổng dịch vụ công quốc gia theo yêu cầu tại Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày
01/01/2020 của Chính phủ; chuẩn hóa thơng tin, dữ liệu thủ tục hành chính trên cơ sở
dữ liệu quốc gia về thủ tục hành chính; kết nối, tích hợp dùng chung hệ thống thanh
toán trực tuyến của Cổng dịch vụ cơng quốc gia để thực hiện thanh tốn các nghĩa vụ
tài chính trong giải quyết thủ tục hành chính, thuế, thu phạt xử lý vi phạm hành chính
nhằm thúc đẩy thực hiện thành cơng giải pháp thanh tốn khơng dùng tiền mặt; thực


hiện nghiêm việc tiếp nhận, xử lý phản ánh, kiến nghị của người dân, doanh nghiệp để
kịp thời tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc, bất cập, các rào cản cho sản xuất, kinh
doanh; tiếp tục thực hiện việc hỗ trợ người dùng thông qua tổng đài hỗ trợ và xây
dựng, đưa vào áp dụng hệ thống trả lời tự động ứng dụng trí tuệ nhân tạo; đồng thời,
tổ chức tốt công tác tuyên truyền để nâng cao nhận thức, khuyến khích người dân,
doanh nghiệp tham gia thực hiện; đảm bảo hệ thống vận hành thơng suốt, an tồn, bảo
mật thông tin.
2.2. Thực trạng cơ sở hạ tầng viễn thông
Theo thống kê của Liên hợp quốc, trong năm 2020 tỷ lệ người Việt Nam dùng
Internet là 70,37%, tăng khá cao so với năm 2018 là 46,5%. Số liệu thống kê năm
2019 của Bộ Thông tin và Truyền thông cho thấy tỷ lệ dân số được phủ sóng di động
là 99,7%, trong đó tỷ lệ người dân được phủ sóng di động 4G là 95,3%; tỷ lệ hộ gia
đình có kết nối Internet là 47%; thuê bao điện thoại di động với 136,74 thuê bao/100
dân; thuê bao Internet băng thông rộng (có dây) là 13,63%; th bao Internet (di
động) băng thơng rộng chiếm 55,39%.
Số lượng người dùng Internet tại Việt Nam năm 2019 đã đạt 70%, tương ứng
với hơn 67 triệu người. Năm 2020, thông qua ba chỉ số quan trọng khi đánh giá về cơ

sở hạ tầng viễn thông như: thuê bao điện thoại di động với 120 thuê bao/100 dân; th
bao Internet băng thơng rộng (có dây) là 13,6% và thuê bao Internet (di động) băng
thông rộng đạt 71,89%, chỉ số cơ sở hạ tầng viễn thông (TII) của Việt Nam đạt mức
cao là 0,6694 điểm, cao hơn mức trung bình thế giới là 0,5964 điểm và so với năm
2018 (đạt 0,3890 điểm) thì chỉ số này đã cao gấp 1,7 lần. Các đánh giá trước đây của
Liên hợp quốc về cơ sở hạ tầng viễn thông của Việt Nam đều đạt điểm ở mức trung
bình.
Trong năm 2020, để tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý trong quản lý viễn
thơng, Bộ Thơng tin và Truyền thơng đã trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết
định về Mạng điện báo Hệ đặc biệt; Quyết định quy định về đấu giá, chuyển nhượng
quyền sử dụng kho số viễn thông, tên miền Internet; Nghị định về thu tiền sử dụng tần


số vô tuyến điện, đấu giá, chuyển nhượng quyền sử dụng tần số vô tuyến điện đối với
băng tần; xây dựng quy hoạch tần số phục vụ cho việc triển khai 5G sẵn sàng cho việc
triển khai thương mại 5G bằng thiết bị Việt Nam.
Bộ Thông tin và Truyền thông đã xây dựng và báo cáo Thủ tướng Chính phủ
phương án thúc đẩy sử dụng điện thoại thông minh 4G/5G, đẩy nhanh việc chuyển
đổi sử dụng thiết bị đầu cuối sang điện thoại thông minh. Đồng thời, Bộ đã chỉ đạo
doanh nghiệp sản xuất, thử nghiệm thành công thiết bị thu phát sóng Node 5G Make
in Viet Nam; cấp phép cho các doanh nghiệp viễn thông (Viettel, MobiFone, VNPT)
thử nghiệm thương mại mạng và dịch vụ viễn thông 5G từ tháng 11/2020 để đánh giá
trước khi xem xét, triển khai diện rộng trong năm 2021.
Công tác chuyển đổi Ipv6 trên mạng Internet Việt Nam và Chương trình tư vấn
hỗ trợ chuyển đổi Ipv6 trên mạng lưới, dịch vụ của cơ quan nhà nước đã được tích
cực triển khai thực hiện. Tính đến ngày 25/12/2020, tỷ lệ ứng dụng truy cập Ipv6 trên
Internet Việt Nam đạt 45,86%, gấp 1,7 lần trung bình tồn cầu và gấp 2-3 lần trung
bình khối ASEAN với 34 triệu người sử dụng Ipv6. Việt Nam đứng thứ 2 khu vực
ASEAN, thứ 4 châu Á và thứ 10 toàn cầu, khẳng định vị thế trong khu vực và quốc tế.
Tên miền quốc gia “.vn” vượt mốc nửa triệu, đạt gần 517.000 tên miền, lần đầu tiên

vượt qua tên miền quốc tế với tỷ lệ lần lượt là 50,6% và 49,4%, tiếp tục đứng đầu
ASEAN. Số lượng mạng thành viên kết nối Trạm trung chuyển Internet quốc gia
VNIX tăng trưởng cao, đạt 46 mạng thành viên, tỷ lệ tăng trưởng thành viên 38%.
2.3. Thực trạng nguồn nhân lực xây dựng chính phủ điện tử
Bên cạnh chỉ số dịch vụ công trực tuyến và chỉ số cơ sở hạ tầng viễn thông,
Việt Nam cũng chú trọng gia tăng chỉ số nguồn nhân lực (HCI). Theo đánh giá của
Liên hợp quốc, chỉ số HCI được tính từ 04 chỉ số thành phần là: tỷ lệ biết chữ của
người lớn từ 15 tuổi trở lên; tỷ lệ người đang theo học; số năm đi học dự kiến; số năm
đi học trung bình của người từ 25 tuổi trở lên.
Theo số liệu thống kê trong Sách trắng Công nghệ thông tin và Truyền thông năm
2019 của Bộ Thông tin và Truyền thông, tỷ lệ số người trên 15 tuổi biết đọc, biết viết


chiếm 95,8% tổng số dân. Tỷ lệ số người học đại học, cao đẳng trên tổng số người trong
độ tuổi đại học, cao đẳng (từ 18 đến 22 tuổi, tương đương 5 năm tiếp theo sau khi tốt
nghiệp trung học phổ thơng) là 21,1%.
Để xây dựng chính phủ điện tử, cần có cơng dân điện tử và cơng chức điện tử.
Chính phủ Việt Nam đã nhận thức rõ tầm quan trọng và rất quan tâm đến vấn đề này.
Theo số liệu thống kê, tổng số lao động trong lĩnh vực công nghiệp công nghệ thông
tin - điện tử, viễn thông là 973.692 người. Riêng nhân lực làm việc trong lĩnh vực
viễn thông và Internet năm 2018 là 77.205 người (năm 2016 chỉ có 71.298 người).
Thống kê của Bộ Thơng tin và Truyền thông cũng cho thấy nhân lực công nghệ thông
tin trong các cơ quan nhà nước tăng rõ rệt: tỷ lệ trung bình số đơn vị trực thuộc bộ, cơ
quan ngang bộ có cơng chức chun trách về cơng nghệ thông tin năm 2018 là
81,39% (năm 2016 là 71,29%). Đối với các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
năm 2018 là 93,45% (năm 2016 là 91,67%).
Tuy nhiên, theo đánh giá chỉ số nguồn nhân lực của Liên hợp quốc năm 2020,
Việt Nam chỉ đạt 0,6779 điểm, tuy có cao hơn những năm trước nhưng vẫn thấp hơn
mức trung bình của thế giới (0,688 điểm). So với năm 2014 là 0,6025 điểm, chỉ số
này tăng không đáng kể. Chỉ số HCI của Việt Nam thấp hơn nhiều so với Singapore quốc gia có chỉ số nguồn nhân lực cao nhất trong khu vực ASEAN (0,8904 điểm).

3. Kế hoạch phát triển chính phủ điện tử ở Việt Nam trong thời gian tới
Nghị quyết số 17/NQ-CP ngày 07/3/2019 của Chính phủ về một số nhiệm vụ,
giải pháp trọng tâm phát triển chính phủ điện tử giai đoạn 2019-2020, định hướng đến
năm 2025 đã đề ra mục tiêu cụ thể: “Hoàn thiện nền tảng chính phủ điện tử nhằm
nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước và chất lượng
phục vụ người dân, doanh nghiệp; phát triển chính phủ điện tử dựa trên dữ liệu và dữ
liệu mở hướng tới chính phủ số, nền kinh tế số và xã hội số; bảo đảm an tồn thơng
tin và an ninh mạng”. Trong đó, mục tiêu Việt Nam phải đạt được vào năm 2025 là
“thuộc nhóm 4 nước dẫn đầu ASEAN”.


Triển khai Nghị quyết số 17/NQ-CP ngày 07/3/2019 của Chính phủ, ngày
31/12/2019, Bộ Thông tin và Truyền thông đã ban hành Khung kiến trúc chính phủ
điện tử Việt Nam phiên bản 2.0. So với Khung kiến trúc chính phủ điện tử Việt Nam
phiên bản 1.0 ban hành năm 2015, lần này có một số nội dung nổi bật như: 05 mơ
hình tham chiếu (mơ hình tham chiếu nghiệp vụ; mơ hình tham chiếu dữ liệu; mơ hình
tham chiếu ứng dụng; mơ hình tham chiếu cơng nghệ; mơ hình tham chiếu an tồn
thơng tin), các hệ thống thơng tin và cơ sở dữ liệu tạo nền tảng xây dựng chính phủ
điện tử Việt Nam.
Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 03/6/2020 của Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt “Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm
2030” đề ra mục tiêu: đến năm 2025 có 50% hoạt động kiểm tra của cơ quan quản lý
nhà nước được thực hiện thông qua môi trường số và hệ thống thông tin của cơ quan
quản lý; phát triển kinh tế số chiếm 20% tổng sản phẩm nội địa (GDP), nâng cao năng
lực cạnh tranh của nền kinh tế; Việt Nam thuộc nhóm 70 quốc gia trên thế giới dẫn
đầu về chính phủ điện tử theo xếp hạng của Liên hợp quốc.
Phấn đấu năm 2025, Việt Nam thuộc nhóm 50 nước dẫn đầu về công nghệ
thông tin (IDI), 50 nước dẫn đầu về chỉ số cạnh tranh (GCI). Đưa Việt Nam vào nhóm
70 quốc gia dẫn đầu về chính phủ điện tử theo đánh giá của Liên hợp quốc vào năm
2025.

Mục tiêu tối thiểu 90% người dân, doanh nghiệp hài lòng với các dịch vụ số
của Chính phủ; 100% dịch vụ cơng trực tuyến cho phép thực hiện thủ tục hành chính
từ đầu đến cuối trên môi trường mạng; 100% hồ sơ thủ tục hành chính được xử lý
hồn tồn trên mơi trường mạng; 100% cơ sở dữ liệu quốc gia tạo nền tảng phát triển
Chính phủ số bao gồm các cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, đất đai, đăng ký doanh
nghiệp, tài chính, bảo hiểm được hồn thành và kết nối, chia sẻ trên toàn quốc; 100%
cơ quan nhà nước tham gia cung cấp dữ liệu mở; 50% hoạt động kiểm tra của cơ quan
quản lý nhà nước được thực hiện qua môi trường số và hệ thống thông tin của cơ quan
quản lý; 100% cán bộ, công chức, viên chức được tập huấn, bồi dưỡng về kỹ năng số.


Đồng thời, Chương trình chuyển đổi số quốc gia cũng chỉ ra tầm nhìn đến năm
2030: “Việt Nam trở thành quốc gia số, ổn định và thịnh vượng, tiên phong thử
nghiệm các cơng nghệ và mơ hình mới; đổi mới căn bản, toàn diện hoạt động quản lý,
điều hành của Chính phủ, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, phương
thức sống, làm việc của người dân, phát triển mơi trường số an tồn, nhân văn, rộng
khắp”.
4. Một số giải pháp tiếp tục đẩy mạnh xây dựng chính phủ điện tử ở Việt Nam
Để xây dựng chính phủ điện tử, cần đánh giá đúng thực trạng ứng dụng công
nghệ thông tin cũng như hiểu rõ được các yếu tố nền tảng cho kinh tế số, từ đó thiết
lập một chiến lược số phù hợp nhất với tình hình thực tế của đất nước. Vì vậy, cần
quan tâm thực hiện một số giải pháp sau:
Một là, cần bố trí nhân sự thích hợp cho chức danh giám đốc cơng nghệ thơng
tin của Chính phủ; giải quyết tốt tình trạng thiếu hụt nhân lực có trình độ cao về cơng
nghệ thơng tin trong các cơ quan nhà nước.
Hai là, sớm hoàn thành xây dựng và đưa vào triển khai áp dụng Khung kiến
trúc chính phủ điện tử cấp bộ, Khung kiến trúc chính quyền điện tử cấp tỉnh, thành
phố phù hợp với Khung kiến trúc chính phủ điện tử Việt Nam phiên bản 2.0. Tái cấu
trúc hạ tầng công nghệ thông tin của các bộ, ngành, địa phương theo hướng kết hợp
giữa mơ hình tập trung và mơ hình phân tán dựa trên cơng nghệ điện tốn đám mây

(cloud computing).
Ba là, sử dụng dữ liệu để hoạch định và thực thi chính sách, bởi chuyển đổi
chính phủ số phụ thuộc rất nhiều vào các hoạt động sử dụng dữ liệu. Trong đó, khả
năng thu thập, lưu trữ, phân tích và chia sẻ dữ liệu dựa trên ứng dụng công nghệ mới có
ý nghĩa then chốt trong cải thiện cung ứng dịch vụ. Thiết lập hệ thống tiêu chuẩn liên
quan đến các cơng nghệ mới. Dữ liệu sẵn có giúp tăng cường chất lượng quyết định
chính sách, nâng cao hiệu quả và gia tăng lợi ích cho người dân; ưu tiên đầu tư xây
dựng các cơ sở dữ liệu quốc gia.
Bốn là, phải đảm bảo nguồn ngân sách nhà nước dành cho xây dựng chính phủ
điện tử. Huy động, sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực và chú trọng công tác truyền


thơng, nâng cao nhận thức của tồn xã hội trong xây dựng chính phủ điện tử, hướng
tới chính phủ số và nền kinh tế số. Chính phủ số tập trung vào nguyên tắc dịch vụ số
phải là cách thức chủ yếu để cung cấp các dịch vụ. Để đạt được điều này, cần có kế
hoạch chuyển đổi tồn bộ chuỗi cung cấp dịch vụ công thông qua việc thiết kế dịch vụ
lấy người dùng làm trung tâm, để người dân và các doanh nghiệp được sử dụng các
dịch vụ công số mà họ mong muốn; khai thác các công nghệ di động phổ biến;
chuyển đổi tồn bộ các quy trình giao dịch sang kỹ thuật số; ra quyết định chính sách
dựa trên dữ liệu hành chính thay vì văn bản hành chính; sử dụng nhất quán các dịch
vụ dùng chung trong tồn bộ Chính phủ.
Năm là, nâng cấp cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin - truyền thông, đảm bảo an
ninh mạng, an tồn thơng tin số và bảo mật dữ liệu. Chính phủ số phải đi đơi với các
nỗ lực tăng cường an ninh mạng và an toàn dữ liệu, bảo mật thông tin cá nhân để
người dùng tin tưởng vào các dịch vụ công số và thông tin trực tuyến của Chính phủ.
Đây là nội dung đặc biệt quan trọng, đòi hỏi sự hợp tác giữa các cơ quan trong nước
và quốc tế nhằm đối phó với các nguy cơ nhằm vào các hệ thống thông tin của khu
vực cơng ngày càng tăng.
Xây dựng chính phủ điện tử, hướng tới chính phủ số, nền kinh tế số, xã hội số
và phát triển bền vững là mục tiêu của nhiều quốc gia trên thế giới chứ không chỉ

riêng Việt Nam. Để đạt được mục tiêu này, Việt Nam cần có quyết tâm và nỗ lực của
cả hệ thống chính trị, xây dựng và triển khai mơ hình lãnh đạo và quản trị mới, nhằm
tận dụng sức mạnh và sự phát triển nhanh chóng của cơng nghệ số.


Tài liệu tham khảo
1. Sách trắng Công nghệ thông tin và Truyền thông Việt Nam 2019, Nxb Thông
tin - Truyền thông.
2. Sách trắng Công nghệ thông tin và Truyền thông Việt Nam 2014, Nxb Thông
tin - Truyền thông.
3. Bộ Thông tin và Truyền thông, Quyết định số 2323/QĐ-TTTT ngày
31/12/2019 ban hành Khung kiến trúc Chính phủ điện tử Việt Nam phiên bản 2.0.
4. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 749/ QĐ-TTg ngày 03/6/2020 về phê
duyệt “Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm
2030”.
5. Bộ Thơng tin và Truyền thơng, Báo cáo tóm tắt tổng kết công tác năm 2020
và giai đoạn 2016 – 2020 phương hướng, nhiệm vụ năm 2021, Kế hoạch phát triển
ngành TT&TT giai đoạn 2021 – 2025, ngày 12/01/2021
Tài liệu đọc thêm
1. “United Nations E-Government Survey 2020”, Department of Economic and
Social Affairs - United Nations New York.
2. “United Nations E-Government Survey 2014”, Department of Economic and
Social Affairs - United Nations New York, https:// publicadministration.un.org/en/.
3. “United Nations E-Government Survey 2018”, Department of Economic and
Social Affairs - UNITED NATIONS New York, https://publicadministration.
un.org/en/




×