Tải bản đầy đủ (.pdf) (143 trang)

Nghiên cứu di sản văn hóa Việt Nam trong xã hội đương đại: Phần 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (19.46 MB, 143 trang )

LỄ HỘI BÀ T ơ Ở VÙNG HUẾ:
GIẢ TRỊ LỊCH s ử VÀ QUẢ TRÌNH TẢI HIỆN

Trần Đình Hằng

1. Vấn dề nghiên cứu
Tìm hiểu vễ văn hóa miền Trung, tơi nhận thấy tổn tại phổ biến nhiều dạng
thức truyền thuyết dân gian nhấn mạnh tới sự xác lập cương giới làng xã
Việt. Tất cả, được cụ thể hóa qua hệ thống miếu thờ, nghi thức cúng tế và
cả nhiều giai thoại, truyền thuyết dân gian mang đậm màu sắc huỵến hoặc,
nhiệm mẩu. Ở đây, tôi rất quan tâm tới dạng thức truyền thuyết m ở cõi thời
Đàng Trong buổi đẩu, đặc biệt là lẻ hội Bà Tơ ở vùng Huế, cho đến lệ Bà Thu
Bồn ở Quảng Nam, hay đến tận Phú Yên với lễ hội Phù Quận công Lương
Văn C hánh.1
Linh hổn của một di tích, lễ hội, thường được kết tinh từ một trong hai quá
trình: lịch sử hóa truyền thuyết, hoặc truyén thuyết hóa lịch sử. Các giai thoại
cá voi cứu người, rái cá hoặc trâu xuất hiện kịp thời cứu nguy cho chúa tôi
Nguyễn Ánh lúc bôn tẩu... thuộc vể dạng thức đâu tiên, từ truyền thuyết dân
gian được đưa vào chính sử.2 Ở dạng thức thứ hai, lễ hội Bà Tơ là m ột trường
hợp đặc biệt, phát xuất từ sự kiện lịch sử ghi nhận m ột nữ ân nhân từng

1

Về vấn đề này,

tôi

đã có một số kết quả khảo sát bước đẩu: (2010), "Người Việt đi về

phương Nam: Truyền thuyết mở cõi thời Đàng Trong buổi đầu ở vùng Huế (trường hợp
sự tích Bà Tơ)" tham luận tại



Hội thảo

khoa học quốc tế Vàn hóa trong thế giới hội nhập,

Trường Đại học Văn hóa Hà Nội, ngày 25/11, H.: Nxb. VHTT, (2011), Lẻ

(Quàng Nơm), H.: Viện Văn

hội Bà Thu Bổn

hóa Nghệ thuật VN (đề tài NCKH); (2011), "Dấu ấn 'Việt' trên

vùng đất mới: trường hợp lẻ hội Phù Quận cỏng Lương Văn Chánh", tham luận tại Hội
thảo khoa học quốc tế Di sản vàn hóa Nom Trung Bộ với sự phát triền du lịch trong hội nhập

quốc tế, Phú Yên.: Bộ VH, TT&DL - UBND tỉnh
2

Phú Yên, 2/4).

Quốc sử quán triều Nguyễn (1972), Quốc triều chánh biên tốt yếu, Nhóm Nghiên cứu Sử
Địa Việt Nam, Sài Gòn, tr. 5- 9; Quốc sử quán triều Nguyễn (2002), Đại Nơm thực lục, Nxb.
Giáo dục, tập 1, Hà Nội, tr. 217 - 218.


194 I Lễ hội Bà Tơ ở vùng Huế...

cứu nguy chúa Tiên Nguyễn Hồng. Sau khi chết, Bà được tơn xưng Quốc tỷ
Thánh Mẫu, hiển linh, được lập miếu thờ và đến nay, dân gian vẵn còn truyẻn

tụng nhiều truyền tích vê' Bà.
Điểm đáng ghi nhận là các dạng thức truyền thuyết, dù được diễn tả dưới góc
độ nào, m ang lớp áo vản hóa nào đi nữa, cũng mang đậm tính chất thiêng
liêng, trở thành sức sống chính yếu, xun suốt của di tích, lễ hội. Các chương
trình mục tiêu quốc gia vể văn hóa, đặc biệt là chương trình văn hóa phi vật
thể, trùng tu tơn tạo và chống xuống cấp di tích, mục tiêu nguyên ủy, vẫn
là ưu tiên đẩu tư kịp thời, hữu hiệu cho các di sản văn hóa đang đứng trước
nguy cơ bị mai một, xuống cấp. Lập hổ sơ để di sản văn hóa được cơng nhận,
từ cấp tỉnh - quốc gia - UNESCO là nhu cẩu tiên quyết để khẳng định giá trị,
kêu gọi và thu hút đẩu tư. Tuy nhiên, do kinh phí khó khăn, vận hành theo
ngun tắc hành chính nên xu hướng “hành chính hóa” trở nên phổ biến, với
nhiều hệ quả, như cách đặt vấn đề của Oscar Salemink, là q trình “di sản
hóa” văn hóa ở Việt Nam diễn ra ổ ạt, dẫn đến m ột quá trình khách quan hóa,
đồ vật hóa và chiếm đoạt các thực hành văn hóa.1Có nghĩa là q trình hành
chính hóa lễ hội dân gian, sự can thiệp mạnh của cơ quan nhà nước, cụ thể
là ngành văn hóa và du lịch vào di sản văn hóa ngày càng được cổ súy, trên
cơ sở có sự trợ lực, có khi trở thành đổng lõa, thỏa hiệp cùa các chủ trương,
chính sách bảo tồn và phát huy giá trị của các di sản văn hóa truyền thống,
của Đảng và Nhà nước Việt Nam cho đến của UNESCO. Ở đó, thực sự đã
có tình trạng đẩy m ạnh quá trình lập hổ sơ, quá chú trọng đến hình thức và
số lượng, trở thành m ột cuộc chạy đua từ địa phương đến quốc gia, mà chưa
thực sự chú tâm đến chất lượng, hiệu quả, làm phá vỡ kết cấu và không gian
máu thịt của di sản.2

1

Salemỉnk, Oscar (2012), "Appropriating Culture: The poiiti.cs of ỉntangỉble cultural heritage ỉn VietnarrV" (Chiếm đoạt văn hóa/chính trị của di sản văn hóa phi vật thể tại Việt
Nam), trong H-T Ho Tai & M Sidel biên tập, State, Societyand the Marketin Contemporary
Vietnam: Property, Powerand Values. Routledge (Nhà nước, xâ hội và thị trường ở Việt Nam
đương đại), Oxon,


2

ox, UK, tr. 158-180.

Salemink, Oscar (2012), '"Di sỏn hóa' văn hóa ở Việt Nam: di sản văn hóa phi vật thể giữa
các cộng đóng, nhà nước và thị trường" Tóm tắt kỷ yếu Hội thảo quốc tế Việt Nam học lẩn
thứ IV: Việt Nam trên đường hội nhập và phát triền bền vững, H.: Viện Khoa học xã hội Việt
Nam - Đại học Quốc gia Hà Nội, 26-28.11.2012, tr. 243-267. Bản tiếng Anh "The 'heritagization of culture ỉn vietnam : intangible culturale heritage betvveen communities, State

and market", tr. 268-291.


Lễ hội Bà Tơ ở vùng Huế... I 195

Theo tôi, điểu đó hồn tồn có cơ sở, nhưng có phấn cực đoan bởi q trình
đó cịn tùy thuộc nhiều yếu tố, như bảo đảm tính thiêng, khơng phá vỡ giá trị
tinh thấn cốt lõi xuyên suốt cùa di tích - lễ hội và vai trò tư vấn của các nhà
chuyên môn, trên cơ sở tham vấn cộng đổng. Đặc biệt là phải được cộng đông
chấp nhận. Ở đây, tôi đơn cừ trường hợp lễ hội Bà Tơ, từ tinh thần cốt lõi cùa
q trình truyển thuyết hóa lịch sử trong truyển thống cho đến khả năng vận
dụng để tái hiện, cho thấy nó khơng thuộc xu hướng cực đoan đó.

2. Lễ hội Bà Tơ: kết tinh từ quá trình truyền thuyết hóa lịch sử
2.1. B ối cảnh lịch sử
Trong diễn trình lịch sử đi vê' phương Nam của người Việt, vùng Huế đóng
vai trị rất quan trọng. Buổi đẩu, các cộng đổng di dân từ miền ngồi đến đây
rứnnh chóng tiếp cận vùng sông nước Tam Giang, gắn liền lỵ sở Hóa Châu
nổi tiếng thời Trấn, Hồ, Hậu Lê, định hình nên tầm vóc thị tứ Sịa một thời
giao thương sôi động, khi “phá Tam Giang ngày rày đã cạn”. Từ đó, các cộng

đổng cư dân dọc lưu vực sơng Ơ Lâu, sơng Bồ, nhanh chóng “đơng tiến” tiếp
cận vùng bãi bồi sông nước ven đẩm phá, thiết lập xã hiệu, định hình nên
Sịa - Quảng Điển, từ năm 1570. Nơi đây ghi nhận rỗ nét dấu ấn thời chúa
Nguyễn Đàng Trong, đặc biệt là trong vai trò thủ phủ vùng miền của Phước
Yên (1626), trước khi vào Kim Long (1636), Phú Xuân (1687) và trở lại Bác
Vọng (1712), rồi Phú Xuân (1738).1
Trong bối cảnh đó, giá trị lịch sử nổi bật cẫn khẳng định ờ lễ hội Bà Tơ làng
Bác Vọng (nay thuộc xã Quảng Phú, huyện Quảng Điển, tỉnh Thừa Thiên Huế) là dấu tích văn hóa phi vật thể hiếm hoi duy nhất thời chúa Nguyễn, nay
vẫn được bảo lưu rõ nét, sống động trong đời sống văn hóa, lễ nghi làng xã
vùng Huế. Từ những nét tương đồng trong sừ liệu, có thể thấy rằng, từ một
sự kiện lịch sử, đã được dân gian ghi nhận, ni dưỡng bằng nhiểu giai thoại,
truyền thuyết, truyền tích, v.v. Tất cả, lại được cụ thể hóa sinh động thơng qua
di tích, lễ nghi, phẩm vật dâng cúng, lễ hội suy tơn, tưởng nhớ cơng lao to lớn
của Bà.
1

Trần Đình Hằng (2013), "Phá Tam Giang ngày rày đã cạn: Sự thích ứng đa tình huống cùa

Bảo tàng và dì sản vân hỏa trong bốicỏnh biến
đồi khỉ hậu [Kỷ yếu HTQT, Huế, 11 -12/6/2012] (Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam - Viện Văn
cộng đổng

CƯ dân

làng xã vùng Huế" trong

hóa nghệ thuật Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2013, tr. 274-289).


196


I Lễ hội Bà Tơ ở vùng H uế..

Làng Bác Vọng được thành lập khá sớm; từ thế ký XVI, là m ột trong 53 làng
xã của huyện Đan Điển; thế kỷ XVIII, trở thành Bác Vọng Đông Tây xã, thuộc
tổng Phú Ốc, huyện Quảng Điền và đến thời Nguyễn, mới tách thành hai đơn
vị Bác Vọng Đông - Ty giáp.1Dưới thời phong kiến, Bác Vọng là một “đại xã”,
được cấu thành từ tứ giáp ấp là Đông (Bác Vọng Đông), Tây (Bác Vọng Tây),
Đồ (Hà Đổ), Lạc (Hà Lạc). Đồ, Lạc chính là hai ấp “tân lập”, sản phẩm của
q trình “đơng tiến”, khai lập xã hiệu mới ven miền sông nước đầm phá Tam
Giang của cộng đổng cư dân “làng gốc” Bác Vọng.

2.2. Hai ngôi m iếu Bà Tơ ở Bác Vọng Đ ông và Hà Đổ
Ở Bác Vọng Đông, miếu Bà Tơ toạ lạc trên khu đất rộng khoảng 400m2, bên
bờ sơng, phía trên ngã ba Quai Vạc, ngoảnh ra theo hướng Tây Nam. Quy mô
của ngôi miếu, nếu so sánh với các nguổn tài liệu đẩu thế kỷ XX, thì có thể dễ
dàng nhận thấy hiện trạng của nó thật khiêm tốn. Đó là m ột ngôi miếu nhỏ,
xây dựng đơn sơ bằng vật liệu hiện đại từ những nảm 2000 - 2001. Nơi đây
cịn có tên gọi Đò Ba Bến bởi theo truyền khẩu, để ghi nhận và ban thưởng
cho công lao của Bà, các chúa Nguyễn còn ban cấp cho Bà, cho làng Bác Vọng
thêm hai khu đẫt ờ hai làng đối diện để làm bến đò: một ở làng Thanh Lương
và một ở Khúc Vạy (làng Phị Nam). Khơng gian thờ tự chính yếu là bàn thờ/
điện thờ, chính giữa là m ột bức tranh Phụng, tượng trưng cho Bà và m ột bài vị
nhỏ, cổ xưa: Quốc tỷ Thánh Mẫu nương nương trận tiến cơng hn, sắc phong
Trai Tĩnh thẩn vị. Ngồi ra, nơi đây cịn có nhiều hồnh phi, câu đối được
phiên âm quốc ngữ, như bức hoành phi N ữ trung tuấn kiệt được treo ngay
phía trước ngơi miếu; hai cặp câu đối trên hai m ặt cùa bình phong:
Tam Giang công đức hậu/ĐỖ thủy miếu đền thiêng; và
M ột sợi tơ đền gây cơng lớn/Đơng Tây Đó Lạc hưởng ơn sâu.
Qua khảo sát điển dã, chúng tơi cịn được biết trước năm 1975, nơi đây vẫn

lưu giữ câu đối súc tích, đầy ý tứ, mà đến nay nhiểu người vẫn thuộc lòng: M ặt
nước hưởng nhờ ơn vũ lộ/ Dây tơ cứu khỏi trận phong ba.

1

Vô danh thị (1961), ồ châu cận lục, Dương Văn An nhuận sắc, tập thành, Bùi Lương phiên

tập, tập 1, Phủ
Nguyễn, 2003, Đổng

dịch, Văn hóa Ấ châu xuất bản, Sài Gịn, tr. 40; Lê Q Đơn (1977) Tồn
biên tạp lục, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 80; Quốc sử quán triều

Khánh địa dư chí, Hội Sử học Việt Nam, Viện Viễn Đơng bác cổ Pháp, Trường Cao học Thực
hành Pháp - Nxb. Thế giới, Hà Nội, tr.1427.


Lễ hội Bà Tơ ở vùng H uế... I 197

Tương tự như vậy, chúng tôi đã khảo sát ngôi miếu Bà Tơ ở thơn Hà Đồ,
Phước Lập, ngay bên bị' phá Tam Giang (xã Quảng Phước, huyện Quảng
Điền). Đó là một ngôi miếu nhỏ, khiêm tốn, được xây rất cao trên bốn trụ bê
tơng, phía trước có hai trụ đỡ và cũng mang chức năng bậc tam cấp. Nội thất
ngôi miếu được bài trí đơn sơ.
Xem xét tẩm ảnh hưởng trong đời sống tín ngưỡng thờ Bà Tơ từ hai ngơi miếu
này, có thể nhận thấy được bối cảnh đặc trưng của làng Bác Vọng xưa trong
khơng gian văn hóa lưu vực sơng Bồ. Theo đó thì Hà Đổ chính là vùng “cửa
khẩu” về phía đơng của m ột nhánh sơng Bổ, gắn liến cơng lao khai phá của các
dịng họ Trẩn, Trương (tương tự với làng Hà Lạc là dịng họ Đặng, Hồng) tù
làng gốc Bác Vọng, nằm về phía thượng nguồn (khoảng hơn ìokm).


2.3. Bà Tơ: truyền thuyết và nghi lễ thờ cúng
Ở làng Bác Vọng và cả các làng lân cận dọc lưu vực sông Bổ, truyến tích Bà
Tơ được nhiều người biết đến và dân gian lưu truyền m ột cách đơn giản, thiết
thực, dưới tên gọi miếu Bà Tơ. Chí ít từ tên gọi, “miếu Bà Tơ” cũng dễ giúp
gợi lên ngay từ đẩu sự mường tượng về m ột nữ nhân vật có liên quan đến tơ
]ụa, có cơng rất lớn đối với sự hình thành và phát triển của làng, nên mới được
làng đưa vào quy chế thờ tự. Đó là ngơi miếu nổi tiếng nhất, cùng với sự tôn
vinh đặc biệt, rõ ràng, về hành trạng, công lao của Bà Tơ.
Trong m ột trận thủy chiến trên phá Tam Giang, do thất thế, bị truy đuổi sát
sao, “chúa tơi Nguyễn H ồng”, “nhà chúa”, “vua tôi nhà Nguyễn”, v.v. phải
một phen bôn tẩu. Tình hình nguy nan hơn bởi qn lính phải hết sức chèo
chỗng, làm đứt quai chèo. Sự xuất hiện của Bà đã kịp thời dâng lên “mớ tơ”,
hay “sọt tơ sống”, hay “tay lưới”..., cho quân lính kịp bện lại quai chèo, nhờ
đó thốt hiểm.
Bà làm một nghể gì đó, hay ít ra thì lúc thuyền của bậc qn vương bị “đứt quai
chèo”, bà cũng đang làm m ột cơng việc có liên quan tới tơ lụa, trên sơng nước
Tam Giang: có thể là m ột thương nhân, hoặc con gái một gia đình thương
nhân bn bán tơ lụa, vải vóc; hoặc một ngư dân chài lưới, v.v. Điểm mấu
chót, “chi tiết vàng” là tơ lụa> kịp thời giúp bện lại quai chèo bị đứt.
Cũng trong dạng thức truyền thuyết có liên quan tới quai chèo đó, nơi đây cịn
có chi tiết thú vị trong các giai thoại truyền khẩu, rằng Bà là một người phi
phàm, dám vén quẩn, giật lấy một đám “hạ thảo” cho thủy binh bện lại quai


198

I L ễ hội Bà Tơ ở vừng H uế..

chèo. Điểu này cũng có nét tương đổng trong khảo sát điển dã ở làng Thanh

Phước, khi tôi được nhiểu người kể vể giai thoại cuộc đua ghe để xác định địa
giới làng xã cùa làng Thủy Tú láng giềng: một người phụ nữ đại diện cho làng
Thủy Tú, gặp tình huống bất ngờ là quai chèo bị đứt, cũng đã nhanh tay giật
lấy đám “hạ thảo” để bện quai chèo, tiếp tục cuộc đua thắng lợi, nhờ đó mốc
giới của làng được mở rộng. Dân làng ghi ơn, tưởng nhớ cơng lao to lớn đó, đã
đưa Bà vào quy chế thờ tự của cộng đổng.
Rõ ràng, điểm chung xuyên suốt ở đây chính là thơng điệp khẳng định cơng
lao to lớn nổi bật cùa các bậc nữ nhân đối với lịch sừ văn hóa làng xã.
Thân thế của Bà, chỉ biết là người “họ Trần làng Bác Vọng”. Cũng có ý kiến
cho rằng Bà và gia đình vốn chỉ là cư dân thủy diện nay đây mai đó, từ đâu
khơng rõ, đã đến tụ cư ở Bác Vọng, làm ăn trên vùng sơng nước phá Tam
Giang, cùng với q trình “đông tiến” của các cộng đồng cư dân làng xã dọc
lưu vực sông Bổ như phẩn trên đã đê' cập.1
Điểm đáng chú ý là giai thoại dân gian có sự trùng khớp tài liệu chính sử, với
m ột nữ nhân vật có nhiều hành trạng và sự tích tương tự Bà Tơ: “N âm Quý Tỵ
(1592), mùa hạ, Thái Tổ (tức Thái Tổ Gia Dũ hoàng đế Nguyễn Hoàng) lại ra
Đông Đổ, ở lại tám năm, nhiều lẩn đi đánh giặc, ư D ĩ theo hâu ồ tả hữu chúa.
N ăm Canh Tý (1600), mùa hạ, Thái tổ vượt biển vê nam, thuyền đến của biển
Thẩn Phù, dân nhiều người đi theo. Nghe nói quân Trịnh đuổi riết, Ư Dĩ sai
quân bơi thuyên đi nhanh. Dây thừng bị đứ t Có người huyện n Mơ là Phạm
Thị Cơng dâng m ột sọt tơ sống để làm thừng kéo thuyền, thuyền bèn đi nhanh
[Phạm Thị Cơng theo vào Thuận Hóa, đến lúc chết được phong là Thị Tùng Hỗ
Giá Phạm Phu Nhân]).2
N hất thống chíy mục Liệt nữ tỉnh Ninh Bình, có đê’ cập đến hành trạng một
nhân vật tương tự, trở thành cản cứ xuyên suốt cho giai thoại Bà Tơ làng An
Mỏ (Ái Tử, Quảng Trị): “Người huyện Yên Mô, năm Lể Thận Đức I (1600),
Thái tổ Gia Dụ hoàng đế ta đem tướng sĩ thuyền ghe sở bộ thuộc theo đường
biển vào Thuận Hỏa, quân Trịnh đuổi theo, thủy quân chèo thuyên gấp rút,
quai chèo bị đứt, lúc ấỵ Thị Tơm theo hẩu, nhân có một mớ tơ sống:, thị liền
1


Chapuis. A (1932)"Les lieux de culte du villagede Bac-Vong-Dong", B.A. V. H, N°4, pp.371
-410.

2

Quốc sử quán triều Nguyễn (1997), Đại Nom liệt truyện, tập 1, Tiền biên, Nxb. Thuận Hóa,
Huế, tr.8 3 -8 4 .


Lễ hội Bà Tơ ờ vùnẹ H u ế... I ] 99

dâng để buộc chèo. Về đến nơi thị chết, Gia Dụ hồng đế khen là có cơng, truy
tặng Thị Giá phu nhân, lập đển thờ dinh Cát. Dinh Cát nay thuộc Quản% Trị”.1
Từ cấp độ các làng xã qua hình ảnh cơ thơn nữ - Bà Tơ ờ làng Bác Vọng Đơng;
thậm chí trên ngun tắc “thiêng hóa”, chúng tôi cũng tiếp cận được tư liệu để
từng bước khẳng định q trình “lịch sử hóa” cùa mơ típ nữ nhân vật như Bà
Tơ. Trong quá trình điển dã, chúng tôi cũng đã từng nhận ra được m ột Bà Tơ
thứ hai ở làng An Mô (Ái Tử, Quảng Trị). Nếu như Bà Tơ ở làng Bác Vọng
Đông được ghi nhận công lao một cách rõ nét qua nghi thức cúng tế, lễ hội
đua trải, cẩu ngư thường niên..., nhưng khơng rõ mộ phẩn thì Bà Tơ ở làng
An Mơ, được xác định cụ thể là con dâu họ Đổ, có mộ phẩn cụ thể, thậm chí
cịn có gia phả, và văn bia rất đầy đù - đương nhiên mới phụng soạn, sao chép
sau này - nhưng nghi lễ cúng tế lại không phong phú, sinh động. Dù m ột làng
nhỏ, trước đây là “phường”, nhưng qua trường hựp Bà Tơ, An Mô như được
khắc họa rõ nét hơn bằng nhiều nguồn tư liệu, kể cả chính sử, gia phả... Việc
sao chép, biên soạn gia phả được đặc biệt chú trọng cùng với việc tái thiết hoặc
xây dựng mới hệ thống thiết chế văn hóa gia tộc như lăng mộ, nhà thờ... Tuy
nhiên, vấn để đáng quan tâm ở đây là sự nhấn mạnh đến mức thái quá vai trò
của Bà Tơ, như trong văn bia được dựng ở nhà thờ họ Phạm (phụng tạo mùa

xuân Giáp Thân, 2004), dù rằng bà đã xuất giá, cịn tơn bà làm Thành Hoàng
của làng.2
1

Quốc sử quán triều Nguyễn (1997), Đại Nam nhất thống chỉ, tlđd, tập 3, tr. 282.

2

"Thượng Cao

tổ Phạm

Vân Đạo,

nguyên

Thuyền lĩnh trong đạo

thuyền hộ giá

chúa Tiên

vào Thuận Hóa nơm 1558. Trưởng nữ của ngài là Phạm Thị Còng. Theo sách Đại Nam nhất
thống chí, bà đỡ theo hâu chúa Tiên trở lọi Thuận Hóa nâm 1600 bồng đường biền, bị quân
Trịnh đuổi theo. Thuyền chúa bị đứt hết quai chèo, bà đõ hiến hai kiện tơ để buộc chèo cứu
chúa thoát nạn. Khi bà mất, chúơ truy tặng donh hiệu Thị Giá Phu Nhâa và lập đền thờ tại
Dinh Cát (phía tây sơng Ái Tử, Qng Trị). Khi nhà Nguyễn lập quốc; bà được phong sốc Bản
Thổ Thành Hoàng, Dực Vặn Hồng Chung Chính Nghi Siêu Thơng Tỏn Thán củơ làng An

Mô và được xếp vào liệt nữ củơ tỉnh Ninh Bình"

Đó cũng là một trong những ngun nhân làm nóng lên tình hình vốn căng thẳng lâu
nay ở làng trong mối quan hệ, xác định thế thứ dòng họ... Chúng tơi cho rằng, đã có sự
nhầm lẫn cơ bản ở đây, bởi Bàn Thồ Thành Hoàng, Dực Vận Hoàng Chung Chỉnh Nghi Siêu
Thông Tôn Thân là một sắc phong khác cho chính vị Bản thồ thành hồng của An Mơ, mà
có lẽ chính xác là làng Ái Tử, chứ khơng phải íà Bà Tơ. Chúng tơi cũng ghi nhận được từ
trong văn bia ở mộ phần của bà (tạo dựng ngày 13/6/Nhâm Dần - 1962): sổ c Khai khẩn
thị tịng phù gió mệnh phụ trứ phong trinh uyển dực bảo trung hưng Phợm quý nương tôn
thần chi mộ.


200 I Lễ hội Bà Tơ ở vùng Huế...

Cho dù cụ thể Bà là ai, nguyên quán ở đâu, hành nghề gì... thì thực tế được ghi
nhận rõ ràng xưa nay, từ giai thoại dân gian đến nghi lễ thờ cúng cộng đồng,
là nhờ cơng lao phị giá đó mà vê' sau, họ Trần, và cả làng Bác Vọng, đã được
ban cấp quyển được khai thác, đánh bắt thủy sản và thu thuế mặt nước trên
m ột giang phận rộng lớn của lưu vực sông Bổ và phá Tam Giang.
Bản văn tế xưa bằng chữ Hán của làng ghi rõ: Cung kính/ Tơn bà Quốc Tỷ
Thánh Mẫu Nương Nương, Trận tiến công thần, chánh thăn, sắc phong Dực
Bảo Trung Hưng, gia tặng Trang Huy Trung đẳng thần. Giáng Thẩn dục tú
giúp phò bậc thánh, cứu nạn ách bâng một sọt tơ, đàn bà nhưng hào kiệt vè
vang; hai thẻ kim bài cịn ghi sự tích. Nữ lưu xuất cơng thân, báo ân theo điển lệ
lại ban thêm lợi lạc Tam Giang trải dài bách thế. Nay đến ngày húy cung hành
lễ mọn xôi thịt tinh sạch để báo ơn, vật phẩm như thực, tôn bà gia huệ vậy/Căn
cảo}
Ở chi tiết phân định ranh giới của sự ban thưởng này trên phá Tam Giang,
có hai mơ típ truyền khẩu đặc biệt, gắn liền với hai thổ sản: vỏ/quả bưởi
và bã mía. Nội dung cơ bản của truyền tích này là trước sự chứng kiến của
triều đinh, các làng xã cận cư, người ta thả bưởi hay bã mía, từ sơng Bổ, ở
phía trước làng Bác Vọng, cho trơi theo dịng nước, đến khi nào dạt vào bờ,

thì nơi đó được xác định là giới hạn xa nhất trong giang phận của làng Bác
Vọng. Không biết thực hư câu chuyện nhuốm đậm m àu sắc tâm linh ly kỳ,
hấp dẫn, dân dã này ra sao, nhưng rõ ràng, làng Bác Vọng được quyền canh
phá và khai thác (đánh bắt thủy sản, thu thuế) trên m ột khu vực phá Tam
Giang rộng lớn, ít nhất củng từ vùng đầm Hà Lạc phía thượng nguồn phá
Tam Giang (thôn Hà Lạc, xã Quảng Lợi) cho đến vùng “Trộ Bã Mía” ở giữa
phá Tam Giang (thơn Mai Dương, thôn Hà Đổ, xã Quảng Phước, huyện
Quảng Điển).
Ve sau, khơng có được thơng tin cụ thể nào về hành trạng của Bà, chỉ biết Bà
mất khi còn trẻ, bởi m ột sự ngộ/đẩu độc thức ăn. Tưởng nhớ cơng lao to lớn
đó, làng đưa Bà vào quy chế thờ tự cộng đổng, xây dựng miếu thờ ở cả làng
Bác Vọng lẫn ấp Hà Đổ. Người ta tiến hành trọng thể nghi lễ thờ Bà tại miếu
vào các dịp Minh niên (11- 12/1 âm lịch) và húy nhật (18/5 âm lịch). Đặc biệt

1

Bản vản tế bằng chữ Hán được đính kèm trong bài viết của Chapuis. A (1932) "Les lieux
de culte du village de Bac-Vong-Dong", tlđd, bàn dịch của Lê Đình Hùng, Phân viện Văn
hóa nghệ thuật Việt Nam tại Huế.


Lể hội Bà Tơ ở vùng ỉỉuế... I 201

là trong vấn để lễ nghi, cịn có tuổng hát, lễ hội đua trải nhân dịp lễ trọng “lục
niên đáo lệ” tại bến sơng phía trước miếu Bà làng Bác Vọng, ]ẻ hội cấu ngư ở
làng Hà Đồ bên phá Tam Giang. Trong số phẩm vật, đáng chú ý là phải ln
có m ột con thuyển bằng tre hay đổ vàng mã để hạ thủy trong ý nghĩa dâng
cúng phương tiện đi lại lên Bà, đổng thời, cũng là một cách thức nhờ Bà “tống
ô n ”. Trong nghi lễ cầu ngư trên phá Tam Giang, như một minh chứng cho
chi tiết Bà qua đời bởi ngộ độc/đẵu độc, ông chủ lễ trong lúc tiến hành nghi

lễ, cũng phải ăn trước một số thức ăn để cho “Bà tin” khi hưởng các lễ vật mà
con cháu phàm trẩn dâng cúng, dạng thức tương tự như trong tín ngưỡng thờ
cúng Ơng Địa hiện nay (thịt quay, vào những ngày mổng 2, 16 âm lịch).
Trong lễ minh niên, làng dâng cúng bò, lợn hoặc vịt. Lễ húy nhật tồ chức
thường niên, tại miếu Bà và tồ chức trọng thể trong sáu năm một lẩn, bằng
việc tổ chức đua ghe. Do vậy, đây là lễ hội rất lớn, có cả kịch hát, thu hút nhiều
người, vói niềm tin nhờ vậy mà nảm đó, việc đánh cá được bội thu. Lễ Chánh
tế/hiến sinh là nghi lễ chính, được thực hiện vào nửa đêm - giờ Tý, giống với
cuộc lễ thứ nhất nhưng rất quan trọng; dâng cúng và hiến sinh dâng lẻn Bà.
Nghi lễ hiến tế kết thúc, mọi người cùng nhau uống rượu, ăn trẩu. Sau đó,
người ta mang bị, lợn và xơi lên nhà tăng, chia phần cho các làng Bác Vọng
Đông - Tây và Hạ Lang, những làng được quyển đánh cá ờ phá Tam Giang và
tương truyền, vốn được hình thành từ một làng gốc.
Lễ đua trải được tổ chức vào rạng sáng ngày 18. Từ sáng sớm, người ta sửa
soạn bàn thờ trong một lều trại phía trước cồng ngơi miếu, để Bà Tơ ngồi xem.
Trong ý nghĩa tôn vinh Bà, một bàn thờ khác được thiết trí dọc bờ sơng, trên
hai con đị được kết lại, gơm có một bàn vuông được bao phủ bởi màn trướng
và m ành sáo đỏ. Sau khi các thuyền xuất phát, làng Bác Vọng Đông và Bác
Vọng Tây cừ hành nghi lễ sau cùng của lễ hội - lễ tạ, nhằm tạ ơn Bà Tơ.
Ngồi ra, để tơn vinh Bà Tơ, người ta cũng cịn có m ột lễ hội thường niên
khác, khơng kém phẩn long trọng, tưng bừng. Từ lâu lắm rồi, làng đã dựng
bên bờ phá Tam Giang m ột ngôi miếu khác, được xây dựng khang trang để
thờ Bà. Ở đó, hằng năm, các ngư dân làng Bác Vọng tập hợp lại vào tháng 4, để
cử hành nghi lễ Cẩu ngư, vào một ngày tốt trong tháng theo quan niệm truyền
thống. Trước tiên, người ta phải chuẩn bị một chiếc thuyên, được thiết trí một
bàn thờ nhỏ, với đầy đủ bài vị tượng trưng cho sự hiện diện của Bà. Khi những
phầm vật, lợn quay và xơi đã được thiết trí trên bàn thờ và nến, nhang đâ được
thắp lên, người ta cho thuyền chạy đến giữa đầm phá để mời Bà vể dự.



202 I Lễ hội Bà Tơ ở vùng Huế...

Ông hội chủ lễ phục tê' chỉnh, quỳ lạy trước bàn thờ, cắu khấn, trong khi m ột
thầy cúng đứng bên cạnh cao giọng cẩu nguyện, thỉnh mời. Trong thời gian
này, những thuyển nhỏ bơi nhiều vịng xung quanh để kiếm tìm và đón rước
linh hồn Bà vê' dự lễ. Nghi lễ kết thúc bằng việc đốt giấy tiền vàng mã, và
thuyền trở lại bờ. Trên bờ, từ trước, đã có 5 - 6 ngư dân bước theo hàng dọc,
cùng m ột chiếc cẩu cáng, trên đó đặt m ột bài vị nằm trên bàn thờ của con
thuyền. Đến gấn ngôi miếu, ông hội chù kính cẩn hai tay nâng bài vị và bước
đến, đặt bài vị trên bàn thờ, trong khi m ột lão ngư khác vừa nhảy xung quanh
vừa vổ tay trong tiếng tung hô và lắc lư đầu: Mừng Bày Mừng Bà!
Trong suốt thời gian ông ta hát và nhảy múa, người ta mời ông ăn ba miếng
thịt lớn và m ột ly rượu trong số phẩm vật dâng cúng, để cho Bà thấy rằng
những phẩm vật này không độc hại. Nghi lễ kết thúc bằng việc đốt m ột bộ áo
giấy vàng mã, giấy tiền và đây vào đầm phá m ột chiếc thuyền được làm bằng
giấy, trên bộ khung sườn bằng tre để làm nơi ở cho Bà. Người ta đặt lên đó
một miếng thịt và mâm xơi, khơng được buột miệng nói may mẳn từ khi hạ
thuỷ con thuyền trên đẩm phá. Cuối cùng là bữa tiệc, người ta phải dùng hết
mọi phẩm vật, cả đổ ăn lẫn thức uống nhưng thủ lợn chỉ được quyển dành
riêng cho ông hội chủ.

3. Lễ hội Bà Tơ: từ hiện trạng đến nhu cầu phục hồi, tái hiện
3.1. H iện trạng
Qua tài liệu thư tịch và điển dã làng xã, tôi nhận thấy tổn tại phổ biến dạng
thức truyền khẩu dân gian ghi nhận nhiều địa danh, nhân danh gắn liền sự
phò trợ các chúa Nguyễn, vua Nguyễn cùng bộ tướng, đặc biệt là trong những
lúc bôn tẩu. Để ổn định nhân tâm, trong nhiều trường hợp, các chính trị gia,
triều đình phong kiến thường chính thống hóa m ột số truyển khẩu, truyền
thuyết, hiện tượng từ dân gian, có khi tạo dựng, nâng cao bằng cách khốc lên
bên trên m ột màu sắc linh thiêng của tín ngưỡng. Việc mang ơn cây trái lòn

bon rừng từng giúp chúa tôi họ Nguyễn qua cơn bĩ cực, được ban tên Nam
Trân và định ỉệ dâng tiến tôn miếu. Mang ơn cứu mạng của lồi vật biển cả
sơng nước mà Cá Voi được ban mỹ tự Nam Hải Ngọc Lân; hai con rái cá Đông Nam Sát hải Lang Lại Nhị đại tướng quân, v.v. Đối đãi có trước có sau,
từ loài cây, loài vật cho đến con người, như trường hợp Bà Tơ, và các vị thẩn
Trảo Trảo phu nhân, Bà Trời Áo Đỏ... Tất cả đểu là thông điệp điển hình nhất


Lể hội Rà Tơ ở vùng Huế... I 203

cho chiến lược nhân tâm, định hình chính thể mới hợp lịng Người, thuận ý
Trời của nhà Nguyễn.1
Yếu tổ thiêng được xác lập bển vững, từ q trình truyền ihuyết hóa lịch sử,
hay lịch sử hóa truyền thuyết, đã tạo dựng nên sức sống chủ đạo, xuyên suốt
của di tích, lễ hội. Từ những phân tích ở trên, có thể thấy lễ hội Bà Tơ là một
trường hợp điển hình.
Đáng tiếc là từ sau năm 1975 đến nay, bởi nhiều điểu kiện chi phối, đặc biệt là
quá trình vỡ ra của xã hội làng truyền thống, mà nghi lễ thờ cúng Bà Tơ bị giản
lược nhiêu, như thiếu vắng lễ hội đua trải trên sông Bồ và nhiểu nghi lễ, phẩm
vật thiết yếu khác. Lâu nay, bà con dân làng có nguyện vọng tha thiết muốn
được từng bước tổ chức lại không gian lễ nghi và quy trình truyền thống của
lễ hội đua trải tại miếu Bà Tơ nhưng chưa có điểu kiện. Khó khăn trước tiên,
chính là kinh phí, bởi nhiểu năm nay, bà con hai làng Bác Vọng Đông - Tây
đểu phải đóng góp kinh phí để ln phiên tập trung cho việc trùng tu, tái thiết
đình, chùa, miếu.
Ồng Ngơ Mễ, một bậc cao niên trong làng cho biết, từ trước đến nay, làng Bác
Vọng Đơng có lệ định vé việc ở từ cho ba thiết chế văn hóa truyền thống đặc
biệt quan trọng của làng, là đình làng, cơ đàn và miếu Bà Tơ. Hằng năm, làng
cử ba người/phiên đàn ông trung niên (từ 46 tuổi - 60 tuổi), mỗi người “ở từ”
tại m ột tự sở, với trách nhiệm quét tước dọn dẹp, hương khói trong những
ngày sóc, vọng, những ngày tế lễ.

Thông qua đối tượng khảo sát là những di tích, truyền tích, giai thoại có liên
quan, bằng phương pháp điền dã dân tộc học, nhăt là phịng vẫn người dân
địa phương, có sự bổ sung của phương pháp sừ học - thu thập dữ liệu thứ cấp,
chúng tơi m uốn nhấn m ạnh đến vai trị cũng như ý nghĩa biểu tượng của Bà
1

Trần Đình Hằng (2008), "Từ Cô Gái Áo Xanh ở Ấi Tử (Quảng Trị) đến Bà Trời Áo Đỏ ở Thiên
Mụ (Huế): Sinh lộ tư tưởng cùa vùng đất mới Nam hà", Kỷ yếu Hội thảo khoa học Chúa
Nguyễn và vương triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam thế kỷ XVI đến thế kỳ XIX, Thanh Hóa,
18-19/10, Nxb. Thế giới, Hà Nội, tr. 524 - 532. Xưa & Nay, số tháng 10;
Trần Đình Hằng (2012), "Hệ thống thẩn linh biển và vấn đề ý thức dân tộc, chủ nghĩa
quổc gia Việt Nam thống nhất: Nhìn từvản hóa miền Trung, miền Nam", Tham ỉuận tại
Hội thảo quốc tế Việt Nam học lẩn thứ IV: Việt Nam trên đường hội nhập và phát triển bền,
Viện Khoa học xã hội Việt Nam - Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 26-28/11/2012. ỉn lại
dưới tiêu đề"Hệ thống thần linh biển và vấn đề ý thức dân tộc: nhìn từ miền Trung - miền
Nam", Vân hóa học, số 4/2012, tr. 16-31.


204

I Lễ hội Bà Tơ ở vùng Huế..

Tơ và lễ hội cẩu ngư trong diễn trình phát triển của làng xã và vấn đề tư tưởng
ở Nam hà, thể hiện sự ủng hộ mạnh mẽ của cả “ý trời”, lẫn “lòng người”.
Đây cũng là một m inh chứng cho giả thiết nghiên cứu về dạng thức phổ biến
có liên quan đến người phụ nữ có cơng trong việc thành lập, xây dựng làng xã
trong thực hành đời sống tín ngưỡng làng xã miền Trung. Tất cả, được “thiêng
hóa *qua những giai thoại, chuyện kể bất thành văn; cũng có khi được “thành
vãn” trong một văn khắc ở đình, miếu, trong văn tế hoặc hương ước..., được
làng xã đưa vào quy chế thờ tự cộng đổng.

Vai trị thực tế vơ cùng to lớn của Bà Tơ, trong nguyên tắc “thiêng hóa” đó,
càng có khả năng làm tăng thêm hiệu lực thực hành tín ngưỡng và cả trong
cuộc sống thường nhật của cộng đổng. Do vậy, tơi nghĩ rằng, đó cũng là bài
học tham khảo thiết thực cho quá trình tái hiện lễ hội cẩu ngư làng Bác Vọng
Đơng nói riêng, lễ hội truyển thống hiện nay nói chung.
Tinh thần cốt lõi trong lịch sử văn hóa vùng đất Quảng Điền là sự tiếp cận
miền sông nước của các cộng đỗng làng xã, gắn liền quá trình “phá Tam Giang
ngày rày đã cạn” và sự chuyển dịch vai trò trung tâm từ vùng Sịa - Hóa châu
dẩn vào nam, nhường lại vai trị nổi bật đó cho vùng Kim Long - Phú Xuân
- Huế. Đặc biệt, nó gắn liễn chặt chẽ với sự hiện diện của các chúa Nguyễn
và vùng dinh phủ, trong vai trị xác lập một thế lực chính trị mới đương thời.
Tẩm vóc và ý nghĩa của lễ hội Bà Tơ, do đó, hồn tồn vượt ra khỏi phạm vi
làng xã nói riêng hay vùng sơng Bổ - Tam Giang nói chung, trở thành quốc lễ
thời phong kiến, mà đến nay, qua bao thăng trẩm, vẫn được nuôi dưỡng đậm
nét trong khơng gian văn hóa làng xã truyền thống.
Đã từ lâu, nghi thức cúng tế ở miếu Bà Tơ vẫn được người dân làng Bác Vọng
duy trì đểu đặn, nhưng rõ ràng là khơng đẵy đủ bởi cịn nhiểu khó khăn. Chỉ có
ở khu vực Hà Đơ, trong mơi trường sơng nước, lại có nhiểu điểu kiện thuận lợi
nhờ phát triển kinh tế thủy hải sản, nên việc thờ cúng Bà cùng nghi lễ, lễ hội cẩu
ngư vẫn được tổ chức thường niên, dù chỉ diễn ra trong phạm vi nội bộ làng xã.
Việc ƯBND huyện Quảng Điển tổ chức chương trình Sóng nước Tam Giang
năm 2012, trong đó có lễ hội Bà Tơ then chốt (tế lễ, đua thuyền) chính thức
khẳng định sự hỗ trợ của nhà nước vào đời sống lễ nghi của làng xã ở Bác
Vọng. Từ đây, cho thấy rõ nét những điểm tích cực lẫn hạn chế trong mối
quan hệ hỗ tương giữa yếu tố hành chính nhà nước và yếu tổ tự quản làng xã
truyền thống, có thể làm củng cố hoặc nguy cơ làm phương hại đến tính chất


Lề hội Bà Tơ ở vùng Huế...


I 205

cùa lễ hội Bà Tơ. Bằng cái nhìn lịch đại qua các nguổn tài liệu thành văn và
phương pháp quan sát tham dự, ghi nhận ý kiến cùa các thành phẩn dân cư
nơi đây, tơi muốn bài viết này góp phần nêu bật giá trị đặc trưng của lễ hội,
những thuận lợi và thách thức của một di sản văn hóa phi vật thể đặc biệt gắn
liến với thời kỳ Đàng Trong, trong bối cảnh hiện nay.
3. 2. N hu cầu phục h ồ i lễ hội truyền thống làng xã trong b ối cảnh
“Són g nước Tam G iang 2012” của U B N D huyện Q uảng Đ iền
Rút kinh nghiệm từ chương trình lễ hội Sóng nước Tam Giang lần I (2010),
thuần túy chỉ là một liên hoan ca múa nhạc tổng hợp, Ban Tổ chức của huyện
Quảng Điển đã kịp thời bổ khuyết tinh thẩn chủ đạo, tính chất lễ nghi trọng
tâm xuyên suốt này trong Sóng nước Tam Giang lẩn II (1.5.2012), theo vai trị
tư vấn chun mơn của Phân viện Văn hóa nghệ thuật Việt Nam tại Huế. Điểu
đó đã mang lại sức sống, sức cuỗn hút mạnh mẽ, đáp ứng như cẩu văn hóa tín
ngưỡng chính đáng của các cộng đổng cư dân dọc lưu vực sơng Bổ, phá Tam
Giang, góp phẩn đặc biệt quan trọng đưa đến thành công của lễ hội.
Điểm nhấn then chốt ở đây chính là UBND huyện Quảng Điển giao trách
nhiệm trực tiếp cho Phịng Văn hóa - Thơng tin, chú trọng tư vấn chuyên môn,
phối hợp với bà con dân làng Bác Vọng và các làng xả cận cư trong việc khảo
sát, nghiên cứu hổi cố, hổ trợ phẩm vật lễ tế Bà Tơ một cách đây đủ nhất, từ nghi
thức cúng tế, nghi lễ hát bả trạo, đua thuyễn, v.v. Tồn bộ quy trình tổ chức, nghi
thức tế tự, quyết định các phẩm vật dâng cúng... đểu thuộc sự điểu hành của ban
nghi lễ truyền thống làng Bác Vọng, mà huyện đặc biệt tôn trọng, không can
thiệp m ột cách trực tiếp, cụ thể. Nhờ đó, lễ hội đã kích thích, đáp ứng được lịng
mong mịi và nguyện vọng chính đáng của người dân địa phương, mang lại giá
trị văn hóa tín ngưỡng tâm linh cao cả, xut suốt chương trình lễ hội, tạo sự gắn
kết cộng đổng. Đặc biệt, nó đã trở thành trường hợp điển hình của sự can thiệp,
hổ trợ và phối hợp của chính quyền địa phương trong việc phục hổi một lẻ hội
độc đáo, hiếm hoi phát xuất và gắn liền với thời chúa Nguyễn, tín ngưỡng thờ

nữ thẩn, được văn hóa làng xã bảo lưu hàng trảm nảm nay.
3.3. Sự thay đ ổi trong m ô i trường, phương thức tổ chức quản lý với
vấn đê tính chất lễ hội
Việc phục hổi lễ hội Bà Tơ trở thành trục tâm linh chù đạo đã góp phần quyết
định mang lại sự thành cơng của Sóng nước Tam Giang năm 2012, đáp ứng


206 I Lể hội Bà Tơ ở vũng Huế..

nguyện vọng tha thiết, chính đáng của làng xã. Chính từ nỗ lực của chính
quyển các cấp, được kết hợp hài hịa với nhu cẩu và sự cố gắng khắc phục mọi
khó khăn của cộng đổng làng xã trong vùng là bài học kinh nghiệm quý báu,
thiết thực trong việc kế thừa và phát huy giá trị di sản văn hóa truyền thống
hiện nay. Đây là vấn đề then chốt, dẫn đến sự thay đổi trong môi trường lễ
hội, phương thức tổ chức quản lý, để rồi từ đó, dẫn đến việc quyết định tính
chất của lễ hội.
Từ trước đến nay, cho dù được tổ chức với quy mô, cấp độ nào, trong bối cảnh
kinh tế - xã hội nào đi nữa, thì lễ hội Bà Tơ truyền thống vẫn được các cộng
đông cư dân làng xã quanh vùng Bác Vọng chung tay tổ chức thường niên,
Từ sau năm 1975, phát xuất từ sự vỡ ra của xã hội truyền thống, vai trò của
cộng đổng làng xã và đặc biệt là các thiết chế văn hóa tín ngưỡng tâm linh ít
được coi trọng. Hơn nữa, gắn liền với q trình đó là sự lớn mạnh của hợp
tác xã và phong trào hợp tác hóa, làm cho nền tảng kinh tế vốn có của làng xã
truyền thống khơng cịn nữa, đặc biệt là các loại hoa lợi từ điển địa (tự điền,
đất hương hỏa). Cho nên, lễ hội Bà Tơ chỉ được duy trì khiêm tốn, giản đơn.
Sự phân rã các thiết chế làng xã truyền thống khó cho phép các cộng đổng làng
xã liên kết lại cùng tổ chức nghi lễ quy mơ như xưa.
*

Tính tự quản của cộng đổng cư dân làng xã truyền thống trong lễ tế Bà Tơ

là m ột thực tế xuyên suốt, gắn liền định chế làng xã truyền thống. Mọi thu
nhập của cộng đổng làng xã từ hoa lợi trong canh tác các loại tự điển, từ hoạt
động đánh bắt và quản lý các nguồn lợi thủy sản trên đẩm phá Tam Giang và
sông Bồ... giúp cho lễ tế Bà Tơ truyền thống thường niên được tổ chức quy
mơ, thiêng liêng, trang trọng, đúng tầm vóc của m ột vị nữ nhân thẩn có cơng
lao đặc biệt to lớn, hàm Quốc tỷ Thánh mẫu nương nương, Thượng đẳng thẩn.
C hính từ tính thiêng, quy mơ lớn mà lễ hội này đã thu hút được nhiều sự quan
tầm đóng góp, cúng dường của các thành phẩn con dân, trên nhiều phương
diện: tri thức, tinh thẩn lẫn vật chất... Đó chính là tiền thân, là nét tương đỗng
và cũng là bài học kinh nghiệm thiết thực cho vấn để xã hội hóa các hoạt động
văn hóa hiện naỵ, vốn còn nhiểu khoảng trống, sự bất hợp lý.
N hưng rõ ràng trong bối cảnh kinh tế - xã hội làng xã gặp nhiều khó khăn
như hiện nay, việc tổ chức lễ tế Bà Tơ với tính chất và quy mơ như xưa là rất
khó. Chính vì vậy, sự hỗ trợ gẩn như tồn bộ chi phí vật chất và cả việc phục
hổi m ột cách đầy đủ nhất những nghi thức theo đúng tập tục cổ truyền của
các cơ quan hành chính từ huyện đến xã, vơ hình trung, đã làm cho, đưa đến


Lễ hội Bà Tơ ở vùng Huế... I 207

cho cộng đổng làng xã m ột sự thụ động thái quá. Tính chất phong trào cùa
các hoạt động văn hóa lâu nay thường mang tính đồng nhất, nhất thể hóa, mà
thiếu đi sự tơn trọng những giá trị mang tính bản sắc đặc trưng của lễ hội, của
đời sống văn hóa làng xã truyển thống các địa phương. Ý tưởng ban đầu cịn
đưa cả chương trình hát bả trạo thờ cúng Cá Ông vào lễ tế Bà Tơ là m ột m inh
chứng, rất may đã có sự can thiệp kịp thời của các nhà nghiên cứu văn hóa
và nội dung này vẫn giữ nguyên nhưng được thay thế bằng những chủ để cẩu
quốc thái dân an, mưa thuận gió hịa... Sự hỗ trợ, giúp đỡ kịp thời của đội ngũ
cán bộ huyện, xã, thôn m ột cách hợp lý là rất cần thiết, song cũng cần chú ý
rằng sự can thiệp sâu rộng đến quá mức cẩn thiết, mang nặng tính chất hành

chính, là điểu cẩn cảnh tỉnh, có nguy cơ triệt tiêu đi mọi sự năng động, sáng
tạo và tri thức, phong tục tập quán vé lễ nghi cúng tế của cộng đồng cư dân
làng xã đã được bổi đắp, phát huy tự bao đời nay.
Do vậy, chúng tôi nhận thấy tù kinh nghiệm của lẩn hỗ trợ phục hổi nghi lễ
cúng tế Bà Tơ năm 2012, phải đặc biệt tôn trọng và phát huy tinh hoa, kinh
nghiệm tổ chức lễ hội truyền thống của cộng đổng cư dân làng xã, theo hướng
phục hồi, hổi cố để phát huy tối đa mọi giá trị tích cực và kịp thời hạn chế
những nét tiêu cực. Mọi sự hỗ trợ, đặc biệt là trên phương diện chun mơn và
kinh phí, phương tiện - trang thiết bị hữu hiệu của các cấp hành chính, là rất
cẩn thiết. Huyện hay xã thơn hành chính, khơng thể đứng ra đảm trách tồn
bộ quy trình tồ chức lễ hội, từ chuẩn bị cho tới lịch lễ nghi tế tự, phẩm vật dảng
cúng. Lễ tế Bà Tơ, dù trong hoàn cảnh nào, cũng phải đảm bảo chủ thể xuyên
suốt chính là cộng đổng cư dân làng xã Bác Vọng - Hà Đổ nói riêng và các
cộng đồng cư dân làng xã dọc lưu vực sông Bô và phá Tam Giang nói chung,
chứ khơng phải là UBND huyện Quảng Điển hay Phịng Văn hóa - Thơng tin
huyện, UBND xã Quảng Phú... Hành chính hóa lễ hội là điểu khơng cấn thiết
và hồn tồn phản tác dụng trong trường hợp này mà nếu không kịp thời
nhận ra và khắc phục, bài học kinh nghiệm từ íestival Huế, hay trong Lệ Bà
Thu Bồn ở Quảng Nam sẽ tái diễn: vấn để chủ thể và hành chính hóa lễ hội - sự
can thiệp cực đoan của các cơ quan hành chính.1
V

Kể từ sau chương trình Sóng nước Tam Giang năm 2012, lễ tế Bà Tơ và những
di sản văn hóa đặc trưng liên quan đã thu hút được sự quan tâm của chính
quyền địa phương các cấp, và đặc biệt là của bà con dân làng. Phịng Văn hóa

1

Trần Đình Hằng (2011), Lẻ hội Bà Thu Bồn (Quảng Nơm), Viện Văn hóa nghệ thuật Việt
Nam (đề tài NCKH), Hà Nội.



208 I Lễ hội Bà Tơ ở vùng Huế...

- Thông tin huyện Quảng Điền đã có tờ trình để nghị Sở Vãn hóa, Thể thao và
Du lịch Thừa Thiên - H uế xem xét lập hổ sơ công nhận miếu Bà Tơ trờ thành
di tích lịch sử cấp tỉnh, để có căn cứ pháp lý cho việc trùng tu, tơn tạo sau này.
Tuy nhiên, theo chúng tôi, việc lập hổ sơ di tích cấp tỉnh trong giai đoạn hiện
nay cần được tính tốn kỹ và trước mắt, có thể tập trung nghiên cứu, khảo
sát, lập hổ sơ di sản văn hóa phi vật thể đối với lễ hội Bà Tơ. Từ đó, làm cơ sở
pháp lý lẫn luận chứng, luận cứ khoa học cho việc trùng tu, tôn tạo di tích theo
nguyên trạng những thập niên 1930 (tài liệu thành văn, hình ảnh) mà chúng
tơi đã thu thập được. M ột khi di tích và lễ hội Bà Tơ chưa được cơng nhận,
trên phương diện hành chính, sẽ thiếu cơ sờ cho việc đẩu tư ngân sách trùng
tu, tôn tạo và phục hồi các giá trị lễ nghi truyền thống.
Cho nên, vấn để cẩn xem xét ở đây là phương thức xã hội hóa, kế thừa truyền
thống và hiện đại, để huy động mọi nguổn lực xã hội cho công tác cấp bách
này. Ở đó, mơ hình và phương thức tổ chức, điểu hành quản lý của làng xã
truyền thống cẩn được tôn trọng, phát huy ở mức cao nhất, đặc biệt là trên
phương diện tri thức dân gian và tính chủ động, phù hợp, hữu hiệu của nó. Lễ
tế Bà Tơ thường niên vẫn nên do cộng đồng làng xã truyền thống Bác Vọng
điểu hành, quản lý, có sự phối hợp hỗ trợ cùa các cấp chính quyền từ tỉnh,
huyện đến xã thôn, trên các phương diện như tư vấn định hướng, đâu tư cơ
sở vật chất hạ tầng, trang thiết bị, an ninh trật tự, kinh phí... Mọi sự đồi mới
hay cải tiến, cẩn được xem xét cẩn trọng từ nhiểu phía: các nhà quản lý, các
nhà nghiên cứu, và đặc biệt là từ chính ý kiến đổng thuận của Ban Nghi lễ,
Hội đổng làng và đại diện dân làng. Có như vậy, di sản lễ hội truyền thống
cộng đơng mới có cơ hội được kích thích, khơi gợi và khẳng định lòng tự hào,
ý thức bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa địa phương. Đó là tiền để cơ sở,
hữu hiệu cho vấn để xã hội hóa.


4. Thay lời kết luận: vấn đề đặt ra
Vượt qua bao thăng trầm nghiệt ngã của thiên tai, địch họa, đặc biệt là sự triệt
tiêu giữa các triểu đại chúa Nguyễn - Tây Sơn - Nguyễn..., Bà Tơ vẫn sống mãi
vói cộng đổng CƯ dân Bác Vọng, với cả các cộng đồng làng dọc lưu vực sơng
Bổ. Có được điểu đó chính là nhờ sự ni dưỡng, trao truyền m ạnh mẽ của
vản hóa làng xã suổt chiéu dài lịch sử. Khái niệm xã hội hóa các hoạt động văn
hóa hiện nay, thực ra nội dung hồn tồn không mới, rõ nét như trường hợp
lẻ hội Bà Tơ. Sức sống chính cùa lễ hội Bà Tơ trong mơi trường văn hóa làng
xã truyển thống chính là ở chất thiêng được cấu thành từ nguyên tắc thiêng


Lễ hội fìà Tơ ở vừng Huế... I 209

hóa trên nén tảng cốt lõi truyền thuyết hóa lịch sử từ sự tích Bà Tơ và q trình
thực hành nghi lễ, lễ hội Bà Tơ.
Một vùng đất mới, hay thuở ban sơ của mọi quốc gia, dân tộc, thưởng được
mở đẩu bằng huyền thoại và huyển tích. Ở đó, “những sự thực lịch sử bị khuất
lấp toàn phần hay từng phẩn trong khói sương, khi dày đặc, khi tản loang, của
những câu chuyện huyển hoặc, thần kỳ... đó là số phận chung của buổi bình
m inh lịch sử lồi người khi màn đêm tiển sừ đang dần tan nhưng hiện thực
thân xác cùa con người tỏ mờ trong làn sương sớm...”.1Hay nói m ột cách cụ
thể hơn, “huyền thoại phủ lên những di tích và danh thắng”.2
Ở đây, mọi câu chuyện lại gẩn như có liên quan đến một vấn để học thuật
quan trọng, đặc biệt hữu ích cho việc nghiên cứu văn hóa tín ngưỡng - ma
thuật ở miền Trung Việt Nam: ma thuật và kinh nghiệm. Theo đó, một khi
con người cảm thấy căng thẳng hay bất lực trước m ột sự vật, hiện tượng thì sẽ
cần đến những tác động có vẻ càng siêu nhiên càng tốt, những lớp áo huyền
hoặc, u linh, kỳ bí..., tất cả nhằm tạo niềm tin và hiệu quả một cách thiết thực.
Đó chính là mơi trường và nhu cẩu trực tiếp, chính đáng nhất cho sự ra đời

của m ột hiện tượng khá phổ quát: thẩn thoại đương thời của ma thuật.
Nhờ đó, các vị thẩn “hiển linh” thơng qua những vịng hào quang được tạo
nên bằng những câu chuyện kỳ bí, huyển diệu, có thể là những bài thuốc chữa
bệnh hiệu nghiệm đến tuyệt vời, hay gây nên những chết chóc... Cho nên, có
thể nói: “Thẩn thoại khơng phải là m ột sản phẩm chết của những thời đại
đã qua, đơn thuẩn chỉ tồn tại như m ột câu chuyện vu vơ. Nó là nguồn sống,
thường xuyên sản sinh ra các hiện tượng mới, thường xuyên bao trùm ma
thuật bằng những lời chứng mới. Ma thuật hoạt động trong vinh quang của
trun thống đã qua, nhưng nó cũng tạo ra khơng khí của thẩn thoại ln
ln phát triển... Thẩn thoại là lời tun bổ có tính lịch sử của một trong
những sự kiện từng đảm bảo cho sự thật của m ột loại hình nhẩt định của ma
thuật... Mối quan hệ sâu sắc giữa thẩn thoại và cúng tế, chức năng thực tế của
thẩn thoại trong việc củng cố niêm tin đã ln bị bị sót...”.3

1

Trần Quốc Vượng (1993), Trong cõi, Caliíornia.: Trăm Hoa xb, bản điện tử 150 trang, tr. 23.

2

Trẩn

3

Malinovvski. B (2006), "Ma thuật, khoa học và tôn giáo", trong Những vấn đề nhân học tôn

Quốc Vượng (1996), "Đất Tổ: huyén thoại và lịch sử", trong Theo dòng lịch sử, những
vùng đất, thân và tâm thức Việt, Nxb. Văn hóa, Hà Nội, tr.l 4.

giáo, Tạp chí Xưa & Nay - Nxb. Đà Nằng, Hà Nội - Đà Nẵng, tr. 206 - 207.



210 I L ễ hội Bà Tơ ở vùng Huề'..

Hành chính hóa lễ hội ln gắn liền sự phân bổ ngân sách nhà nước cho lễ
hội, là những “quả ngọt” mà dưới góc nhìn tiêu cực, “quan lại” hành chính
thường hướng đến, chứ hồn tồn khơng phải là mục tiêu của cộng đông cù
dân làng xã, vốn là chù thể cùa lễ hội, ln bị chi phối bởi tính thiêng, với khái
vọng dân an vật phú. Bảo tổn và phát huy giá trị của di tích hay lễ hội truyền
thống cần kết hợp hài hịa cái nhìn bên trong lẫn cái nhìn bên ngồi. Mọi sự
can thiệp mang tính áp đặt cực đoan, thơ thiển tù bên ngồi sẽ mang lại một
cuộc “hôn phối” bất đắc dĩ, với nhiểu hậu quả nhãn tiền lẫn dài lâu. Các vụ
việc xung quanh vấn để ]ễ hội Đọi Sơn, Lảnh Giang hay Bình Đà ở miền Bắc
vừa qua đã dấy nên nhiều tranh luận gay gắt, suy cho cùng, chính là phát xuấĩ
từ vấn để này. Đã đến lúc các nhà quản lý hành chính, nghiên cứu, bảo tón,
phát huy giá trị di sản văn hóa cần tĩnh tâm nhìn nhận, đánh giá thực trạng
một cách xác thực, không quá chú trọng đến hình thức, số lượng... để có thế
đưa ra giải pháp, phương thức và lộ trình phù hợp đối với từng di tích, lễ hội.
Do vậy, vấn đề đặt ra hiện nay là cẩn ưu tiên chú ý đến môi trường ni dưỡng
những giá trị lịch sử và tính thiêng đặc trưng trong lễ hội Bà Tơ. Sự tác động
qua lại giữa các yếu tố tự quản làng xă truyền thống và yếu tố hành chính, từ
xã đến huyện, tỉnh, trong những hoàn cảnh cụ thể, là một thực tế. Lập hổ sơ di
tích văn hóa vật thể lẫn phi vật thể là cẩn thiết, nhưng cẫn phân định rõ tinh
thẩn chù đạo xuyên suốt để tính chất của lễ hội Bà Tơ vẫn được bảo đảm hệ
giá trị văn hóa làng xã truyền thống và phù hợp với bối cảnh xã hội hiện nay,
với ý nghĩa nhân văn cao cả của cả cộng đổng, chứ hồn tồn khơng phải là
“quả ngọt” của một vài cá nhân, nhóm người.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
•í


Cadière, Léopold (1905), “Monuments et souvenirs chams du Quảng Trị et du Tkừa
Thiên”, B.E.F.E.Oị tập V, sổ 1 - 2, pp.185 - 195.
Chapuis. A (1932) “Les lieux de culte du village de Bac-Vong-Dong”, BA. V. Hy số 4,
tr.371 - 410.
Lê Đình Hùng (2005), “Dấu ấn nữ thẩn trên bước đường Nam tiến cùa Tiên ciúa
Nguyễn Hồng”, trong Thơng tin Khoa học, Phân viện Nghiên cứu VHTT tại Huế số
tháng 9, tr.36 - 45.
Lê Nguyễn Lưu (1995), “S.ự tích miếu Bà Tơ ở làng Bác Vọng Đông và các lễ hội Lên
quan”, trong Nhiểu tác giả (1995), Từ Huế... đến Quảng: Huế - đẹp thơ, ngàn năn di
sản, Nxb. Đà Nảng, Đà Nảng, tr.103 - 109.


Lể hội Bà T ơ ở vùng H uế...

I 211

Lê Q Đơn (1977), Tồn tập, tập 1, Phủ biên tạp lục, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
Malincnvski. B (2006), “Ma thuật, khoa học và tôn giáo”, trong Những vấn để nhãn học
tơn giáoy Tạp chí Xưa Nay - Nxb. Đà Nẵng, Hà Nội - Đà Nẵng.
Nguyễn Hữu Thông chủ biên, Trần Đình Hằng, Lê Anh Tuấn (2007), M ạch sống của

hương ước trong làng Việt Trung Bộ: dằn liệu từ các làng ở Quảng Bình, Quảng Trị và
Thừa Thiên, Nxb. Thuận Hóa, Huế.
Nguyễn Thế Anh (1995), “The Vietnamization of the Cham Deitỵ Po Nagar”, in
Essays into Vietnamese Pastsy K.w. Taylor and John K. Whitmore, biên tập, Cornell
Ưniversity Press, Ithaca (New York).
Nguyễn Thế Anh (2005), “Thiên Y A Na hay sự tiếp nhận nữ thẩn Po Nagar của các
triều đại Nho giáo Việt Nam ”, Xưa & Nay, số 4 (233), tr. 29 - 33.
Phịng Văn hóa - Thơng tin huyện Quảng Điển (2011), Kịch bản phục hổi lễ tế Bà

Tơ trong khơng gian chương trình Sóng nước Tam Giang nàm 2012 của huyện Quảng
Điên.
Quốc sử quán triều Nguyễn (1972), Quốc triều chánh biên tốt yếu, Nhóm Nghiến cứu
Sử Địa Việt Nam, Sài Gòn.
Quốc sử quán triều Nguyễn (1997), Đại Nam liệt truyện, tập 1, Tiển biên, Nxb. Thuận
Hóa, Huế.
Quốc sử quán triều Nguyễn (1997), Đại Nam nhất thống chú Nxb. Thuận Hóa, Huế.
Quốc sử quán triều Nguyễn (2002), Đại Nam thực lục, tập 1, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
Quốc sử quán triều Nguyễn (2003), Đổng Khánh địa dư chí, Hội Sử học Việt Nam, Viện
Viễn Đông bác cổ Pháp, Trường Cao học Thực hành Pháp - Nxb. Thế giới, Hà Nội.
Salemink, Oscar (2012), “Appropriating Culture: The politics of intangible cultural
heritage in Vietnam” (Chiếm đoạt văn hóa: chính trị cùa di sản văn hóa phi vật thể
tại Việt Nam), trong H-T Ho Tai & M Sidel biên tập, State, Society and the Market in
Contemporary Vietnam: Property, Power and Values. Routledge (Nhà nước, xã hội và
thị trường ở Việt Nam đương đại), Oxon, o x , ƯK, tr. 158-180.
Salemink, Oscar (2012), “‘Di sản hóa vàn hóa ở Việt Nam: di sản văn hóa phi vật thể
giữa các cộng đổng, nhà nước và thị trường”, Tóm tắt kỷ yếu Hội thảo Quốc tế Việt
Nam học lẩn thứ IV: Việt Nam trên đường hội nhập và phát triển bển vững, Viện Khoa
học xã hội Việt Nam - Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 26-28/11/2012, tr. 243-267.
Bản tiếng Anh “The ‘heritagization of culture in vietnam: intangible culturale heritage
betw een co m m u n ities, State a n d m ark et”, tr. 268-291.

Tơn Thất Bình (1988), Lể hội dân gian Bình Trị Thiên, Sở VHTT Bình Trị Thiên xb, Huế.


212 I Lễ hội Bà Tơ ở vùng H u ế...

Tơn Thất Bình (1997), Huế - lễ hội dân gian>Hội Vàn nghệ dân gian Thừa Thiên - Huế
xb, Huế.
Trần Đại Vinh (1995), Tín ngưỡng dân gian H] Nxb. Thuận Hóa» Huế.

Trẩn Đình Hằng (2004), “Sự tích miếu Bà Tơ và lễ hội cầu ngư ở làng Bác Vọng
Đông”, trong Thông báo văn hóa dân gian, Viện Nghiến cứu văn hóa, Nxb. Khoa học
xã hội.
Trẩn Đình Hằng (2004), “Khơng gian và mồi quan hệ làng - xã qua khảo sát một só
trường hợp ở miền Trung”, tham luận tại Hội thảo quốc tế Việt Nam học lần thứ 77,
Tp. Hổ Chí Minh, 14-16/7.
Trần Đình Hằng (2005), “Nữ ân nhân của chúa Nguyễn Hồng trến phá Tam Giang
hói thế ký XVI”, Tạp chí Kiến thức ngày nay, số 519, ngày 10/01.
Trần Đình Hằng (2008), “Từ Cô Gái Áo Xanh ở Ái Tử (Quảng Trị) đến Bà Trời Áo Đỏ
ở Thiên Mụ (Huế): Sinh lộ tư tưởng của vùng đất mới Nam hà”, Kỷ yếu Hội thảo khoa
học Chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam thế kỷ XVI đến thể kỷ
XIX, Thanh Hóa, 18-19/10. Nxb. Thế giới, Hà Nội, tr. 524 - 532, Xưa Nay, số tháng 10.
Trần Đình Hằng (2009), “Cơ sở tiếp cận văn hóa làng Việt miễn Trung: nhìn từ làng
xã vùng Huế”, trong Nhận thức về miên Trung Việt Nam: hành trình 10 năm tiếp cận,
Phân viện Văn hóa nghệ thuật Việt Nam tại Huế, Nxb. Thuận Hóa, tr. 51-98.
Trần Đình Hằng (2009), “Của Người, Của Ta: Thần điện làng Việt miền Trung”, Hội
thảo khoa học Văn hóa nghệ thuật miên Trung - Hành trình 10 năm tiếp cận, Phân
viện Văn hóa nghệ thuật Việt Nam tại Huế.
Trẩn Đình Hằng (2010), “Người Việt đi vể phương Nam: Truyền thuyết mở cõi thời
Đàng Trong buổi đẵu ở vùng Huế (trường hợp sự tích Bà Tơ)”, tham luận tại Hội thảo
khoa học quốc tế Văn hóa trong thể giới hội nhập, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội,
ngày 25/11/2010, Nxb. Văn hóa - Thơng tin, Hà Nội.
Trấn Đình Hằng (2011), Lễ hội Bà Thu Bồn (Quảng Nam), Viện Văn hóa Nghệ thuật
Việt Nam (để tài NCKH), Hà Nội.
Trần Đình Hằng (2011), “Dấu ấn ‘Việt* trên vùng đất mới: trường hợp lẻ hội Phù
Quận công Lương Văn Chánh”, tham luận tại Hội thảo khoa học quốc tế Di sản văn
hóa Nam Trung Bộ với sự phát triển du lịch trong hội nhập quốc tê] Bộ VH-TT&DL ƯBND tỉnh Phu Yên xb, Phú Yên.
Trần Đình Hằng (2012), “Hệ thống thẩn linh biển và vấn để ý thức dân tộc, chủ
nghĩa quốc gia Việt Nam thống nhất: Nhìn từ văn hóa miền Trung, miền Nam”, tham
luận tại Hội thảo quốc tế Việt Nam học iắn thứ IV: Việt Nam trên đường hội nhập và

phát triển bền vững, Viện Khoa học xã hội Việt Nam - Đại học Quốc gia Hà Nội, 26-


Lễ hội Bà Tơ ở vùny Ị Ị uế...

I 213

28/1 ỉ /2012. In lại dưới liêu để “Hệ thống thần linh biển và vấn đề ý thức dân tộc: nhìn
lù m iến T ru n g - m iên N am ”, Văn hóa họCy số 4/2012, tr. 16-3].

Trăn Đình Hằng (2013), “Phá Tam Giang ngày rày đã cạn: Sự thích ứng đa tình huống

của cộng đổng cư dân làng xã vùng Huế”, trong Bảo tàng và di sản văn hóa trong bối
cảnh biển đổi khí hậu (Kỷ yếu hội thảo quốc tế, Huế, 11 - 12/6/2012), Bảo tàng Dấn
tộc học Việt Nam - Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà
Nội, 2013, tr. 274-289.
Trân Quốc Vượng (1993),

Trorỉg

cõi, Trăm Hoa xb, Caliíornia, bản điện tử 150 trang.

Trần Quốc Vượng (1996), “Đất Tổ: huyền thoại và lịch sử”, trong Tlĩeo dòng lịch sử,
những vũnị đất, thần và tâm thức Việt, Nxb. Vản hóa, Hà Nội.
Vơ danh thị (1961), Ô châu cận ỉục, Dương Văn An nhuận sắc, tập thành, Bùi Lương
phiên d ịch, V ã n hóa Ả châu xuất bản, Sài Gịn.


BẢO TƠN VÀ QUẢN LÝ DI TÍCH CHĂM-PA
Ở MIỀN TRUNG VIỆT NAM:

NGHIÊN CỨU MẪU TẠI THẢNH ĐỊA MỸ SƠN ■
MỘT DI SẢN VĂN HÓA THẾ GIỚI

Trần Kỳ Phương

Mỹ Sơn là một trong những quẩn thể di tích kiến trúc tơn giáo quy mô và
quan trọng nhất của nghệ thuật Chăm-pa1tại miên Trung Việt Nam; những
đến-tháp Ấn giáo của Mỹ Sơn, gổm khoảng 70 cơng trình được xây dựng liên
tục trong vịng chín thế kỷ, từ cuối thế kỳ IV hay đầu thế kỷ V cho đến thế kỷ
XIII. Bài viết này trình bày m ột số vấn đề bao gổm lịch sử nghệ thuật, công tác
bảo quản và cảnh quan văn hóa Mỹ Sơn trong khn khồ quản lý tài ngun
vấn hóa (cultural resource management/CRM).

Di tích lịch sử - kiến trúc Mỹ Sơn
Thánh địa Mỹ Sơn thuộc làng Mỹ Sơn, xã Duy Phú, huyện Duy Xuyên, tỉnh
Quảng Nam, ở vị trí 15°3r vĩ Bắc và 108°34’ kinh Đơng, cách thành phố Đà
Nẵng khoảng 70 cây số vé hướng tây - nam và khu phõ cổ Hội An khoảng 50
cây số về hướng tây; được m ột tốn lính người Pháp thời thuộc địa tái phát
hiện vào năm 1885. Mười năm sau, Camille Paris2 cho phát quang phế tích

1

Trong bài viết này, chúng tôi dùng thuật ngữ Chàm và Chảm-pa để chỉ vương quốc cổ
Chăm-pa, cịn

từ Châm

để chỉ cho văn hóa, ngơn ngữ... của cộng đóng dân tộc Chăm

hiện nay ở phía nam mién Trung cùa Việt Nam.

2

Mất năm 1898, nhà SƯU tập, nhà thám hiểm kiêm nhà khảo cổ học n g h iệp dư người
Pháp, đồng thời là chủ một đồn điền ở làng Phong Lệ, huyện Hòa Vang, tỉnh Quảng Nam
nơi ơng phát hiện nhiều di tích kiến trúc Chàm; Paris cũng là người đâ tham gia vào việc
thiết kế, quy hoạch và xây dựng hệ thống điện tín dọc theo duyên hải xứ An Nam (miền
Trung Việt Nam ngày nay) trong thập niên 1880 (Southworth 2000:47).


216 I Bảo tơn và quản lý d i tích Chàm-pa ở miền Trung.

này; đến năm 1896 và 1899, Louis Pinot1và Etienne Lunet de Lajonquière2 đã
nghiên cứu những văn khắc được phát hiện tại Mỹ Sơn.
Vào những năm 1901-1902, Henri Parmentier3khởi sự nghiên cứu nghệ thuật
tại đây; và đến năm 1903-1904, cùng với Charles Carpeaux4, ông tiến hành các
cuộc khai quật khảo cổ học ở Mỹ Sơn (Art Absolument 2005: 28-33). Các hoạt
động khoa học này được đẩy mạnh đến cao trào vào năm 1904, khi những
cơng trình của Finot và Parmentier được cơng bố trên tạp chí của Trường
Viễn Đỏng bác cổ (BEFEO) thể hiện những nỗ lực của họ trong việc dịch
thuật văn khắc và nghiên cứu các cơng trình nghệ thuật Chăm-pa của Mỹ Sơn
(BEFEO 1904: 805-977).
Do giá trị quan trọng về lịch sử và kiến trúc của di tích này, Mỹ Sơn được tổ
chức UNESCO cơng nhận là Di sản văn hóa thế giới vào tháng 12 năm 1999.
Hai tiêu chí trình bày dưới đây minh chứng cho quyết định của UNESCO về
việc công nhận Mỹ Sơn là Di sản Văn hóa Thế giới:
- Thánh địa Mỹ Sơn là một khuôn mấu ngoại lệ của sự tương quan chuyển đổi
văn hóa, với việc giới thiệu nền kiến trúc Ấn giáo của đại lục Ấn Độ vào vùng
Đông Nam Á;
- Vương quốc Chăm-pa là một hiện tượng quan trọng trong lịch sử chính trị
và văn hóa của Đông Nam Á, được minh họa sinh động bởi phế tích Mỹ Sơn

(UNESCO 1999a).
1

Louis Finot (1864-1935) là nhà bi ký học và sử học thuộc Trường Viễn Đông bác cổ Pháp
(EFEO) tại Hà Nội. Cơng trình của ơng gốm: La religion des Chơms d'ơprès lé monuments
(1901) and Noté d'épigraphie indochinoise: Les inscriptions de Mi Son (1904) (Goloubevv
1935:515-38).

2

Etienne Lunet de Lajonquière (1861-1933) là nhà khảo cổ học thuộc Trường Viễn Đông
bác cổ Pháp, nghiên cứu những di tích Khmer vào những thập niên đẩu của thế ký XX.
Cơng trình của ơng về nghệ thuặt Chàm và Khmer bao gồm: Atlos ơrchaeologịque de
rindochine: Monuments du Châm-pa etdu Combodge (1901) and Inventaire descriptifdes
monuments du Cơmbodge (3 vols: 1902,1907 and 1911) (Parmentier 1933:1147-51).

3

Henri Parmentier (1870-1949) là kiến trúc sư, nhà khảo cổ học và lịch sử nghệ thuật
thuộc Trường Viễn Đỏng bác cổ Pháp. Cơng trình của ơng về nghệ thuật Chàm góm:
Inventaire descriptií des monuments Cams de 1'Annam (2 vols: 1909 and 1918) và Le
Sculptures chames au Musée de Tourone (1922) {Baptiste 2009:14-25).

4

Charles Carpeaux (1870-1904) là nhà khảo cổ học và nhiếp ảnh người Pháp, làm việc tại
Trường Viễn Đông bác cổ vào những nảm 1901-1904 (Baptiste 2009:14-25).


Bào tốn và quản lý di tích Chăm -pa ở miền Trung... I 217


Q uần thể đến-tháp Mỹ Sơn bao gổm m ột phức hợp đa dạng các phong
cách kiến trúc và kiểu thức trang trí độc đáo; nó biểu hiện những giá trị
truyền thống vế công nghệ xây dựng bằng gạch, đã đạt đến mức độ hoàn
hảo trải qua nhiều thế ký được áp dụng và cải tiến. Mặc dù người Chàm
(urang Campà) khơng xây dựng những cơng trình bằng đá quy mô đồ sộ
như Angkor ở C am -pu-chia hay các đền đài Ấn giáo - Phật giáo (H indu Buđdhist) ở miền Trung Java (Indonesia), nhưng các cơng trình kiến trúc
bằng gạch của họ lại phản ánh cảm quan thầm mỹ tinh tế và tài năng khéo
léo cùa những nghệ nhân Chăm -pa qua nhiểu thế hệ. N hững nghệ nhân
này đã kết hợp kỹ thuật xây dựng hồn hảo với phẩm tính tồn bích cùa
nghệ thuật kiến trúc để tạo nên vẻ đẹp trang nghiêm lộng lẫy cho các đểntháp gạch của Mỹ Sơn.
Bi ký xưa nhẵt ở thánh địa Mỹ Sơn do đức vua Bhadravarman tạo dựng
(vua Phạm Hổ Đạt trong sừ liệu Việt Nam hay Fan H u-ta trong sử liệu
Trung H oa1) vào những năm 380-413 Công nguyên (Đào Duy Anh 1957:
128). Bi ký ghi nhận rằng vị vua này cho xây dựng m ột ngôi đền để thờ thẩn
Bhadresvara và xác nhận m ột vùng đất được tuyển chọn để xây dựng thánh
địa hồng gia.
Bi ký này cũng nêu bật các tín ngưỡng Chăm-pa cổ, đặc biệt các hòn núi là
nơi ngự trị của thẫn linh. Điểu này được thể hiện qua việc thánh hóa ngọn
núi thiêng nằm ở phía nam thung lũng Mỹ Sơn bằng danh xưng Mahaparvata (Đại Sơn Thẩn) (Golzio 2004: 2-4; Bia C.72). Ngày nay, dân địa phương

1

Thảo luận về mối liên hệ giữa danh hiệu của đức vua Bhadravarman được đế cập lẩn
đẩu trong vàn bia Mỹ Sơn C.72 và danh hiệu Fan Hu-da hoặc Phạm Hồ Đ ạt trong sử sách
Trung Hoa và Việt Nam, chúng ta có thể dựa vào trích dẫn sau đây của Charles Higham:

“Christie đỡ cân nhổc việc trích dân danh hiệu này (Bhơdrovơrman), ông ghi chú rồng theo
sử liệu Trung Hoơ vào thế kỷ VI, đó là sách Thủy Kinh Chú, ở cửa đông của kinh đô Làm Ấp
dỗn vào một con đường thống mở bên cạnh đó có đặt một tấm bi ký mong tên Hu Da [Hổ

Đợt]. ồng đỏ giả định đây là Trung Hoa hóa tiếng Chàm hudơh, nghĩa là rực rỡ. Phục nguyên
tiếng Phọn là Bhodrơ" (Higham 1989: 300). Tấm bi ký theo khảo tả của Thủy Kinh Chú
có khả năng là bia Hịn Cục/Hịn Cụp (Gozio 2004: 5; Bia C.147); Parm entier 1918: 387;
Zolese 2009:197-98). Hiện nay, vào mùa khơ khoảng tháng 7-8, ta vẫn có thể nhìn thấy
tấm bia này có hai giịng chữ lớn được khắc trên một kè đá sát bờ sông Thu Bổn, ở phía
nam chân cẩu đường sắt Chiêm Sơn, cáchTrà Kiệu 4,5 km về phía tâỵ-bắc và cách Mỹ Sơn
11 km vé phía đỏng-bắc, nay thuộc làng Chiêm Sơn Tây, xã Duy Trinh, huyện Duy Xuyên,
tỉnh Quảng Nam, ở tọa độ N15°49.900 và E108°11.800.


218 I Bảo tốn và quản lý di tích Chãm-pa ở miền Trung.

gọi nó là núi Răng Mèo hay Hịn Quắp. Ngọn núi thiêng này được xem là
m ột dấu m ốc để định vị tiểu quốc Amaravati của vương quốc C hảm -pa
tọa lạc trên con đường hải thương nối liển hai miển Nam Á và Đơng Á; nó
được chiêm ngưỡng từ xa dọc theo duyên hải cùa vùng Đà Nẵng và Q uảng
N am ngày nay nơi từng có hai cửa biển quan trọng là Cửa Hàn và Cửa Đại.
Ngôi đển đầu tiên của vua Chăm-pa Bhadravarman được dựng bằng gổ, thờ
linga hoàng gia của thần Bhadresvara - đấng bảo hộ vương quốc Chăm-pa.
Tín ngưỡng thần Bhadresvara - đấng biểu hiện quyển năng nhất của thẩn Siva,
đã được thờ phượng tại những ngôi đền dựng ven biển ở miền Đông Ấn Độ
từ những thế kỷ đầu Công nguyên; và được phổ biến đến vùng Đông N am Á
đương thời (Sahai 2009: 81-2).1
Ngôi đền của vua Bhadravarman dựng tại Mỹ Sơn được xem là m ột trong
những ngôi đển thờ Bharesvara sớm nhất ở Đơng Nam Á, có niên đại cuối thế
kỷ IV hoặc đẩu thế kỷ V Công nguyên.
Mỹ Sơn là m ột thung lũng hẹp, biệt lập, thấm nghiêm, đường kính khoảng
hai ki-lơ-m ét, bao quanh bời các dãy núi cao. Một con suối khởi nguồn từ
ngọn núi thiêng Mahaparvata chảy vể hướng bắc ngang qua thánh địa và kết
thúc ở giịng sơng thiêng M ahanadi hay sơng Thu Bổn (Golzio 2004: 4-5; Bia

C.147).

1

Tác giả đã có dịp đi khảo sát cùng với GS. Sachchidanand Sahai đến một ngôi đền nhỏ
thờ thẩn Bhadresvara tên là Sri Vira Bhadresvara tại Holi Gate, Mathura, Ấn Độ, vào ngày
27/4/2014. Ngôi đển này thờ linga và những hình tượng thuộc đạo íiv a ite như nữ thẩn
Parvati, Ganeốa, V.V.; nó được dựng cách nay khoảng 400 nảm, hiện được quản lý và điéu
hành bởi gia đình ơng Ramakant. Ngồi ra, GS. Sahai cũng cho biết rằng tín ngưỡng
Bhadresvara rất phổ biến ở Campuchia vào thời Tiền-Angkor và Angkor, đặc biệt, tại đển
Preah Vihear dựng trên núi Dangrek vào thế kỷ 11 (xem thêm , Sahai 2009: 62-3). ông
cũng lưu ý rằng, thoạt kỳ thùy, tín ngưỡng Bharesvara đã thực hành nghi lễ hiến sinh
nhân m ạng, điểu này được nếu lên trong một minh văn Chăm-pa tìm thấy tại Chợ Dinh,
thành phổ Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên, vào thế kỷ 4 (trao đói cá nhân với GS. Sahai tại Hội nghị
quốc tế "The Cham Art Heritage of Vietnam: Ecological, Cultural and Art Historical Traditions", tổ chức tại Indira Gandhỉ National Center for the Arts, New Delhi, 25-26/4/2014;
tham khảo, Majumdar 1985: III, 3-4).


×