Tuyển tập Hội nghị Khoa học thường niên năm 2020. ISBN: 978-604-82-3869-8
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC
THỦY LỢI MƯỜI NĂM SAU ĐỔI MỚI (1986-1996)
Trần Thị Ngọc Thúy
Trường Đại học Thủy lợi, email:
1. GIỚI THIỆU CHUNG
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Đường lối đổi mới toàn diện của Đảng
được đề ra từ Đại hội VI (12-1986) đã thổi
một làn sinh khí mới làm khởi sắc nền kinh tế
nước ta nói chung và thủy lợi nói riêng. Trên
cơ sở khẳng định phát triển nền kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế
thị trường có sự quản lý của nhà nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng chủ
trương phát triển một nền nông nghiệp đa
dạng, xem sản xuất lương thực là cái gốc để
đảm bảo cho xã hội phát triển bền vững; cơ
sở vật chất kỹ thuật để đảm bảo cho phát
triển sản xuất nông nghiệp cũng nhờ đó được
đầu tư hơn trước. Do đó, cơng tác thủy lợi
được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm,
nhất là trong những năm 1986-1996. Những
chủ trương của Đảng thời kỳ này tập trung
vào xây dựng những cơng trình thủy lợi tạo
được nguồn nước lớn, hoàn chỉnh hệ thống
thủy nông, hệ thống tưới tiêu cho sản xuất
nông nghiệp, cho những vùng chuyên canh
cây trồng có hiệu quả kinh tế cao nhằm từng
bước ổn định đời sống nhân dân, tiến tới
phục vụ xuất khẩu đồng thời đảm bảo công
tác bảo vệ đê điều, phòng chống và giảm nhẹ
thiên tai.
3.1. Những yêu cầu đặt ra đối với công
tác thủy lợi trong thời kỳ đổi mới
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Bài viết sử dụng các phương pháp lịch sử,
logic, phân tích, tổng hợp nhằm làm rõ những
chủ trương, sự chỉ đạo của Đảng trong công
tác thủy lợi trong những năm 1986-1996.
Đối với Việt Nam, thủy lợi có tầm quan
trọng đặc biệt trong việc cấp nước tưới, phục
vụ sản xuất, điều hoà, sử dụng và bảo vệ các
nguồn nước, hạn chế những thiệt hại do nước
gây ra; bảo vệ đê điều và phòng chống, giảm
nhẹ thiên tai và góp phần tích cực cho cơng
tác xóa đói giảm nghèo, xây dựng nơng thơn
mới, bảo vệ môi trường, phát triển ngành du
lịch, phục vụ nghỉ ngơi.
Bước vào thời kỳ đổi mới, cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng Cộng sản
Việt Nam xác định đổi mới, cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa nơng nghiệp, nơng thơn là nhiệm
vụ quan trọng hàng đầu, trong đó, phát triển
thủy lợi, chủ động điều tiết nguồn nước, dẫn
nước phục vụ sản xuất mang tính chất quyết
định nhằm tạo bước đột phá trong chuyển dịch
cơ cấu cây trồng, vật ni. Vì vậy, cần nâng
cao hiệu quả khai thác hệ thống thuỷ lợi phục
vụ chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp,
nông thôn và hiệu quả hoạt động quản lý, khai
thác hạ tầng cơng trình thủy lợi, đảm bảo an
tồn hồ đập, nâng cấp các cơng trình thủy lợi
để đảm nhiệm tốt vai trò tưới tiêu, thúc đẩy
phát triển kinh tế theo hướng bền vững.
Mặt khác, thủy lợi còn đáp ứng yêu cầu
trong việc bảo vệ đê điều, phòng, chống và
giảm nhẹ thiên tai, biến đổi khí hậu. Bởi vì các
hiện tượng thiên tai, lũ lụt, hạn hán, nước mặn
xâm nhập thường gây nhiều thiệt hại về người,
tài sản và sản xuất nông nghiệp. Do đó, để tạo
ra một sự phát triển mạnh mẽ trong nông
336
Tuyển tập Hội nghị Khoa học thường niên năm 2020. ISBN: 978-604-82-3869-8
nghiệp, nơng thơn, cần có sự quan tâm hơn nữa
của Đảng và Nhà nước trong việc xây dựng các
công trình thủy lợi phục vụ phát triển nơng
nghiệp bền vững, theo hướng hiện đại hoá,
thâm canh cao, đồng thời ứng dụng những
thành tựu khoa học thủy lợi vào phòng chống
lụt bão, giảm nhẹ thiên tai là nhu cầu cấp thiết
đối với thủy lợi trong thời kỳ đổi mới.
3.2. Chủ trương phát triển thủy lợi của
Đảng 10 năm sau đổi mới (1986-1996)
Sự nghiệp đổi mới đất nước và cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước địi hỏi ngành thủy
lợi phải có bước phát triển mới toàn diện theo
hướng khai thác và bảo vệ tài nguyên nước
phục vụ cho mục tiêu phát triển bền vững của
toàn bộ nền kinh tế, nâng cao khả năng an toàn
của sản xuất và dân sinh trước thiên tai, đồng
thời từng bước hiện đại hóa cơng tác thủy lợi,
phịng chống thiên tai, chống biến đổi khí hậu.
Trong q trình thực hiện đường lối đổi
mới, quy mơ sản xuất nông nghiệp ngày càng
mở rộng theo hướng sản xuất hàng hóa đặt ra
những yêu cầu ngày càng cao đối với cơng
tác thủy lợi. Báo cáo chính trị của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng tại Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VI (12-1986) nhận định:
Yêu cầu cấp bách về lương thực, thực phẩm,
về nguyên liệu sản xuất hàng tiêu dùng, về
hàng xuất khẩu quyết định vị trí hàng đầu của
nơng nghiệp. Do đó, Đại hội xác định nhiệm
vụ của cơng tác thủy lợi là: “Mở rộng và
hồn chỉnh các hệ thống thuỷ lợi, ứng dụng
rộng rãi những thành tựu khoa học và tiến bộ
kỹ thuật, đặc biệt là công nghệ sinh học”1 để
phát triển nông nghiệp, từng bước hiện đại
hóa nơng nghiệp, nơng thơn.
Trong 5 năm (1986-1990), mục tiêu chủ
yếu của ngành thủy lợi là: “hoàn thành đồng
bộ các cơng trình thuỷ lợi, tập trung vào
những cơng trình phát huy ngay hiệu quả,
nhất là mở mang thuỷ lợi nhỏ để khai thác tối
đa cơng suất của cơng trình lớn và vừa đã
được xây dựng. Xây dựng mới một số cơng
trình để phục vụ ngay cho việc tăng vụ,
chuyển vụ và khai hoang mở rộng diện tích...
Cơng tác phịng, chống bão lụt cần được đặc
biệt chú ý, để hạn chế các thiệt hại, bảo vệ tốt
tính mạng và tài sản của nhân dân”2.
3.3. Đảng chỉ đạo thực hiện phát triển
thủy lợi trong những năm 1986-1996
Chủ trương đổi mới quản lý kinh tế của
Đảng và Nhà nước đã thúc đẩy công tác quản
lý thủy lợi đi vào chiều sâu. Đối với thủy nông,
các tỉnh đã thực hiện trao quyền tự chủ cho các
giám đốc cơng ty, xí nghiệp thủy nơng, nhờ đó
mà thủy lợi phí thu được nhiều hơn, các hoạt
động của doanh nghiệp thủy nông đa dạng và
năng động hơn đã tác động tốt đến việc quản lý
cơng trình, quản lý nước và quản lý kinh tế.
Nhằm tăng cường cơ sở vật chất - kỹ thuật
cho nông nghiệp và ứng dụng rộng rãi kỹ
thuật tiến bộ vào sản xuất nông nghiệp, tại
Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung
ương Đảng (khố VI) đã thơng qua Nghị
quyết số 04-NQ/HNTW (17-12-1987) về
phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội trong ba năm 1988-1990 và năm 1988.
Nghị quyết nêu rõ nhiệm vụ của thủy lợi tập
trung vào: “nâng cao hiệu quả sử dụng các
cơng trình thuỷ lợi hiện có, đầu tư thêm cho
thuỷ lợi, cung ứng đủ và kịp thời nhiên liệu,
năng lượng cho cơng tác tưới, tiêu”3.
Do đó, Nhà nước cũng sớm ban hành Điều
lệ đê điều, Pháp lệnh về đê điều cùng nhiều
văn bản quan trọng tạo môi trường pháp lý cho
công tác quản lý khai thác công trình thủy lợi,
đổi mới, phục vụ sự nghiệp cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Cơng tác quy hoạch
phát triển thủy lợi của từng vùng trên phạm vi
cả nước thời kỳ này cũng đã được xác định.
Ở đồng bằng Bắc Bộ, thủy lợi tập trung chủ
yếu vào tiêu úng, ngăn mặn, giữ ngọt. Đối với
thủy lợi miền núi, một mặt, Nhà nước phát
động nhân dân làm nhiều cơng trình nhỏ, thích
ứng với tình hình ruộng đất ít và phân tán, mặt
khác nhà nước chú ý xây dựng các cơng trình
loại vừa, phát triển nhiều hồ chứa nước nhỏ,
2
1
Văn kiện Đảng Tồn tập, tập 47, Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội, 2006, tr. 729-730.
Văn kiện Đảng Toàn tập, tập 47, Sđd, tr. 838-839.
Văn kiện Đảng Tồn tập, tập 48, Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội, 2006, tr. 983.
3
337
Tuyển tập Hội nghị Khoa học thường niên năm 2020. ISBN: 978-604-82-3869-8
đập ngăn suối, cọn nước4, chú ý đắp bờ thành
ruộng bậc thang quanh đồi, làm hồ vây cá, đào
mương quanh đồi, chân núi để điều khiển
dòng nước chống lũ, chú trọng trồng cây, gây
rừng, bảo vệ rừng; hạn chế lũ, ngăn xói lở.
Đồng thời xây dựng các cơng trình chứa nước
để phục vụ cho sản xuất, cung cấp nước sinh
hoạt cho người dân và gia súc góp phần bảo
đảm cho sản xuất ở miền núi được ổn định,
phát triển, tăng năng suất cây trồng, tăng vụ
và khai hoang đồng thời hạn chế lũ lụt thường
xuyên xảy ra hàng năm cho miền xi.
Ở các tỉnh miền Trung, Đảng và Chính phủ
tập trung đầu tư lớn cùng với phương châm
Nhà nước và nhân dân cùng làm, nhằm xây
dựng cơ sở vật chất về thủy lợi, khắc phục khó
khăn do thiên tai thường xuyên gây ra. Đối
với các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, Đảng
và Nhà nước cùng nhân dân tiến hành đắp đê
biển, làm cống ngăn mặn, tiêu úng, xổ phèn,
dẫn ngọt, nạo vét và đào mới các kênh hình
thành các khu ngọt hóa từng bước giải quyết
những khó khăn về mặn xâm nhập, chua phèn,
tạo được môi trường nước ngọt, phát triển sản
xuất, nâng cao đời sống vật chất và văn hóa
của nhân dân, xây dựng nơng thơn mới.
Cơng tác bảo vệ đê điều và phòng chống lụt
bão, giảm nhẹ thiên tai tiếp tục được Đảng và
Nhà nước quan tâm. Từ năm 1988, chủ trương
hợp tác, mở rộng quan hệ quốc tế về thủy lợi
được đẩy mạnh. Ngành thủy lợi bắt đầu gửi
chuyên gia đi học tập, trao đổi kinh nghiệm
với các nước về lĩnh vực này, áp dụng những
tiến bộ khoa học kỹ thuật vào củng cố đê,
phòng chống lụt bão, giảm nhẹ thiên tai.
Các văn bản pháp luật về đổi mới chính sách
và tổ chức quản lý đê điều, phịng chống lụt
bão cũng từng bước hồn thiện, tiêu biểu như:
Chỉ thị số 164/CP ngày 12-5-1994 của Thủ
tướng Chính phủ, Pháp lệnh phịng chống lụt
bão cơng bố theo lệnh Chủ tịch nước số 09L/CTN (ngày 20-3-1993); Chỉ thị số 306-TTg
về cơng tác đê điều, phịng chống lụt bão; giảm
nhẹ thiên tai năm 1995 (ngày 24-5-1995).
Đến thập kỷ 90, công tác thủy lợi miền Bắc
về cơ bản đã giải quyết được hạn hán, úng lụt
ở những vùng trọng điểm lúa, chấm dứt được
cảnh chiêm khô mùa thối trên những vùng
trũng của đồng bằng Bắc Bộ và Bắc khu IV
(cũ). Ở miền Trung, tuy cơng tác thủy lợi cịn
gặp nhiều khó khăn nhưng đã giải quyết được
hạn hán ở một số cánh đồng lớn ở các tỉnh
duyên hải Trung Bộ, Tây Nguyên, từng bước
giải quyết những khó khăn về mặn xâm nhập,
chua phèn cho các tỉnh đồng bằng sơng Cửu
Long góp phần tăng vụ, tăng năng suất cây
trồng, tăng tổng sản lượng nông nghiệp.
4. KẾT LUẬN
Như vậy, sau mười năm thực hiện công
cuộc đổi mới đất nước, được sự quan tâm của
Đảng và Nhà nước, ngành thủy lợi đã có
những đóng góp to lớn góp phần phát triển
một nền nơng nghiệp đa dạng, đảm bảo ổn
định lương thực cho toàn xã hội, có xuất
khẩu, từng bước góp phần đưa đất nước thoát
khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội. Đồng thời
tạo điều kiện phát triển giao thông đường
thủy, đường bộ, phân bố lại lao động trong cả
nước, chống úng, chống lụt, giải phóng sức
lao động ở nơng thơn, cải thiện mơi trường,
từng bước góp phần to lớn vào việc cấp nước
cho ngành nông nghiệp, công nghiệp, cho đô
thị và phát triển thủy điện, đẩy nhanh q
trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
5. TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Bộ Thủy lợi (1995), 50 năm Thủy lợiNhững chặng đường, NXB Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
[2] Phan Khánh (2014), Lịch sử thuỷ lợi Việt
Nam, Nhà xuất bản Thời đại.
[3] Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 47 (2006), tr.
729-730, tr.838-839; Tập 51 (2007), tr.165166; Tập 48 (2006), tr.983, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
/>cập ngày 17/2/2020.
4
Còn gọi là bánh xe nước hoặc guồng nước dùng để tận
dụng sức nước từ các dòng chảy tự nhiên để đưa nước lên
cao, dẫn nước về các đồng ruộng và thôn bản.
338