Phần II
Sự NGHIỆP BẢO TÀNG
HÔM NAY VÀ NGÀY MAI
CHƯƠNG I
BẢO TÀNG HỌC VỚI TƯ CÁCH LÀ
BỘ MÔN KHOA HỌC
Lịch s ử hỉnh th à n h b ả o tà n g h ọc với tư cá ch là bộ m ôn
k h o a h ọc
Định nghĩa bảo tàng học. Cơ cấu, đối tư ợ n g, h iện vật,
phương p háp
Những kh ái niệm cơ bản của bảo tàn g học: b ả o tàng, hiện
vậ t bảo tàng và những tính ch ất của hiện vật, bộ SƯU tập,
lo ạ i hình bộ SƯU tậ p , chứ c năng x ã h ộ i c ủ a b ả o tàng.
Phăn lo ạ i b ả o tàn g. Thư tịch h ọ c b ả o tàn g.
B ả o tà n g h ọ c tro n g h ệ th ốn g k h o a học.
Bước sang th ế kỷ XXI, bảo tàng học vẫn là ngành "khoa
học trẻ ”, đang trong "giai đoạn hình th à n h ”. T hế kỷ XX
khơng có câu trả lời n h ấ t quán cho những câu hỏi về b ả n
ch ất của bảo tàng học với tư cách là m ột bộ m ôn khoa học.
Chưa giải quyết được v ấn đề th en chốt m à các n h à bảo tàng
học nghiên cứu vào những năm 1960 - 1980: về nguyên tắc
có th ể coi bảo tảng học là bộ m ôn khoa học được khõng hay
đớ chỉ là tổng thể khối thơng tin, khơng có phương ph áp và
ngôn ngữ riêng, liên quan đến bảo tàng và những hướng thực
h à n h trong h o ạt động của m ình?
Cho đến bây giờ câu hỏi bảo tàng học có tồn tại như là
m ột bộ m ôn khoa học hay không vẫn làm đau đầu các n h à
nghiên cứu bảo tàng và khơng có được câu trả lời n h ấ t quán,
s ự NGHIỆP gẢO TẢNG CỦA NƯỚC NGA
m ặc dù bộ m ôn này đang được giảng dạy trong các trường
đ ại học, đang có nhiều trung tâm nghiên cứu bảo tàn g và
m ột số lượng khơng ít tài liệu về bảo tàng học được x u ất bản.
C hính những n h à nghiên cứu bảo tàng phải thừa n h ậ n là
v ẫn chưa nghiên cứu đẩy đủ những cơ sở mang tín h quan
niệm về bảo tàn g học.
Ngay từ thời Phục hưng đã b ắ t đầu có những k h ái niệm
về hoạt động bảo tàng với tư cách là lĩnh vực đặc b iệ t trong
v ă n hóa lồi người. Các n h à nghiên cứu cho rằng cố gắng
đầu tiên hình th à n h “lý luận bảo tàng” là cuốn sách của J.
D. Major tựa dề: “Khõng gì định trước được những lập luận
về những SƯU tậ p văn học và khoa học tự n h iên ”, xuất b ản
n ăm 1674 tạ i Kila. K. Najkel’ đã đưa vào sử dụng th u ậ t ngữ
“Nghiên cứu bảo tàn g ” (Museographie) trong cơng trìn h xuất
b ả n năm 1727 tại Munich đẩu đề: “Nghiên cứu bảo tàn g
(Museographie) hay hướng d ẫn để hiểu đúng và tổ chức có
hiệu quả phịng bảo tàng (museoroom) hay kho lưu trữ đồ quý
hiếm (raritet-cam era)’’.
Từ những n ăm 1870 đã xuất hiện những ấ n p h ẩm bảo
tàn g học thường kỳ. Năm 1883, tại Drezeden đã công bố bài
báo của Tiến sĩ J.G . G rass với nhan đề: “Bảo tàng học với tư
cách là m ột khoa học" (xin lưu ý là trong tiếng Nga, bảo tàn g
học được sử dụng bởi 2 tữ với cùng m ột ý nghĩa là
“m usevedenie” và “museologie”, trong ấ n phẩm lần này các
tác giả sẽ sử dụng tữ “m usevedenie” đươc người Nga quen
dùng hơn, khi trích d ẫn tài liệu nước ngoài sẽ dùng từ
“museologie”). Trong bài báo này tác giả n h ấn m ạn h tiềm
n ăn g của lĩnh vực n h ậ n thức này và cố khẳng định bảo tàn g
học là m ột bộ m ôn khoa học mới. Nhưng phải gần 100 n ãm
sau ý k iến n ày mới đứng vững được.
ở nước Nga, suốt thời gian th ế kỷ XIX - đầu th ế kỷ XX đã
xuất hiện hàng lo ạt ấ n phẩm , nội dung bao hàm những tư
tưởng vể bảo tàng, b ả n ch ất và nhiệm vụ của bảo tàng. Đặc
điểm đặc trưng của sự p h á t triển tư tưởng bảo tàng học nước
Nga giai đoạn này là những cố gắng hĩnh th à n h n ê n những
lu ận điểm lý luận về bảo tàng thường m ang hĩnh thức các
dự á n bảo tàng. Những dự á n đầu tiên đề ra mơ h ình các cơ
sở bảo tàn g và tiến trước rấ t xa so với thực tế thời đ ạ i đã
218
Chương I: Bảo tà n g học ven' t ư cách là bô môn khoa học
xuất hiện vào nửa đầu th ế kỷ XIX và tác giả những dự á n
này là các ngài F.p. Adelung, B.G. Vikhman, p.p Svin’in
(xem, phản I, chương 3 cơng trình này).
Cuối th ế kỷ XIX đã hình th ả n h học thuyết của N. Ph.
Phedotov là nhà triết học - không tưởng, nhà vũ trụ học tinh
th ần (cosmist). õ n g là n h à triết học duy n h ấ t trong học
thuyết của m ình quan tâm nhiều tới khái niệm bảo tàng.
N.Ph. Phedotov thường xuyên đẻ cập tới khái niệm này tại
nhiều doạn trong cõng trình chính của mình: ‘T riế t học công
việc chung", bài báo “Bảo tàng, ỷ nghĩa và nhiệm vụ của bảo
tàng" viết chuyên về bảo tàng. Hàng loạt bài viết, trong đó
có bài “Cuộc trưng bày năm 1889...”, bao hàm những dự á n
“Bảo tàng cấp 3” và m ột số lâu đài - bảo tàng.
Tư tưởng trung tâm học thuyết triết học không tưởng của
N.Ph. Phedotov là “sùng bái ch a” (patriíìcation) - có nghĩa là
th o ạt tiên từ t ư duy, sau đó bằng việc khắc phục được “trạng
th ái khơng thể đảo ngược” và biết cách điều k h iển tấ t cả
những sức m ạnh vũ trụ, loài người có thể làm cho tấ t cả
những th ế hệ, những "người cha” đã khuất sống lại th ự c sự.
Vĩ vậy hiện tượng bảo tàng theo cách hiểu của n h à triế t học
có th ể p hân th ả n h 2 mức m à chính ơng đã chỉ ra là: “bảo
tàng - sự kiện” và “bảo tàng - dự á n ”. “Bảo tàng - sự k iện ”
là “cấp cao, cần phải và có thể trả lại cuộc sống". Bảo tàng
làm công việc SƯU tầm “linh hổn những người đã khuất" dưới
dạng những đồ vật cũ. Đó khơng phải là SƯU tập những đồ
vật mà là “tập hợp những gương m ặt”, là thể c h ế m à bằng
cách lưu giữ kí ức về những “người cha” đã k h u ất để rồi khi
não đó cán phải làm cho họ sống lại m ột cách thực sự.
N.Ph. Phedotov xuất p h á t từ mục đích cao cả trong tương
lai này để đ á n h giá bảo tàng hiện thực. Cõng việc của n h à
tư tưởng hàm chửa sự p h ân tích xuất xứ của bảo tàn g và cho
rằng bảo tàng rấ t hiện đại đối với chính sự thức tín h n h ậ n
thức của con người. Phedotov gọi lòng k h á t khao bảo quản là
thuộc tính chung của tự n h iên vi vậy sự xuất h iệ n của bảo
tàng trong luận thuyết của ơng m ang tín h ch ất chung thuộc
quy luật tấ t yếu chung. Tư tưởng n h â n văn của bảo tàng
trong xã hội p h ả n n h â n văn chính là nhiệm vụ quan trọng
n h ấ t của thể ch ế này. Theo luận thuyết của n h à không tưởng
s ự NGHIỆP BẢO TẢNG CỦA NƯỚC NGA
thì bảo tàng “lý tưởng” cẩn được đ ặt ở nông thôn và phải hoà
trộn với trường học, nhà thờ và đài thiên văn.
N.Ph. Phedotov mở rộng đáng kể khái niệm ỷ nghĩa và khả
năng của bảo tàng. Những người đương thời n h ận biết điều
này và phù hợp với suy nghĩ hiện nay của chúng ta về ý nghĩa
của bảo tàng. Những năm gần đây các nhà bảo tàng học ngày
càng quan tâm nhiều hơn tới luận thuyết của nhà triế t học.
Những năm 1920, các nhà bảo tàng học Xô-viết như N.
Romanov, Ph. Smith, I. G rabar’, A. Zelenko và những người
khác đã đạt được th àn h tích đáng kể trong việc p h á t triển lý
luận. Họ là những người đặt nền móng cho trường phái bảo
tàng học Xơ-viết. Đặc biệt, những cõng trình của Ph.I. Smith
có ý nghĩa rất to lớn, lẩn đầu tiên trong bảo tàng học Xơ-viết
đă hình th àn h khái niệm loại hình học bảo tàng, trưng bày
bảo tàng (exposition) V.V., đề ra sự phân loại bảo tàng m ột
cách độc đáo và những nguyên tắc xây dựng m ạng lưới bảo
tàng. Hàng loạt n h à nghiên cứu thời gian này cũng đề ra
những khái niệm vẻ bảo tàng học liên quan tới những hình
thức vã chi n h án h bảo tàng cụ thể (N.I. Romanov- về bảo tàng
“địa phương", I.E. G rabar’- bảo tàng nghệ thuật, A.u. Zelenkobảo tàng trẻ em, B.M. Zavalovskij - bảo tàng lịch sử tự nhiên).
Trong sự đa dạng chung thì ỷ tưởng bảo tàng hợc thời gian
này có giá trị n h ấ t định. Đặc biệt, ỷ tưởng bảo tàng học 1/3
thời gian đầu th ế kỷ XX rấ t phù hợp với thời đại chúng ta,
điều này giải thích tại sao các nhã bảo tàng học hiện đại lại
chú ỷ đặc biệt đến nhứng cơng trình thời kỳ này.
Tình hình cơng tác bảo tàng Xơ-viết sau Đại hội bảo tàn g
tồn Nga lần thứ n h ấ t không thúc đẩy sự p h á t triể n lý luận
bảo tàn g học, hơn nữa, hàng loạt đại diện nổi tiếr.g của
ngành bị trấ n áp m ột cách b ất hợp pháp hoặc bị cách chức
(Ph.I. Sm ith, N.I Romanov).
Giai đoạn p h á t tiển mới của tư tưởng bảo tàng học ã Liên
Xô trước h ế t gắn với hoạt động của Viện nghiên cứu khoa
học công tác địa phương (kraivedcheskọ]) và bảo tàng (sau
này là Viện nghiên cứu khoa học văn hóa, hiện nay lá Viện
văn hóa học Nga). Cuốn sách “Cơ sở bảo tàng học Xô-Viết
được so ạn thảo tại Viện nghiên cứu khoa học và xuất b ản
năm 1995 lần đầu tiên giới thiệu bảo tàng học với tư cách
Chương I: Bảo tà n g học với t ư cách là bộ mơn khoa học
là một hệ thống trí thức toàn diện. Mặc dù cuốn sách tập
trung v à o vấn đ ề phương pháp, cịn thơng tin chứa đựng
trong đó, nói chung, đã lỗi thời và chỉ m ang ỷ nghĩa lịch sử,
song không thể phủ n h ậ n đóng góp của các n h à bác học Xõviết ngay từ giữa th ế kỷ XX đã cố gắng xây dựng m ột công
trin h tổng hợp nghiêm túc như vậy.
Những năm 1950 - 1980 đánh dấu bởi hàng loạt cuộc hội
thảo quốc tế về vấn để công nhận bảo tàng học là một bộ môn
khoa học độc lập. Những cuộc hội thảo đặc biệt quan trọng diễn
ra tại Cộng hoà Dân chủ Đức năm 1964 và Tiệp Khắc năm
1965. Kết quả hội thảo năm 1964 tại CHDC Đức trở thành
“Luận cương", ghi nhận sự cần thiết phân tách bảo tàng học
theo khuôn khổ của các bộ mơn tài liệu. Quan điểm này sau đó
được phát triển trong cơng trình của I. J a n “Bảo tàng học với tư
cách bộ môn khoa học và giáo dục”. Tiệp Khắc là nước đầu tiên
đưa bảo tàng học vào danh mục quốc gia những bộ m ôn khoa
học. Song, tại hội thảo ICOM năm 1971 tại Đức các nhà nghiên
cứu lại khơng có cùng quan điểm về vấn đề bảo tàng học.
Trong số các n h à bảo tàng học nước ngoài th am gia soạn
thảo quan điểm bảo tàng học là m ột bộ m ôn khoa học cần
phải n h ắc đến tên tuổi của I. Benesh, I. Neustupnyj, A.
Gregorova (Tiệp Khắc), V, Kherbst, I. Ave, K. S h rajn er (Đông
Đức), V. Gluzinskij, z. Zhygursyij (Ba Lan) và những người
khác. Đặc biệt n h ấ n m ạnh đóng góp vào bảo tàn g học lý
luân của z. Stranskịị (Tiêp Khắc) bảo vệ quan điểm bảo tàng
học với tư cách là bộ m ôn khoa học độc lập m à h iện nay trở
th à n h n ề n tảng của những khái niệm bảo tàn g học “nhu cầu
bảo tàn g ”, “tính bảo tàn g ”, “giá trị bảo tàn g ”. Đóng góp cơ
b ả n trong việc khẳng định bảo tàng học là m ột bộ m ôn khoa
học ở Liên Xô là việc soạn thảo những luận điểm khoa học
cơ bản, soạn thảo những cuốn sách giáo khoa và hình th à n h
các khoa công tác bảo tàng trong hệ thống V iện (hiện nay là
Viện H àn lâm) đào tạo cán bộ nghệ thuật, v ăn hóa và du
lịch, thuộc về A.M. Razgon.
Hội nghị toàn thể diễn ra tại Nga năm 1977 đã th à n h lập
“Hội đồng quốc tế bảo tàng học", có chức năn g phối hợp
những nghiên cứu lý luận. Vào những năm 1980 hầu như năm
nào cũng diễn ra hội nghị. Nhiệm vụ cơ b ả n trong giai đoạn
s ự NGHIỆP BẴO TÀNG CỦA NƯỚC NGA
này là trang bị và lẩn đầu tiên thống n h ấ t hóa bộ m áy khái
niệm bảo tàng học, để đảm bảo các nhà nghiên cứu thuộc
các nước khác nhau hiểu được nhau, nếu khơng sẽ khơng có
sự phối hợp h àn h động nào, khơng có sự thống n h ấ t cố gắng
chung nào được thực hiện. Những thảo luận chính xoay quanh
những khái niệm then chốt về đối tượng, phương pháp, cơ cấu
của bảo tàng học, vị trí của bảo tàng học trong hệ thống khoa
học và ngôn ngữ chuyên ngành. Từ năm 1976 đến 1986 công
tác biên soạn cuốn từ điển bảo tàng học diễn ra sôi động, kết
quả là đă xuất bản bộ dại từ điển cổ ngữ gồm 20 tập. Cơng
trình này hiện nay vẫn đang tiếp diễn. Kết quả đặc b iệt công
tác của các nhà bảo tàng học Đông Ãu là cuốn giáo khoa “Bảo
tàng học. Các bảo tàng chuyên ngành lịch sử” - là cơng trình
hợp tác giữa Liên Xơ và Cộng hoà D ân chủ Đức.
ở các nước Tây Âu nổi trội cách tiếp cận kinh nghiệm đối
với bảo tàng học. Nhiẻu nhà bảo tàng học phương Tây (cịn
ở Đơng Ãu là I. Neustupny) không coi bảo tàng học là m ột
khoa học. Nhan đề bài báo xuất bản tại Mỹ của V. V oshbem
“ Bà học và bảo tàng học” rấ t hài hước. Nhưng, m ặc dù ở
phương Tây p h ần lớn triển khai đều tập trung vào phương
pháp luận những hướng cụ thể của ho ạt động bảo tàng, ở
m ột số nước riêng biệt vẫn triển khai những hướng m ang
tính lỷ luận. Thế giới biết đến những nghiên cứu của K.
Harson, trường phái Lejster và nghiên cứu của G. Luise ở
Anh, những nghiên cứu lý luận giao tiếp bảo tàng của người
C anada D. Cameron, nhửng công bố của nhà bảo tàng học
Pháp Zh.A. Riv’er về lịch sử bảo tàng và vai trò của bảo tàn g
trong xã hội và vể xây dựng lý luận bảo tảng học sinh th ái
(ecomuseologie). Năm 1983 tại Hội nghị to àn th ể ICOM ở
London đã hình th àn h một phong trào độc lập “Bảo tàng học
mới” với khẩu hiệu chính là liên kết bảo tàng với mơi trường
xung quanh, xã hội hỏa bảo tàng. C hính ở phương Tây những
năm gần đây người ta đã kiên quyết hơn địi hỏi bảo tàn g
khơng chỉ đăng kỷ quá khử m à phải sử dụng quá khứ đ ể có
ả n h hưởng tới hơm nay và ngày m ai của m ột cộng đồng cụ
th ể (khái niệm “bảo tàng - diễn đ à n ” của D. Cam eron, “bảo
tàng không biên giới”, giao tiếp bảo tàng).
Tồn tại hàng loạt định nghĩa khái niệm “bảo tàn g học”.
Xin d ẫ n m ột trong những định nghĩa gần đây n h ất, theo
222
Chương I: £>ảo tà n g học vói t ư cách là bộ môn khoa học
chúng tôi, ph ản á n h đầy đủ hơn cả những quan niệm hiện
đại về b ản ch ất của bộ m ôn này:
“Bảo tàng học (museologie) là bộ m ôn khoa học nghiên
cứu m ối quan hệ bảo tàng đặc b iệt của con người dối với
thực t ế và h iện tượng bảo tàng được sinh ra từ thực t ế
này, nghiên cứu các q trình bảo quản và truyền bá
thơng tin xã hội bằng các h iện vật bảo tàng củng như phát
triển sự nghiệp bảo tàng và những khuynh hướng của hoạt
dộng bảo tàng" (Bách khoa thư bảo tàn g Nga, 2001).
Vào đầu thiên niên kỷ mới do các bảo tàng tích cực quan
tám tới di sả n phi vật thể n ê n thể h iện rõ khuynh hướng
thay th u ật ngữ "hiện vật bảo tàn g ” bằng th u ật ngữ “đối tượng
báo tàn g ”, được nói cụ thể hơn trong chương 3.
Những tran h luận chủ yếu của các n h à bác học xoay
quanh những vấn đề tồn tại trong bảo tàng học những dấu
hiệu nguyên tắc cơ b ả n của bộ m õn khoa học như: đối tượng,
hiện vật, phương pháp, ngôn ngữ và cơ cấu.
Đ ến nay các nhà nghiên cứu vẫn chưa đề ra được m ột
quan điểm thống n h ấ t về cơ c ấ u c ủ a b ảo tà n g h ọ c . Song các
nh à nghiên cứu thường sử dụng cơ cấu do z. Stranskij dề ra,
được sửa đổi đôi chút và đãng trong cuốn giáo khoa “Bảo
tàng học” năm 1988:
1. Lịch sử
1.2. Lịch sử vấn để
2. Lý luận
2.1. Lý luận đại cương bảo tàng học
2.2. Lý luận tài liệu hóa
2.3. Lý luận SƯU tầm
2.4. Lý luận giao tiếp
3. Thư tịch học bảo tàng
4. Bảo tàng học ứng dụng
4.1. Phương pháp lu ận khoa học
4.2. Kỹ th u ật
4.3. Tổ chức và quản lý
s ự NGHIỆP BẢO TẢNG CỦA
Nước
NGA
T ất cả những bộ ph ận cấu th ản h cơ cấu này sẽ được xem
x ét kỹ hơn trong các chương và ph ần cụ thể trong cuốn này.
Trong chương này chúng ta quan tâm trước h ế t đ ế n lý luận
chung của bảo tàng học, hình th à n h những khái niệm cơ b ả n
bộ m ôn khoa học, soạn thảo bộ máy khái niệm , n h ậ n biết
đối tượng, hiện vật và phương pháp, những vấn đề chức năng
v ăn hóa xã hội và p h ân loại bảo tàng.
Đối tượng b ả o tà n g h ọ c được tấ t cả các n h à nghiên cửu
c h ấp n h ậ n m ột cách tương đối. Đó là bảo tà n g và sự
n g h iệp bảo tàn g là m ột h iện tượng xã hội trong mọi biểu
h iệ n của chúng.
H iện v ậ t bảo tà n g cho đến hiện nay vẫn gây nhiều tra n h
cãi gay gắt.
Việc định nghĩa bảo tàng học, đối tượng - hiện vật-phương
pháp, th à n h p h ần và cơ cấu của bảo tàng học đều phụ thuộc
vào truyền thống của các trường phái bảo tàng học quốc gia,
tính c h ấ t và trình độ p h át triển sự nghiệp bảo tàng, mức độ
bảo tàn g gia n h ập vào cuộc sống văn hóa xã hội của xã hội.
Tuỳ thuộc vào quan niệm về hiện vật bảo tàn g học, hiện
nay có h àng loạt cách tiếp cận định nghĩa b ả n c h ấ t những
nghiên cứu bảo tàng học.
T iếp c ậ n h iệ n v ậ t, được đẻ ra bởi các nhà bảo tàng học
như: I. J a n , z. Brun, R. Lang và những người khác, đặt hiện
v ật bảo tàng là trung tâm của "tình sự”. C hính việc nghiên
cứu chức năng của hiện vật bảo tàng trong bảo tàng, theo
quan điểm của những người theo cách tiếp cận này, là đối
tượng của bảo tàng học với tư cách là m ột khoa học. Hiện
nay cách tiếp cận hiện vật ngày càng trở n ê n dễ bị tổn
thương hơn khi những đối tượng “phi vật th ể ” của thực tiễn,
kể cả lối sống trở th à n h đối tượng bảo tàng hóa. T rên quan
điểm của “tiếp cận hiện v ật” rấ t khó nghiên cứu những hĩnh
thức mới của các cơ cở bảo tàng như bảo tàn g sinh thái.
Trong khi đó khơng th ể khơng n h ậ n thấy rằn g trong số các
n h à h o ạ t động bảo tàng thực tiễn cách tiếp cận này rất phổ
b iến đồng thời chính cách tiếp cận này bao trùm lĩnh vực
thực h à n h rộng rãi của bảo tàn g học liên quan đ ến tuyển
chọn những hiện vật từ trong thực tế hiện thực, nghiên cứu,
Chương I: ữảo tà n g học với t ư cách là bộ mơn khoa học
bảo quản, trình diễn và diễn giải. Các nhà phê p h á n tiếp
cặn h iện v ật tập trung chú ỷ tới sự thiếu vắng cái ngưỡng
đường n é t rõ ràng của bảo tàng học “h iện vật”: bởi lẽ những
h iện vật bảo tàng dưới dạng biểu hiện khác nhau còn dược
nhiều ngành khoa học khác nghiên cửu. Song, khi đã rơi vào
bảo tàng (thậm chí trước đây gọi là trở th à n h “h iện v ậ t có ý
nghĩa bảo tàn g ”), chúng đã có được m ột chất lượng mới nào
đó, thống n h ấ t chúng lại với nhau và p h ân b iệt kh ác với
những đối tượng “phi bảo tàn g ” khác của hiện thực.
Rõ ràng, ngay từ đẩu, b ản ch ất này khơng th ể thuộc loại
hình nào kh ác ngồi hiện vật- nó chỉ xuất hiện do con người
quan tâm đặc b iệt tới những hiện vật này. Con người thấy
được trong đó những giá trị, khơng liên quan gì tới tín h thực
dụng hay giá trị vặt c h ất của chúng.
Củng với quan điểm này còn là sự xuất h iện m ột cách
tiếp cận khác của m ột loạt n h à bảo tàng học - cách tiếp
cận “thực dụng” hay tiếp cận “tiề n dề", có nghĩa là cách
tiếp cặn giá trị lần đầu tiên được nêu ra trong các công
trin h của các n h à bảo tàn g học Tiệp Khắc (Z. S transkij, A.
Gregorova). Theo cách tiếp cận nãy, trước h ế t người ta
nghiên cứu tín h c h ấ t của các h iện vật th ế giới quanh ta, xác
định mối quan tâm “bảo tàn g ” của con người tới những h iện
vật này. ‘T iếp c ận th ể c h ế ” coi bảo tàng như m ột th ể c h ế
xã hội thuộc đối tượng của bảo tàn g học (I. B enesh, V.
W inter và những người khác.).
A. M. Razgon liê n k ế t tấ t cả các cách tiếp cận trê n , coi
“những đặc điểm đặc trưng liên quan tới các quá trình, m à
hiện vật bảo tàng tham gia và chức năng xã hội của bảo tàn g
với tư cách là n ề n tảng thể chế của sự nghiệp bảo tàng" là
đối tượng nghiên cứu.
T iếp c ậ n n g ô n n g ữ đối với đối tượng và hiện vật bảo tàn g
xuất hiện trong tư tưởng bảo tàng học vào những n ăm 1930,
nhưng vào 10 năm gần đây được p h á t triển chủ yếu bởi N.A.
Nikishin. Nhà nghiên cứu đé nghị coi h iện vật bảo tàn g trước
h ế t là những dấu hiệu, xác định cơ cấu bảo tàn g học phù
hỢp với quan điểm của m ình: những nghiên cứu bảo tàn g học
cơ b ản bao gồm những nghiên cứu tổ chức nội tại của ngôn
ngữ: lý luận cõng tác kho (từ vựng học bảo tàng), lý luận
s ự NGHIỆP BẢO TÀNG CỦA NƯỚC NGA
thuộc tính bảo tàng (ngữ nghĩa học bảo tàng), lý luận tổ chức
trưng bày (ngữ ph áp bảo tàng], lý luận thể loại trưng bày
(phong cách học bảo tàng) V.V.. Tác giả coi ngón ngữ bảo
tàng là "người truyền bá hình thức đặc biệt thõng tin văn h ó a
xã hội, là cơng cụ n h ậ n thức và người điều chỉnh ứng xử”,
xác định những chức năng xă hội cơ bản của bảo tàng.
T iếp c ậ n giao tiế p là hình thức chuyển tải những k h ái
niệm khoa học đại cương về giao tiếp vào bảo tàn g học.
Hiện tại các n h à nghiên cứu đang cố gắng nói cụ th ể hơn
khơng phải về “lý luận giao tiếp ” m à về “tiếp cận giao tiế p ”,
bởi lẽ hệ thống những khái niệm được xem xét sẽ ả n h
hưởng tới toàn bộ khối lượng kiến thức bảo tàn g học, nhưng
với tư cách là m ột lý luận thì chưa được hình thành.T rong
bảo tàn g học, tiếp cận giao tiếp được xuất h iện đáp ứng nhu
cầu của hội trong bước ngoặt của bảo tàng hướng tới cõng
chúng, khởi đầu vào những năm 1960. Hiện nay, trong tà i
liệu bảo tàng học nước ngồi, đó là một trong những cách
tiếp cận trung tâm .
Khái niệm “giao tiếp ” thuộc số những khái niệm khoa học
đại cương then chốt nửa sau th ế kỷ XX. Với tư cách là nguồn
của khái niệm giao tiếp là lý luận liên lạc do K. S hennon đề
ra năm 1949 (những yếu tố cơ b ả n trong q trìn h truyẻn
thơng tin là: nguồn, bộ truyền thõng tin, kênh, bộ tiếp n h ậ n
thõng tin, người n h ậ n thơng tin, âm). Nguồn này cịn là quan
điểm của M. Mak-Luen (những nám 1960) về sự p h á t triể n
văn hóa với tư cách lã sự phát triển giao tiếp. Năm 1968,
D. Cam eron nêu quan điểm coi bảo tàng là hệ thống giao
tiếp m à khách tham quan là trung tâm .
Đơn vị p h ân tích giao tiếp trong bảo tàn g học là h à n h
động (act) giao tiếp bảo tàng. Mơ hình h àn h dộng giao tiếp
bảo tàng do Cam eron đề ra như sau:
A. Huper-Grinhil, n h à bảo tàng học nữ người Anh viết bài
“Mơ hình giao tiếp mới đối với bảo tàn g ”, nghiên cứu cơ ch ế
giao tiếp bảo tàn g trong trưng bày. Bà coi trứng bày bảo tà n g
là hệ thống ký hiệu n ê n tập trung vào khái quát hóa những
226
Chương I: Bảo tà n g học vói t ư cách là bộ mơn khoa học
ý nghĩa văn hóa trong q trình ln thay đổi. Những ý nghĩa
này khơng chỉ được truyền tải từ người truyền tin đến người
n h ậ n tin mà người n h ận tin (khách tham quan) dựa trê n kinh
nghiệm cá nhân, những kiến thức, bối cản h cụ thể cũng
tham gia vào việc tổ chức thơng tin. Thay vi mơ hình giao
tiếp năm 1968 của D. Cameron, A. Huper-G rinhil giới thiệu
mơ hình tương tác của mình:
Trong mơ hình này việc truyền thơng tin trong bảo tàng là
phương thửc tạo lập mối quan hệ “người - người” (“người-xã
hội”) dựa vào nhửng m ã có trong văn hóa. N hận được tín
hiệu, khách tham quan-người n h ậ n thống tin so sá n h chúng
với bộ ỷ nghĩa và lọc ra được “cái chung” duy n h ấ t. Q trình
này ln được khẳng định khơng chỉ bằng ch ín h tín hiệu vã
những mã có trong văn hóa m à bằng cả những gói thơng tin,
k ín h nghiệm cá n h â n , h ệ thống giá trị V.V., k ể cả tâm trạ n g
của người n h ậ n thơng tin. Chính k h ách th am quan sẽ p h ân
tách ý nghĩa và trở th à n h “người tích cực tạo ra ý nghĩa".
Trưng bày là m ột hệ thống năng động luôn tạo ra và truyền
đi những ý nghĩa mới. Sơ đồ giải thích khả n ãn g n h ậ n biết
khác nhau của m ột trứng bày th ậm chí chỉ của m ột khách
tham quan.
Để giao tiếp được thực h iện và có hiệu quả sao cho tổng
thể ỷ nghĩa phải có sức cuốn hú t khách th am quan thì giao
tiếp phải chứa dựng đầy đủ ỷ nghĩa do các n h â n viên bảo
tàng- những người truyền tin đề ra. Tác giả dưa ra sơ đồ sau:
s ự NGHIỆP’ BẢO TẢNG CỦA Nước NGA
“Vùng ỹ nghĩa trùng nhau” càng rộng thì giao tiếp càng
th à n h công.
Nhiều n h à nghiên cứu (IU. Romeder, F. Widaher) cho rằn g
trước h ế t nhiệm vụ th iết lập tương tác với k hách tham quan
là việc tuyển chọn chính xác phương pháp tổ chức trưng bày
(chọn đối tượng, số lượng chính xác của đối tượng, bối cảnh,
tín h cụ thể của thõng tin) và thiết kế (design) trưng bày
hướng tới con người vả n h ậ n thức của con người. Tiếp cận
giao tiếp p h á t triển ở Liên Xô từ những năm 1970. M.B.
Gnedovskịị đóng góp cõng lao lớn trong việc p h á t triển
phương pháp này. Trong các cõng trình của m ình, ơng chỉ ra
đặc điểm của tiếp cận giao tiếp là tiếp cận lồi người là trung
tâm (vì ơng xếp con người lẽn trê n hết), văn hóa học (vì
những dấu hiệu và biểu tượng sử dụng trong giao tiếp tồn tại
trong vòng n h ấ t định của những ý nghĩa văn hóa và đối
tượng của giao tiếp là đại diện của những quan niệm văn hóa
n h ấ t định), đối thoại (ít n h ấ t có 2 đối tượng với những quan
điểm văn hóa khác nhau tham gia giao tiếp), và tiền đề (vì
khía cạn h giá trị của giao tiếp cao hơn cả).
Đổi khỉ trong tài liệu bảo tàng học có ý kiến cho rằng tiếp
cận giao tiếp được hình th à n h để làm đối trọng với tiếp cận
h iện vật. Song, n h ậ n định nãy, thường thấy nhiều trong thời
đ o ạn tiếp cận giao tiếp được khẳng định, chỉ m ang tín h
tra n h luận. T rẽn thực tế, tiếp cận giao tiếp không lảm giảm
ỷ nghĩa của h iện vật bảo tàng. Chính hiện vật bảo tàn g là
k h âu trung tâm của quá trình giao tiếp bảo tàng, nếu khơng
có h iện vật, tiếp cận giao tiếp khơng cịn ỷ nghĩa gì hết.
Những người chủ trương tiếp cận giao tiếp xác định m ột cách
cõng bằng mối liên hệ của chính khái niệm “tín h bảo tàn g ”
với con người: Bởi lẽ, ngay từ đẩu, phẩm c h ất này là b ả n
c h ấ t của m ột hiện vật nào đó, nó trở th à n h “h iện vật bảo
tàn g ” và m ang ỷ nghĩa bảo tàng chi trong n h ậ n thức của con
người. Khẳng định bảo tàng quan tâm tới con người, tới xã
hội là đóng góp quan trọng n h ất của tiếp cận giạo tiếp.
Mỗi cách tiếp cận kể trẽ n đều m ang h ạt n h â n hợp lý. Vì
vậy, sau khi xem xét chúng một cách cặn kẽ chúng ta m uốn
độc giả dừng lại tại định nghĩa đối tượng bảo tàn g học chung
n h ấ t k ế t hợp được nhiều cách tiếp cận.
Chương I: 5>ảo tà n g học với t ư cách là bộ môn khoa học
Đối tượng bảo tàng học là quy luật khách quan liê n
quan tới những quá trình tích luỹ, bảo quản và tru yền
thơng tin xã hội, nhữĩig truyền thống, tìn h cảm bằng
những dối tư ợ n g bảo tàng, liê n quan tới những quá trình
hình thành, phát triển và hoạt động xã hội của bảo tảng.
Phương p h á p bảo tà n g học. Hiện tại bảo tàng học đang
sử dụng những phương pháp được vay mượn từ các n g àn h
khoa học khác như khoa học n h â n văn, khoa học tự n h iên
(phương ph áp của các bộ m ôn lịch sử chuyên n g àn h và phụ
trỢ, sư phạm , tăm lý học, xã hội học; X-quang, quang phổ
V.V.; phương pháp nghiên cứu điền dã, quan s á t trực tiếp;
phương pháp thí nghiệm , trong đó có thí nghiệm lịch sử;
phương p háp mơ hình hóa V.V.). Những người cơng n h ậ n bảo
tãng học lã bộ môn khoa học độc lập, cho rằng bảo tàn g học
lã bộ m ôn khoa học hiện đang trong giai đoạn so ạ n th ảo
phương ph áp riêng của m inh. Các nhà bác học không công
n h ận bảo tàng học là bộ m ôn độc lập lại m inh chứng quan
điểm của m ình, chống lại rằng, bảo tàng học khơng có
phương ph áp riêng.
Những khái niệm cơ bản của bảo tàng h ọc
Từ cách tiếp cận, các nhà nghiên cứu bảo tàng xác định
chính b ả n ch ất của bảo tàng. Có nhiều định nghĩa bảo tàng.
Xin dẫn ra 2 định nghĩa có thể được coi lã “thực dụng” và
“triết học”.
Theo định nghĩa của ICOM, bầo tàng luôn là cơ quan phi
lợi nhuận, nhằm phục vụ xã hội và thúc đẩy xã h ộ i phát
triển, công chúng rộng rãi đều tiế p cận được, có n h iệm vụ
SƯU tầm , nghiên cứu, bảo quản, phổ b iến và trtứxg bày
những m inh chứng vật th ể v ề con người và nơi cư trú của
con ngưởi trong m ôi trường, nhằm nghiên cứu, giáo dục và
thoả m ãn nhu cầu tin h thần.
Theo quan điểm triết học, bảo tà n g được đ ịn h nghĩa là th ể
c h ế đa chức năng được hình thành m ột cá ch lịch sử của
ký ức xã hội, nhở đó thực h iện được nhu cầu xã h ộ i về
tuyển chọn, .bảo quản và m iêu tả nhóm dặc b iệt các đối
tượng văn hóa và tự n h iên , được xã hội công nhận là m ột
giá trị dược k ế truyền từ t h ế hệ này qua t h ế hệ khác.
s ự NGHIỆP BẢO TẢNG CỦA NƯỚC NGA
Chúng ta đều thấy những định nghĩa nãy không đối lập
nhau, sự khác biệt lả do những những định nghĩa này n h ằm
vào những mục đích khác nhau.
Nhiệm vụ quan trọng n h ấ t của lý luận bảo tàng học chung
là xác định các chứ c n ă n g xã hội (gần đây thường gọi là văn
h ó a xã hội) c ủ a bảo tàn g .
Để giải quyết nhiệm vụ này các nhả nghiên cứu cũng xuất
p h á t từ những quan điểm khác nhau: triết học, văn hóa học,
xã hội học V.V., d ẫn tới sự đa dạng về quan điểm đối với các
chức năng cơ b ả n của bảo tàng. A.M. Razgon chia ra 4 chức
n ă n g cơ bản: ghi chép (tài liệu hóa), bảo quản, nghiên cứu
và học tập - giáo dục.
Chức n ă n g tà i liệ u h ó a được thực hiện thông qua p h ả n
á n h của các quá trin h p h át triển tự n hiên và xã hội bằng
cách chọn lựa và bảo quản những tài liệu đặc biệt là các
h iện vật bảo tàng. Chức năng này gắn liền với bảo tồ n tư
liệu bảo tàng b ắ t buộc, có nghĩa là gắn với chức n ă n g b ả o
q u ả n và với việc nghiên cứu chúng, có nghĩa là với ch ứ c
năng nghiên cứu. Chức năng giáo dục - học tập được thực
h iện thơng qua sử dụng các tính chất thơng tin, tính c h ấ t
biểu đ ạ t của các hiện vật bảo tàng để đáp ứng nhu cầu n h ậ n
thức, văn hóa và những nhu cầu khác của xã hội.
Nhiều nhà nghiên cứu khác bổ sung các chức năng này
b ằn g hàng loạt chức năng khác, mở rộng cách hiểu chức
năng văn hóa xã hội của bảo tàng. Như việc chia chức năng
tiề n đề (giá trị có nghĩa là nhằm tạo ra trong xã hội những
tiêu chí và mục đích giá trị), chức năng thông tin, chức năng
th ẩ m mỹ, chức năn g giao tiếp (chức năng thoả m ãn nhu cầu
tin h th ần trong tiếp xúc với di sản văn hỏa, với những thời
kỳ và văn hóa khác), chức năng xã hội hóa cá tính v.v Cùng
với việc xác định vào những năm 1980 khuynh hướng các
bảo tàng m uốn tạo ra thời gian rản h rỗi cho cư dân, D.A.
Ravikovich đề nghị tá c h biệt chức năng giải trí. Song những
n h à nghiên cứu khác lại cho rằng sự đa phổ này về thực c h ấ t
đều xuất p h á t từ 2 chức năng cơ b ả n là tài liệu hóa và giáo
dục- học tập: vì, tài liệu hóa địi hỏi phải bảo quản và nghiên
cứu tư liệu, cịn việc hình th àn h những mục đích giá trị và
thực h iện giải trí chỉ là m ột bộ p h ận của giáo dục cá tính...
ìẾÊỆữSỊặ
230
'' *'
Chương I: Bảo tà n g học với t ư cách là bộ môn khoa học
H iện v ậ t bảo tà n g , kho, SƯU tậ p - lả những khái niệm cơ
b ả n bảo tàng học đồng thời là những đơn vị cơ b ả n để p h ân
loại, kiểm kê và bảo quản những giá trị bảo tàng.
Hiện v ậ t bảo tà n g - khâu trung tâm của toàn bộ hoạt động
bảo tàng, nếu thiếu thì hoạt động bảo tàng khơng cịn ỹ nghĩa
đậc biệt. Hiện vật bảo tàng tiềm năng, đối tượng bổ sung bảo
tàng còn chưa dược SƯU tẩm từ mõi trường tồn tại được gọi là
h iệ n v ậ t có ý nghĩa bảo tàn g . Theo định nghĩa năm 1988
trong cuốn “Bảo tàng học” thì hiện vật bảo tàng là hiện vật có
ý nghĩa bảo tàng được khai thác từ thực tế hiện thực, nhập vào
SƯU tập bảo tàng và có thể được bảo quản lâu dài. Khi định
nghĩa hiện vật bảo tàng p h ẩn lớn các tác giả chú trọng tới
tính nguyên b ản của chúng, gọi đó là “tư liệu chinh thức của
tri thức và cảm xúc”; trong m ột loạt định nghĩa n h ấn m ạnh
đố là “đối tượng vận động của thực tế hiện thực”. Nhưng gần
đây trong bảo tàng học hiện rõ khuynh hướng xét lại định
nghĩa hiện vật bảo tàng, vì trong hoạt động bảo tàng ngày
càng bao gồm thêm những đối tượng văn hóa lịch sử, dối
tượng phi vật th ể cũng như thực tế không thu hồi hoặc thu
hồi được tồn bộ hiện vật từ mơi trường tồn tại.
Để hiểu tính c h ấ t b ản c h ất của hiện vật bảo tàng cần phải
xem xét b ản c h ấ t và giá trị của hiện vật.
Các nhà bảo tàng học p h â n tách hàng loạt tín h ch ất hiện
vật bảo tàng. Hẩu như đều thống n h ấ t kể ra 3 tính chất:
Tính thơng tin “ khả năng hiện vật bảo tàng là nguồn
thơng tin;
Tính biểu dạt - khả năng hiện vật bảo tàn g gây được
cảm xúc;
T ính cu ố n h ú t - khả năng hiện vật bảo tàn g lôi €uốn được
sự chú ý (thõng thường gắn với bề ngoài của h iện vật).
Một loạt n h à nghiên cứu dừng lại tại 3 tín h c h ấ t xác định
trê n thực tế này. Nhưng vẫn có những cố gắng p h ân tách
thêm những tín h chất khác. Trong đó thường n hắc tới:
T ính dại d iệ n - khả năng h iện vật bảo tàn g là hình mẫu,
b ản m ầu tốt n h ấ t đại diện cho hàng loạt h iện vật giống
chúng, phản á n h đầy đủ th ế giới b ên ngoài.
s ự NGHIỆP BẢO TÀNG CỦA Nước NGA
T ín h liê n tư ở n g - khả năng tạo sự liên tưởng. Tính chiít
n ày r ấ t quan trọng và các nh ân viên bảo tàng ưa thích sử
dụng cho trưng bày. Thí dụ sau chứng m inh cho ý tưởng trên.
Trong m ột cuốn sách có m ột bơng hoa khơ. Hiện v ậ t này
khơng có nhiều thông tin tiềm năng- cụ thể là không th ể h é
mở tiềm năng của hiện vật. Thông thường không th ể xâc
định thời gian tương đối khi nào bông hoa được ép trong
sách. Nhưng nếu p h át hiện này được thực h iện thì b ấ t cứ
n h â n viên bảo tàng nào khi trưng bày cuốn sách đều cố th ể
h iện cả bông hoa vì bơng hoa sẽ gây nên hàng loạt liên
tưởng- từ những suy tư xem bõng hoa được ép trong trường
hợp nào đ ến những vần thơ của Puskin “Bông hoa khõ,
khơng người chăm sóc...”
Như vậy, 3 trong số những tính chất kể trê n là tính biểu
đ ạt, cuốn h ú t và liên tưởng thể hiện khả nãng hiện vật tạo
cảm xúc còn 2 tinh ch ất - thông tin và đại diện là nguồn
thông tin th ể h iện thời đại nào đó hay m ột h iện tượng này
hay h iện tượng khác của hiện thực, về tổng thể, những tín h
c h ấ t này đem lại cho hiện vật bảo tàng tính ch ất khó tá c h
b iệ t có th ể gọi được là “tính bảo tàng" hay "bảo tàng tín h ”.
Mức độ th ể h iện những tính ch ất trên xác định phạm trù
quan trọng th ể hiện hiện vật bảo tàng là tín h giá trị. Mức
độ bảo tản g tính của hiện vật liên quan trực tiếp tới tín h giá
trị của h iện vật. Trong bảo tàng học và di tích văn hóa học
thường p h â n ra tính giã trị khoa học, lịch sử, ký ức, nghệ
th u ậ t và đạo đức.
G iá t r ị k h o a h ọ c h iệ n v ậ t bảo tàn g dược xác định bồi
k h ả n ă n g đ ảm bảo là nguồn thông tin vé m ột bộ m ôn kh o a
học chuyên n g à n h n ào đó và liên quan đ ế n tín h c h ấ t
th ơ n g tin.
Giá t r ị lịc h s ử được xác định bởi sự liên hệ của hiện v ậ t
với những quá trìn h và sự kiện lịch sử. Song các nhà bác học
v ẫ n tra n h luận xem có cần xem xét giá trị lịch sử m ột cách
độc lập hay đó chỉ lả trường hợp riêng biệt của giá trị khoa
học đối với khoa học của lịch sử? Giá trị lịch sử liên quan
tới p h ạm trù thời gian và trước h ết được xác định bởi tín h
c h ấ t đại diện.
Chương I: Báo tà n g học vời t ư cách là bộ môn khoa học
Giá trị ký ức được xác định bởi mối liên hệ được thể hiện
của hiện vật với người nổi tiếng hay sự kiện lịch sử trọng đại;
khác với giá trị lịch sử, giá trị ký ức được xác định khơng
phải bởi tính ch ất tượng trưng của hiện vật m à bởi tính
khẳng định lịch sử về xuất xứ và sự tồn tại của nó. Những
h iện vật ký ức ph ần lớn có tính ch ất biểu đạt.
Giá tr ị th ẩ m m ỹ vả n g h ệ th u ậ t của h iện v ật được xác
định bởi khả năng gãy cảm xúc thẩm mỹ và liên quan tới
những tính c h ất hấp dẫn và biểu dạt. T huật ngữ “giá trị th ẩm
m ỹ” được hiểu theo nghĩa rộng bởi lẽ những cảm xúc th ẩm
mỹ không chỉ được tạo ra bởi con người m ả đối tượng tự
n h iên cũng tạo được những cảm xúc đó. Do vậy, những đối
tượng n ày được coi là m ang giá trị bảo tàn g và n h ậ p vào SƯU
tập bảo tàng (thí dụ các m ẫu khóang vật được tuyển chọn
vào SƯU tậ p bảo tàn g là dựa vào giá trị th ẩ m mỹ).
Như vậy những tính ch ất của hiện vật bảo tàng và những
h ìn h thức giá trị của nó ln có mối liên hệ c h ặ t chẽ. Nếu
tổng th ể tính ch ất tạo n ê n tín h bảo tàng (m useal’n o st’) của
h iện vật thì đặc điểm giá trị chung lại là giá trị b ả o tà n g của
hiện vật - ỷ nghĩa của hiện vật để bảo tàn g sử dụng, tiêu chí
cơ bản để tuyển chọn h iện vật vào SƯU tập bảo tàng.
D ịnh nghĩa h iện vật bảo tàn g xuất p h á t từ những điều
nêu trên:
H iện vật bảo tàng là dối tượng tự n h iên hay văn hóa
lịch sử dược nhập vào sưu tập bảo tàng, là tư liệ u ban đẩu
của trì thức và tác động cảm xúc và m ang giá trị bảo tàng.
Do những đặc điểm giá trị các hiện vật bảo tàn g dược
p h á n th à n h những hiện vật duy nhất (unikum) - những hiện
vật độc n h ấ t vô nhị về loại hình và m ang tín h độc đáo,
khóng trùng lặp, hiếm (raritet). Khái niệm duy n h ấ t đối lập
khái niệm điển hình. Hiện vật bảo tàng đ iể n h ỉn h h àm chứa
nhiều dấu hiệu ở mức độ cao đặc trưng cho môi trường tồn
tại n h ấ t định vì th ế hiện vật ln ln m ang tín h đại diện.
H iện v ật m âu là sả n phẩm tiêu chuẩn s ả n xuất h àn g loạt.
Là h iện vật bảo tàng, đối tượng tự n h iên trải qua những
giai đoạn xử lý cõng nghệ cần th iết trở th à n h tiê u b ả n k h o a
h ọ c - t ự n h iê n . Tiêu b ản khoa học - tự n h iên chia th à n h 3
S ự N G H lỆ P BẢO TẢNG CỦA NƯỚC NGA
nhóm . Dưới dạng tiê u b ả n k h ô gồm nhiều m ẫu thuộc địa
chất, cổ sinh vật học, tập m ẫu thực vật, thú nhồi bông trả i
qua kh âu xử lý nhồi bông v.v Những tiê u b ản k h o a h ọ c tự
n h iê n ẩ m thuộc p h ần bảo quản trong các bình lọ chứa c h ấ t
lỏng đóng kín. Vấn đề trong khâu chuẩn bị tiêu b ả n ẩm là
chúng bị m ất m àu trong ch ất lỏng đóng kín. Thuốc nước k ế t
quả thay đổi dột biến do b à n tay nghệ th u ật của Ph. Rouish
điều ch ế cho Nhà hầm Peterburg nơi bảo quản m àu của m ắt,
mối v.v. đ ế n nay đã hàng chục th ập niên và có lẽ h àn g trăm
n ăm nữa khơng dễ có ai vượt qua được., Hiện nay Giáo sư
A.E. Mikulin đă nghiên cứu th à n h công công nghệ s ả n xuất
ch ế phẩm nước cho phép bảo quản màu của tiêu b ả n (sưu
tậ p lớn những tiêu b ả n cư d â n biển hiện được lưu giữ tại Bảo
tàn g b iển th ế giới (Kaliningrad) và các bảo tàng thống n h ấ t
về hoang m ạc Svjato-Alekseev (tình Jaroslav). N hững tiê u
b ả n s iê u n h ỏ chủ yếu được sử dụng cho những mục đích
khoa học và học tập, có thể được trưng bày nhưng phải sử
dụng kỹ th u ậ t chuyên dụng. Hiện nay còn được sử dụng
trong các trưng bày giao tiếp kiểu “Phòng khám p h á ” tại bảo
tàng thư viện m ang tên K.A. Timirjazev (Moskva).
Hiện v ậ t bảo tàng được p h â n loại theo loại tư liệu tuỳ
thuộc vào khả năng định dạng thông tin (xem kỹ hơn trong
chương “Thư tịc h h ọ c bảo tàng"). Đơn vị tiếp sau thuộc p h â n
loại h iện v ật bảo tàng là hình dạng, được xác định trê n cơ
sở những dấu hiệu chính chung n h ấ t (vật liệu, kỹ thuật,
n hiệm vụ, chức năng V.V.). Những h iện vật thuộc loại tư liệu
v ật c h ấ t được chia theo vật liệu như: gỗ, kim loại, kính, gốm,
vải, d a V.V., theo nhiệm vụ chưc năng như: hiện vật tơ n giáo,
vủ khí, cơng cụ lao động, q u ần áo V.V..
Trong cùng m ột loại lại p h ân loại theo các dạng khác
nhau, thí dụ dạng “gốm” chia th à n h gốm thõ, sân h , sứ. Đơn
vị p h â n loại nhỏ hơn là nhóm (thí dụ: dạng- kim loại, p h â n
dạng - kim loại m àu, nhóm - đồng).
Dấu hiệu b ả n c h ất cơ b ả n của hiện vật bảo tàng là tín h
n g u y ê n b ả n (gốc). Trong b ách khoa thư và từ điển tổng hợp
thì khái niệm “b ả n gốc”, “nguyên bản" được định nghĩa thông
qua kh ái niệm đối lập là “b ả n sao”, “đồ nguỵ tạ o ”. Đồ ngụy
tạo lã làm lại h iện vật nếu điều này nhằm mục đích thay cho
234
Chương ỉ: Dảo tà n g học với t ư cách là bộ môn khoa học
b ả n gốc. Các n h à bảo tàng học và n h â n viên bảo tàn g toàn
th ế giới đều phải công n h ậ n vấn đẻ là các kho bảo tàn g đầy
rẫy đỗ giả", trong số đó nhiều cái được thực h iện ở trìn h độ
cao đến nỗi các nhà tài dan h cũng khó p h ân b iệ t được với
nguyên bản. Hiện vật bảo tàng tái tạo được thực h iện trong
trường hợp không thể hay không m uốn trưng bày b ả n gốc
được p h â n thành: bản sao, đồ tái tạo, m aket, mô hĩnh, hĩnh
dập khuôn, khuôn, tem (chất lượng) (gologramma). Thõng
thường tấ t cả được nhập vào kho tư liệu khoa học hỗ trợ.
Song, trong những trường hợp riêng biệt, vật tái tạo lại h iện
vật bảo tàng bị m ất hoặc không thể SƯU tậ p được có thể
th à n h quy chế gọi là “b ả n gốc thứ b ả n ” và có th ể n h ậ p vào
kho ch ín h của bảo tàng.
s ư u tậ p những giá trị văn hóa được định nghĩa trong Bộ
luật thơng qua năm 1993 của Liên bang Nga “Về việc xuất
và n h ậ p những giá trị văn hóa" như sau: ‘T o à n bộ những
h iệ n v ật k h ác n h au cùng chủng loại hoặc giống n h a u về
n h ữ n g dấu hiệu n h ấ t đ ịn h k h ô n g kể m ỗi m ột h iệ n v ậ t trong
đó có giá trị văn hóa riêng được tậ p hợp lại đều có ý nghĩa
lịch sử, nghệ thuật, khoa học hay văn hóa k h ác ”. Theo giáo
khoa phương ph áp luận “Công tác kho - khoa học trong bảo
tà n g ” thì SƯU tậ p bảo tà n g là “tổng th ể thống n h ấ t được hệ
thống h ó a và tổ chức m ột cách kh o a học nhữ ng h iệ n v ậ t bảo
tà n g có k h ả n ă n g thể h iệ n giá trị kh o a học, lịch sử, nghệ
th u ật hoặc văn hóa khác chỉ với tư cách là tập hợp to àn diện
thống n h ấ t nhừng tư liệu đó". Chúng tơi cho rằn g g ắn giá trị
của SƯU tập chỉ với tính thống n h ấ t của nó là m ộ t sai lầm.
Có th ể nói cụ thể hơn rằng giá trị của SƯU tập với tư cách là
tập hợp tồn diện thống n h ấ t ln vượt trội so với tổng giá
trị củ a các h iện v ật trong SƯU tậ p m ặc dù tự th â n m ỗi m ộ t
hiện vật trong SƯU tập đều rấ t có giá trị. Song khuynh hướng
h iện đ ại n h ấ n m ạ n h ỷ nghĩa th ố n g n h ấ t của SƯU tậ p và gắn
giá trị của ỷ nghĩa này với việc dảm bảo sự thống n h ấ t này
lại được coi là rấ t quan trọng trê n quan điểm làm sao không
để SƯU tập bị p h â n tá n và p h â n nhỏ. Hiện nay, k h i bổ sung
kho, n h iều bảo tàn g có k h u y nh hướng m ua h à n g lo ạ t SƯU tập ,
p h ải giải th ích rấ t vất vả với chủ n h â n của n h ữ n g SƯU tậ p
này n h ằm giữ nguyên bộ SƯU tậ p giá trị đã có. Thí dụ th à n h
cõng của cơng việc này là sau n h iều n ă m thư ơng th ả o với
s ự NGHIỆP
ữko TÀNG
CỦA NƯỚC NGA
nh à sưu tập và những người kế thừa, năm 1966, b ả o tàng
nghệ th u ật Jaroslav đã có được SƯU tập Ashik có tới vài
nghìn hiện vật có ý nghĩa bảo tàng.
Mới gần đây, khái niệm “SƯU tập tư nhân” còn đối lập với
khái niệm “sưu tập bảo tàng"; nhập vào bảo tàng, “SƯU tập
tư n h ân " có quy chế “sứu tập cá n h â n ”. Song hiện nay do
các bảo tàng tư n hân được phép hoạt động và số lượng ngày
càng gia tăn g nên có thể kết hợp cả 2 khái niệm này và đ ặ t
k h ái n iệm “SƯU tậ p bảo tàn g tư n h â n ” trong th à n h p h ầ n kho
của các bảo tàng tư nhân.
Loại hình SƯU tập bảo tàng cơ bản là:
SƯU tậ p h ệ th ố n g (loại hình) gồm những h iện v ậ t cùng
chủng loại, được gom theo m ột dấu hiệu p h ân loại n h ấ t định;
SƯU tập ch ủ dề, gồm những hiện vật khác chủng loại
nhưng được tập hợp do cùng nói về một chủ đề n h ấ t định;
sưu tập t ư nh ân , được hình th àn h theo nguyên tắc sở hữu
hiện vật thuộc về một cá n hân n h ất định hay từ những hiện
vật chứa đựng thông tin về một người n h ất định, sưu tập từ
những hiện vật liên quan đến đời sống và hoạt động của n h â n
vật lịch sử hay sự kiện được định nghĩa là SƯU tập ký ức.
Trong các bảo tàng trường học hay bảo tàng đại học thường
có những SƯU tập học tập gồm những hiện vật bảo tàng và
tàỉ liệu khoa học phụ trợ được sử dụng trong quá trìn h học
tập. G ần với các SƯU tập này là các SƯU tập hiện nay được
xây dựng cho các nhà trẻ, trưng bày cho trẻ em, cho các hoạt
động giao tiếp của nhà trẻ. Thường những SƯU tập này gồm
những h iện vật bảo tàng cùng chủng loại hoặc khác chủng
loại và p h ầ n lớn là tài liệu phụ trợ khoa học (chủ yếu là bản
sao, khuôn hay những hiện vật mới ít giá trị), cho p hép tiến
h à n h các buổi giảng dạy trong hoặc ngoài bảo tàng cho trẻ
em theo m ột chủ đề n h ấ t định (thí dụ: ‘Trường học th ế kỷ
XIX”, “Ngôi n h à Nga”, “Đồ chơi dân gian bằng đ ấ t” V.V.). Hiện
tại chưa có thuật ngữ riêng cho những SƯU tập như thế.
T h ư tịc h học bảo tà n g nghiên cứu lý luận, phương pháp
luận vã phương pháp giải thích, nghiên cứu và sử dụng hiện
vật và SƯU tập bảo tàng.
Chương I: Bảo tà n g học vời t ư cách là bộ môn khoa học
Với cách tiếp cận này, th ậ t lôgich khi gộp vào định nghĩa
việc nghiên cứu những quá trình và những quy luật hình
thành và hoạt động của các SƯU tập bảo tàng với tư cách là
những hệ thống thống n h ấ t tự p h á t triển, bao gồm những
hiện v ậ t và sứu tập bảo tàng được tổ chức và liên quan n h ấ t
định với nhau để bảo tàng thực hiện m ột cách tối ưu n h ấ t
các chửc năng văn hóa xã hội của mình.
Củng m ột hiện vật có thể là hiện vật bảo tàng, là tư liệu
lịch sử, đồng thời là đối tượng lý luận của hiện vật bảo tàng,
của thư tịch học lịch sử và bảo tàng. Với tư cách là tư liệu
lịch sử, trước hết, nó là cơng cụ n h ận thức khoa học, với tư
cách là hiện vật bảo tàng, nó vừa là cơng cụ n h ậ n thức khoa
học vữa là cõng cụ khai thác cảm xúc th ế giới và giao tiếp.
Các n h à chuyên môn coi những nhiệm vụ cơ b ả n của thư
tịch học là làm rõ những thõng tin ngữ nghĩa (ỷ nghĩa) hàm
chứa trong hiện vật bảo tàng, SƯU tập bảo tàng, tập hợp bảo
tàng, cũng như nghiên cứu những tính ch ất đặc điểm của
h iện v ật bảo tàn g - tín h biểu đ ạt, tín h cuốn hút, tín h đại
diện, tính giao tiếp.
Theo các nhà chuyên m ôn - những người xây dựng thư
tịch học bảo tàng, thì nghiên cứu thư tịch học h iện v ậ t bảo
tàng, SƯU tậ p bảo tàng, tậ p hợp bảo tà n g p h ả i h o à n th iệ n
n h ữ n g đ ặc tính, p h â n loại, hệ thống h ó a và giải th ích chúng,
k ết quả lã làm rõ những đặc điểm loại hình khác n hau của
hiện vật bảo tàng. Xin chú ý một vấn đỗ là trong trường hợp
này những th u ật ngữ “tư liệu” và “h iện v ật bảo tàn g ” thường
được sử dụng gần như đồng nghĩa. Vì vậy, r ấ t hợp lý khi so
sá n h đối tượng vữa với tư cách là tư liệu lịch sử vừa với tư
cách là h iệ n v ậ t bảo tàng.
Các đối tượng tự n hiên trong SƯU tậ p bảo tàn g trước h ế t
được tuyển chọn th àn h từng bộ theo loại hình, các m ẫu tiêu
chuẩn, các m ẫu tem (golotip), là những khẳng định tà i liệu
của yếu tố khám phá khoa học. Trong th ư tịch học, loại hình
hiện vật bảo tàng này ít được nghiên cứu n h ất.
Tư liệu thống kê liên quan đ ế n truyền thống trong th ư tịch
học lịch sử, ho ạt động bảo tàn g thực tiễn được p h â n th à n h
những tư liệu vật thể, nghệ th u ật và tư liệu viết.
s ự NGHIỆP BẢO TẢNG CỦA NƯỚC NGA
T ư liệ u v ậ t th ể , trong đó hoạt động của con người được
v ật th ể hóa (hiện vật hóa), chứa đựng những thơng tin về v ăn
hóa theo nghĩa rộng nhất: về tổ chức xã hội của xã hội, về
lối sống, về những khái niệm thẩm mỹ, tơn giáo... về đ ặc tín h
tâm lý- cảm xúc và th ế giới nội tâm của con người.
Thông tin này dược m ã hóa m ột cách cơ bản, việc khai
th ác thơng tin này địi hỏi những phương pháp chuyên m ôn,
thường rấ t tinh tế: chuyển từ “ngôn ngữ đỗ v ật” sang b ấ t kỳ
m ột ngơn ngữ khoa học tự nhiên nào, có nghĩa là m iêu thuật,
so sá n h với tư liệu th à n h văn, nghệ th u ật v.v. nhằm xác định
những quá trìn h hay hiện tượng được phản á n h trong m iêu
th u ật đồ vật, trê n cơ sở đó tạo dựng hinh ả n h đồ vật, làm
rõ cơng dụng hữu ích, những chức năng th ẩm mỹ và dấu
hiệu (ký hiệu), ỷ nghĩa của nó (ý nghĩa, ngữ nghĩa) dối với ký
ức xã hội. Trong nhiều trường hợp, tư liệu vật thể bao h àm
nhiểu tính ch ất cuốn hút và biểu đ ạt hơn, thí dụ, so với tư
liệu viết.
T ư liệ u v ậ t th ể (đồ vật) là n ền tảng của những SƯU tậ p
của nhiều bảo tàng, m à ở đó hiện vật được p h â n loại theo
SƯU tập: khảo cổ học, cổ tiền học, huân, huy chương, huy
hiệu, vũ khí, đồ vải, gốm, sứ, thuỷ tinh V.V.. Trong trứng bày
bảo tàn g chúng có thể là đồ trưng bày chính hoặc hỗ trợ là
phụ thuộc vào tình hình cụ thể.
Trong t ư liệu v iết, thông tin về thực tiễn k hách quan được
th ể hiện bằng tạo v ật tư liêu (chủ thể) dưới hình thức ngơn
từ (ghi âm) và được định dạng trê n vật liệu vật c h ấ t nhờ
những ký hiệu văn tự (tiết hĩnh văn tự, chữ h ìn h vng
(tượng hĩnh), chữ cái V.V.). Sự ph ân loại chi tiết, phương p h ã p
luận và phương pháp khai thác thông tin tữ các tư liệu viết
được các bộ m ôn thư tịch học lịch sử, bộ m ôn lịch sử hồ trợ
chuyên ngành nghiên cứu và tư liệu viết là đối tượng của
những bộ m ôn náy.
Các n h à nghiên cứu gộp thêm vào các nhiệm vụ của thư
tịch học việc; nghiên cứu phương pháp không chi khai th á c
và sử dụng thông tin chứa trong tư liệu viết m à còn p h ả i
nâng cao sự h ấp d ẫn và tính biểu đ ạ t của chúng. Theo c ác h
tổ chức SƯU tập bảo tàng được chấp n h ận tại các bảo tà n g
thì tư liệu viết được p h ân loại theo những dấu hiệu hĩnh thức
238
Chương I: Bảo tà n g học với t ư cách là bộ môn khoa học
(sách, tờ rời, báo, giấy mẫu...) và được bảo quản trong th àn h
p h ầ n SƯU tập tài liệu cũng như các cuốn sá c h ch ép tay và
s á c h cổ.
Tư liệu tạ o h ìn h là các tư liệu trong đó thơng tin được m ã
h ó a bằng hình tượng thị giác, khõng lệ thuộc vào tính ch ất
công cụ, nguyên liệu và phương pháp tạo dựng hình tượng:
b ả n đồ, sơ đồ, đồ thị, tài liệu ả n h và phim ảnh; tượng thánh,
tra n h tường, tranh, biểu đồ, hình ả n h trẽ n các hiện vật nghệ
th u ậ t ứng dụng, đồ điêu khắc. Chúng là đối tượng nghiên cứu
của nghệ thuật học, thư tịch học lịch sử. Môn nghiên cứu
nghệ th u ậ t nghiên cứu chúng với tư cách là vật chuyển tải
thông tin thẩm mỹ (những tác phẩm nghệ thuật), còn thư
tịch học lịch sử lại làm rõ và giải thích thơng tin xã hội hàm
chứa trong tư liệu tạo hình (thế giới quan, đạo đức, thẩm mỹ,
lối sống-lịch sử, sự kiện V.V.).
Thư tịch học bảo tàng xem xét chúng như là những hiện
v ật bảo tàng dưới m ột hình thức nào dấy tham gia vào quá
trìn h giao tiếp bảo tảng vả cần được đ ặt trong trưng bày bảo
tàn g với ý nghĩa ngang bằng n h ấ t định. Trong SƯU tập bảo
tàn g chúng được ph ân loại theo bộ: tư liệu ảnh-phim ảnh;
biểu đỗ; tran h phong cảnh; tượng điêu khắc; nghệ th u ật tạo
hình. Tư liệu tạo hình là n ề n tảng SƯU tập của các bảo tàng
mỹ thuật, trong đó có các bảo tàng nghệ th u ậ t d ân tộc và
nghệ th u ật trang trí ứng dụng.
Trong sổ tư liêu động (dinamic) có băng ghi âm (tư liệu
âm) và phim ảnh, phim video. Trong trường hợp kể đ ến đảu
tiên, âm (lời nói của con người, tiếng động, âm nhạc v.v.)
được ghi lại và tái hiện trê n những đổ v ật chuyên dụng
(băng, đĩa...) nhờ vào những th iết bị kỹ th u ật chuyên dụng,
với trường hợp kể sau thì tư liệu là đối tượng của hiện thực
vi h ìn h ản h của chúng được chuyển động.
Thư tịch học bảo tàng còn có thể nghiên cứu phương pháp
khai thác, giải mã, và sử dụng trong ho ạt động bảo tàng
những thông tin có trong những tư liệu này. Loại hình hiện
vật bảo tàng còn mới mẻ và p h á t triển năn g động này chưa
được thư tịch học nghiên cứu kỹ. Giá trị của nó đối với hoạt
dộng bảo tàng là tính tài liệu, khách quan hóa trong hình
ả n h động và âm thanh. Do những đặc điểm b ả n ch ất của