TRCTONG DAI HOC VAN HOA THANH PHO HO CHI MINH
NGtfT. NGUYEN D'lNH THANH
(Chu bien)
srin vfin non
d a o t 6h vn rara tri £n
di
B ộ VĂN H Ó A , T H Ế TH A O V À D ư LỊCH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HĨA TP HỊ CHÍ MINH
Di Sản Văn Hố
Bảo Tồn Và Phát Triển
NHÀ XT BẢN ĐẠI
HỌC
CƠNG NGHIỆP
•
•
•
TP HỒ CHÍ MINH
Ban biên tập:
- N G Ư T . TS. Trần Văn Ánh (Trưởng Ban)
- N G Ư T. TS. Đỗ Ngọc Anh
- Phạm Lan H ương
- Bùi Thị Thu
- T rương Thị Hiếu
3
LỜI GIỚI THIỆU
Trên cơ sở điều kiện khí hậu, mơi trường và kinh tế - xã hội, các
cơng trình kiến trúc ờ Việt Nam có những bản sắc riêng biệt: có tính
dân tộc và tính địa phương phong phú, phong cách giản dị, bố cục cân
xứng, hài hịa, có sự kết hợp chặt chẽ với cảnh quan thiên nhiên, giàu
tính dân gian... Các cơng trình này đã góp phần tạo ra sự đa dạng của
di sản nước nhà.
Hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị các di sản ở Việt Nam ngày
càng được xã hội quan tâm. Bên cạnh những di sản văn hóa phi vật thể
và các di sản vật thể khác, kiến trúc và các di tích được chú trọng đầu
tư trùng tu, bảo tồn. Tuy nhiên, thực tế công tác bảo tồn và phát huy
giá trị các di sản này còn nhiều vấn đề bất cập cần có những biện pháp
khả thi và kế hoạch lâu dài.
Thời gian gần đây, trên thực tế nhu cầu của xã hội cũng như sự
giao lun, trao đổi với các nước trong khu vực và trên thế giới, ngành di
sản văn hóa đã nhận được nhiều nguồn tài liệu liên quan đến công tác
bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hóa nói chung, các di sản
kiến trúc và di tích nói riêng. Tuy nhiên, vì nhiều lý do, các cán bộ, đặc
biệt là sinh viên các Trường cao đẳng, đại học trong ngành vẫn chưa có
nhiều điều kiện tiếp cận các tài liệu chuyên ngành này. Ờ trong nước,
trước nay đã có một số cơng trình nghiên cứu về di sàn văn hóa cũng
như về cơng tác bảo tồn và phát huy di sàn văn hóa. Nhưng nhìn chung
các cơng trình nghiên cứu chưa đầy đủ, phong phú và đa dạng.
Cuốn sách “Di sản Văn hóa: Bảo tồn và Phát triểrì' chun đồ
Kiến trúc là cơng trình tập họp những bài nghiên cứu của một số giáo
sư, tiến sĩ, các nhà nghiên cứu ở Việt Nam. Nội dung cuốn sách nhàm
giới thiệu về một số di sản kiến trúc cũng như hoạt động bảo tồn và
phát huy giá trị văn hóa của các di sản này; về việc tiếp cận một sổ
kinh nghiệm bảo tồn di sản kiến trúc của một số quốc gia trên thế giới.
Mặc dù còn một sổ vấn đề khoa học cần được tiếp tục nghiên cứu
và bổ sung, nhưng với những gì có được, cuốn sách 11Di sản Văn Hóa:
Bảo tồn và Phát triển” chuyên đề kiến trúc là một đóng góp mới t-ong
4
sự nghiệp bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa ở Việt Nam. Cuốn
sách sẽ là tài liệu tham khảo bổ ích đối với những cán bộ, giảng viên
và sinh viên ngành văn hóa, ngành kiến trúc.
Bên cạnh đó, cn sách cịn là món q nhân dịp kỷ niệm 35 năm
thành lập Trường Đại học Văn hóa thành phố Hồ Chí Minh - một địa
chỉ đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực và nghiên cứu khoa học trong
lĩnh vực văn hóa - thơng tin và khoa học xã hội nhân văn.
Xin giới thiệu cuốn sách cùng bạn đọc.
TM. Ban Biên tập
Hiệu trưỏng
Trưịng Đại học Văn hóa TP. HCM
NGƯT. TS. Trần Văn Ánh
5
M ỤC LỤC
Trang
1. Võ X u â n Đàn
Nét đặc thù của di sản kiến trúc Việt N am .............................................. 09
2. Trinh Thi Hòa
Một số vấn đề về di sản kiến trúc ở Việt Nam qua cácvănbản pháp
luật hiện hành............................................................................................... 18
3. Nguyễn Thịnh
Đặc điểm di tích kiến trúc Việt Nam và vấn đề bảo tồn di tích
kiến trú c ........................................................................................................ 31
4. Phan Thanh H ải
Quy hoạch và cấu trúc kinh thành Huế thời Nguyễn.............................. 44
•
•
5. L ư u H ùng
Yeu tố phi vật thể gắn những cơng trình kiến trúc Tây nguyên thể hiện
ờ Bảo tàng Dân tộc học Việt N am ............................................................ 67
6. Phạm Lan H ương
Di tích đình Vẽ (xã Đông Ngạc, huyện Từ Liêm, Hà N ộ i)................... 74
7. Nguyễn Thái Hịa
Chùa Diên Thọ - Ngơi chùa làng tiêu biểu ở Quảng T r ị........................85
8. Vỗ Văn H oàng
Tam quan chùa Bà Mụ - Đối mặt cùng thời g ia n ................................... 95
9. Vũ H oài A n
Thành Điện Hải..........................................................................................102
10. Đinh Thị Thanh Thủy
v ề di tích đường hầm Dinh Gia L ong.................................................... 112
11. H oàng A n h Tuấn
Nhà cổ dân gian truyền thống trong bối cảnh đơ thị hóa ở Thành phố
Hồ Chí Minh ............................................................................................. 118
12. Trương Thị Hiếu
Di tích chùa Hội Sơn - Thành phố Hồ Chí M inh...................................125
13. L âm Nhăn
Kiến trúc nhà ở cổ truyền của người Chơ ro ở Đồng N ai.................... 137
14. Nguyễn Đình Thanh
Địa đạo An Thới - Cơng trình kiến trúc quân sự đặc biệt.................... 149
6
15. Pltcim Văn Lơi
•
•
Nhà ở của người Triêng - Xu hướng biến đồi và phát triển............... 157
16. B ùi Thị H ồng Loan - Nguyễn Tlìị Kim Hồng
Chùa Vĩnh Tràng ở Thành phố Mỹ T h o ...............................................172
17. Nguyễn Thị Ngọc Diệp
Đình Tân Thạch - Di tích kiến trúc nghệ thuật ở Ben T re................. 178
18. Nguyễn X uân Hoanh
Không gian văn hóa ngơi nhà Việt cổ truyền ở Vĩnh Long............... 183
29. Phạm Quốc Quân
Từ những ngôi làng cổ ở Giang Tây (Trung Quốc) nhìn về một vài
làng cổ Việt N am ...........................................................................’........ 190
20. Trần Đức A nh Sơn
Lăng mộ của vương triều silla ờ Hàn Q uốc......................................... 198
21. Trân Huyền
Người Đức trùng tu thánh đường Frauenkirche - một kinh nghiệm hay
về trùng tu di sản kiến trúc..................................................................... 205
Phụ lục: Danh m ục nhà xua, nhà cồ ở Vĩnh Long
Phụ lục ảnh
7
NÉ T Đ Ậ C T H Ù CỦA DI SẢN KIÉN T R Ú C VIỆT NAM
PGS. TS. Võ X uân Đàn*
Kiến trúc là một ngành khoa học nghệ thuật, ư u việt của kiến
trúc là sự phản ánh đậm và rõ nét bộ mặt xã hội cùa cộng đồng dân cư.
Kiến trúc thể hiện lối sống, nền văn hóa và mơi trường sống của một
cộng đồng và được xem như nghệ thuật tổ chức không gian sinh hoạt
con người.
Kiến trúc Việt Nam có lịch sử phát triển và tồn tại lâu dài, phong
phú trong tiến trình lịch sử Việt Nam.
Có thể phân chia lịch sử kiến trúc Việt làm ba thịi kỳ lớn, mang
tính bao qt rộng về thời gian và không gian với những nét đặc thù
cùa mồi thời kỳ:
1. Kiến trúc Việt Nam thời dựng nước
- Kiến trúc giai đoạn Nhà nước Âu Lạc
- Kiến trúc thời đấu tranh của nhân dân chấm dứt chế độ đô hộ
cúa phương Bắc từ thế kỷ I đến cuối thế kỷ thứ IX.
2. Kiến trúc Việt Nam thời kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc, xây
dựng và bảo vệ Quốc gia phong kiến độc lập.
Thời kỳ này có thể phân thành năm giai đoạn phát triển của kiến
trúc Việt Nam, tương ứng với năm thời kỳ lịch sử huy hoàng của dân
a) Kiến trúc thời Lý từ thế kỷ XI đến thế kỷ XII.
b) Kiến trúc thòi Trần - Hồ từ thế kỷ XIII đến thế kỷ XV.
c) Kiến trúc thời Hậu Lê từ thế kỳ XV đến thế kỷ XVII.
d) Kiến trúc giai đoạn từ thế kỷ XVIII đến nừa đầu thế kỷ XIX.
3. Kiến trúc Việt Nam giai đoạn đấu tranh chống thực dân Pháp
và đế quốc Mỹ giành độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc và xây dựng
đất nước.
♦ PGS. TS - Trường Đại học Ngoại ngừ - Tin học Tp. Hồ Chí Minh.
9
Di sản kiến trúc Việt Nam đều mang dấu ấn lịch sử, để lại những
nét đặc điểm riêng của mỗi thời kỳ phát triển, mỗi giai đoạn, mỗi triều
đại đã tồn tại trong lịch sử dân tộc. Song cũng có những nét đặc thù
của di sản kiên trúc Việt Nam vừa mang tính khái qt, tơng hạp
chung của kiến trúc Việt Nam lại vừa phản ánh được nét đặc thù của
kiến trúc các vùng miền mang dấu ấn riêng của từng thời kỳ lịch sử
dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam.
Chúng ta có thể điểm qua các nét đặc thù của di sản kiến trúc
Việt Nam như sau:
M ột là: Có nét đặc thù chung của kiến trúc Đông Nam Á. Các
quốc gia Đông Nam Á trong đó có Việt Nam là cái nơi xuất hiện lồi
người, là một khu vực văn hóa cổ, là trung tâm nơng nghiệp lúa nước
lớn. Trước khi tiếp biến văn hóa Ấn Độ, Trung Quốc và Tây phương,
Đông Nam Á đã có nền văn hóa riêng của mình với sức sống mãnh
liệt, rực rỡ và với sức mạnh đặc biệt ấy nó có thể đồng hóa được tất cả
những cái gì từ bên ngồi vào để thành sở hữu của chính mình, thành
sắc thái của khu vực và của mỗi quốc gia. Trước khi xuất hiện văn hóa
Án Độ, vùng Đơng Nam Á đã có nhiều cơng trình kiến trúc tại mỗi
quốc gia. Thời gian, khí hậu đã cướp đi gần hết, chỉ cịn lại đến ngày
nay một số ít cơng trình cự thạch rải rác trong vùng Đơng Nam Á, thế
hiện được ý niệm về kiến trúc như bố cục hướng tâm và tính hồnh
tráng mặc dù chưa thật nghệ thuật. Trải qua nhiều thế kỷ ở mồi quốc
gia với truyền thống kiến trúc của quá khứ, với tài năng sáng tạo phi
thường đã xuất hiện những trường phái, những mẫu hình kiến trúc hiện
đại, vừa mang nét chung của khu vực Đông Nam Á, vừa mang sắc thái
riêng của mỗi quốc gia, của dân tộc mình.
H ai là: Dấu ẩn tôn giáo trong di sản kiến trúc Việt Nam. Các tôn
giáo cổ như Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo từ Ẩn Độ, Trung Hoa được
truyền vào nước ta từ đầu cơng ngun có xu thế phát triển ngày càng
mạnh mẽ, để lại dấu ấn sâu sắc trong cộng đồng dân tộc. Phật giáo,
Nho giáo đã từng giữ vai trò là ý thức hệ của nhiều triều đại phong
kiến Việt Nam.
Trong di sản kiến trúc Việt Nam, các tôn giáo đã để lại nhiều dấu
ấn của mình trong các cơng trình kiến trúc như chùa tháp, văn miếu,
10
cung quán tại khắp các vùng miền, thành thị, nông thơn, nhiều nhất là
các cơng trình mang dấu án Phật giáo đặc biệt ở các triều đại Đinh, Lê,
Lý, Trần. Đáng chú ý nhất là loại hình kiến trúc chùa tháp của đạo Phật
thời Lý - Trần còn lưu lại đến ngày nay. Ngồi ra, di tích, dấu vết cịn
lại của các cung điện, kinh thành, phủ đệ cho ta thấy vật liệu, kỹ thuật,
kct cấu nền móng, khung nhà có nhiều đặc điểm gần gũi với kiến trúc
tơn giáo đương thời như Kinh đô Hoa Lư, Kinh thành Thăng Long,
Đông Kinh, Lam Kinh, Tây đô, Kinh thành Huế...
Ba là: Tính cách dân tộc và tính cách địa phương vùng miền
phong phú phù hợp với phong cách sinh hoạt, tập quán và khí hậu của
con người trên đất nước Việt Nam.
Các cơng trình kiến trúc quốc gia đều được xây dựng ở những
vùng trung tâm thể hiện sự cố kết của cộng đồng dân tộc, thể hiện sự
trường tồn, bền vừng của triều đại, dân tộc, đất nước. Toàn dân có sự
đóng góp cơng sức, tiền của để xây dựng, tìmg địa phương vùng miền
mang dậm bản sắc của địa phương, tạo thành những quần the văn hóa mơi trường tự nhiên có sắc thái riêng. “Ngồi việc biết tận dụng địa
hình trong trường hợp đồng bằng cũng như trong trường hợp dốc núi
hay sử dụng những yếu tố thiên nhiên như đá, nước, cây xanh, tố tiên
chúng ta thời kỳ này còn thành thục trong việc biết làm cho mơi trường
kiến trúc phù hợp với khí hậu, biết chú ý đến hướng nhà và thiết kế
hành lang để đón gió và chống mưa nắng, làm mái lớn che lấp một
phần không gian nhà để tránh bức xạ nhiệt, thiết kế sân thượng để cải
tạo khí hậu” 1. Lịch sử kiến trúc Việt Nam qua các thời đại đã để lại
trên mặt đất hay dưới lòng đất một nền nghệ thuật kiến trúc độc đáo
với nhiều cơng trình đồ sộ như lâu đài, cung điện, thành quách và chùa
tháp với quy mơ lớn trong đó có những cơng trình được cơng nhận là
di sàn văn hóa thế giới như Kinh thành Huế, Kinh thành Thăng Long,
thành An Tơn. Đã có học giả nhận xét về thành An Tơn “Cơng trình
này là một trong những kiến trúc đẹp nhất của kiến trúc An Nam”2.
Ị . f)ặn g Thái Hồng (1977), Nhìn lại quá trình phát triên cùa kiến trúc Việt Nam làu đời vờ phong phú nghiên cứu lịch sù, số 5 (176), Viện Sừ học, Hà Nội, 1977, tr.79.
2. l-ouis Bezacier “ La citadellc des Hồ” Indochinc iddustré - NO 78-79-12/1942.
11
Bốn là: Loại hình kiến trúc, trang trí phong phú, đa dạng, có tính
thống nhất và hài hịa.
Di sản kiến trúc Việt Nam từ thể kỷ XI đến giữa thế kỷ XX thời
kỳ nào cũng vậy, thời sau phong phú, đa dạng, hài hòa hơn thời kỳ
trước nhưng đều mang tính thống nhất xun suốt. Những hình mẫu
kiến trúc tiêu biểu thường quy về các dạng:
- Di sản kiến trúc kinh thành: nếu tính từ trước thế kỷ XI có kinh
thành Cổ Loa, Hoa Lư rồi đến Thăng Long là thủ đô của nhà nước
phong kiến độc lập của nhiều triều đại. Các thành Thăng Long, Tây
Đơ, Huế, Sài Gịn - Gia Định là loại thành có kiến trúc kiên cố, vững
chắc, nghệ thuật thơ mộng nhất của nước Việt Nam, trong đó Tây Đơ
(thành Nhà Hồ) là loại thành đá kiên cố vào bậc nhất trong lịch sử xây
dựng thành quách ở Việt Nam. Mỗi dạng kiến trúc kinh thành tuy có
nét riêng về sự hồnh tráng, kiên cố, phong phú, trang trí... nhưng vẫn
mang đậm bản sắc dân tộc, tính thống nhất trên nhiều khía cạnh của
mỗi cơng trình kiến trúc thành quách Việt Nam.
- Di sản kiến trúc tơn giáo: là loại hình kiến trúc đa dạng, phong
phú, có mặt ở khắp nơi trên lãnh thổ Việt Nam, từ vùng núi xa xôi hẻo
lánh đến vùng Trung du, đồng bằng, miền biển và hải đảo, từ đầu nước
đến cuối nước. Tiêu biểu là các loại hình kiến trúc: chùa, tháp, đình,
thánh thất, lăng tẩm, mộ táng. Mồi tơn giáo đều có nơi thờ phụng
riêng, tồn tại trong suốt chiều dài của lịch sử dân tộc, phản ảnh tính đa
thần giáo của Việt Nam, tiêu biểu là Phật, Nho, Đạo giáo, Thiên chúa
giáo, đạo Tin lành, Hồi giáo và các tơn giáo bản địa như Cao Đài, Hịa
Hảo...
Nổi bật nhất trong di sản kiến trúc tôn giáo ờ Việt Nam là kiến
trúc các chùa, tháp của Phật giáo. Ngày nay trên các vùng miền đất
nước ta còn lưu lại những kiến trúc Phật giáo từ nhiều thế kỷ trước đây
như chùa Quỳnh Lâm (Quảng Ninh), chùa Một Cột (Hà Nội), tháp Báo
Thiên (Hà Nội) , tháp Sùng Thiện Diên Linh (chùa Đọi - Hà Nam),
tháp Chương Sơn (Hà Nam), tháp Bình Sơn (Vĩnh Phúc), tháp Phổ
Minh (Nam Định), chùa Thiên Mụ (Huế).
- Di sản kiến trúc lăng mộ: có bước phát triển từ đơn giản đến sự
phân biệt đẳng cấp trong xã hội, đến những lăng tẩm đồ sộ, nguy nga,
12
hoành tráng dành cho các bậc vua chúa mà đỉnh cao của di sản kiến
trúc này là các lăng tẩm của vua chúa nhà Nguyễn tại Thành phố Huế
như các lăng tẩm vua Gia Long, Minh Mạng, Tự Đức, Đồng Khánh...
đèn nay vẫn còn như nguyên vẹn. “Khu vực được chọn làm lăng
thường có địa hình rộng rãi, thống đãng. Mỗi lăng mộ là một tổ hợp
các kiến trúc gồm mộ phần (nơi đặt thi thể) và các miếu điện để phục
vụ việc thờ cúng tế lễ” 1.
Di sản kiến trúc cung điện, phủ đệ và nhà ở trong lịch sừ, phát
triển của dân tộc Việt Nam mang dấu ấn cùa kiến trúc truyền thống
dân tộc như hài hòa với thiên nhiên, môi trường, gần gũi với những
yếu tố Phật giáo, với tín ngưỡng dân gian như yếu tổ phong thủy,
hướng xây dựng và yếu tố địa lý, khí hậu... Quy mơ, hình dáng, kiểu
cách có sự khác nhau do tính chất phân tầng của xã hội từ đó mà nhu
cầu sử dụng vật liệu, kỹ thuật, kết cấu nền móng, kiểu dáng có nhiều
điểm khác nhau, tạo được nét phong phú, đa dạng về mặt xã hội và
nghệ thuật trong xây dựng cung điện, phủ đệ và nhà ở trong mỗi thời
đại lịch sử, mỗi triều đại trong chế độ phong kiến và chế độ dân chủ xã
hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay.
N ăm là: Qua di sản kiến trúc Việt Nam ta thấy có sự tiếp cận,
tiếp biến với văn hóa kiến trúc Trung Hoa, Nam Á và phương Tây tạo
nên tính đa dạng, rộng mở của kiến trúc Việt Nam vừa mang tính dân
tộc sâu sắc vừa mang tính thời đại trong mỗi thời kỳ lịch sừ mà dân tộc
ta đã trải qua.
Di sản kiến trúc Việt Nam thể hiện sự tiếp biến có chọn lọc nền
văn hóa kiến trúc nhân loại với những nét mới phù họp với phong cách
dân tộc để tiếp nhận và phát triển trong q trình di lên, mang tính
sáng tạo, rộng mở. Nét văn hóa kiến trúc Trung Hoa, Nam Á, phương
Tây còn nguyên giá trị trong kiến trúc Thăng Long - Hà Nội, trong
Kinh thành Huế, Đà Nằng, Hội An, Sài Gịn - Thành phố Hồ Chí
Minh.
1 . Hà Văn Tấn (2002), Khảo cổ học Việt Nam tập ỊII, khào cổ học lịch sử Việt Nam, Nxb. Khoa học Xà
h ội, Hà Nội, tr. 144.
13
Di sản kiến trúc Việt Nam cho chúng ta thấy đang tiếp cận, đi tới
một nền kiến trúc hoàn mỹ trong nền kiến trúc của nhân loại nói chung
và trong khu vực Đơng Nam Á nói riêng.
Sáu là: có sự kết họp các yếu tố chính trị, quân sự. xã hội trong
các trung tâm - cơng trình kiến trúc tiêu biểu trong quá trình xây dựng
nền kiến trúc Việt Nam.
- Cơng trình kiến trúc Thăng Long - Hà Nội được xây dựng vào
đầu năm 1010 dưới triều nhà Lý, vùng đất được chọn đáp ứng được
mọi yêu cầu phát triển của một kinh đô của một nước đang phát triển
của thời kỳ độc lập tự chủ. v ề vị thế của Thăng Long, trong chiếu dời
đô từ Hoa Lư ra Thăng Long Lý Cơng uẩn viết: “ ...Ở chính giữa bờ
cối đất nước, được cái thế rồng cuộn, hổ ngồi, vị trí thích trung với bốn
phương Đơng, Tây, Nam, Bắc, tiện cho chiều hướng thuận nghịch của
núi sơng. Ở đó, địa thế vừa rộng vừa phang, vùng đất vừa cao vừa
sáng, dân cư không lo nạn lụt lội, đắm đuối, muôn vật cũng rất phong
phú, tốt tươi. Ngắm khắp nước Việt ta, dụng đó là thắng địa, thậl là nơi
then chốt của bốn phương hội lại và cũng là nơi đô thành bậc nhất của
đế vương muôn đời” 1.
- Trải qua hàng ngàn năm mặc dù có những bước thăng trầm của
lịch sử, Thăng Long vẫn là quần thể kiến trúc tiêu biểu, rộng mờ, được
nhiều đời kế tiếp nhau xây dựng, chỉnh trang, quy hoạch ngày càng
hoành tráng thể hiện được khả năng phịng thủ trước sự tấn cơng của
quân xâm lược, bảo vệ vương triều, tạo được điều kiện cho sự phát
triển toàn diện trong suốt một ngàn năm tồn tại đúng như Lý Công uẩn
đã viết trong chiếu dời đô “là thắng địa, nơi then chốt của bổn phương
hội lại và cũng là nơi đô thành bậc nhất của đế vương muôn đời”.
- Kinh thành Huế: Khi được giao vào trấn thủ vùng Thuận Hóa,
vùng đất “phía Bắc có núi ngang và sơng Gianh hiểm trở, phía Nam có
núi Hải Vân và núi đá bia vững bền. Núi sẵn vàng, biển có cá, muối,
thật là đất dụng võ của người anh hùng. Neu biết dạy dân, luyện binh
1. Nguyễn Phan Ọ uang - Võ Xuân Đàn (2000), Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến năm 1884, Nxb. Thánh
phố Hồ Chí Minh, tr.4 3 1.
14
đc chơng chọi với họ Trịnh thì đủ xây dựng cơ nghiệp muôn đời” 1.
Năm 1538, khi vào đến Thuận Quảng rồi sau đó đến các đời chúa
Nguyễn Phúc Trân, Nguyễn Phúc Chu và sau cùng là chúa Nguyễn
Phúc Khoát mới định được kinh đô nhà chúa ở Đàng trong là Phú
Xuân và đây cũng là cơ sờ để Nguyễn Ánh tiếp tục xây dựng Kinh
thành Huế và trở thành thủ đô của vương triều Nguyễn tồn tại từ năm
1802 và đến năm 1945 trở thành c ố đô Huế - Thành phố Huế thuộc
tỉnh Thừa Thiên - Huế hiện nay. Kinh thành Huế có lối kiến trúc vừa
mang tính dân tộc rõ rệt, vừa có ảnh hưởng của kiến trúc ngoại nhập
qua các bước phát triển khác nhau trong thời gian từ năm 1802 đến
năm 1945. Phòng thành xây dựng theo kiểu Vauban do ảnh hưởng của
kỹ thuật phòng thủ phương Tây. Yeu tố quân sự của Kinh thành Huế
thể hiện khá rõ rệt đặc biệt là hệ thống pháo phịng thủ cứ cách 50m có
một khẩu pháo và pháo ở các pháo đài quanh thành để bảo vệ kinh
thành. Tại Đại nội Huế có khoảng 150 kiến trúc lớn nhỏ làm nổi bật
nét kiến trúc nghệ thuật Huế. Trải qua hơn hai thế kỷ, một số kiến trúc
tiêu biểu vẫn cịn tồn tại như Ngọ Mơn, điện Thái Hịa, Hiển Lâm các,
Thái Bình thư lầu như những chứng nhân của một thời huy hoàng của
Kinh thành Huế, là những kỷ niệm bằng vật thể cho muôn đời con
cháu chiêm ngưỡng và kính phục.
- Thành Gia Định - Sài Gịn - Thành phố Hồ Chí Minh: thành Gia
Định được xây dựng từ năm 1689, ban đầu là phủ Gia Định - phiên
trấn Dinh, là vị trí phịng thủ chiến lược, bảo vệ an ninh từ Phan Thiết
đến Rạch Giá. Năm 1790, Nguyễn Ánh xây dựng thành Gia Định với
quy mơ lớn, nhưng sau đó cuộc khởi nghĩa của Lê Văn Khôi và cuộc
xâm lược của thực dân Pháp đã tàn phá thành Gia Định.
- Pháp chiếm Sài Gòn đã biến một đô thị cổ thành một thành phố
phục vụ cho hoạt động kinh tế, thương nghiệp, là tổng hành dinh để
phục vụ cho mục đích lấn chiếm cả Đơng Dương. Hình thái kiến trúc
theo mơ hình đơ thị của Pháp như mẫu mực về đường phố, có sự cân
bàng giữa bề rộng lòng đường và chiều cao các khối nhà, hệ thống cây
xanh, kỹ thuật xây cất hiện đại sừ dụng đến xi măng, bê tông, tường
1. Hà Văn Tấn (2002), K hảo cổ học Việt Nam tập ///, Khảo cổ học lịch sừ Việt N am , Nxb. Khoa học Xã
hợi, 1ỉà Nội, tr.265.
15
chịu lực, kính, sắt thép, cửa cuốn... Trong xây cất có chú trọng tìm sự
hài hịa với cảnh quan chung, với những nét thanh tú nhất định của
kiến trúc trong bối cảnh thiên nhiên.
Thời gian Mỹ xâm lược miền Nam Việt Nam trong đó có Sài
Gịn, Mỹ đã đổ nhiều tiền bạc xây dựng Sài Gòn dưới danh nghĩa là
thủ đơ của Việt Nam Cộng hịa nên được tăng cường thêm nhiều yếu tố
tạo thành nền kiến trúc của Sài Gịn có tầm cỡ quốc tế hiện đại, được
xếp vào hàng các thành phố phát triển nhanh, có trang bị hiện đại trong
thời kỳ trước 19751.
Từ năm 1975 đến nay, Sài Gịn được mang tên Chủ tịch Hồ Chí
Minh và sau 35 năm thành phố tiếp thu, kế thừa những thành quả kiến
trúc của gần 300 năm trước, tiếp bước có chọn lọc những giá trị quý
báu của di sản kiến trúc thời trước để hoàn chỉnh trước mắt và trong
tương lai một thành phố có nền kiến trúc văn minh, hiện đại. Thành
phố Hồ Chí Minh đã tiếp cận được những giá trị của những tiêu chí
kiến trúc mà nhân loại đã đưa ra như: giá trị sừ dụng, vững chắc, đẹp,
bền vừng mang tính nhân văn và mơi trường nhưng vẫn giữ vững bản
sắc văn hóa kiến trúc của dân tộc.
Thăng Long - Huế - Sài Gòn là nơi hội tụ đủ những nét đặc thù
của di sản kiến trúc Việt Nam: Thăng Long ngàn năm văn hiến, Huế
thành phố bài thơ, Sài Gịn viên ngọc Viễn Đơng thành đồng tổ quốc,
một chuỗi dài phát triển nền kiến trúc Việt Nam mang đậm đà bản sắc
dân tộc nhưng khơng bao giờ từ bỏ những giá trị văn hóa kiến trúc của
nhân loại, luôn tiếp biến để bổ sung và làm phong phú thêm kho tàng
di sản văn hóa kiến trúc của cộng đồng dân tộc Việt Nam với nhiều sắc
tộc tạo nên những nét đặc thù của di sản kiến trúc Việt Nam.
1. Trằn Văn Giàu - Trần Bạch Đằng (chù biên) (1998), Địa chí văn hỏa thành phố HỊ C hí Minh, tập III,
Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, tr.469-516.
16
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đặng Thái Hồng (1977), Nhìn lại quả trình phủi triển của
kiến trúc Việt Nam lâu đời và phong phủ - nghiên cứu lịch sử, số 5
(1 76), Viện Sử học, Hà Nội.
2. Hà Văn Tấn (2002), Kháo cổ học Việt Nam tập III, khảo cổ
học lịch sử Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
3. Louis Bezacier “La citadelle des Hồ” Indochine iddustré - N°
78-79-12/1942.
4. Nguyễn Phan Quang - Võ Xuân Đàn (2000), Lịch sử Việt Nam
từ nguồn gốc đến năm 1884, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh.
5. Trần Văn Giàu - Trần Bạch Đằng (chủ biên - 1998), Địa chí
văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh, tập III, Nxb. TP. Hồ Chí Minh.
17
M Ộ T SỐ V Ấ N Đ È VÈ DI SẢN KIÉN T R Ú C Ở VIỆT NAM
Q U A C Á C V Ă N BẢN PH Á P L UẬT H IỆN H ÀNH
TS. Trịnh Thị Hịa
Trước hết, có thể khẳng định rằng, từ sau khi Cách mạnh thúng
Tám thành công, nhà nước Việt Nam đã quan tâm ngay đến việc hảo
vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa (DSVH), ln coi các DSVH là
những tài sản quý giá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, đồng thời
là một bộ phận của di sản văn hóa nhân loại. Một trong những băng
chúng để chứng minh cho nhận định trên là việc nhà nước Việt Nam
đã ban hành nhiều văn bản pháp luật liên quan đến hoạt động trên mà
trong số các văn bản hiện hành có liên quan đến các di tích kiến trúc,
theo tơi, có một số văn bản quan trọng sau đây:
- Luật di sản văn hóa, cơng bố theo Lệnh sổ 09/2001/
L-CTN ngày 12-7-2001 của Chủ tịch nước.
- Nghị định sổ 92/2002/NĐ-CP ngày 11/11/2002 của Chính phủ
Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật di sản văn hóa.
- Quyết định số 1706/2001/QĐ-BVHTT ngày 24-7-2001 của Bộ
trưởng Bộ văn hóa thơng tin Phê duyệt Quy hoạch tổng thể bảo tồn và
phát huy giá trị di tích lịch sừ-văn hóa và danh lam thắng cành đến
năm 2020.
- Quy chế bảo quản, tu bổ và phục hồi di tích lịch sử-văn hoá và
danh lam thắng cảnh1.
- Luật sừa đổi, bổ sung một sổ điều của Luật di sản văn hỏa, còng
bố theo Lệnh sổ 08/2009/L-CTN ngày 29/6/2009 của Chủ tịch nước.
Có thể nói, tất cả những văn bản kể trên thơng qua nội dung và
những quy định trong đó đều nhằm tạo cơ sở pháp lý và khoa học cho
các hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị của DSVH Việt Nam. Tuy
nhiên, DSVH Việt Nam là một khái niệm rộng, gồm nhiều loại hình
♦ Nguyên Giám đốc Bào tàng Lịch sử Việt Nam - TP. Hố Chí Minh.
1. Theo Quyết định số 05/2003/Q Đ -BVHTT ngày 06/2/2003 cùa Bộ trường Bộ Văn hóa - Thơng tin.
18
kliác nhau, vì vậy, trong khn khổ của bài viết này, tôi chỉ đề cập đến
một số vấn đề liên quan đến loại hình di sàn kiến trúc ở Việt Nam thể
hiện qua các văn bản pháp luật hiện hành, cụ thể gồm các vấn đề sau:
1. Vấn đề khái niệm, tiêu chí và phân loại
'['heo quan niệm của Việt Nam, các di sàn văn hóa gồm có hai
lĩnh vực: Di sản văn hóa vật thể và Di sản văn hóa phi vật thể (tất
nhiên, sự phân chia như vậy chỉ mang tính tương đối). Khái niệm di
sàn kiến trúc mà tơi đề cập trong bài này có thể hiểu là các di tích kiến
trúc - nghệ thuật (cụm từ này thường được sử dụng trong các văn bản
pháp luật cũng như chun mơn), bời các di tích kiến trúc - nghệ
thuật trước hết chính là các di sản có giá trị về mặt kiến trúc (ở Việt
Nam, thêm hai chữ nghệ thuật để chỉ những di tích là cơng trình kiến
trúc có các yếu tố nghệ thuật như: các tác phẩm điêu khắc, chạm trổ,
các đồ vật được sơn son thếp vàng hay khảm xà c ừ ... là những yếu tố
cấu thành nên di tích hoặc chúng được tồn tại cùng di tích để sử dụng
cho các nhu cầu về tín ngưỡng, tơn giáo...). Và, ở góc độ nào đó, cũng
có thể hiểu theo cách “Kiến trúc là nghệ thuật thiết kế và xây dựng các
cóng trình, tổ chức các môi trường không gian, phục vụ cho cuộc sổng
vờ hoạt động cùa con người” .
Hiện nay, văn bản có giá trị pháp lý cao nhất ở Việt Nam liên
quan trực tiếp đến các di sản kiến trúc với việc sử dụng cụm từ “Di tích
kiến trúc - nghệ thuật”, đó là “Luật di sản văn hóa” (Luật DSVH)
được công bố theo Lệnh số 09/2001/L-CTN của Chủ tịch nước vào
ngày 12/7/2001. Cụ thể là, theo điều 28 của bộ luật trên, di tích kiến
trúc - nghệ th uật là “quần thế các cóng trình kiến trúc hoặc cơng trình
kiến trúc đơn lẻ có giả trị tiêu biểu về kiến trúc, nghệ thuật của một
hoặc nhiều giai đoạn lịch sử"2. Như vậy, có thể hiểu, các di sản kiến
trúc cần được bảo tồn có thể là một quần thể, cũng có thể chỉ là một
cơng trình riêng lẻ và tiêu chí của loại di sản này là phải có giá trị tiêu
biểu về mặt kiến trúc, nghệ thuật, tuy nhiên, di sản đó có thể chi liên
1. T ừ điền bách khoa Việt Nam-Tập 2.
2. O iều 28 - khoản 1 - mục đ, Luật Di sản văn hóa.
19
quan đến một giai đoạn và cũng có thể nhiều giai đoạn lịch sử của dân
tộc Việt Nam.
Sau Luật DSVH, ngày 11/11/2002, Nhà nước ta đã ban hành
Nghị định số 92/2002/NĐ-CP của Chính phú quy định chi tiết thi hành
một số điều của Luật di sản văn hóa, trong đó, khái niệm di tích kiến
trúc-nghệ thuật đã có sự sửa đổi, bổ sung, thể hiện qua việc xác định
“các di tích kiến trúc nghệ thuật khơng chỉ là những cơng trình kiến
trúc, nghệ thuật, mà cịn bao gồm cả tổng thể kiến trúc đơ thị và đơ thị
có giá trị trong các giai đoạn phát triển kiến trúc, nghệ thuật” 1. Hiện
nay, theo quy định trong “Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
di sản văn hóa” (ban hành ngày 29/6/2009) lại có sự sửa đổi và bổ
sung thêm với việc xác định các di tích kiến trúc nghệ thuật là “Cơng
trình kiến trúc, nghệ thuật, quần thể kiến trúc, tổng thể kiến trúc đô thị
và địa điếm cư trú có giá trị tiêu biêu của một hoặc nhiều giai đoạn
phái triển kiến trúc, nghệ thuật Việt Nam"2.
Qua đó, có thể thấy, khái niệm di tích kiến trúc - nghệ thuật từ
sau khi ban hành Nghị định số 92/2002/NĐ-CP và “Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật di sản văn hóa” đã được mở rộng và hoàn
chỉnh hơn cho phù hợp với thực tiễn, bởi “Nếu như trước đây, đối
tượng di tích kiến trúc chi là các cơng trình kiến trúc, các tịa nhà riêng
biệt thì giờ đây đối tượng đã bao gồm cả các quần thể kiến trúc, môi
trường thiên nhiên và kiến trúc bao quanh di tích đó”3, đồng thời,
“Trong khái niệm mới về di tích kiến trúc có cả một cơ cấu kiến trúc
đơ thị, trong đó khơng phải từng ngơi nhà riêng biệt mà là cả một
đường phố với sự biến đổi năng động cùa nó, cả một quảng trường
hoặc tồn bộ cơ cấu của một vùng dân cư đã trờ thành đối tượng cần
được nghiên cứu và bảo vệ”4
v ề tiêu chí của một di sản kiến trúc, trong các văn bản pháp luật
trên đều đề cập đến cụm từ “có giá trị tiêu biểu”, điều đó chứng tỏ,
1. Điều 14, Nghị định số 92/2002/NĐ-CP cùa Chính phù quy định chi tict thi hành một số điều của Luât di
sản văn hỏa.
2. Điều 1 - mục 10, Luật sửa đồi, bồ sung một số điều cùa Luật di sản văn hóa.
3. Nguyễn Khởi (2002), Báo tồn và trùng tu các di tích kiến trúc, Nxb. Xây dựng, Hà Nội, tr. 105.
4. Nguyễn Khởi (2002), Sđd, tr. 105.
20
không phải di sản kiến trúc nào cũng cần giữ lại, hay nói cách khác,
việc giữ lại các di sản văn hóa nói chung, di sản kiến trúc nói riêng phụ
thuộc vào giá trị của nó.
v ề việc phân loại, trong chương III (điều 13) của “Nghị định số
92/2002/NĐ-CP ngày 11/11/2002 của Chính phủ Quy định chi tiết thi
hành một số điều của Luật di sản văn hóa” với tiêu đề: “Bảo vệ và phát
huy giá trị di sản văn hóa vật thể”, các di sản văn hóa vật thể dưới dạng
di tích được chia ra 4 loại hình, gồm: Di tích lịch sử, di tích kiến trúc nghệ thuật, di tích khảo cố, danh lam thắng cảnh. Như vậy, di tích kiến
trúc - nghệ thuật là một loại hình của di sản văn hóa vật thể, đồng thời
là một trong các thành tố cấu tạo nên khái niệm “Di sản văn hóa Việt
Nam ”. Riêng di tích kiến trúc - nghệ thuật lại được chia ra các loại: Di
tích tín ngưỡng tơn giáo; Di tích thành qch, lăng mộ; Di tích đơ thị
cổ, khu phố cổ, dinh thự, nhà ở dân dụng, vườn cảnh.. . 1
2.
Vấn đề xếp hạng và xác định phạm vi các khu vực bảo vệ
di tích
Xét từ góc độ quản lý, trong cả 3 văn bản đề cập ở phần trên đều
quy định các di sản văn hóa vật thể dưới dạng di tích (trong đó có các
di tích kiến trúc - nghệ thuật) được chia ra 3 cấp độ, hay nói cách khác,
được xếp hạng theo 3 cấp, gồm: Di tích cấp tỉnh, Di tích cấp quốc gia,
Di tích cấp quốc gia đặc biệt. Cụ thể đối với loại hình di tích kiến trúc
nghệ thuật, theo quy định mới trong “Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật di sản văn hóa” thì những cơng trình kiến trúc, nghệ
thuật, quần thể kiến trúc, tổng thể kiến trúc đô thị và địa điểm cư trú có
giá trị tiêu biểu trong phạm vi địa phương sẽ được xếp hạng di tích cấp
tỉnh theo quyết định xếp hạng của Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh2/
nếu di tích đó có giá trị tiêu biểu trong các giai đoạn phát triển kiến
trúc nghệ thuật Việt Nam sẽ được xếp hạng di tích quốc gia theo quyết
định xếp hạng của Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch3; Còn
]. Phần 2 - mục 2.2, Q uyết định số 1706/2001/ỌĐ-BVHTT ngày 24/7/2001cùa Bộ trưởng Bộ Văn hóa
Thơmg tin phê duyệt Q uy hoạch tồng thề bào tồn và phát huy giá trị đi tích lịch sữ - văn hóa và danh lam
th ả n g cánh đến năm 2020.
2. Đnều
1 - mục 10 -1 .b, Luật sữa đổi, bổ sung một số điều cùa Luật di sàn văn hỏa.
3. Điiều
1- mục 10 -2.b, Luật sửa đồi, bồ sung một số điều của Luật di sàn vãn hóa.
21
-
nếu di tích đó có giá trị đặc biệt đánh dấu các giai đoạn phát triển kiến
trúc nghệ thuật Việt Nam sẽ được xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt
theo quyết định xếp hạng của Thủ tướng Chính phủ1.
Ngồi ba loại di sản kiến trúc được phân chia như trên xét từ góc
độ quản lý, từ thực tế, ta thấy cịn có một loại nữa, đó lả những di tích
có giá trị đặc biệt tiêu biểu của quốc gia và có giá trị nổi bật tồn cầu
được UNESCO cơng nhận là di sản văn hóa thế giới, mà tính đến nay,
Việt Nam đã có 9 di sản văn hóa thế giới gồm: 4 di sản văn hóa vật thể
(Cố đô Huế, Phố cổ Hội An, Khu tháp Mỹ Sơn, Hồng Thành Thăng
Long) và 5 di sản văn hóa phi vật thể (Nhã nhạc cung đình Huế,
Khơng gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên, Dân ca quan họ Bắc
Ninh, Ca trù, Hội Gióng). Ngồi ra, cịn có 2 di sản thiên nhiên được
UNESCO công nhận là di sản thiên nhiên thế giới là Vịnh Hạ Long,
Vườn Quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng và 2 di sản tư liệu thế giới là Bia
tiến sĩ -Văn Miếu Quốc Tử Giám và Mộc bản triều Nguyễn.
Trong số 4 di sản văn hóa vật thể của chúng ta được UNESCO
công nhận là di sản văn hóa thế giới như vừa đề cập ở trên, có 3 di tích
thuộc loại hình di tích kiến trúc - nghệ thuật (di sàn kiến trúc) đã được
xếp hạng “Di tích quốc gia đặc biệt” theo Quyết định số 1272/QĐ-TTg
của Thủ tướng Chính phủ ngày 12/8/2009, đó là Quần thể kiến trúc c ố
đô Huế, Khu đền Tháp Mỹ Son và Độ thị cổ Hội An (Điều ỉ-M ục
2,3,4).
Cùng với việc xếp hạng di tích, trong các văn bản pháp luật hiện
hành đều có đề cập đến việc quy định khu vực bảo vệ di tích, theo đó,
mỗi di tích, trong đó có các di tích kiến trúc - nghệ thuật, có 2 khu vực
bảo vệ, gồm:
a) Khu vực bảo vệ ỉ là vùng có các yếu tố gốc cẩu thành di tích
b) Khu vực bảo vệ II là vùng bao quanh hoặc tiếp giáp khu vực
bảo vệ I
Nếu trong trường hợp không xác định được khu vực bảo vệ II thì
việc xác định chi có khu vực bảo vệ I đối với di tích cấp tỉnh do Chủ
tịch ủ y ban nhân dân cấp tỉnh quyết định, đổi với di tích quốc gia do
1. Điều 1 - mục 10-3.b, Luật sửa đồi bồ sung một sổ điều cùa Luật Di sản văn hóa.
22
Bộ trưưno Bộ Văn hóa. Thê thao và Du lich quvêt định, đơi với di tích
qc gia đặc biệt do Thú tướng Chinh phủ quyêt định1.
Diều cỉáne lưu ý là việc quy định các khu vực báo vệ như vậy
phai dược các cơ quan nhà mrớc có thấm quyền xác định trên Bàn đồ
địa chính, trong biên ban khoanh vùng bao vệ của hồ sơ di tích và phái
được cam mốc giới trên thực địa. Dồng thời, phai thực hiện theo
nguyêntăc:
- Khu vực bào vệ I phải được bảo vệ nguyên trạng về mặt bàng
và khónu gian. Trường hợp đặc biệt có u cầu xây dựng cơng trình
trực tiịp phục vụ việc bảo vệ và phát huy giá trị di lích, việc xây dựnu
phải dược sự đồng ý bàng văn bản của người có tham quyền xếp hạng
di tích đó.
- Việc xây dựng cơng trình bảo vệ và phát huy giá trị di tích ớ
khu vực bảo vệ II đối với di tích cấp tỉnh phái được sự đồng ý bằng
vấn bán của Chú tịch ủ y ban nhân dân cấp tỉnh, đối với di tích quốc
gia và di tích quôc gia đặc biệt phái được sự đông ý băng văn bàn cúa
Bộ trướng Bộ Văn hóa, Thê thao và Du lịch. Tuy nhiên, cần nhớ rằng,
việc xây dựng công trình khơng được làm ảnh hường đến u tố gốc
cấu thành di tích, cánh quan thiên nhiên và mơi trường - sinh thái cúa
di tích.
Riêng "Đối với di tích là quần thể các cơng trình kiến trúc nghệ
thuật hoặc cơng trình kiến trúc đơn lẻ thì việc xác định khu vực bảo vệ
1 phải bảo đảm giữ nguyên trạng các cơng trình vốn có của di tích bao
gồm sân, vườn, ao, hồ và cả các yếu tố khác liên quan đến di tích”2.
3. Vấn đề bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích
Có thể nói, các điều khoản liên quan đến vấn đề bảo quản, tu bổ,
phục hồi di tích giữa “Luật di sản văn hóa” (điều 34) và “Luật sửa đổi,
bổ sung một số điều của Luật di sàn văn hóa” (điều ỉ-m ục 15,) khơng
có sự khác biệt về nội dung mà chỉ là sự chuyển đổi vị trí và rút gọn
câu từ, trong đó, theo tơi, có một vấn đề rất quan trọng là đề cập đến
1 Diều 32. I.uật I)i sán văn hỏa vả Diều I - mục 13, Luật sứa dồi, bổ sung một số diều cũa l.uật Di sân
v # n ỉiỏ ii
2 Điều 16 - khoán 1 - phần c, Nehi định số 92/2002/NĐ-CP cùa Chinh phù quy định chi tiết thi hành một
sị điều cùa Luật di sản vãn hóa.
các yêu cầu cần phải bảo đảm khi bào quản, tu bổ, phục hồi di tích nói
chung, di tích kiến trúc nghệ thuật nói riêng, cụ thể là:
a) Giữ gìn tối đa các yếu tố gốc cấu thành di tích;
b) Lập quy hoạch, dự án trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền
phê duyệt, trừ trường hợp sửa chữa nhỏ khơng ảnh hưởng đến yếu tố
gốc cấu thành di tích. Đổi với di tích cấp tỉnh, phải được sự đồng ý
bằng văn bản của cơ quan có thẩm quyền về văn hóa, thể thao và du
lịch cấp tỉnh; đối với di tích quốc gia và di tích quốc gia đặc biệt, phải
được sự đồng ý bằng văn bản của Bộ trưởng Bộ Văn hóa. Thể thao và
Du lịch;
c) Cơng bổ công khai quy hoạch, dự án đã được phê duyệt tại địa
phương nơi có di tích.
(Điều I - mục 15, Luật sửa đổi, bô sung mộl sổ điều cùa Luật
Di sản văn hóa ).
Đồng thời, quy định việc lập ke hoạch, dự án hoặc thi công, giám
sát thi công dự án bảo quản, tu bổ và phục hồi di tích có thể do một tổ
chức hay một cá nhân chủ trì, song, phải có giấy chứng nhận có đủ
điều kiện hành nghề đối với tổ chức và chứng chỉ hành nghề đối với cá
nhân. Và, điều đặc biệt nữa là, khi tiến hành các công việc trên, phải
bảo đảm các nguyên tắc được quy định trong điều 5 - Chương I cùa
“Quy chế bảo quản, tu bổ và phục hồi di tích lịch sử-văn hố và danh
lam thắng cảnh (Theo Quyết định số 05/2003/QĐ-BVHTT ngày
6/2/2003 của Bộ trưởng Bộ văn hố thơng tin), bao gồm những ngun
tăc sau:
- Chỉ tiến hành bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích trong trường hợp
cần thiết và phải lập thành dự án và dự án cùng với hồ sơ thiếl kế kỹ
thuật phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt.
- Bảo đảm tính ngun gốc, tính chân xác, tính tồn vẹn và sự
bền vững của di tích.
- Ưu tiên cho các hoạt động bào quản, gia cố di tích trước khi áp
dụng các biện pháp kỹ thuật tu bổ và phục hồi.
24
- Việc thay thế kỹ thuật hay chất liệu bàng kỳ thuật hay chất liệu
mới phải được thí nghiệm trước để bảo đảm kết quả chính xác khi áp
dụng vào di tích.
- Chi thay thế một bộ phận cũ bằng một bộ phận mới của di tích
khi có đủ chứng cứ khoa học chuẩn xác và phải có sự phân biệt rõ ràng
giữa bộ phận mới thay thế với những bộ phận gốc.
- Bảo đảm an toàn cho bản thân cơng trình và khách tham quan.
Ngồi một số ngun tắc chung áp dụng cho tất cả các loại hình
di tích như trên, trong phần IV, mục 2 của “Quyết định số
1706/2001/QĐ-BVHTT ngày 24/7/2001 của Bộ trưởng Bộ văn hóa
thơng tin Phê duyệt Quy hoạch lổng thể bảo tồn và phát huy giá trị di
tích lịch sử-văn hóa và danh lam thẳng cảnh đến năm 2020” của Bộ
trưởng Bộ văn hóa thơng tin (nay là Bộ Văn hố, Thể thao và Du lịch)
còn đê cập đến cả những định hướng rất cụ thế cho từng loại hình di
tích, theo đó, vấn đề bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích loại hình kiến
trúc - nghệ thuật dưới dạng di tích tín ngưỡng tôn giáo được hiểu như
sau:
- Ưu tiên cho việc tu bổ và bảo quản hiện trạng của di tích. Mọi
sự thay thế các thành phần gốc phải được cân nhắc thận trọng. Trong
trường hợp thực sự cần thiết phải tiến hành cơng việc trên thì phải sử
dựng vật liệu cùng chất liệu với vật liệu gốc.
- Các di vật gắn với di tích như: các pho tượng, đồ thờ cúng phải
bảo quản chu đáo, tránh việc sơn phủ bằng loại SCO! mới làm mất màu
thời gian. Trường hợp đặc biệt phải sơn thếp lại thì phái áp dụng cơng
nghệ và kỹ thuật truyền thống.
- Giữ gìn các cây cổ thụ trong khu di tích.
- Khơng xây dựng nhà trưng bày bổ sung tại di tích, đồng thời,
phải hạn chế tối đa các cơng trình tơn tạo trong khu vực bảo vệ di tích,
tránh làm tổn hại đến cảnh quan khu di tích.
Đối với các di tích kiến trúc - nghệ thuật dưới dạng thành quách,
lăng mộ thì phải:
- Đảm bảo khoảng cách giữa thành với các cơng trình xây dựng
khác.
25
- Bảo tồn hiện trạng các vòng thành, cổng thành, hào thành, các
di chỉ khảo cổ học.
- Tiến hành gia cố những chỗ bị hư hỏng, đồng thời có thể khôi
phục một số đoạn hào, cổng thành theo dủng kiến trúc vốn có của di
tích.
Cịn với các di tích dưới dạng đô thị cổ, khu phố cổ, dinh thự,
nhà ở dân dụng, vườn cảnh..., những định hướng cụ thể trong công
việc trên gồm:
- Đảm bảo sự cân bằng giữa vấn đề bảo tồn di sản văn hố và
phát triển đơ thị cũng như giữa khu đô thị cổ và đô thị mới để có thể
vừa bảo tồn các mặt giá trị đô thị cổ, vừa đáp ứng được các nhu cầu về
điều kiện sống hiện đại cho cư dân trong đơ thị đó. Mặt khác, phong
cách kiến trúc và độ cao của các cơng trình xây mới trong khu vực tiếp
giáp di tích cần hài hịa với di tích.
- Bảo tồn nguyên vẹn về mặt kiến trúc đối với các phố và khu
phố mang đậm các giá trị kiến trúc cổ. Trong q trình thực hiện việc
giãn dân thì khơng xây dựng mới các cơng trình có kiến trúc khác biệt,
các phố và khu phố khác thì gìn giữ các cơng trình kiến trúc cổ tiêu
biểu.
- Việc cải tạo nội thất và trang bị kỹ thuật hiện đại không được
gây ảnh hưởng đến nội thất vốn có của di tích, đồng thời, các cơng
trình hạ tầng, dịch vụ trong khu phố cổ khơng được phá vỡ cảnh quan
vốn có và gây ơ nhiễm mơi trường.
- Trong q trình bảo tồn di tích phải duy trì các truyền thống văn
hóa và môi trường sống đô thị, phát triển du lịch và bảo tồn, phái huy
giá trị văn hóa phi vật thể như lối sống, lễ hội, các nghề thủ công
truyền thống...
Từ nội dung của các văn bản pháp luật hiện hành có liên quan
đến các di sản văn hóa nói chung, di sản kiến trúc của dân tộc nói
riêng, tơi có một vài suy nghĩ sau:
T hứ nhất: Cho đến nay, chúng ta đã có một hệ thống văn bản
pháp lý liên quan đến việc bảo tồn và phát huy giá trị của các DSVH
dân tộc, trong dó có các di sản kiến trúc, tạo điều kiện thuận lợi cho
26