Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Xung đột tâm lý trong giao tiếp với cha mẹ ở lứa tuổi học sinh trung học cơ sở

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (331.49 KB, 11 trang )

XUNG ĐỘT TÂM LÝ TRONG GIAO TIẾP VỚI CHA MẸ
Ở LỨA TUỔI HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ
PHÍ THỊ THU HUYỀN
Trường Cao đẳng Sư phạm Trung ương Nha Trang
Tóm tắt: Nghiên cứu nhằm tìm hiểu xung đột tâm lý trong giao tiếp với cha mẹ ở lứa
tuổi học sinh trung học cơ sở. Kết quả khảo sát cho thấy một tỉ lệ lớn học sinh cho biết
có sự căng thẳng trong mối quan hệ giao tiếp giữa các em và cha mẹ. Sự căng thẳng
đó bắt nguồn từ những xung đột tâm lý liên quan đến các vấn đề xảy ra trong cuộc
sống hàng ngày. Khi đánh giá tính chất mối quan hệ giữa bản thân và cha mẹ, các em
trai có xu hướng đánh giá sự căng thẳng nhiều hơn các em gái; học sinh khối lớp 8
đánh giá sự căng thẳng nhiều hơn học sinh khối lớp 7. Vì vậy, trong cuộc sống hàng
ngày, các bậc cha mẹ cần nâng cao sự hiểu biết về đặc điểm giới tính, giai đoạn lứa
tuổi của học sinh để có cách ứng xử phù hợp nhằm thiết lập mối quan hệ tốt đẹp với
con cái giúp cho quá trình phát triển của học sinh được diễn ra thuận lợi.
Từ khóa: Mối quan hệ giao tiếp giữa cha mẹ và con cái, xung đột tâm lý, học sinh
trung học cơ sở.

1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Giai đoạn lứa tuổi học sinh (HS) trung học cơ sở (THCS) được coi là giai đoạn rất đặc biệt:
Lứa tuổi thiếu niên, lứa tuổi dậy thì. Sự thay đổi mạnh mẽ về thể chất, vị trí quan hệ xã hội đã
dẫn đến sự thay đổi mạnh mẽ về tâm lý, nhân cách, trong đó nổi bật lên là hiện tượng khủng
hoảng về mặt tâm lý ở HS THCS. Ở các em xuất hiện cảm giác rất độc đáo về bản thân - cảm
giác mình đã lớn và có sự sẵn sàng làm người lớn. Bước vào lứa tuổi này, các em có nhu cầu độc
lập, khơng muốn phụ thuộc vào người lớn, muốn được người lớn tôn trọng, đối xử bình đẳng
trong một mức độ nhất định, được gia nhập vào một vài khía cạnh của đời sống người lớn với ý
thức vươn lên làm người lớn.
Những biến đổi về mặt tâm lý của HS THCS đã ảnh hưởng rất lớn đến mối quan hệ của
các em với mọi người xung quanh, đặc biệt là cha mẹ của các em. Nếu cha mẹ của các em không
hiểu được thiếu niên đang có những biến đổi mới sẽ dẫn đến sự ứng xử, giao tiếp với các em
không phù hợp. Giữa cha mẹ và con cái lứa tuổi HS THCS thường tồn tại những mâu thuẫn,
xung đột vì thiếu đi sự hiểu biết của hai bên về nhau nhất là ở phía người lớn. Trong thực tế


khơng phải bậc cha mẹ nào cũng có sự hiểu biết đúng đắn về những biến đổi tâm - sinh lý của
các em. Điều đó đã ảnh hưởng rất lớn đến mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái, làm cho những
mâu thuẫn, xung đột nảy sinh và gia tăng sự căng thẳng trong mối quan hệ giữa cha mẹ và con
cái lứa tuổi HS THCS. Đó là những cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc nghiên cứu về xung đột
tâm lý (XĐTL) trong giao tiếp với cha mẹ của HS THCS. Nghiên cứu này nhằm làm rõ XĐTL
trong giao tiếp với cha mẹ của HS THCS, từ đó đề xuất các giải pháp giúp phụ huynh có cách
ứng xử phù hợp nhằm giảm thiểu sự căng thẳng, xung đột trong mối quan hệ với con cái lứa tuổi
HS THCS.
2. KHÁCH THỂ VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để tìm hiểu XĐTL trong giao tiếp với cha mẹ của HS THCS, nghiên cứu đã sử dụng
phương pháp chính là điều tra bằng bảng hỏi. Bảng hỏi bao gồm hệ thống các câu hỏi nhằm tìm
hiểu các vấn đề: Tính chất mối quan hệ giữa HS THCS và cha mẹ, những vấn đề hay xảy ra
XĐTL trong mối quan hệ giữa HS THCS với cha mẹ. Phương pháp phỏng vấn, quan sát được
172


KỶ YẾU HỘI NGHỊ KHOA HỌC TRẺ 2016

11/2016

kết hợp sử dụng nhằm thu thập thêm các thông tin hỗ trợ cho những kết quả thu được từ phương
pháp điều tra bằng bảng hỏi.
Khách thể nghiên cứu của đề tài là 160 em HS THCS khối lớp 7 và khối lớp 8 (77 nam, 83
nữ đang trong độ tuổi thiếu niên) thuộc Trường THCS Mai Xuân Thưởng và Trường Phổ thông
Hermann Gmeiner trên địa bàn thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa và 160 bậc phụ huynh (60
nam và 100 nữ) là cha mẹ của các em. Dữ liệu thu thập được xử lý bằng phần mềm SPSS phiên
bản 22.0.
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Đánh giá của học sinh trung học cơ sở về tính chất mối quan hệ của bản thân với cha mẹ
Để tìm hiểu XĐTL trong giao tiếp với cha mẹ của HS THCS, chúng tôi tiến hành điều tra

tính chất mối quan hệ giao tiếp giữa cha mẹ và con cái lứa tuổi HS THCS. Trong cuộc sống hàng
ngày, tính chất mối quan hệ với cha mẹ sẽ ảnh hưởng rất lớn tới sự phát triển tâm sinh lý, sức
khỏe, việc học tập của HS THCS. Một mối quan hệ vui vẻ, khơng khí cởi mở sẽ là điều kiện
thuận lợi cho sự phát triển toàn diện của các em. Để tìm hiểu đánh giá của HS THCS về tính chất
mối quan hệ với cha mẹ, chúng tơi đưa ra 5 mức độ thể hiện tính chất mối quan hệ của các em
với cha mẹ, kết quả thu được như sau:
Bảng 1. Đánh giá của HS THCS và phụ huynh về tính chất
mối quan hệ giữa HS THCS và cha mẹ
Đánh giá của

Đánh giá của

HS THCS

phụ huynh

Mức độ

STT

SL
1

Rất căng thẳng

2

%

SL


%

6

3,8

0

0

Căng thẳng

15

9,4

5

3,1

3

Hơi căng thẳng

27

16,9

22


13,8

4

Bình thường

77

48,1

83

51,9

5

Vui vẻ

35

21,9

50

31,3

160

100


160

100

Tổng

Bảng 2. Đánh giá của HS THCS về tính chất mối quan hệ
của bản thân với cha mẹ xét theo giới tính, khối lớp
STT

Mức độ

1

Rất căng
thẳng

2

Căng
thẳng

3

Hơi căng
thẳng

4


Bình
thường

Giới tính

Khối lớp

Tổng

Nam

Nữ

Lớp 7

Lớp 8

4

2

1

5

6

5,2%

2,4%


1,3%

6,3%

3,8%

8

7

2

13

15

10,4%

8,4%

2,5%

16,3%

9,4%

18

9


8

19

27

23,4%

10,8%

10,0%

23,8%

16,9%

36

41

52

25

77

46,8%

49,4%


65,0%

31,3%

48,1%

173


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM – ĐẠI HỌC HUẾ

5

Vui vẻ
Tổng

CYS 2016

11

24

17

18

35

14,3%


28,9%

21,3%

22,5%

21,9%

77

83

80

80

160

Kết quả điều tra cho thấy đa số HS THCS đánh giá mối quan hệ với cha mẹ là bình thường
(bảng 1), chỉ có 21,9% cho rằng có mối quan hệ vui vẻ với cha mẹ. Đây là một con số hơi nhỏ
cho mối quan hệ thuận lợi, tốt đẹp với cha mẹ của HS. Đáng lưu ý, một tỉ lệ không nhỏ HS
THCS không cảm thấy thoải mái, hài lòng trong quan hệ với cha mẹ. Ở các mức độ hơi căng
thẳng, căng thẳng và rất căng thẳng, tỉ lệ lần lượt là 16,9%, 9,4%, 3,8%. Tính chất mối quan hệ
với cha mẹ, bầu khơng khí tâm lý trong cuộc sống hàng ngày sẽ ảnh hưởng lớn đến sự phát triển
tâm lý, nhân cách của HS THCS. Đây là một thực tế đáng lưu ý vì con số này chiếm gần 1/3 số
HS được hỏi. Đối chiếu kết quả thu được từ phụ huynh cho thấy đa số phụ huynh đánh giá tính
chất mối quan hệ với con cái ở mức bình thường, gần 17% số phụ huynh được hỏi đánh giá tính
chất mối quan hệ của bản thân với con cái ở mức hơi căng thẳng và căng thẳng (bảng 1). So sánh
ba mức độ thể hiện sự căng thẳng trong mối quan hệ cha mẹ - con cái, bảng số liệu cho thấy sự

đánh giá của HS THCS cao hơn sự đánh giá của các bậc phụ huynh. Có thể lý giải điều này do
các bậc cha mẹ có suy nghĩ họ đang là người quyết định những vấn đề cho con cái cho nên trong
cuộc sống hàng ngày nhận thấy con cái có điều gì đó khơng vừa ý mình thì cha mẹ sẽ có những
hành vi, lời nói phản ứng lại với con như la mắng, trừng phạt thậm chí đánh đập… Họ nghĩ rằng
mình làm cha làm mẹ sẽ có quyền thực hiện những điều đó mà khơng đặt mình vào vị trí của
con, không nghĩ đến tâm tư của con trẻ. Những việc làm của cha mẹ như vậy đã làm cho các em
thiếu niên nhận thấy sự căng thẳng, ngột ngạt trong mối quan hệ giữa bản thân với cha mẹ của
chính mình.
Trong quá trình điều tra, nghiên cứu đã tìm hiểu tính chất mối quan hệ của HS THCS với
cha mẹ xét theo giới tính, khối lớp. Kết quả điều tra cho thấy ở mức độ hơi căng thẳng, tỉ lệ HS
nam cao hơn nữ, tỉ lệ nữ cao hơn nam ở mức độ vui vẻ, các mức độ khác ở cả hai giới khá tương
đồng nhau (bảng 2). Có sự khác biệt ở hai mức độ này có thể do mặc dù ở cả nam và nữ HS đều
đang nằm trong giai đoạn lứa tuổi dậy thì, đều có những phản ứng nhất định trong mâu thuẫn,
xung đột với cha mẹ, nhưng về đặc điểm giới tính thì các em trai bao giờ cũng có những trị
nghịch ngợm nhiều hơn các em gái. Về một mặt nào đó, các em trai có vẻ khó bảo, ngang ngạnh
hơn nên có thể trong cuộc sống hàng ngày, khi có xung đột với cha mẹ, các em dễ có những
phản ứng mạnh lại với cha mẹ nhiều hơn các em nữ. Trong quá trình giao tiếp trong cuộc sống
hàng ngày, các bậc cha mẹ cũng có xu hướng ứng xử nhẹ nhàng với các em gái hơn các em trai.
Chính vì thế cảm nhận sự căng thẳng ở các em trai nhiều hơn và ít hơn ở mức độ vui vẻ so với
các em gái trong mối quan hệ với cha mẹ.
Giữa HS khối lớp 7 và lớp 8 cũng có sự khác biệt nhất định khi đánh giá tính chất mối
quan hệ của các em với cha mẹ. Ở mức độ hơi căng thẳng, căng thẳng, rất căng thẳng, tỉ lệ HS
lớp 8 lựa chọn cao hơn nhiều so với các em HS khối 7. Ở mức độ bình thường thì sự lựa chọn
của HS khối lớp 7 cao hơn (bảng 2). Có sự khác biệt này do: Lên lớp 8, các em sắp bước vào giai
đoạn cuối của lứa tuổi dậy thì, nên đã cảm nhận khá rõ sự phát triển của cơ thể. Tự ý thức của
các em đã rõ ràng hơn nên cách biểu lộ quan điểm, chính kiến, các giá trị sống… cũng rõ nét
hơn, thể hiện “cái tôi” nhiều hơn ở lứa tuổi trước. Trong mối quan hệ với người lớn, các em khó
chấp nhận các ý kiến của người lớn nếu nó trái ngược với mong muốn của các em. Các em
khơng cịn dễ bảo như HS lớp 7. Điều đó sẽ làm gia tăng xung đột giữa các em với cha mẹ.
Chính vì vậy, trong mối quan hệ với cha mẹ các em cảm nhận sự căng thẳng cao hơn độ tuổi

trước. Điều đó cho thấy trong mối quan hệ với HS THCS, các bậc cha mẹ cần phải tính đến yếu
tố giới tính và giai đoạn lứa tuổi của các em để có cách ứng xử phù hợp.
174


KỶ YẾU HỘI NGHỊ KHOA HỌC TRẺ 2016

11/2016

3.2. Các nội dung xung đột tâm lý trong giao tiếp với cha mẹ của học sinh trung học cơ sở
Số liệu ở nội dung đánh giá của HS THCS về tính chất mối quan hệ của bản thân với
cha mẹ cho thấy giữa HS THCS và cha mẹ có sự nảy sinh những mâu thuẫn, xung đột. Trong
phần này, chúng tôi sẽ làm rõ những nội dung XĐTL trong mối quan hệ giao tiếp với cha mẹ
của HS THCS.
3.2.1. Các nội dung xung đột tâm lý trong giao tiếp với cha mẹ của học sinh trung học cơ sở
XĐTL trong giao tiếp với cha mẹ của HS THCS có thể xảy ra trên mọi mặt của cuộc sống,
về các vấn đề trong cuộc sống hàng ngày: trong mối quan hệ với bạn bè, học tập, thói quen sinh
hoạt, trong cách giao tiếp ứng xử… với mọi người xung quanh. Để tìm hiểu nội dung XĐTL
giữa cha mẹ và con cái, chúng tôi tiến hành khảo sát 6 lĩnh vực cơ bản trong cuộc sống hàng
ngày với 4 mức độ thể hiện mối quan hệ giữa HS THCS và cha mẹ:
Mức độ 1: Không bao giờ; Mức độ 2: Thỉnh thoảng; Mức độ 3: Thường xuyên; Mức độ 4:
Rất thường xuyên. Kết quả điều tra thu được như sau:
Bảng 3. Nội dung XĐTL trong giao tiếp với cha mẹ của HS THCS
STT

Nội dung xung đột

Ý kiến của
HS


Thứ
bậc

Ý kiến của
phụ huynh

ĐTB

ĐLC

ĐTB

ĐLC

0,76

0,71

0,79

0,89

1

1. Trong quan hệ với bạn bè:

0,93

0,65


2

1.1. Bạn cùng giới

0,63

0,87
3

6

3

1.2. Bạn khác giới

0,99

0,98

0,79

0,79

4

1.3. Bạn thân

1,18

1,03


0,70

0,87

5

2. Trong học tập:

0,73

0,51

0,89

0,62

6

2.1. Phương pháp học tập

0,97

0,83

1,23

0,86

7


2.2. Việc học thêm

1,06

0,94

1,00

0,91

8

2.3. Việc học nhóm

0,33

0,59

0,60

0,76

9

2.4. Tài liệu tham khảo

0,56

0,72


0,74

0,80

10

3. Trong thói quen sinh hoạt:

1,18

0,63

1,23

0,69

11

3.1. Đầu tóc, trang phục

1,09

1,01

1,07

0,97

12


3.2. Tác phong sinh hoạt (cách nói
năng, đi lại…)

1,39

0,96

1,36

0,94

13

3.3. Phương tiện đi lại

0,84

0,96

0,98

0,88

14

3.4. Cách sử dụng các phương tiện
thơng tin (máy tính, điện thoại,
mạng Internet…)


1,22

0,94

1,43

1,03

15

3.5. Lao động giúp đỡ cha mẹ công
việc trong gia đình.

1,33

0,91

1,32

0,93

16

4. Trong giao tiếp ứng xử:

0,82

0,63

0,96


0,74

175

5

1

4

Thứ
bậc

5

1

4


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM – ĐẠI HỌC HUẾ

CYS 2016

17

4.1. Với Ơng bà, anh, chị, em trong
gia đình


0,84

0,85

1,04

0,93

18

4.2. Với Cha mẹ

0,90

0,92

1,06

0,98

19

4.3. Với bạn bè

0,84

0,91

0,86


0,84

20

4.4. Với người khác

0,72

0,77

0,88

0,85

21

5. Trong định hướng giá trị: Nếp
sống, sự đoàn kết, chia sẻ, trách
nhiệm, mơ ước, nguyện vọng,
dự định…

0,67

0,64

6

1,14

0,89


3

22

6. Các hoạt động khác: Hoạt động
vui chơi, các chương trình giải
trí…

0,96

0,84

2

1,18

0,94

2

Ghi chú: ĐTB: Điểm trung bình; ĐLC: Độ lệch chuẩn; 0 ≤ ĐTB ≤ 3
Kết quả ở bảng 3 cho thấy, vấn đề gây tranh luận gay gắt dẫn đến xung đột giữa HS THCS
với cha mẹ nhiều nhất liên quan đến thói quen sinh hoạt của HS trong cuộc sống hàng ngày. Đối
chiếu với kết quả điều tra trên phụ huynh, số liệu cho thấy thói quen sinh hoạt của HS cũng là
vấn đề được các bậc phụ huynh đánh giá có sự xung đột nhiều nhất với cha mẹ.
* Thói quen sinh hoạt hàng ngày:
Như trên đã đề cập, thói quen sinh hoạt hàng ngày là vấn đề gây nhiều mâu thuẫn, xung
đột nhất với cha mẹ của HS THCS. Trong đó, tác phong sinh hoạt (cách nói năng, đi lại) là vấn
đề chiếm tỉ lệ khá cao, ở mức độ 2, 3, 4 tỉ lệ phần trăm lần lượt là 43,8% - 22,5% - 16,9%. Lao

động giúp đỡ việc nhà cũng được nhiều HS lựa chọn có sự xung đột với cha mẹ, trong đó 42,5%
HS cho rằng thỉnh thoảng có xung đột; 27,5% thường xuyên và 11,9% rất thường xuyên xảy ra
xung đột với cha mẹ. Đứng ở vị trí thứ 3, 4, 5 là cách sử dụng phương tiện thông tin liên lạc, đầu
tóc trang phục, phương tiện đi lại của các em. Có thể lý giải điều này do:
Bước vào lứa tuổi thiếu niên, các em khát khao vươn lên làm người lớn vì vậy thường cố
ép cách đi đứng, nói năng của mình cho giống người lớn. Nhiều em trai cố tạo cho mình dáng vẻ
nghênh ngang, tay chân khuỳnh khồng; con gái thì có vẻ e ấp, yểu điệu… Do đang bắt chước
nên hành vi của các em chưa có sự thuần thục, mềm mại mà thường gượng gạo, mất tự nhiên...
Mặt khác, trong giai đoạn lứa tuổi này phản xạ có điều kiện trước các tín hiệu từ ngữ ở các em
chậm hơn, các em ngại nói những câu dài và thường nói năng theo kiểu “nhát gừng”, “cộc lốc”.
Sự biến đổi về mặt ngôn ngữ như vậy sẽ ảnh hưởng đến cách diễn đạt vấn đề, cách dùng từ…
của các em làm cho phụ huynh có thể nghĩ rằng các em đang có cách nói năng hỗn hào, thiếu tôn
trọng mọi người xung quanh. Trước cách đi lại, nói năng, dáng vẻ của HS THCS như vậy sẽ làm
cho các bậc cha mẹ cảm thấy khó chịu nên trách mắng thậm chí đánh đập các em làm gia tăng
mâu thuẫn, xung đột giữa thiếu niên với các bậc cha mẹ.
Ngày nay, do điều kiện kinh tế, số lượng con cái, do thái độ của cha mẹ… cho nên trong
nhiều gia đình, con cái chủ yếu chỉ biết học, ít phải tham gia giúp đỡ cơng việc gia đình. Nhiều
bậc phụ huynh với tâm lý thương con quá mức đã không yêu cầu hoặc hướng dẫn cho trẻ làm
các cơng việc trong gia đình. Chính vì vậy đã tạo cho các em thói quen ỉ lại, lười lao động. Cho
nên, khi phải làm một công việc nào đó, nhiều thiếu niên rất ngại làm hoặc muốn làm nhưng làm
không khéo léo, thuần thục, hay mắc phải các sai sót…
176


KỶ YẾU HỘI NGHỊ KHOA HỌC TRẺ 2016

11/2016

Trong giai đoạn này, cấu tạo giải phẫu sinh lý của thiếu niên có nhiều biến đổi đã làm cho
những thao tác của thiếu niên lóng ngóng, vụng về, khơng khéo léo khi làm việc. Khi làm việc

nhà có thể các em dễ làm hư hỏng, đổ vỡ đồ dùng, đồ đạc. Nhiều bậc cha mẹ khi thiếu hiểu biết
về đặc điểm tâm sinh lý của con cái trong giai đoạn lứa tuổi sẽ chỉ trích các em làm khơng đến
nơi đến chốn, trách mắng các em là người “vụng về”, “hậu đậu”, “vơ tích sự”… làm gia tăng
khoảng cách giữa cha mẹ và con cái và làm cho HS THCS mất niềm tin hoặc hồi nghi về khả
năng của mình.
Hiện nay, nhiều gia đình đã trang bị cho con trẻ những phương tiện liên lạc từ rất sớm, trẻ
sớm được làm quen với những ứng dụng trên các sản phẩm đó. Khơng ít HS THCS quá sa đà
vào việc sử dụng điện thoại, máy tính để chát chít, tán gẫu với bạn bè. Điều đó đã ảnh hưởng
khơng nhỏ đến các hoạt động khác của các em như: giao tiếp với người thân, việc học hành, việc
gia đình… dẫn đến XĐTL với cha mẹ.
Ở tuổi mới lớn, HS THCS luôn muốn thể hiện và khẳng định “cái tơi” của mình. Các em
có cách ăn mặc, để kiểu tóc khác với trước đây cho giống với người lớn hoặc giống với một thần
tượng nào đó: Con trai thì tóc vuốt keo dựng đứng, nhuộm tóc, hoặc có khi lại có cái mái đầu
“lạ”, cái đi tóc rất “ngộ nghĩnh”, quần áo hình thù, chữ nghĩa kỳ quặc; nhiều bé gái làm điệu
quá mức, dùng son phấn, váy áo lòe loẹt, diêm dúa thậm chí khá hở hang… Các em khơng muốn
cha mẹ chở đi học như trước đây mà muốn tự đi học, tự chở nhau đi học.
Trước những biểu hiện trên, khi được người lớn góp ý, khuyên bảo có thể thiếu niên im
lặng, khơng có những phản ứng lại, nhưng khơng làm theo hoặc có thể các em sẽ cãi lại cha mẹ
để bảo vệ ý kiến, quan điểm của mình. Khơng ít phụ huynh cảm thấy “sốc” với những gì đang
xảy ra với con cái, nhất là khi họ có sự so sánh với những biểu hiện đó trong lứa tuổi tiểu học
trước đây. Họ nhận thấy khó có thể áp đặt những quyết định của mình lên con cái một cách dễ
dàng trong giai đoạn này. Nếu có làm được điều đó thì cũng phải trải qua một cuộc đấu tranh gay
gắt giữa cha mẹ và con cái. Tuy nhiên, con cái họ chấp nhận một cách miễn cưỡng với tâm trạng
ấm ức hoặc chỉ là cách để đối phó tạm thời với cha mẹ.
Kết quả điều tra trên phụ huynh cho thấy, những thói quen sinh hoạt trong gia đình cũng là
vấn đề được khá nhiều phụ huynh nhận thấy có sự khác biệt ở con cái. 23,5% số phụ huynh được
hỏi cho rằng giữa họ và con cái lứa tuổi HS THCS có sự khác biệt về những thói quen sinh hoạt
trong gia đình; 15,9% có xung đột nhẹ; 5,3% có xung đột gay gắt với con cái về các vấn đề đó.
* Hoạt động vui chơi, giải trí:
Hoạt động vui chơi, các chương trình giải trí cũng là vấn đề thể hiện khá rõ sự xung đột

của HS THCS với cha mẹ. 45% HS THCS được hỏi cho rằng thỉnh thoảng có xung đột với cha
mẹ về các hoạt động vui chơi, chương trình giải trí mà các em tham gia trong cuộc sống hàng
ngày như: đi xem phim, xem ca nhạc, đi chơi với bạn bè, chơi game. Đáng lưu ý số lượng HS
THCS có xung đột với cha mẹ về vấn đề này ở mức thường xuyên và rất thường xuyên khá cao,
tỉ lệ này lần lượt là 18,1% và 5%.
Ngày nay, do điều kiện kinh tế của các gia đình đã khá hơn rất nhiều so với trước đây nên
việc HS THCS có điều kiện tham gia vào các hoạt động mang tính giải trí, các hoạt động vui
chơi là điều dễ hiểu. Các em có thể rủ nhau đi xem phim, ca nhạc thậm chí tự rủ nhau đến những
khu vui chơi, khu du lịch nào đó mà khơng có người lớn đi cùng. Các hoạt động giải trí của các
em cũng phong phú, đa dạng hơn: các hoạt động mang tính phong trào, các câu lạc bộ văn - thể mỹ; các trị chơi trên các phương tiện thơng tin liên lạc… Việc tham gia các hoạt động đó của
các em nhiều khi mang tính tự phát, ngẫu hứng, a dua đua địi với bạn bè, thậm chí cịn mang
tính mạo hiểm cao nên dễ vấp phải những phản ứng của cha mẹ các em.
177


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM – ĐẠI HỌC HUẾ

CYS 2016

* Mối quan hệ với bạn bè:
Lứa tuổi HS THCS là lứa tuổi đang có nhu cầu mở rộng mối quan hệ với bạn bè nên là vấn
đề gây nhiều mâu thuẫn, xung đột giữa HS THCS với cha mẹ, trong đó nổi bật là mối quan hệ
với bạn thân và bạn khác giới. 28,8% số HS được hỏi đánh giá thỉnh thoảng có xung đột với cha
mẹ về bạn thân; 25,6% HS chọn mức thường xuyên và 12,5% rất thường xuyên xảy ra XĐTL
với cha mẹ về lĩnh vực này. Trong mối quan hệ với bạn khác giới tỉ lệ này cũng khá cao, ở mức
độ 2,3,4 tỉ lệ lần lượt là 38,1%; 13,8%; 11,3%.
Lý giải cho những XĐTL xảy ra giữa HS THCS với cha mẹ liên quan đến mối quan hệ bạn
bè của các em, chúng tôi thấy rằng: Hoạt động chủ đạo của lứa tuổi HS THCS là hoạt động học
tập - giao tiếp cá nhân thân tình nên các em dễ bị cuốn hút vào các mối quan hệ với bạn bè. Các
em mong muốn được giao tiếp với bạn bè để chia sẻ những tâm tư, tình cảm, những biến đổi về

mặt tâm sinh lý, những kinh nghiệm sống hàng ngày… Bạn bè cùng trang lứa cũng là những
người đang có cùng những biến đổi như các em nên việc chia sẻ những tâm tư, tình cảm như vậy
sẽ dễ dàng. Ở thiếu niên cũng bắt đầu xuất hiện những rung cảm đầu đời với bạn khác giới khiến
các em quan tâm đến bạn khác giới nhiều hơn. Nếu so sánh với lứa tuổi trước thì đó là sự khác
biệt lớn khiến cho các bậc phụ huynh cảm thấy lo lắng cho con cái của mình. Nhiều bậc phụ
huynh cho rằng việc các em tham gia nhiều vào mối quan hệ bạn bè như vậy sẽ ảnh hưởng đến
việc học tập của các em nên có thể có những u cầu hoặc cấm đốn một cách vơ lý. Điều đó
làm cho XĐTL giữa họ với con cái xảy ra thường xuyên hơn.
Đứng trước đặc điểm mối quan hệ giao tiếp của HS THCS với bạn bè như vậy thì điều cần
thiết lúc này là phụ huynh cần có sự nhìn nhận đúng đắn về những biến đổi của các em để có thể
khuyên bảo, định hướng cho các em có những mối quan hệ lành mạnh, trong sáng, tích cực. Sự
phản ứng mạnh mẽ, thơ bạo của phụ huynh chỉ làm cho mối quan hệ giữa họ và con cái trở nên
xa cách hơn và khi khơng tìm được mối quan hệ tốt đẹp, hiểu biết của cha mẹ sẽ làm cho các em
hướng đến mối quan hệ với bạn bè nhiều hơn.
* Các lĩnh vực khác: Giao tiếp ứng xử với ông bà, cha mẹ, anh chị em; vấn đề học tập;
định hướng giá trị:
Ở lứa tuổi HS THCS, các lĩnh vực trên cũng dễ gây XĐTL giữa HS THCS với cha mẹ,
đứng ở vị trí từ 4 đến 6. Có các kết quả này do:
- Như đã phân tích ở trên, ngơn ngữ của các em thời kỳ này có sự biến đổi nhất định từ đó
đã ảnh hưởng đến q trình giao tiếp của HS THCS với mọi người xung quanh, dẫn đến sự
XĐTL trong giao tiếp giữa thiếu niên và cha mẹ.
- Bước lên bậc THCS, HS được làm quen với nhiều mơn học, nhiều khái niệm mang tính
chất trừu tượng hơn đòi hỏi các em phải xây dựng lại một cách cơ bản hoạt động học tập của
mình. Mặt khác, ngày nay nhiều bậc phụ huynh đã có sự nhìn nhận đúng đắn về tầm quan trọng
của việc học nên họ sẽ quan tâm đến việc học hành của con cái nhiều hơn. Chính vì vậy, khi
nhận thấy con cái chểnh mảng học tập, kết quả không như mong muốn hoặc do sự kỳ vọng của
cha mẹ vào con cái quá cao dẫn đến sự XĐTL giữa cha mẹ và con cái dễ nảy sinh.
Ở độ tuổi đang có nhu cầu, khát khao vươn lên làm người lớn đã làm cho những quyết
định, sự lựa chọn của HS THCS dần thể hiện cái riêng của mình. 31,8% phụ huynh cho rằng
những mong muốn, nguyện vọng, dự định… của học sinh có sự khác biệt với sự lựa chọn của

cha mẹ. Có thể lý giải được vấn đề này vì khi cảm nhận được sự trưởng thành của bản thân, HS
sẽ không muốn phụ thuộc vào cha mẹ như trước đây mà muốn thể hiện chính kiến, nguyện vọng,
dự định riêng của bản thân theo sở thích và khả năng của các em.
178


KỶ YẾU HỘI NGHỊ KHOA HỌC TRẺ 2016

11/2016

Đối chiếu kết quả thu được về mức độ XĐTL của từng lĩnh vực trên hai đối tượng HS
THCS và phụ huynh cho thấy: Sự đánh giá của HS THCS và phụ huynh có sự tương đồng ở 4
lĩnh vực: Thói quen sinh hoạt; các hoạt động vui chơi, giải trí; giao tiếp ứng xử; vấn đề học tập;
2 lĩnh vực: mối quan hệ bạn bè và định hướng giá trị (sự đoàn kết, chia sẻ, trách nhiệm, mơ ước,
nguyện vọng, dự định trong tương lai…) có sự khác biệt trong đánh giá của hai đối tượng.
Có sự khác biệt này do trong độ tuổi HS THCS mối quan tâm hàng đầu của thiếu niên là
bạn bè. Các em khát khao có bạn, khát khao mở rộng mối quan hệ giao tiếp với bạn và ln có
xu hướng bảo vệ mối quan hệ đó. Thiếu niên coi quan hệ bạn bè là quan hệ riêng, là quyền cá
nhân của các em. Các em cho rằng mình có quyền độc lập trong quan hệ bạn bè và bảo vệ quyền
hạn đó của mình. Nhu cầu giao tiếp với bạn bè của HS THCS rất lớn nhiều khi vượt lên trên cả
hoạt động học tập của các em: Các em hướng đến việc giao tiếp với bạn bè và sao nhãng chuyện
học hành ở trường lớp hay quan hệ với người thân. Trong mối quan hệ với bạn bè, thiếu niên
khơng thích, khơng muốn người lớn can thiệp vào mối quan hệ đó của các em. Các em cảm thấy
bị xúc phạm, không được tôn trọng khi người lớn quá soi xét vào các mối quan hệ bạn bè, vào
những người bạn của các em. Tuy nhiên, nhiều bậc cha mẹ lại có quan điểm khác với thiếu niên,
họ cho rằng lứa tuổi của các em thì nhiệm vụ học tập là chính, là quan trọng bậc nhất nên khi
nhận thấy các em sa đà vào các mối quan hệ với bạn bè họ sẽ cấm đốn, đơi khi cịn có sự can
thiệp khá thơ bạo. Điều đó đã dẫn tới mối quan hệ giữa thiếu niên và người lớn bị ảnh hưởng.
Trong suy nghĩ của phụ huynh còn tồn tại những mâu thuẫn khi nhìn nhận về lứa tuổi thiếu
niên. Một mặt phụ huynh vẫn nhìn nhận các em là trẻ con, vẫn đối xử với các em như đối xử với

trẻ con. Nhưng mặt khác phụ huynh đã nhìn thấy sự lớn lên của các em nên cũng đã đặt ra cho
các em những u cầu nhất định. Chính vì lẽ đó, khi nhận thấy những thói quen trong nếp sống,
sự đồn kết, trách nhiệm của các em trong cuộc sống hàng ngày khơng được như mong muốn,
các bậc cha mẹ sẽ có những trách mắng nhất định với các em từ đó làm gia tăng xung đột với các
em. Hơn nữa, ngày nay, nhiều phụ huynh đã có những kỳ vọng rất lớn về con cái của mình. Họ
đặt ra dự định, kế hoạch về nghề nghiệp, tương lai của con cái từ rất sớm và luôn giám sát con
thực hiện những yêu cầu nào đó theo cách của họ để đạt mục đích đặt ra. Nhưng, đơi khi nguyện
vọng của con cái lại mâu thuẫn với những dự định của cha mẹ từ đó làm nảy sinh xung đột trong
giao tiếp giữa HS THCS và cha mẹ.
Tóm lại: Bước vào lứa tuổi HS THCS, ở các em có sự chuyển biến lớn về đặc điểm tâm
sinh lý. Các em bắt đầu thể hiện cái tơi của mình nhiều hơn. Nhu cầu vươn lên làm người lớn đã
làm cho hành vi của các em có sự khác biệt so với lứa tuổi học sinh tiểu học. Điều đó đã làm cho
các bậc cha mẹ cảm thấy có sự khác biệt hoặc xung đột với con cái về các vấn đề mà trước đây
họ có quyền quyết định hoặc áp đặt con nghe theo. Như vậy, có thể nói rằng XĐTL của thiếu
niên trong quan hệ với cha mẹ xảy ra trên các lĩnh vực hoạt động của cuộc sống hàng ngày. Tùy
thuộc vào mức độ quan tâm của các em và cha mẹ vào lĩnh vực nào cũng như sự khác biệt về
nhận thức, quan điểm, thái độ, hành vi giữa các em với cha mẹ trong lĩnh vực mà các em quan
tâm sẽ dẫn đến tỉ lệ xung đột ở lĩnh vực đó diễn ra cao hay thấp.
3.2.2. Các nội dung xung đột tâm lý trong giao tiếp với cha mẹ của học sinh trung học cơ sở
xét theo giới tính
Trong quá trình phát triển của con người, các bé gái sẽ bước vào giai đoạn dậy thì sớm hơn
các bé trai. Ở độ tuổi từ 10 - 11, một số em gái đã bước vào giai đoạn đầu của sự trưởng thành về
mặt giới tính, cịn các em trai thì vào lúc 12 - 13 tuổi. Thời kỳ mạnh mẽ nhất trong những quá
trình này diễn ra vào khoảng từ 11 - 13 tuổi đối với em gái và 13 - 15 tuổi đối với các em trai
(A.V. Petrovski, 1982). Tuy nhiên, ngày nay, do chế độ dinh dưỡng, do sự phát triển của cơ thể
nên các em có thể bước vào giai đoạn lứa tuổi dậy thì sớm hơn. Lứa tuổi HS THCS - các em trai
179


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM – ĐẠI HỌC HUẾ


CYS 2016

và em gái đều nằm trọn vẹn trong giai đoạn tuổi dậy thì. Cùng trong giai đoạn độ tuổi như nhau
nhưng giữa thiếu niên có sự khác biệt về mặt giới tính trong XĐTL với cha mẹ? Để tìm hiểu vấn
đề này, chúng tôi đã tiến hành điều tra và kết quả thu được như sau:
Bảng 4. Nội dung XĐTL trong giao tiếp với cha mẹ của HS THCS xét theo giới tính
Nam

Nữ

Lĩnh vực xung đột

TT

t (158)
ĐTB

ĐLC

ĐTB

ĐLC

1

Trong quan hệ với bạn bè

0,68


0,70

0,66

0,63

0,161

2

Trong học tập

0,80

0,54

0,68

0,56

1,392

3

Trong thói quen sinh hoạt

1,15

0,61


1,20

0,64

- 445

4

Trong giao tiếp ứng xử

0,77

0,61

0,80

0,66

- 0,312

5

Trong định hướng giá trị

0,91

0,81

0,80


0,85

0,863

6

Các hoạt động vui chơi, giải trí

1,27

1,00

1,14

0,96

0,827

Ghi chú: ĐTB: Điểm trung bình; ĐLC: Độ lệch chuẩn; 0 ≤ ĐTB ≤ 3
*: Khác biệt có ý nghĩa về mặt thống kê với p < 0,05
Kết quả ở bảng số liệu cho thấy, giữa nam và nữ lứa tuổi HS THCS khơng có sự khác biệt
trong XĐTL với cha mẹ về các lĩnh vực hay xảy ra trong cuộc sống hàng ngày. Có sự giống
nhau này vì đây là lứa tuổi mà trong các em đều đang diễn ra những biến đổi về mặt tâm sinh lý.
Những biến đổi đó đã ảnh hưởng đến hành vi, cách ứng xử của các em trong cuộc sống hàng
ngày từ đó đã dẫn đến những mâu thuẫn, XĐTL trong mối quan hệ với cha mẹ. Kết quả này
thống nhất với những nghiên cứu của A.V. Petrovski (1982).
3.2.3. Các nội dung xung đột tâm lý trong quan hệ giữa học sinh trung học cơ sở và cha mẹ
xét theo khối lớp
Kết quả điều tra cho thấy ở độ tuổi khối lớp 7, khối lớp 8, giữa HS THCS khơng có sự
khác biệt trong XĐTL với cha mẹ về các vấn đề hay xảy ra trong cuộc sống hàng ngày. Kết quả

này thống nhất với những nghiên cứu của A.V. Petrovski (1982).
Bảng 5. Nội dung XĐTL trong giao tiếp với cha mẹ của HS THCS xét theo khối lớp
Khối lớp 7
STT

Khối lớp 8

Nội dung xung đột

t (158)
ĐTB

ĐLC

ĐTB

ĐLC

1

Trong quan hệ với bạn bè

0,64

0,65

0,70

0,68


-0,554

2

Trong học tập

0,72

0,59

0,76

0,52

-0,536

3

Trong thói quen sinh hoạt

1,12

0,63

1,23

0,63

-1,084


4

Trong giao tiếp ứng xử

0,71

0,64

0,87

0,63

-1,531

5

Trong định hướng giá trị

0,81

0,80

0,89

0,87

-0,568

6


Hoạt động vui chơi, các chương
trình giải trí…

1,09

0,90

1,33

1,04

-1,542

Ghi chú: ĐTB: Điểm trung bình; ĐLC: Độ lệch chuẩn; 0 ≤ ĐTB ≤ 3
180


KỶ YẾU HỘI NGHỊ KHOA HỌC TRẺ 2016

11/2016

*: Khác biệt có ý nghĩa về mặt thống kê với p < 0,05
Có kết quả như trên vì: Lên khối lớp 7, khối lớp 8, các em HS THCS đang bước vào giai
đoạn giữa của lứa tuổi dậy thì - giai đoạn có sự biến đổi mạnh mẽ nhất. Trong giai đoạn này các
em cảm nhận rất rõ sự lớn lên của cơ thể. Chính vì vậy, trong cuộc sống hàng ngày, khi giao tiếp,
ứng xử với cha mẹ, các em thể hiện chính kiến của mình rõ ràng hơn, đặt ra những yêu cầu mong
muốn mang “cái tôi” của các em nhiều hơn. Các em khơng cịn muốn bị phụ thuộc vào cha mẹ
như lứa tuổi tiểu học trước đây mà hoạt động của các em dần mang tính độc lập hơn. Đứng trước
sự biểu hiện đó của HS THCS, các bậc phụ huynh nếu không hiểu hoặc thiếu kiến thức về sự
phát triển lứa tuổi sẽ có những ứng xử khơng hợp lý từ đó dễ nảy sinh XĐTL với con cái lứa tuổi

HS THCS.
4. KẾT LUẬN
XĐTL trong giao tiếp với cha mẹ của HS THCS xảy ra trên nhiều lĩnh vực của cuộc
sống. Có sự XĐTL đó vì ở lứa tuổi thiếu niên, các em có những biến đổi rất mạnh mẽ về mặt
tâm - sinh lý đã làm cho những hành vi, cách biểu hiện của các em khác với lứa tuổi HS tiểu
học trước đây. Nếu phụ huynh thiếu hiểu biết về sự biến đổi tâm lý của con cái lứa tuổi HS
THCS sẽ dẫn đến những hành vi ứng xử chưa phù hợp. Cách ứng xử đó đã làm cho tính chất
mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái lứa tuổi HS THCS trở nên ngột ngạt, khó chịu. Một tỉ lệ
khá lớn HS THCS đánh giá có sự căng thẳng trong mối quan hệ giữa các em và cha mẹ. Điều
đó ảnh hưởng đến sự phát triển thể chất, tâm lý, nhân cách của HS THCS cũng như gia tăng
những XĐTL trong mối quan hệ giữa các em và cha mẹ. Vì vậy, mỗi bậc cha mẹ cần có sự
hiểu biết đúng đắn về đặc điểm phát triển tâm lý trong giai đoạn lứa tuổi HS THCS để có cách
ứng xử phù hợp nhằm tạo mối quan hệ tốt đẹp với con cái giúp cho sự phát triển toàn diện của
các em được diễn ra thuận lợi.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]
[2]
[3]
[4]

Lê Văn Hồng (chủ biên – 2001), Tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm, Nxb ĐHQG Hà
Nội.
Lê Văn Hồng, Lê Ngọc Lan (1998), Tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm, Nxb Giáo dục.
A.V. Petrovxki (1982), Tâm lý học lứa tuổi và sư phạm (Đặng Xuân Hoài dịch), Nxb Giáo dục.
Nguyễn Ánh Tuyết (1997), Khi con đến tuổi dậy thì, Nxb Phụ nữ.

Title: PSYCHOLOGICAL CONFLICT OF CHILDREN OF SECONDARY SCHOOL AGE WITH
THEIR PARENTS IN COMMUNICATION
Abstract: The study aimed to find out the psychological conflict of children of secondary school age with
their parents in communication. In the survey’s results, a large number of secondary school students said

there is tension between them and their parents. The stress comes from psychological conflict occurring
in everyday life. When assessing the nature of the relationship between themselves and their parents,
there are more boys who have conflicts with parents than girls; grade 8 students have conflicts more than
grade 7 students. Therefore, in everyday life, the parents need to enhance the understanding of sexual
characteristics, stages of children’s ages to have appropriate behaviors in order to establish good
relationships with their children. This will help the development of secondary school students go
smoothly.
Keywords: Actual relationships between parents and children; psychological conflict; secondary school
students.

181


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM – ĐẠI HỌC HUẾ

CYS 2016

PHÍ THỊ THU HUYỀN
Học viên Cao học, chuyên ngành Tâm lý học, khóa 23 (2014-2016), Trường Đại học Sư phạm - Đại học
Huế.
Nơi công tác: Khoa Giáo Dục Mầm non, Trường Cao đẳng Sư phạm Trung ương Nha Trang, Khánh Hòa.
Số điện thoại: 0982142639. Địa chỉ Email:

182



×