TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH DOANH VÀ CÔNG NGHỆ HÀ NỘI
KHOA TRIẾT HỌC VÀ KHOA HỌC XÃ HỘI
TIỂU LUẬN
LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Chủ đề 3:
Khốn hộ và đóng góp của nó đối với nền nơng nghiệp
Việt Nam.
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..................................................................................................3
NỘI DUNG..............................................................................................4
1. Định nghĩa về khoán hộ?..................................................................4
2. Khoán hộ ra đời trong hồn cảnh nào?...........................................5
3. Lí do Trung ương khơng chấp nhận khốn hộ?.............................6
4. Sau này những nghị quyết nào của Trung ương cơng nhận khốn
hộ?............................................................................................................6
5. Những hạn chế của Khốn hộ hiện nay...........................................7
6. Đóng góp của khốn hộ.....................................................................8
KẾT LUẬN..............................................................................................9
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Đặt trong bối cảnh nước ta sau khi lập lại hồ bình (năm 1954), tình hình sản
xuất nơng nghiệp miền Bắc đã đạt được một số kết quả quan trọng. Tuy nhiên, nền
nông nghiệp miền Bắc đang chịu tác động mạnh mẽ bởi cơ chế quản lý tập trung,
quan liêu, mệnh lệnh, hành chính, công tác quản lý trong hợp tác xã mà nội dung
chủ yếu là cơ chế “khoán việc” dần dần bộc lộ nhiều khuyết điểm, dẫn đến sản xuất
nông nghiệp sa sút, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn. Tình hình trên có nhiều
ngun nhân, trong đó việc áp dụng cơ chế tập trung bao cấp đối với hợp tác xã,
làm cho nông dân không tha thiết với đồng ruộng, sản xuất theo kiểu đối phó, năng
suất thấp, hiện tượng “dong cơng, phóng điểm” diễn ra khá phổ biến, đời sống nhân
dân gặp khó khăn, thiếu đói diễn ra thường xuyên. Câu hỏi là tại sao nông dân
không thiết tha với đồng ruộng và họ vẫn đói nghèo? Năng suất lao động thấp…
Tại thời điểm đó, “khốn hộ” đã ra đời. “Khoán hộ” đã giải quyết một vấn đề
rất cơ bản là giải phóng sức sản xuất đang bị kìm hãm bởi cơ chế quản lý không
phù hợp, xa rời thực tiễn sản xuất nông nghiệp; phát huy sự chủ động, năng động,
những tiềm năng dồi dào trong nhân dân, khắc phục tình trạng dân chủ hình thức,
biến người nơng dân thành người chủ đích thực trong sự ràng buộc bởi yếu tố lợi
ích. Lần đầu tiên, ý tưởng về khốn cho hộ gia đình xã viên đã khơi dậy tính sáng
tạo trong quần chúng lao động và phù hợp với lịng dân nên nhanh chóng đi vào đời
sống thực tiễn.
2. Mục đích nghiên cứu.
Bài tiểu luận làm rõ những vấn đề liên quan đến khoán hộ, những tác động
cả về mặt tiêi cực và những đóng góp của nó đối với nền nơng nghiệp Việt Nam
thời điểm đó.
3. Kết cấu bài tiểu luận.
Bài tiểu luận được chia 3 phần, Mở đầu, Nội dung và Kết luận..
NỘI DUNG
1. Định nghĩa về khoán hộ?
Trước khi cơ chế khốn hộ ra đời thì ở nước ta áp dụng cơ chế khốn việc.
Khi vào hợp tác xã, hộ nơng dân đóng góp tất cả tư liệu sản xuất mà mình có được
bao gồm: ruộng đất, trâu, bị, cày, cuốc… để sở hữu chung, dưới sự quản lý của
Ban chủ nhiệm hợp tác xã và các Đội sản xuất. Mọi việc làm và kết quả thu hoạch
được đều do Ban chủ nhiệm và các Đội sản xuất quản lí, điều hành và phân phối.
Hình thức tổ chức sản xuất ở các hợp tác xã là khoán việc. Đơn vị sản xuất là tổ đội
sản xuất chứ khơng cịn là hộ gia đình, vai trị kinh tế hộ nơng dân bị xố bỏ.
Khốn việc khơng quy trách nhiệm cho ai, xã viên khơng hề thấy quyền lợi mà
mình sẽ được hưởng trên cánh đồng chung. Xã viên làm việc theo tiếng kẻng, buổi
sang theo kẻng đủng đỉnh ra đồng, làm việc cầm chừng đợi kẻng hết giờ ra về,
không quan tâm đến chất lượng công việc.
Nhận thấy những bất cập, sự thiếu hiệu quả với cơ chế khoán việc này, Đảng
và Nhà nước đã có chủ trương chuyển đổi sang cơ chế khoán hộ, và nơi đầu tiên
xuất hiện và áp dụng cơ chế này là ở tỉnh Vĩnh Phúc. Về định nghĩa thì khốn hộ
khơng có khái niệm cụ thể, nhưng chúng ta có thể hiểu một cách đơn giản như sau.
Nông dân sẽ chỉ mặn mà với đất đai khi cơng lao chăm bón, cày cấy và thu hoạch
trên mảnh ruộng này hồn tồn thuộc về hộ gia đình, làm được bao nhiêu họ hưởng
cả, vì thế mà họ ra sức chăm bón, cày cấy, quay vịng để ni gia đình. Tức là khi
hộ nơng dân được tự chủ, họ có thể tồn tâm, tồn ý, bỏ hết cơng sức để đạt được
năng suất cao nhất có thể. Vậy nếu khốn việc tới hộ nơng dân thì sẽ khắc phục
được những hạn chế trên và thúc đẩy người lao động hăng hái tham gia sản xuất,
tăng năng suất lao động.
Đối với một số khâu trong quá trình canh tác mà xã viên có thể đảm nhiệm
hiệu quả như cấy, chăm bón lúa (làm cỏ, bón phân, tát nước…) và thu hoạch, thì
giao cho xã viên diện tích phải làm, kèm theo mức khốn số cơng điểm được ăn
chia, sản lượng phải đạt và nộp cho hợp tác xã. Với cách làm như vậy, xã viên làm
tốt, vượt mức khốn thì họ được hưởng lợi hồn toàn, nên xã viên hăng hái, chăm
chỉ tham gia sản xuất, khả năng tự chủ của hộ gia đình lại được phát huy, mọi tiềm
năng lao động lại được tận dụng. Đó chính là sự tích cực mà khống hộ mang lại tại
thời điểm đó.
2. Khốn hộ ra đời trong hồn cảnh nào?
Khốn hộ ra đời với mục đích tạo ra một “luồng sinh khí mới”, cách nghĩ và
cách làm mới trong sản xuất nông nghiệp. Tiêu biểu ở đây là tỉnh Vĩnh Phúc, là nơi
đầu tiên xuất hiện cải cách khoán hộ. Giữa những năm 1960 khi mà cuộc kháng
chiến chống đế quốc Mỹ bước vào thời kì ác liệt, miền Bắc cùng lúc phải gánh trên
vai hai nhiệm vụ đó là làm tiền tuyến lớn và làm hậu phương vững mạnh. Lúc ấy
tại tỉnh Vĩnh Phúc, ban thường vụ tỉnh ủy Vĩnh Phúc mà bí thư lúc đó là ông Kim
Ngọc đã ra nghị quyết 68-NQ/TW “Về một số vấn đề quản lí lao động trong hợp
tác xã nơng nghiệp”, sau này gọi tắt là nghị quyết “Khốn hộ” (NQ 68).
Lí do khiến cho khốn hộ ra đời là do tình thế phải đáp ứng đủ lương thực,
thực phẩm cho bà con miền Nam kháng chiến và cũng phải cung cấp đủ lương
thực, nông sản cho miền Bắc. Tuy nhiên với cách thức “khốn việc” trước đây thì
năng suất lao động là rất thấp, người nông dân không hề có động lực để sản xuất,
lao động. Họ làm việc một cách thờ ơ, làm cho có vì họ khơng thấy được lợi ích
của mình trên thửa ruộng đó, trên con vật mà họ ni. Vì thế u cầu đặt ra là phải
có chính sách mới, phải thay đổi hồn tồn tình hình hiện tại. Thế nên khốn hộ ra
đời, từ đó đời sống sản xuất, lao động của bà con nông dân cũng được cải thiện,
phát triển đáng kể. Người nơng dân có động lực hơn để tăng gia sản xuất, họ nhìn
thấy cái “được” và cái “mất” của mình. Trước đây người nơng dân mất sức lao
động khác nhau nhưng cái họ thu về được là giống nhau, nên họ muốn bản thân
mình ít mất sức lao động nhất có thể, chuyển trách nhiệm cho người khác. Tuy
nhiên bây giờ với việc ai làm càng nhiều thì lương thực, của cải để ra sẽ càng
nhiều, điều này khiến cho người nông dân ra sức sản xuất để vừa ni sống gia
đình, vừa góp cơng sức cho cuộc kháng chiến trường kì của dân tộc.
3. Lí do Trung ương khơng chấp nhận khốn hộ?
Ở thời điểm đó có khá nhiều người lăn xả vào để ủng hộ khốn hộ, nhưng
cũng có một bộ phận khơng nhỏ lên tiếng phê phán khoán hộ là xa rời chủ nghĩa xã
hội, đưa nông nghiệp quay trở lại con đường tư hữu hóa (vì ruộng đất, tài sản giao
cho nơng dân). Một bộ phận người thà đói cịn hơn đi ngược lại với chủ nghĩa Mác
- Lenin.
Khoán hộ cũng được xem là “đốt cháy giai đoạn”, không phù hợp với chủ
trương đẩy mạnh phong trào hợp tác hóa của Trung ương và được coi là một sự
“vượt rào”, vi phạm nghiêm trọng đường lối, chỉ đạo của Đảng về phát triển nông
nghiệp thời bấy giờ, nên không thể nào mà triển khai rộng rãi. Bản thân người đi
đầu trong chủ trương này cũng phải chịu nhiều sức ép, nhưng đồng chí vẫn giữ
vững bản lĩnh của người lãnh đạo dám làm và dám chịu trách nhiệm, giữ vững
niềm tin sắt đá ở “khoán hộ”. Và trên thực tế, “khoán hộ” ở Vĩnh Phúc vẫn lan tỏa,
được vận dụng không chỉ ở Vĩnh Phúc mà cả một số địa phương ở miền Bắc.
4. Sau này những nghị quyết nào của Trung ương cơng nh ận khốn
hộ?
Ngày 21/10/1980, Ban Bí thư trung ương Đảng ra nghị quyết số 22 TB-TW
cho ý kiến về cơng tác khốn trong hợp tác xã và đội sản xuất, ghi nhận và đánh giá
những tác dụng tích cực của hình thức khốn mới, cho phép các địa phương thử
nghiệm các hình thức khốn sản phẩm với cây lúa. Dựa trên một những kinh
nghiệm thực tiễn với hiệu quả tích cực ở một số địa phương và Báo cáo của một số
cơ quan chuyên ngành nghiên cứu về các hình thức khốn trong nơng nghiệp, tháng
12 năm 1980, Hội nghị Trung ương 9 khóa IV đã họp bàn về việc thực hiện và hồn
thiện khốn sản phẩm trong nông nghiệp,
Ngày 13/01/1981, trên cơ sở tổng kết thực tiễn làm thử khốn sản phẩm ở
các địa phương, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị 100-CT/TW về mở rộng
công tác khốn sản phẩm đến nhóm và người lao động trong các hợp tác xã. Tiếp
đó, ngày 5/4/1988, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 10-NQ/TW về đổi mới quản lý
kinh tế nơng nghiệp (hay cịn gọi là “Khốn 10”). Khốn 10 đã khẳng định hộ gia
đình là đơn vị kinh tế tự chủ, làm thay đổi căn bản nền kinh tế nông nghiệp của cả
nước. Như vậy, sau hơn 22 năm, những hạt nhân hợp lý của “khoán hộ” ở Vĩnh
Phúc đã được Trung ương khẳng định trong Nghị quyết 10-NQ/TW.
5. Những hạn chế của Khoán hộ hiện nay.
Khoán 10 ra đời trong thời cơ chín muồi vì đã trải qua giai đoạn tập dượt
khoán hộ ở Vĩnh Phúc, khốn chui ở Hải Phịng cùng một số địa phương và sự hạn
chế của khoán 100 bị bộc lộ. Chỉ khi khốn 10 đánh vào khâu đột phá nhất, đó là
khẳng định vai trò kinh tế tự chủ của hộ nông dân, cởi bỏ cơ chế quản lý quan liêu,
bao cấp, chấp nhận sự điều tiết của nền kinh tế thị trường thì điều kỳ diệu đã đến
với nơng nghiệp Việt Nam chỉ trong một thời gian ngắn.
Tuy nhiên hiện nay cũng có biểu hiện của những hạn chế. Từ khi thực hiện
khoán 10 đến nay đã gần 30 năm. Trong tình hình hiện tại, đã có một số vấn đề nảy
sinh sau một thời gian thực hiện khoán 10: đó là tình trạng người nơng dân sản xuất
manh mún, cá thể, điều đó có thể hạn chế việc áp dụng những tiến bộ của khoa học
kĩ thuật ngày nay có thể mang lại cho nơng nghiệp hiệu quả cao hơn. Việc canh tác
manh mún đó làm cho chúng ta khó có thể áp dụng cơ giới hố, hiện đại hố để có
được hạt gạo có chất lượng cao, nên khi xuất khẩu không mang lại giá trị kinh tế
cao. Và vì vậy, nơng nghiệp chỉ dừng ở việc đủ ăn, có dự trữ, có xuất khẩu nhưng
lại chưa tạo được sự bứt phá cấn thiết để thúc đẩy nền kinh tế như buổi đầu thực
hiện khoán 10. Việc canh tác manh mún sẽ tác động đến lối suy nghĩ và cách tư duy
của người nông dân, vẫn chiếm đa số trong dân số Việt Nam, đó là tư duy tiểu
nơng. Với tư duy tiểu nơng, khó có thể xây dựng một nền kinh tế nông nghiệp hiện
đại, áp dụng những thành tựu tiên tiến nhất của khoa học kĩ thuật ngày nay để tạo
nên một nền nông nghiệp năng suất cao, chất lượng sản phẩm đồng đều.
Trên thực tế, gần đây ở một số địa phương đã xuất hiện việc liên kết giữa các
hợp tác xã và sự thâu tóm của các chủ vựa để có thể áp dụng cơ giới và khoa học kĩ
thuật, nâng cao chất lượng hạt gạo, xuất khẩu mang lại giá trị kinh tế cao hơn. Ở
Nam Bộ đã xuất hiện các cánh đồng mẫu lớn, mang lại hiệu quả kinh tế cao và
nâng cao chất lượng cuộc sống cho người nơng dân, đưa nơng dân thực sự tiến vào
thời kì cơng nghiệp hố, hiện đại hố.
6. Đóng góp của khốn hộ.
“Khoán hộ” đã giải quyết một vấn đề rất cơ bản là giải phóng sức sản xuất
đang bị kìm hãm bởi cơ chế quản lý không phù hợp, xa rời thực tiễn sản xuất nông
nghiệp; phát huy sự chủ động, năng động, những tiềm năng dồi dào trong nhân dân,
khắc phục tình trạng dân chủ hình thức, biến người nơng dân thành người chủ đích
thực trong sự ràng buộc bởi yếu tố lợi ích. Lần đầu tiên, ý tưởng về khốn cho hộ
gia đình xã viên đã khơi dậy tính sáng tạo trong quần chúng lao động và phù hợp
với lịng dân nên nhanh chóng đi vào đời sống thực tiễn.
Nội dung của đổi mới tư duy dù mới là q trình tìm tịi ban đầu, nhưng đã
thể hiện tư duy đổi mới vượt trước trong lĩnh vực quản lý nông nghiệp, nông thôn
và nông dân, đồng thời là kết quả của quá trình đấu tranh giữa cái mới với cái cũ,
giữa cái tiến bộ với cái lạc hậu. Chủ trương “khoán hộ” là một quyết định đúng
đắn, táo bạo nhưng đầy trách nhiệm, thể hiện tầm tư duy đổi mới, sáng tạo, đi
trước.
KẾT LUẬN
Chủ trương “Khốn hộ” bước đầu tuy cịn nhiều khó khăn, chưa được Trung
ương chấp nhận nhưng chủ trương này lại là một bước đột phá lớn, đưa đất nước
thốt khỏi tình trạng nghèo đói, “ngàn cân treo sợi tóc”. Và cuối cùng Trung ương
cũng nhận ra sự đúng đắn của chủ trương này để từng bước áp dụng nó đưa đất
nước bước sang giai đoạn mới, giai đoạn phát triển đất nước sau chiến tranh.
Bài học về khoán hộ và sự thăng trầm của khoán hộ là một thực tế đáng suy
ngẫm trong quá trình đi đến đổi mới ở Việt Nam. Khốn hộ khơng chỉ là vấn đề của
q khứ, nó cịn nhiều bài học nóng hổi cho giai đoạn phát triển đất nước hiện nay.
Đối với cá nhân em, chủ trương khoán hộ tại thời điểm đó là cần thiết, có ý
nghĩa rất lớn tại thời điểm đó của đất nước. Tại vì nó giúp đất nước thốt khỏi tình
trạng trì trệ trong sản xuất, làm cho người nơng dân có động lực phát triển, có động
lực sản xuất tạo ra của cải cho bản thân, gia đình và cả đất nước. Tuy nhiên sự nhận
thức chưa đúng đắn của Đảng và Nhà nước về chính sách này là điều hạn chế. Mặc
dù vậy đây cũng là điều tích cực dành cho đất nước, cho cách mạng khi tìm ra được
lối đi mới trong sản xuất nông nghiệp, thúc đẩy sản xuất tạo nguồn cung đủ cho
toàn miền Bắc và cả trong miền Nam, phục vụ cuộc kháng chiến của dân tộc.