DI SẢN VĂN HÓA
TRONG XÃ HỘI
> VIỆT
■ NAM ĐƯƠNG ĐẠI
■
CƯLTURAL HERITAGE
IN VIETNAM CONTEMPORARY SOCIETY
Tủ sách Khoa học xã hội
Chuyên khảo vê' Di sản văn hóa
Do Viện Harvard Yenching tài trợ
Social Sciences Book Series
Monograph on Cultural Heritage
Supported by the Harvard Yenching Institute
NHIÊU TÁC GIẢ
DI SẢN VĂN HÓA
TRONG XÃ HỘI VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI
■
■
a
■
CULTƯRAL HERITAGE
IN V.IETNAM CONTEMPORARY SOCIETY
TỔ chức bản thảo
Lê Hổng Lý
Nguyễn Thị Phương Châm
Editors
Le Hong Ly
Nguyen Thi Phuong Cham
NHÀ XUẤT BẢN TRI THỨC
BẢNG CHỮ VIẾT TẮT
BQL
Ban Quản lý
CLB
Câu lạc bộ
CNH
Cơng nghiệp hóa
DSVHPVT
Di sản văn hóa phi vật thể
ĐBSCL
Đồng bằng sơng Cửu Long
HĐH
Hiện đại hóa
HĐND
Hội đổng Nhân dân
KHXH
Khoa học xã hội
Nxb.
Nhà xuất bản
QLDT
Quản lý di tích
xb
xuất bản
Tp.
Thành phố
TTQL
Trung tâm quản lý
UBMTTQVN
ủ y ban Mặt trận tổ quốc Việt Nam
UBND
ủ y ban Nhân dân
UNESCO
Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa
của Liên Hợp Quốc
VHTT
Văn hóa thơng tin
VHTT&DL
Vản hóa, Thể thao và Du lịch
MỤC LỤC
■
■
Lời mở
1. Lê Hổng Lý, Nguyễn Thị Hiên, Đào Thê Đức, Hoàng Cấm
7
11
Bảo tổn và phát huy di sản văn hóa trong q trình hiện đại hóa:
Nghiên cứu trường hợp tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương (Phú
Thọ), hội Gióng (Hà Nội), thấp Bà Poh Nagar (Khánh Hịa) và văn
hóa cồng chiêng cùa người Lạch (Lâm Đổng)
2. Đoàn Thị Tuyến
Sự hổi sinh của nghi lễ Then và vấn để bảo tổn văn hóa tộc người
81
trong xã hội Việt Nam hiện đại
3. Trần Thị Thủy
101
Khôi phục và phát huy truyền thống tự quản, cố kết cộng đồng
trong việc bảo vệ di sản văn hóa (Nghiên cứu trường hợp đến
Bà Chúa Kho)
4. Phan Thuận Thảo
135
Nhã nhạc trong bổi cảnh mới: nghiên cứu vễ sự chuyển đổi chức
năng từ âm nhạc nghi lễ sang âm nhạc thế tục
5. Huỳnh Thị Anh Vân
155
Lễ tế giao ở Huế: Phục dựng nghi lễ và tái tạo niềm tin
6. Trần Đình Hằng
Lễ hội Bà Tơ ở vùng Huế: Giá trị lịch sử và quá trình tái hiện
193
215
7. Trần Kỳ Phương
Bảo tổn và quản lý di tích Chăm-pa ở miền Trung Việt Nam: Nghiên
cứu mẫu tại Thánh địa Mỹ Sơn - một di sản văn hóa thế giới
8. lâm Nhân
254
Chợ nổi Cái Bè - nhìn từ góc độ di sản
9. Nguyễn Ngọc Thơ, Trịnh Xuân Tuyết
Tín ngưỡng Thiên Hậu ở Nam Bộ - Hiện trạng và đặc trưng
273
CONTENTS
Forword
1. Le Hong Ly, Nguyen Thi Hien, Dao The Duc, Hoang Cam
7
]1
Safeguarding and promotion of cultural heritage in the modernization
process: Case studies of the worship of Hùng Kings (Phú Thọ), Gióng
festival (Hà Nội), Poh Nagar tower (Khánh Hịa) and Gong culture
of the Lạch people (Lâm Đổng)
2. Doan Thi Tuyen
The return of Then ritual and its reílections on issues of safeguarding
81
ethnic culture in modern Vietnam
3. Tran Thi Thuy
101
The restoring and promoting community solidarity tradition and
community solidarity in saíeguarding of cultural heritage (The ca se
study at Bà Chúa Kho temple)
4. Phan Thuan Thao
135
N ha nhac in the new context: a focus on the íunctional changes of a
ritual form into a temporal form of music
5. Huỳnh Thị Anh Vân
155
Nam Giao sacriíìcial ceremony in Hue: ritual re-construction and
re-creation of belieí
6. Tran Dinh Hang
193
Bà Tơ festival in Hue region: Historical values and process of reappearance
7. Tran Ky Phuong
215
The Preservation and Management of monuments of Champa in
Central Vietnam: The example of My Son sanctuary, a World Cutural
Heritage site
8. Lam Nhan
245
Cai Be íloating market in Tien Giang - from heritage perspective
9. Nguyen Ngoe Tho, Trinh Xuan Tuyet
l ”he Tian Houbelieíin South Vietnam - Current statusand signiíĩcance
273
LỜI MỞ
rong bổi cảnh ngày càng có nhiêu di sản văn hóa vật thể và phi vật thể của
T
Việt Nam được UNESCO công nhận, nghiên cứu về di sản văn hóa trở
thành chủ đề hẵp dẫn với những kết quả rất đáng ghi nhận. Cuốn sách Di sản
vàn hóa trong xã hội Việt Nam đương đại ra dời với mong muốn đóng góp
thêm vào dịng chảy nghiên cứu vốn đang rất sơi nổi vế chủ để này.
Di sản vãn hóa trong xã hội Việt Nam đương đại là cuốn sách thứ tư trong
Tủ sách Khoa học xã hội, được thực hiện với sự tài trợ của Viện Harvard
Yenching, tiếp theo các cuốn: Sự biến đổi của tơn giáo, tín ngưỡng ờ Việt
Nam hiện nay (2008), Nghiên cứu vãn học Việt N am - Những khả năng và
thách thức (2009), Di sản lịch sử và những hướng tiếp cận mới (2011). Cuốn
sách tập hợp chín bài viết vể di sản văn hóa từ các góc nhìn khác nhau của các
nhà nghiên cứu nhân học và văn hóa học.
Có thể nói cuốn sách này chưa bao quát được hết những kết quả nghiên
cứu đa dạng và phong phú hiện nay về di sản văn hóa, mà các bài viết được
tập hợp ở đây chỉ là những góc tiếp cận khác nhau về những vấn đề đặt ra
đối với di sản văn hóa của Việt Nam trong bối cảnh xã hội đương đại. Đó là
những sự vận động, thay đổi của di sản văn hóa dưới tác động đa chiều của
những sự biến chuyền vể chính trị, kinh tế, xã hội, vàn hóa. Đó là q trình
hội nhập vản hóa, sáng tạo truyền thống, phục hổi di sản, bảo tổn di sản,
khai thác di sản trong bối cảnh mới. Đó là những thuận lợi và thách thức,
những sự đổng thuận và mâu thuẫn trong vấn để nhìn nhận vê' di sản vản
hóa hiện nay.
Các bài viết trong cuốn sách này là những trường hợp nghiên cứu về đa dạng
các loại hình di sản văn hóa vật thể và phi vật thể của người Việt và các tộc
người thiểu số trên cả ba miền Bắc, Trung, Nam của Việt Nam. Tám bài viết
được thực hiện bởi các cá nhân, một bài viết được thực hiện bởi một nhóm
các nhà nghiên cứu, đây là sự hợp tác hiệu quả cùa họ để có thể khảo sát được
nhiều các di sản văn hóa trên nhiều địa bàn khác nhau của cả nước và nhìn
ra các vấn để có tính chẵt chung và bao qt cho các di sản văn hóa của Việt
8 I Lời mở
Nam hiện nay. Cuốn sách này đã dành dung lượng nhiều nhất để giới thiệu
tới bạn đọc nghiên cứu đó.
Nghiên cứu vể di sản văn hóa khơng phải là một chủ để mới song những vấn
dề đặt ra từ việc nghiên cứu đó lại chưa bao giờ cũ. Sự tạo dựng không gian
mới cho các di sản văn hóa hiện nay; sự gắn kết hay tương tác của các di sản
văn hóa với đời sống cộng đổng, với du lịch, với sự phát triển của xã hội;
những động thái vê' lợi ích, chính trị, thể diện hay bản sắc thể hiện trong mỗi
sự thay đổi cùa di sản; các yếu tố liên quan đến tiếng nói và sự lựa chọn của
chủ thể di sản văn hóa, tính xác thực của di sản sau những sự phục hổi,... mà
các bài viết trong cuốn sách này để cập tới là những đóng góp thiết thực cho
giới khoa học cả vể mặt lý thuyết và thực tiễn, tạo thêm một diễn đàn cởi mở
và thiện chí cho những bàn luận, những cách tiếp cận đa chiểu vê' di sản văn
hóa Việt Nam hiện nay.
Cũng như cách làm của ba cuốn sách đã xuất bản trong Tủ sách Khoa học xặ
hội, cuốn sách này cũng được thực hiện theo hình thức có thẩm định độc lập
(peer review), các bài viết sau khi tuyển chọn sơ bộ đã được gừi tới các chuyên
gia trong lĩnh vực gần gũi nhất với chủ đề nghiên cứu của bài viết để đọc thẩm
định. Các ý kiến phản biện độc lập được coi là những trao đổi, gợi ý quan
trọng để tác giả chỉnh sửa bài viết tốt hơn, nhưng khơng có tính áp đặt. Vì
vậy, bên cạnh sự nổ lực của chính các tác giả, các bài viết trong cuốn sách này
còn ghi nhận quá trình hợp tác khoa học hiệu quả giữa họ với những chuyên
gia phản biện. Tuy nhiên, do các tác giả ở các vị trí cơng tác khác nhau, địa
bàn làm việc cũng như bối cảnh học vấn khác nhau nên các bài viết chưa có
được sự đổng đéu về cách thức khai thác nội dung và triển khai phương pháp
nghiên cứu song điểu đó cũng thể hiện một thực tế trong tình hình nghiên cứu
vê' di sản vản hóa hiện nay mà cuốn sách này ghi nhận.
Nhóm biên tập tủ sách này gồm: GS. TS. Lê Hổng Lý (Viện Nghiên cứu văn
hóa, Trưởng nhóm), PGS. TS. Nguyễn Thị Phương Châm (Viện Nghiến cứu
văn hóa, Thư ký) và các thành viên: TS. Trần Hải Yến (Viện Văn học), TS. Lê
Thị Liên (Viện Khảo cổ học), PGS. TS. Nguyễn Kim Sơn (Đại học Quốc gía
Hà Nội), đã hợp lực trong suổt thời gian làm sách, từ chọn ý tưởng, mời ngưởi
viết bài, mời chuyên gia thẩm định đến biên tập bài, sừa chữa bản in và làm
việc cùng nhà xuất bản.
Cuốn sách được hồn thành với sự hổ trợ tài chính quan trọng cùa Viện
Harvard Yenching, sự hợp tác hiệu quả của nhóm biên tập, sự tận tâm của tập
Lời m ở
9
thể thẩm định, sự nỗ lực và kiên nhẫn của các tác giả viết bài cùng sự nhiệt
tinh cùa phía Nhà xuất bản Tri thức. Chúng tơi xin chân thành cảm tạ sự cộng
tác của tất cả các quý vị và mong rằng trong tương lai sẽ tiếp tục nhận được
những sự hỏ trợ và chia sè cùa các quý vị đối với công việc cùa chúng tôi.
Chúng tôi hy vọng sẽ nhận được những ý kiến bàn luận, đóng góp q háu của
dộc giả trong và ngồi giới nghiên cứu để việc tổ chức Tủ sách này ngày một
chuyên nghiệp hơn và chất lượng nghiên cứu cùa các bài viết cũng ngày càng
dược các tác giả nâng cao hơn.
Xin trân trọng cảm ơn.
Hà Nội, tháng 5 năm 2014
Thay mặt nhóm biên tập
LÊ HỔNG LÝ
BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY DI SẢN VĂN HÓA TRONG QUẢ
TRÌNH HIỆN ĐẠI HĨA: NGHIÊN c ứ u TRƯỜNG HỢP TÍN
NGƯỠNG THỜ CÚNG HÙNG VƯƠNG (PHÚ THỌ), HỘI
GIĨNG (HÀ NỘI), THÁP BÀ POH NAGAR (KHẢNH HỊA) VÀ
VĂN HĨA CỒNG CHIÊNG CỦA NGƯỜI LẠCH (LÂM Đ ồN G )1
Lê Hồng Lý
Nguyễn Thị Hiền
Đào Thê Đức
Hồng Cầm
I. Giới thiệu
Văn hóa được coi là một trong những trụ cột quan trọng của phát triển bển
vửng. Quan điểm này đã được Công ước vê' bảo vệ di sản vản hóa phi vật thể2
của UNESCO khẳng định khi cho rằng di sản văn hóa phi vật thể (DSVHPVT)
là “động lực chính của đa dạng văn hóa và là một đảm bảo cho sự phát triển
bến vững”. Quan điểm này cũng đã được nêu rõ trong Nghị quyết Trung ương
5 (khố VIII), theo đó văn hóa “vừa ỉà mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự
phát triển kinh tế xã hội”.3 Tuy nhiên, vấn để bảo tổn và phát huy di sản vản
1
Nhóm tác giả xin chân thành cảm ơn GS.TS. Nguyền Chí Bển,TS. Dương Bích Hạnh, GS.TS.
Oscar Salemink, PGS.TS. Nguyễn Văn Huy,TS. Lê Thị Minh Lý đã đóng góp nhiểu ý kiến xây
dựng từ việc chọn địa điểm nghiên cứu đến các vấn đề phân tích trong bài viết. Nhóm tác
giả bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc nhất tới các cộng tác viên, thơng tín viẻn, cộng đổng (mặc
dù tên họ đã được thay đổi trong bài viết để đảm bảo sự tôn trọng thơng tin riêng) đã hết
lịng giúp đỡ trong suốt quá trình nghiên cứu điền dã. Họ đã cởi mở cung cấp thơng tin
q báu giúp cho nhóm tác giả có số liệu đa chiều, đa dạng cho việc phân tích.
2
Thường được gọi tắt là Cơng ước 2003, được Việt Nam phê chuẩn năm 2005.
3
Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VIII) đã ban hành Nghị quyết
về "Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc" ngày
16/7/1998, gọi tắt là Nghị quyếtTrung ương 5 (khóa VII!).
12 I Bảo tồn và phát huy di sản văn hỏa.
hóa vẫn gặp nhiều thách thức, cả trong lý thuyết lẫn thực hành, đặc biệt trong
q trình hiện đại hóa hiện nay. Điểu này đã được thừa nhặn và thảo luận
trong Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2020. Vẫn còn khá phổ biến
quan điểm cho rằng di sản văn hóa khơng cịn phù hợp đối với xã hội hiện đại,
và bảo tồn di sản văn hóa như một rào cản đối với q trình hiện đại hóa. Ở
thái cực đối lập, di sản văn hóa được hàng hóa hóa phục vụ cho mục đích kinh
tế đơn thuần.
Thuyết tiến hóa (evolutionism) là lý thuyếl về sự phát triển của văn hóa có ảnh
hưởng lớn và lâu dài trên thế giới (Tylor 1871; Morgan 1877),' cơ sờ lý luận
cùa quan điểm ‘bảo tổn có chọn lọc trong quản lý văn hóa ở Việt Nam. Theo
thuyết tiến hóa, tất cả các xã hội loài người đểu phải trải qua một con đường
phát triển duy nhất từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ mông muội
đến văn minh. Sự khác biệt trong thực hành văn hóa được coi là biểu hiện
của các mức độ tiến hóa cao thấp khác nhau giữa các xã hội. Thực hành văn
hóa của xã hội ở giai đoạn thấp lạc hậu hơn so với văn hóa của các xã hội ở
nấc thang tiến hóa cao hơn. Quan điểm phân loại cao - thấp’ Văn minh - lạc
hậu, trong việc nhìn nhận sự đa dạng của các thực hành văn hóa khác nhau
mà thuyết tiến hóa để ra đã được sử dụng như một cơ sở khoa học cho các
hoạt động chính trị, xã hội ở nhiều nơi trên thế giới. Tại châu Âu, trong một
thời gian dài, thuyết tiến hóa được dùng để biện minh cho chủ nghĩa thực dân
(colonialism) dưới chiêu bài 'khai hóa văn minh* cho các dân tộc lạc hậu. Cơ sở
lý thuyết này cũng được áp dụng phổ biến trong các chương trình phát triển
và ‘hiện đại hóa được Mỹ và một số nước đồng minh khởi xướng từ sau Thế
chiến hai cho đến cuối những năm 1980 (Escobar 1995; Gupta 1998), theo
đó mơ hình kinh tế - xã hội phương Tây được cho là một mơ hình phát triển
tiến bộ nhất mà các nước ‘chậm phát triển hơn phải theo đuổi. Các chương
trình phát triển nơng thơn, miền núi và vùng dân tộc thiểu số trong phạm vi
quốc gia cũng bị ảnh hưởng lớn từ quan điểm lý thuyết này. Ví dụ, theo Stevan
Harrell (1995), do ảnh hưởng của thuyết tiến hóa, chính phủ Trung Quốc cũng
1
Edvvard Tỵlor. Primitive Culture (John Murray, London, 1871). Bản tiếng Việt: Vân hỏa
nguyên thủy. Huỵén Giang dịch (Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, Hà Nội, 2001); Levvis
Morgan. AncientSociety [Xã hội cổ đại] (University of Arizona Press, Tucson, 1985 [1877]).
Những nghiên cứu này là cơ sở để Engeỉs hoàn thành tác phẩm "Nguồn gốc của gia đình,
của chế độ tư hữu và của nhà nước"(1884). Xem Friedrich Engels. The Origin of the Fơmily,
Privote Property, ond the State (Pathtinder Press, New York, 1972 [1884]). Bản tiếng Việt:
Nguồn gốc của gio đình, củơ chế độ tư hữu và củo nhà nước (Sự thật, Hà Nội, 1984).
Bảo tổn và phát huy di sản văn hỏa... I ỉ 3
‘vận động’ các dân tộc thiếu số cùa họ thay đổi các thực hành văn hóa truyền
thống theo cách mà người Hán (dân tộc được coi là đã đạt đến nấc thang tiến
hóa cao nhất trong sơ các dân tộc đang sinh song ở Trung Quốc) đang thực
hành.
Tương tự, nhiều chính sách, chương trình phát triển kinh tế - xã hội và văn
hóa nơng thơn, miền núi Việt Nam, cũng chịu ảnh hưởng lớn từ thuyết tiến
hóa. Trong một thời gian dài, háu hết các thực hành văn hóa của các dân tộc
chiểu số bị coi là ‘lạc hậu’ ‘kém văn minh’ hơn so với văn hóa của người Kinh
Jamieson và cộng sự 1998; Salemink 2000; World Bank 2009). Để “miền núi
:iến kịp miền xuôi, người thiểu số tiến kịp người da số”, những dân tộc ‘chưa
:iến hóa’ này cẩn phải thay dổi toàn bộ hoặc phẩn lớn các thực hành vản hóa
:ruyển thổng của họ cho giống với văn hóa của người Kinh. Nói cách khác,
‘trở thành con người mới xã hội chù nghĩa cũng gẩn đổng nghĩa với việc trở
'.hành giống người Kinh” (McElwee 2004; 196), trong đó “việc chuyển đổi các
dân tộc [lạc hậu hơn] cho giống hoặc bằng với thang bậc tiến hóa tự nhiên cùa
dân tộc phát triển cao hơn là quyền và nghĩa vụ của nhóm có trình độ phát
triển cao hơn” Qamieson và cộng sự 1998: 19). Sự phân loại Văn minh’ và ‘lạc
hậu đã dẫn đến “khuynh hướng Vọng ngoại’ không phân biệt giữa Văn minh'
và Văn hóa, khiến cho một bộ phận dân cư của cả dân tộc đa số lẫn dân tộc
thiểu số và đặc biệt là thế hệ trẻ, xem văn hóa dân tộc là cái gì lạc hậu và lỗi
thòi. Để được Văn minh* và ‘hiện đại' họ sống rập khuôn theo nếp sống đô thị
chịu ảnh hưởng của phương Tây” (Tô Ngọc Thanh 2005: 17-18).
Quan điểm tiến hóa cũng được áp dụng trong việc xây dựng nền văn hóa mới
của người Kinh thơng qua việc phá bỏ thực hành văn hóa phong kiến và thực
dân cùa giai đoạn trước để phát triển lên giai đoạn sau cao hơn, xã hội chủ
nghĩa.1 Tính ‘tất yếu của quá trình tiến hóa được nhấn mạnh trong một số
Eghiên cứu về thực hành văn hóa truyền thống, như trong nhận định của Thu
linh và Đặng Văn Lung: “Hướng suy tàn cùa lễ hội là tất yếu vì lễ hội là biểu thị
của văn hóa, những biểu thị cổ xưa nay khơng cịn phản ánh được nhịp điệu,
rội dung của cuộc sống hiện đại thi phải bị lịch sử bò qua” (1984: 156). Quá
1 Thuyết tiến hóa đã có ảnh hưởng tại Việt Nam từ nửa đầu thế ký 20 biểu hiện qua ngôn
thuyết chủ nghĩa dân tộc, phong trào Chấn hưng Phật giáo, cuộc vặn động Âu hóa và
các nghiên cứu vể văn hóa. Xem Phan Kế Bính (2003) [1913-1914], Việt Nơm phong tục,
Nxb. Văn hóa - Thơng tin, Hà Nội. Tuy nhiên vấn đé này nằm ngoài phạm vi nghiên cứu
của bài viết này.
14 I Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa .
trình ‘tiến hóa này cịn được thúc đẩy một cách chù động khi Đồn Vản Chúc
cho rằng “trong tình hình lễ - tết - hội truyền thống cịn chứa đựng những tiêu
cực như vậy, sự có mặt của lễ - tết - hội mới sẽ là một đối lực. Việc thúc đâ’y
cho sự hình thành và thuần thục các lễ - tết - hội mới thực sự là một yêu cẩu
mang tính xã hội” (1993: 103). Hạn chế cùa mơ hình lễ hội quần chúng’ mới
đã được Shaun Malarney phân tích trong nghiên cứu của mình mà ỏng gọi là
lễ hội mang ‘chức năng nhà nước” (1996: 540-560). Lý thuyết tiến hóa trong
nghiên cứu vản hóa đã khơng giải thích được hiện tượng phục hổi mạnh mẽ
của các thực hành văn hóa truyền thống sau nhiểu năm gián đoạn khi Việt
Nam tiến hành những chính sách đổi mới vể kinh tế từ giữa những năm 1980.
Thuyết tiến hóa vừa mâu thuẫn, vừa ảnh hưởng lớn tới quan điểm ‘bảo tổn
có chọn lọc, theo đó những yếu tố được coi là ‘tiến bộ’ ‘tích cực’ ‘giá trị’ trong
thực hành văn hóa truyền thống được chọn lọc để bảo tổn trong khi các yếu
tố ‘lạc hậu, ‘tiêu cực’ và khơng có giá trị bị loại bỏ (Evans 1985). Mặc dù biến
đổi là một cơ chế quan trọng của thực hành văn hóa, trong đó có chọn lọc,
đào thải, tiếp thu, sáng tạo, điểm khác biệt ở đây là quá trình thay đổi này
không phải được thực hiện bởi cộng đổng chủ nhân các thực hành văn hóa
mà bởi sự chọn lọc chủ động và chủ quan từ bên ngoài (nhà nghiên cứu, cán
bộ văn hóa...) được thể chế hóa bằng các luật quản lý văn hóa mà John H.
Bodley đã phằn tích trong Những nạn nhân của sự tiến bộ (Trích từ Evans
1985: 131). Phương pháp bảo tổn có chọn lọc được áp dụng đối với các thực
hành văn hóa khác nhau, ví dụ trong khi các thực hành tơn giáo quốc tế (Phật
giáo, Công giáo...) được pháp luật bảo vệ, những thực hành tôn giáo bản địa
(Mu đỗng của người Kinh hay tôn giáo của các tộc người thiểu số) bị xếp vào
loại tín ngưỡng, ám chỉ mức độ tiến hóa thấp hơn, thậm chí cịn bị coi ]à mê
tín dị đoan cần phải được hạn chế hay ngăn cấm, loại bỏ (Ngơ Đức Thịnh
1996). Bảo tổn có chọn lọc cũng được áp dụng với các di sản văn hóa vật thể,
đặc biệt là trong cuộc vận động xây dựng nển văn hóa mới “biến những thiết
chế văn hóa của xã hội cũ thành những thiết chế văn hóa xã hội chủ nghĩa”
sau khi hồ bình được lập lại năm 1954. Nhiểu cơng trình kiến trúc tơn giáo,
nếu khơng được cơng nhận là di tích văn hóa lịch sừ, sẽ bị phá huỷ hoặc thay
đổi chức nảng sử dụng.
Quan điểm bảo tổn có chọn lọc là nền tảng của hai phương thức tiếp cận di sản
văn hóa khá phổ biến tại Việt Nam. Thứ nhất là phương thức sân khấu hóa hay
“dân gian hóa” (folkỉorization), tức là việc thay đổi phong cách biểu đạt nhằm
đơn giản hóa ý nghĩa và thẩm mỹ của di sản văn hóa (Seitel 2002: 6). Thứ hai
Bảo tổn và phát huy di sản vân hỏa... I 15
là phương thức “sáng tạo truyén thống” (invention of tradition) nhằm các mục
đích chính trị hiện tại (Hobsbavvm và Ranger 1983). Bảo tổn có chọn lọc cịn
được áp dụng cho các yếu tố trong cùng một thực hành vản hóa, ví dụ như
quan điểm tăng phấn ‘hội’ giảm phẫn ‘le trong lễ hội, khi một số nhà nghiên
cứu khẳng định “trong tương lai phần ‘le của hội lễ sẽ hoàn tồn biến mất, chỉ
cịn lại phẩn ‘hội’ và ‘hội lễ’ sẽ hoàn toàn biến thành ‘hội’” (Lê Hữu Tầng 1994:
295). Theo quan điểm này, trong công tác bảo tổn di sản, một sổ thực hành
văn hóa dân gian bị tách khỏi mơi trường diễn xướng truyển thống, ví dụ như
hát chẩu văn tách khỏi lễ hầu đổng, cổng chiêng tách khỏi lễ ăn trâu (Fjelstad
và Nguyền Thị Hiền 2006; Lê Hổng Lý và cộng sự 2010). Việc tách một sổ loại
hình diễn xướng dân gian khỏi các nghi lễ liên quan được thực hiện trong các
sự kiện văn hóa mới đã khiến cho những thực hành văn hóa này bị biến đổi
hoặc mai một (Salemink 2001). Kể từ giữa những năm 1980 sau khi chính
sách đổi mới kinh tế được ban hành, cách nhìn nhận vấn đê' mê tín dị đoan
trong nghiên cứu văn hóa ở Việt Nam đã có sự thay đổi so với thời gian trước
đó. Quan điểm nhấn mạnh phẩn ‘le trong lễ hội cũng như nghiên cứu sâu vể
‘lẻ’ bắt đấu được tiến hành một cách có hệ thống. Tuy nhiên, hạn chế của cách
tiếp cận mang tính chức nảng này, trong khi quá nhấn mạnh tính ổn định,
tồn diện, cố kết của văn hóa truyền thống, lại khơng có khả năng nhận diện
sự thay đổi của văn hóa xã hội với các tính chất phá vỡ, tan rã, tái tạo (Geertz
1973: 142-143), đặc biệt là đối với việc nghiên cứu thực hành văn hóa tại Việt
Nam hiện nay, khi phẩn lớn các di sản văn hóa mới được phục dựng sau hàng
thập niên gián đoạn.
Trong quá trinh hiện đại hóa, sự thay đổi, giao thoa, hội nhập vân hóa là hiện
tượng mang tính tồn cẩu (Appađurai 1996). Biến đổi văn hóa xã hội tại Việt
Nam sau khi chính sách đổi mới kinh tế được ban hành vào giữa những năm
1980 cũng là đối tượng của nhiều nghiên cứu (Hy V. Luong 1992; Kerkvliet
1995; Li Tana 1996; Kleinen 1999; Malarney 2002; Papin và Tesier 2002; Truong
Huyen Chi 2004; Salemink 2009; Lương Hổng Quang 2010). Các nghiên cứu
này đã để cập đến tác động của phát triển kinh tế đối với sự biến dồi trong
đời sổng văn hóa xã hội, đặc biệt là sự phục hổi và biến đổi của các thực hành
văn hóa truyền thống, qua đó xem xét lại khái niệm ‘truyền thống’ (tradition)
trong đời sổng vấn hóa hiện nay. Một số nghiên cứu khác phân tích vấn để giải
thiêng hay ‘thế tục hóa (secularization) trong q trình hiện đại hóa, dường
như khơng phù hợp để nhìn nhận xã hội Việt Nam khi đổi mới kinh tế cũng
đem đến sự phục hưng của các thực hành tôn giáo (Enđres 1999; vSoucy 2003;
16 I Bảo tổn và phát huy di sản văn hóa.
Taylor 2004). Những thách thức đối với việc bảo tồn di sản văn hóa trong q
trình đơ thị hóa cũng như sự tác động của kinh tế thị trường vào thực hành
văn hóa truyền thống cũng được một số nghiên cứu để cập (Lê Hổng Lý 2008;
Nguyễn Thị Phương Châm 2010). Sự thay đổi của môi trường tự nhiên và cơ
cấu cây trổng khiến các nghi lễ nông nghiệp truyền thống và hệ thống thẩn
điện liên quan dân dẩn mất đi ý nghĩa và tính thiêng của chúng. Do hưởng
thụ văn hóa qua những phương tiện truyền thơng hiện đại tăng lên, việc thực
hành những diễn xướng truyển thống cũng ngày càng bị mai một và ít được
chú trọng (Salemink 2001).
Các nghiên cứu về du lịch tộc người, du lịch văn hóa, hay du lịch cộng đổng
cho rằng trên thực tế du lịch giúp cho quá trình hồi sinh văn hóa và tái hịa
nhập (Mac Cannell 1984; Graburn 1984), nhưng du lịch cũng dẫn đến sự
‘thương mại hóa thực hành văn hóa, có xu hướng đổng nhẫt, một mặt sản
xuất những đồ thủ cơng kém chất lượng, khơng có ý nghĩa văn hóa, mặt khác
tạo cơng ản việc làm và tăng thu nhập cho người dân (Evans 2001: 278; Lâm
Thị Mai Lan, Phạm Thị Mộng Hoa 2000; Lê Ngọc Thắng 2001). D u lịch là một
động lực lớn đối với việc bảo tổn di sản văn hóa và sự lai tạp trên thế giới. Du
lịch cũng là một động lực tàn phá nếu phát triển chỉ dựa vào những mối quan
tâm thương mại thuần túy mà không để ý đến sự tác động mạnh mẽ cùa nó
đối với văn hóa và xã hội (Evans 2001). Vấn để chia sẻ lợi ích trong kinh tế du
lịch có tác động lớn tới việc tham gia bảo tổn di sản văn hóa của cộng đổng,
tuy nhiên chưa được nhiều nghiên cứu để cập đến.
Theo Charles Keyes, “văn hóa vừa là biểu hiện của sự thích ứng của con người
đối với bối cảnh sống của họ, vừa là một tập hợp những bói cảnh mà con người
phải thích ứng” (1995: 9). Bời vậy trong cơng tác bảo tổn di sản, cẩn nhìn nhận
văn hóa trong sự biến đổi của nó: “Khi ghi lại những hình thức văn hóa của
những cộng đổng khơng hoặc chưa có chữ viết, chúng ta vừa tách những hình
thức này ra khỏi những con người đang sống trong lòng văn hóa của họ, vừa
biến chúng thành một di sản cố định và bất biến. Khi làm như vậy, chúng ta
quên rằng văn hóa ln ln biến đổi, vì các tác nhân văn hóa ở trong những
hồn cảnh ln thay đổi và tìm những phương cách mới để đối phó với những
hồn cảnh đó. Và bởi vì những bối cảnh lịch sử và địa lý cũng như văn hóa của
các dân tộc làm cho văn hóa liên tục được tái tạo và thay đổi theo thời gian”
(Salemink 2001: 206). Bối cảnh kinh tế - xã hội thay đồi sẽ tạo nên những
khơng gian mới cho thực hành văn hóa tổn tại và phát triển. Mối quan hệ hai
chiểu giữa thực hành và truyền dạy di sản văn hóa với lễ hội, môi trường diễn
Bảo tổn và phát huy di sản văn hỏa... I 17
xướng, cho thấy để bảo tổn và phát huy di sản văn hóa, một trong những điểu
kiện tiên quyết là phải hảo tổn mơi trường văn hóa, mảnh đất sống của các
thực hành văn hóa... khơng nhất thiết phải bảo tổn ‘tính ngun gốc’ hay thiết
lập nên mơ hình truyến dạv hồn tồn mới, tách di sản ra khỏi mơi trường
thực hành (Lê Hổng Lý và cộng sự 2010).
Do vậy, nghiên cứu thực tế bảo tồn các di sản văn hóa cụ thể để tìm hiểu
những thực hành lốt cũng như những thách thức trong bối cảnh hiện đại hỏa
không chỉ mang ý nghĩa lý luận mà cịn có giá trị thực tiễn, làm cơ sở dữ liệu
cho các nhà quản lý văn hóa, các nhà hoạch định chính sách nhận thức được
những phương pháp hữu hiệu để bảo tổn và phát huy di sản văn hóa trong giai
đoạn hiện nay.
Bài viết này phẩn lớn dựa vào báo cáo của nhóm nghiên cứu để tài Bảo tồn và
phát huy di sản văn hóa trong q trình hiện đại hóa: Nghiên cứu trường hợp
tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương (Phú Thọ), hội Gióng (Hà Nội), tháp Bà
Poh Nagar (Khánh Hịa) và văn hóa cổng chiêng của người Lạch (Lâm Đồng),
do Văn phịng UNESCO Hà Nội tài trợ, Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam
thực hiện năm 2011. Các tác giả của bài viết đã khảo sát hiện trạng công tác
bảo tổn và phát huy một số di sản văn hóa vật thể và phi vật thể trong bối cảnh
hiện đại hóa và phát triển kinh tế - xã hội của người Kinh cũng như của một
số tộc người thiểu số tại nông thôn và thành phố, đồng bằng và miền núi, ở
miền Bắc, miên Trung và Tây Nguyên Việt Nam. Các điểm nghiên cứu được
chọn thể hiện tính đa dạng vể loại hình di sản và mơ hình quản lý (do nhà
nước hay cộng đổng quản lý, hoặc cả hai), chịu sự tác động khác nhau của q
trình hiện đại hóa, đã được Nhà nước hay UNESCO công nhận là di sản văn
hóa. Những di sản được lựa chọn nghiên cứu vừa đảm bảo tính đặc trưng, vừa
mang tính phổ quát.
Tín ngưỡng thờ c úng Hùng Vương: Khu di tích đển Hùng nằm trên núi Nghĩa
Linh, xã Hy Cương, thành phố Việt Trì, được cơng nhận là Di tích lịch sừ cấp
quốc gia năm 1962 và Di tích quốc gia đặc biệt năm 2009. Lễ hội đền Hùng
cúng được công nhận là quốc lẻ từ năiti 2007. Ban Quản lý di tích lịch sừ đền
Hùng hiện nay là mơ hình quản lý nhà nước điển hình. Từ khi được cơng nhận
là Di tích quốc gia đặc biệt, ban quản lý đã tiến hành nhiều hoạt động trùng
tu, tôn tạo nhiều hạng mục cơng trình (xây dựng lại đền Thượng, đển Trung,
đền Hạ, đên Giếng, xây dựng thêm đến thờ Quốc tổ Lạc Long Quân, đền thờ
Tổ Mẫu Âu Cơ, làm thêm đường, mở bãi đỗ xe, xây kiốt bán hàng,...). Việc tôn
18 I Bảo tổn và phát huy di sản văn hóa.
tạo, xây mới và mở rộng khơng chỉ làm thay đổi khơng gian di sản mà cịn tác
động đến đời sống hàng ngày cùa cộng đổng địa phương. Ngoài đển Hùng, tại
Phú Thọ cịn có khoảng 200 đình, đền, miếu, chùa tại hơn 120 làng thờ cúng
Hùng Vương và các tướng lĩnh, họ mạc. Trong số này, khá nhiểu điểm chi cịn
là phế tích.
Hội Gióng được tổ chức vào ngày mổng 9 tháng tư âm lịch ở xã Phù Đổng,
huyện Gia Lâm, theo truyền thuyết là nơi Thánh sinh, và ngày mổng 6 tháng
giêng âm lịch tại xã Phù Linh, huyện Sóc Sơn, được coi là nơi Thánh hóa. Có
7 thơn tham gia hội Gióng đền Phù Đổng, bao gổm Phù Đồng 1, Phù Đổng 2,
Phù Đổng 3, Phù Dực 1, Phù Dực 2, Đổng Viên và thôn Đồng Xuyên (xã Đặng
Xá). Có 8 thơn tham gia hội Gióng đển Sóc, thuộc 6 xã của huyện Sóc Sơn,
bao gồm: thơn Vệ Linh, Phù Mã (xã Phù Linh), thôn Dược Thượng (xã Tiên
Dược), thôn Xuân Dục, Đan Tảo (xã Tân Minh), thôn Yên Tàng (xã Bắc Phú),
thôn Yên Sào (xã Xuân Giang), và thơn Đức Hậu (xã Đức Hịa). Cơng tác quản
lý di tích cũng như tổ chức lễ hội ở hai đển theo hai mơ hình, tạm gọi là cộng
đồng và nhà nước. Tại đển Phù Đồng, việc tổ chức do Ban Quản lý di tích lịch
sử (với nịng cốt là Ban Khánh tiết cùa đển) và UBND xã Phù Đổng thực hiện
theo sổ hội lệ, trong khi đó hội Gióng ở đền Sóc do Ban Quản lý thắng cảnh
đển Sóc và ƯBND huyện Sóc Sơn chỉ đạo theo kịch bản cùa Ban Quản lỷ. Hội
Gióng được UNESCO cơng nhận lằ DSVHPVT đại diện của nhân loại vào
năm 2010.
Tháp Bà Poh Nagar tọa lạc trên đổi Cù Lao thuộc phường Vĩnh Phước, thành
phố Nha Trang. Đây là cơng trình kiến trúc tôn giáo của người Chăm. Theo
một sổ nhà nghiên cứu, cơng trình này được xây dựng trong khoảng từ thế ký
VIII đến thế kỷ XIII. Tháp Bà hiện là nơi thờ nữ thẩn Poh Nagar - người Mẹ
xứ sờ trong tín ngưỡng người Chăm và nữ thẩn Thiên Y A Na - người Mẹ hiển
linh của tín ngưỡng người Việt ở miền Trung, kết quả của quá trình hỗn hợp
hóa tơn giáo trong nhiều thế ký. Đây là địa điểm hành hương quan trọng của
người Chầm, cũng là điểm thờ tự đặc biệt linh thiêng đối với cư dân Việt làm
nghê' biển tại địa phương. Gần đây, tháp Bà không chi thu hút người Việt từ
khắp các vùng trong cả nước, mà còn thu hút người Chăm từ tỉnh Ninh Thuận
và nhũng tỉnh khác đến hành lễ. Khác với nhiều di sản tôn giáo, các hoạt động
tế lễ ở đây khá đa dạng vê' hình thức và đối tượng thờ cúng. Trong khi người
Chăm tế lễ theo một hình thức riêng (cúng mặn, nằm sấp phía sau tượng và
tháp để lễ, đốt nến), người Việt lại cúng chay, thắp hương và ngơi lễ hoặc tụng
kinh Phật phía trước tượng.
Bảo tổn và phát huy di sản văn hóa... I 19
Năm 1979, tháp Bà dược cơng nhận là Di tích lịch sử cấp quốc gia và được đặt
dưới sự quản lý của Sở Vàn hóa, chù yếu trên lĩnh vực trùng tu tôn tạo. Qua
nhiều lần chuyển đổi các cấp quản lý, đến năm ] 997, Trung tâm Quản lý di tích
và danh lam thắng cảnh tỉnh Khánh Hịa được thành lập, hiện nay có 67 nhân
viên, trong đó có 17 cán bộ biên chế. Chức năng chính của Trung tâm là quản
lý di tích, trùng tu tơn tạo và khai thác du lịch. Trong khi đó, việc tổ chức lễ hội
và tế ]ẻ củng như việc quản lý tiến công đức và tiền lễ do Hội Bảo trợ tháp Bà,
một tổ chức được thành lặp năm 1992 thực hiện.
Văn hóa cổng chiêng của người Lạch: Lạch là tên tự gọi của nhóm tộc người
dược xếp thành một nhánh của dân tộc Cơ Ho (cùng với người Chil và Sre).
Người Lạch nói ngơn ngữ nhóm Mơn Khmer, thuộc ngữ hệ Nam Á. Cộng
đổng người Lạch được chọn để nghiên cứu thuộc Bon Dơng I và Bon Dơng II.
Cả hai bon này trước dây thuộc xã Lát, huyện Lạc Dương. Bon Dơng I và Bon
Dơng II đã được sáp nhập vào thị trấn Lạc Dương, tỉnh Lâm Đồng từ khoảng
những năm 1948-1949 kỊii Pháp tiến hành xây đặp thuỷ điện ở Suối Vàng
(cũng thuộc huyện Lạc Dương). Hầu hết người Lạch ở Lạc Dương theo Công
giáo. Theo các cụ trong bon kể lại, người Lạch bắt đầu cải đạo sang Công giáo
từ khoảng cuối những năm 1930 khi Pháp xây dựng Đà Lạt thành một trong
những trung tâm chính trị, văn hóa và nghỉ dưỡng. Hiện nay, người dân ở các
thơn xung quanh thị trấn Lạc Dương sinh hoạt chung tại một nhà thờ nằm ở
trung tâm của Bon Dơng II.
Trong gia tài văn hóa dân gian đa dạng và phong phú của người Lạch, cổng
chiêng là sinh hoạt văn hóa nổi bật, được người dân coi là một trong những
‘dẫu ẫn bàn sắc quan trọng nhất cùa tộc người. Trước đây, cổng chiêng có
mặt trong hầu hết các nghi thức nghi lễ của cá nhân, gia đình, dịng họ và cùa
cộng đổng như lễ bỏ mả, mừng lúa mới, cưới xin, tang ma, hay các buổi sinh
hoạt cộng đổng khác. Tuy nhiên, trong một thời gian khá dài, đặc biệt là từ sau
1975, dưới sự tác động của chính sách văn hóa, sự thay đổi về nghề nghiệp và
cơ cấu cây trổng, cũng như sự thâm nhập cùa các loại hình văn hóa phổ thơng
đại chúng, thực hành văn hóa cổng chiêng của người Lạch đă bị suy giảm. Từ
giữa những năm 1990, một sự thay đổi quan trọng liên quan đến vấn đề bào
tón di sản văn hóa cồng chiêng ở các bon người Lạch là sự phát triển mạnh
của du lịch. Các bon của người Lạch, nằm dưới chân núi Lang Biang, trở thành
một điểm du lịch hấp dẫn trong nhiều điểm du lịch ở Đà Lạt.
Trong quá trình điển dã, bên cạnh việc quan sát tham gia, nhóm nghiên cứu đã
sử dụng hai phương pháp cơ bản là thảo luận nhóm và phỏng vấn sâu để thu
20 I Bảo tốn và phát huy di sản văn hỏa...
thập thơng tin. Với mục đích đa dạng hóa nguổn thơng tin, tại mỗi địa bàn,
nhóm nghiên cứu lựa chọn phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm với nhiểu đối
tượng khác nhau: các cán bộ trực tiếp tham gia quản lý văn hóa và di tích từ
cấp tỉnh/thành phố đến cấp xã, các cán bộ của một số cơ quan ban ngành có
liên quan tại địa phương, các cán bộ nghiên cứu văn hóa đang làm việc tại các
viện nghiên cứu, các nhà nghiên cứu độc lập, một số nhà tu hành trong các cơ
sở tôn giáo tại địa phương và các nghệ nhân dân gian. Một nhóm đối tượng
quan trọng khác được lựa chọn phỏng vấn là những người dân trực tiếp hoặc
gián tiếp tham gia vào các thực hành văn hóa, lễ hội ở các di sản được lựa chọn
nghiên cứu. Ngồi tài liệu điển dã, nhóm nghiên cứu cũng tiến hành thu thập
và phân tích các bài báo, tạp chí và nhiêu tài liệu đã xuất bản khác liên quan
đến các di sản văn hóa được lựa chọn nghiên cứu nói riêng và các tài liệu vể
bảo tổn di sản văn hóa nói chung.
Qua nghiên cứu thực tế về bốn di sản văn hóa này, nhóm nghiên cứu tìm hiểu
những vấn để lớn ảnh hưởng đến việc bảo tổn và phát huy di sản văn hóa trong
quá trình hiện đại hóa như quan điểm và phương pháp bảo tổn di sản, sự thay
đổi kinh tế - xã hội và văn hóa, và sự phát triển của kinh tế du lịch. Qua thực
tế công tác bảo tồn di sản văn hóa của bốn trường hợp nghiên cứu, bài viết đi
sâu phân tích các quan điểm ‘bảo tốn có chọn lọc, sân khấu hóả nhằm để cao
các yếu tố ‘tốt đẹp', ‘đậm đà bản sắc dân tộc... đã có tác động như thế nào đối
với công tác bảo tổn di sản văn hóa. Hơn nữa, q trình trùng tu tôn tạo và quy
hoạch di sản trong những thập niên vừa qua tạo ra bộ mật khang trang, ‘hoành
tráng’ của nhiều di sản có phải là điểu cẩn thiết, vì mục đích bảo tồn di sản hay
lại mang đến những tác động không nhỏ tới công tác bảo tổn. Bài viết cũng tìm
hiểu trong q trinh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, các vấn để về đơ thị hóa và
quy hoạch ờ các khu vực di sản có nhiều thay đổi đã ảnh hưởng đến vấn đề bảo
tổn di sản ra sao? Hay, q trình thế tục hóa được đẩy mạnh bằng các cuộc vận
động xây dựng nền văn hóa mới xã hội chủ nghĩa đã có những ảnh hưởng gì đến
sự tham gia của người dân địa phương vào quá trình thực hành di sản truyền
thống. Bài viết cũng đi sâu tìm hiểu sự phát triển du lịch đưa ra những thách
thức gì đối với vấn đê' bảo tổn di sản, đặc biệt khi có nguổn lợi kinh tế từ việc
bán các sản phẩm văn hóa cho khách du lịch trở thành chất xúc tác cho người
dân sưu tẩm và tái tạo các thực hành và giá trị văn hóa truyển thống của họ.
Qua tư liệu nghiên cứu điển dã, bài viết phân tích thách thức của cơng tác bảo
tổn di sản văn hóa trong q trình hiện đại hóa dựa trên những ngun tắc
bảo vệ DSVHPVT cùa Cơng ước 2003 và Luật Di sản văn hóa (2001, sửa đổi
Bảo tồn và phát huy di sản vần hóa... I 21
2009). Cơng ước 2003 nhấn mạnh vai trị của cộng đổng trong việc “sáng tạo,
duy trì và chuyển giao” di sản văn hóa và bời vậy, cộng dõng cán được tham
gia đến mức tối đa trong các hoạt động bảo tốn di sản củng như trong công
tác quản lý. Cộng đổng là một tập hợp các chủ thể vản hóa, những người cùng
cư trú trong một môi trường tự nhiên cụ thể, chia sẻ bối cảnh kinh tế, xã hội
chung, cùng thừa nhận những DSVHPVT nhất định là một phẫn trong bản
sắc văn hóa cùa họ. Vì vậy, họ là những người biết rõ cái gì cấn phải bảo tồn
củng như biện pháp bảo tồn nào phù hợp với hoàn cảnh kinh tế, xã hội và văn
hóa của họ. Chì khi có sự chủ động tham gia của cộng đổng ngay từ trong quá
trình thiết kế dự án, tham gia triển khai thực hiện các hoạt động bảo tồn thì
mới đảm bảo được sức sổng cùa DSVHPVT. Sự tham gia cùa cộng đổng cũng
tạo cho họ ý thức vê' quyến làm chù, tinh thẩn tự nguyện, phát huy được nội
lực của sức mạnh tập thể.
Một số nghiên cứu gần đây vê' bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể tại Việt Nam
đã đề cập đến vấn để mấu chốt này (Nguyễn Chí Bển 2005; Lê Thị Minh Lý
2008; Lương Hổng Quang 2011). Trong khi một sổ nhà nghiên cứu tỏ ý nghi
ngờ mức độ hiểu biết của người dân vể văn hóa của chính họ, Ngơ Đức Thịnh
cho rằng “Hàng ngàn nảm nay người dân đã sáng tạo và duy trì lễ hội. Khơng
ai hiểu lễ nghi bằng chính họ, cũng khơng ai hiểu lễ nghi bằng chính những
người sáng tạo ra nghi lễ đó... Khi trao lễ hội cho người dân, hãy để tự người
dân bấu lên ban đại diện của mình” (Hồng Điệp 2012). Cộng dồng cũng đóng
một vai trị quan trọng trong việc bảo tồn các di sản vật thể, vốn bị tách ra
khỏi chủ nhân của chúng trong các mơ hình bảo tổn qua nhiều thập kỷ (Phạm
Quổc Quân 2010).
Như vậy, một trong những nguyên tắc bảo tồn cản bản là trao cho các cộng
đổng quyển trao truyền di sản vàn hóa của họ từ thế hệ này sang thế hệ khác
(Jingfang 2001). Nói cách khác, các cộng đồng phải có quyền bảo tồn bản sắc
văn hóa riêng của họ, đặc biệt là quyển xác định và quyết định họ muốn gì và
văn hóa của họ sẽ ra sao. Thêm vào đó, các cộng đồng phải có cơ hội thể hiện
văn hóa cho chính họ và cho thế giới bên ngoài. Đây mới thực sự là những
hành động đích thực cùa việc khơi phục và bảo tổn, phát huy di sản văn hóa
(Salemink 2001: 211). Quan điểm này cũng phù hợp với định nghĩa vể di sản
văn hóa phi vật thể của Cơng ước 2003 (Điểu 2), theo đó “chỉ bản thân cộng
đổng mới có thể quyết định cái gì là (hoặc khơng là) một phẩn trong di sản cùa
họ - không một nhà nghiên cứu, chuyên gia hay cán bộ nào có thể làm thay
họ” (Dưvelle 20] 1: 21).
22
I Bảo tồn và phát huy di sản văn hỏa.
II. Hiện đại hóa và bảo ỉồn di sản: thuận lơi và thách thức
9
9
»
•
Qua nghiên cứu bốn di sản văn hóa - tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương, hội
Gióng, tháp Bà Poh Nagar và văn hóa cổng chiêng của người Lạch, nhóm
nghiên cứu nhận thấy trong q trình hiện đại hóa ở Việt Nam, có ba vấn đề
lớn tác động trực tiếp đến việc bảo tổn và phát huy di sản văn hóa, đó là: quan
điểm và phương pháp bảo tổn, sự thay đổi kinh tế - xã hội và văn hóa, và sự
phát triển của du lịch. Tuy nhiên, ảnh hưởng của ba vấn để này thể hiện ở
các mức độ khác nhau đối với mỗi loại hình di sản cũng như đối với từng địa
phương. Trong khuôn khổ bài viết này, nhóm nghiên cứu chỉ tập trung nhận
dạng và phân tích những thuận lợi và thách thức của ba vấn để trên đối với
công tác bảo tổn di sản văn hóa trong khoảng thời gian ba thập niên trở lại đây
cũng như xem xét những thực hành tốt trong việc xừ lý ba vấn để này tại bổn
điểm nghiên cứu.
2.1. Quan điểm và phương pháp bảo tổn
Bảo tổn có chọn lọc là q trình phân loại, xếp hạng, cơng nhận, bảo tốn và
phát huy một số thực hành văn hóa này trong khi hạn chế, loại bỏ những thực
hành văn hóa khác (Evans 1985). Bảo tổn có chọn lọc liên quan tới phương
pháp sân khấu hóa hay dân gian hóa ựolklotáation), một trong những phương
pháp bóp méo sản phẩm văn hóa, thay đổi phong cách biểu đạt của các di
sản văn hóa nhằm đơn giản hóa ý nghĩa và thẩm mỹ của chúng (Seitel 2002:
6). Bảo tổn có chọn lọc cũng liên quan tới quá trình “sáng tạo truyền thống”
(invention o/tradition), sử dụng thuật ngữ của Hobsbawm và Ranger (1983) về
những “truyền thống” mới được “sáng tạo” nhằm các mục đích chính trị. Hoạt
động “sáng tạo” này khác với tính sáng tạo của cộng đồng chủ nhân di sản văn
hóa, được Cơng ước 2003 khuyến khích và bảo vệ.
Bảo tổn có chọn lọc
Sau khi giành được độc lập, việc xố bỏ hoặc hạn chế các thực hành văn hóa bị
coi là “lạc hậu” đã trở thành một phẩn của cuộc vận động xây dựng con người
mới và nển văn hóa mới xã hội chủ nghĩa. Quan điểm ‘bảo tổn có chọn lọc, được
đặt ra từ Báo cáo văn hóa nảm 1948 và nhấn mạnh lại trong chỉ thị 27-CT/TW
ngày 12/1/1998 của Bộ Chính trị: “Bảo tổn có chọn lọc, cải tiến, đổi mới những
phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc; loại bỏ dẩn trong cuộc sống những hình
thức lỗi thời, lạc hậu; nghiên cứu xây dựng và hình thành dần những hình thức
Rảo tổn và phút huy di sản vãn hóa... I 23
vừa văn minh, vừa giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc! Quan điểm bảo
tổn có chọn lọc dã trở thành ‘kim chì nam’ trong phương pháp bảo tõn và phát
huy di sản văn hóa trên cả nước. Nội dung của phương pháp bảo tổn này được
thể hiện rỏ trên hai mặt: 1) Phân loại giá trị cao - thấp’ giữa các di sản vản hóa
khác nhau; 2) Phân loại giá trị của các yếu tố trong cùng một di sản văn hóa (vật
thể - phi vật thể, tốt - xấu, hiện đại, tiên tiến - lạc hậu, lãng phí, mê tín dị đoan,
V.V.). Hạn chế của quan điểm và phương pháp này trong các chính sách bảo tồn
di sản văn hóa đã được nhiều nghiên cứu để cập đến (Evans 1985; Oscar 1997;
Malita 2006). Ở một khía cạnh nào đó, quan điểm và phương pháp bảo tổn có
chọn lọc đã tạo ra một số rào cản trong việc bảo tổn và phát huy các loại hình di
sản vàn hóa khác nhau trong quá trinh hiện đại hóa.
-ác động của quan điểm và phương pháp bảo tổn có chọn lọc biểu hiện khá
JÕ nét qua nghiên cứu di sản văn hóa cổng chiêng của người Lạch. Tuy diễn
Hỉớng cổng chiêng không trực tiếp bị cấm, song sự cấm đoán các thực hành
Ún giáo bản địa bị coi là ‘mê tín dị đoan và ‘lãng p h f trong khoảng thời gian
khá dài, nhất là từ sau năm 1975 đến cuổi những năm 1990, đã làm mất đi
rhiểu lễ hội có diễn xướng và truyền dạy cổng chiêng. Theo anh Bút, nguyên
cán bộ văn hóa huyện, hiện là chủ một CLB giao lưu cơng chiêng tại đây, đến
tìn cuối những năm 90, người dân ở Bon Dơng vẫn không được phép làm lễ
ăn trâu để mừng lúa mới và bỏ mả (pổ thi), hai trong những nghi lễ có sử dụng
rhiểu bài chiêng, vì “hổi đó ta đói nghèo nên chủ trương là phải tiết kiệm,
rên mây ông cán bộ nói chúng ta tính tốn xem một con trâu làm lợi được
tao nhiêu và chúng ta xả thịt ăn như vậy thì phí q, rồi thì rượu chè mất thời
gian..” 1Trong trường hợp bắt buộc không thể không tổ chức ăn trâu, người
cân chi dám lén lút giết trâu vê cúng, không dám tổ chức nghi lễ theo nghi
tiức truyền thống và càng không dám sử dụng cổng chiêng.
Trong hội Gióng, ‘bảo tồn có chọn lọc được thể hiện qua chính sách đơn giản
bóa lễ hội nhằm thực hiện mục tiêu ‘tiết kiệm’. Thánh Gióng là một trong Tứ
tót tử của tín ngưỡng người Việt và cũng là một trong những anh hùng dân
t k huyền thoại đẩu tiên của lịch sừ Việt Nam. Chính vì vậy, ngay sau khi hòa
bnh được lập lại ở miền Bắc năm 1954, hội Gióng đã được khơi phục và tổ
ciức một cách trọng thể trong ba năm liền (1956-1958). Giống như nhiều di
1 Phỏng vấn ngày 9 tháng 8 năm 2011 tại thị trấn Lạc Dương, Lâm Đồng. Để bảo vệ thơng
tin cá nhân của người được phỏng vấn, tồn bộ tên riêng sử dụng trong báo cáo này đều
đã được thay đổi.
24 I Rảo tổn và phát huy ái sản vãn hóa.
sản văn hóa khác trên cả nước, hội Gióng cũng chịu sự tác động của các chính
sách quản lý văn hóa của nhà nưỏc. Theo truyền thống, hội Gióng được tổ
chức hàng năm, có sự tham gia đầy đủ của các vai trong hội như ông hiệu,
cô tướng, phù giá, và khơng có sự phân biệt hội ]ệ - hội chính như hiện nay.
Ơng Bỉnh, giáo viên vể hưu, cho biết: “Trước năm 1945 thì hội nào cũng là
hội chính”.1Tuy nhiên, từ năm 1980 đến 1998 (gần 20 năm liên tục), Đảng ủy,
chính quyển, Mặt trận Tổ quốc và BQL đã tiến hành tổ chức hội chính ba lần
vào các nảm 1983, 1989, 1995. Các năm còn lại2 chỉ tổ chức hội lệ, tức là vẫn
duy trì hội Gióng, nhưng chỉ có bốn ơng hiệu (thiếu hai ỏng hiệu so với hội
chính), khơng có phù giá, cơ tướng. Ngồi ra vẫn thực hiện ngoại đàn rước cỗ,
khám đường và đánh cờ một trận cuối ờ Soi Bia (Phù Đồng). Mô hình hội lệ,
theo ơng Bỉnh, là phương thức tổ chức lễ hội nhằm mục đích tiết kiệm trong
hồn cảnh kinh tế khó khăn thời bao cấp. Phương thửc này đã được thể chế
hóa vào năm 1984, sau khi Bộ Văn hóa và thành phố Hà Nội cùng UBND xã
Phù Đổng tồ chức hội thảo vể hội Gióng. Quan điểm ‘tiết kiệm’ cũng được
nhấn mạnh trong Chỉ thị 27-CT/TW ngày 12/1/1998 “về việc thực hiện nếp
sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội”.
Thực tế cho thấy, chính sách tiết kiệm trong lễ hội khơng hồn tồn phù hợp
với nhu cầu của người dân địa phương. Cộng đổng địa phương vẫn mong
muốn tổ chức lễ hội theo nể nếp đã được trao truyền qua nhiều thế hệ. Phẩn
lớn người dân chỉ muốn tham gia phục vụ hội chính dù tốn kém vê' công sức,
thời gian và tiền của. Ở hội lệ, sự nhiệt tình của nhân dân giảm dần, dẫn đển
có năm có thơn khơng vận động được người tham gia hành hội, thiếu vai ơng
hiệu. Có nảm phải vận động các cụ ở BQL đảm nhiệm các vai ông hiệu để duy
trì lễ hội theo đúng bài bản cùa lễ hội cổ truyền (theo sổ hội lệ, bản đánh máy
1998). Giải thích về hiện tượng này, ơng Bỉnh cho biết để tham gia đóng vai
ơng hiệu, dù là trong hội chính hay hội lệ, gia đình cùa ơng hiệu vẫn phải chi
phí một khoản như nhau, Tuy nhiên, ơng hiệu trong hội chính có giá trị hơn
nhiểu, cả về mặt xã hội lẫn mặt tâm linh, so với ông hiệu của hội lệ.3
Ở tháp Bà, ‘bảo tồn có chọn lọc’ nằm ở sự phân loại và ưu tiên bảo tổn các
yếu tố khác nhau trong cùng một di sản. Theo ông Báng, nguyên cán bộ Bảo
1
Phỏng vấn ngày 17/8/2011 tại xã Phù Đổng, Gia Lảm, Hà Nội.
2
Các năm 1980, 1981, 1982, 1984, 1985, 1986,1987, 1988, 1990, 1991, 1992, 1993, 1994,
1996,1997 và 1998.
3
Phòng vấn ngày 17/8/2011 tại xã Phù Đổng, Gia Lâm, Hà Nội.
Rảo tổn vả phát huy ải sản vàn hỏa... I 25
tang tinh Khánh Hồ, từ sau 1975, cơng tác bảo tổn di sản văn hóa cấp tỉnh
hầu như chỉ chú trọng đến di sản văn hóa vật thể, trong đó tập trung vào việc
kiểm kê, bảo quản và trùng tu tơn tạo di tích. Ơng Báng cho biết, để thực hiện
nhiệm vụ này, những hiện vật thờ cúng có giá trị tại tháp Bà như cặp voi gỗ,
tượng li nga đã được phục chế để bày tại tháp, còn bản gốc được đưa về lưu giữ
tại bảo tàng tỉnh.1
Trong khi dó, văn hóa phi vật thể, yếu tố tạo nên sức sống của di tích, lại
khơng được quan tâm đúng mức (mới chỉ dừng lại ở mức độ kiểm kê, lập hổ
sơ). Trong thực tế, theo ông Báng, công việc của ngành văn hóa đối với các
hoạt động tơn giáo, ]ễ hội tại tháp Bà chủ yêu chỉ có một nhiệm vụ duy nhất
là chổng ‘mê tín dị đoan. Thực hiện các chính sách nhà nước vế việc loại bỏ
những thực hành tơn giáo bị cho là mê tín dị đoan,2 từ sau năm 1975, một số
hoạt động tôn giáo liên quan diễn ra ở tháp Bà đã bị cấm. Khi tổ chức lễ hội,
việc xin xăm, in ấn những tài liệu về Thánh Mẫu cũng bị cấm. Việc xóc thẻ
cũng bị coi là mê tín, nên ban đẩu Sở Văn hóa giảm bớt việc xóc thẻ, hạn chế
in thẻ, bỏ bớt ống thẻ, tiến đến thủ tiêu bói thẻ. Theo Thông tư 28 TT/NC, đối
với những lễ hội thuộc vể loại danh lam thắng cảnh hay kỷ niệm lịch sử thì
việc xóc thè, bói thẻ phải cương quyết bỏ hẳn. Từ năm 1992, việc quản lý và tổ
chức lễ hội được chính thức giao cho Hội bảo trợ tháp Bà mới được thành lập,
nằm ngồi BQL di tích, tạo nên mâu thuẫn với Ban Khánh tiết của đình làng
Cù Lao, vổn là tổ chức điểu hành lễ hội tại tháp Bà trước đó.
Trong lễ hội truyền thống, thực hành nghi lễ, diễn xướng dân gian được trao
truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác, quá trình đào thải những yếu tố khơng
cịn ý nghĩa đối với cộng đơng, du nhập thêm những yếu tố mới phù hợp với
cuộc sống, xã hội hiện tại vẫn luôn diễn ra. Đây là điểm mà các ý kiến ủng hộ
bào tổn có chọn lọc thường đưa ra. Tuy nhiên, sự khác biệt căn bản của ‘bảo tổn
có chọn lọc nằm ở chỗ chính các cán bộ văn hóa quản lý di sản là tác nhân chủ
động vạch ra các tiêu chí xác định yếu tố truyền thống nào là ‘tốt’ nên giữ lại,
1
Sau khi một cán bộ bảo tàng bị bạo bệnh qua đời, người dân địa phương đồn rằng
nguyên nhân của cái chết xuất phát từ việc chuyền cặp voi gổ ra khỏi tháp. Chính vì thế,
bản gốc hiện nay đã được trả về chỗ cú tại tháp.
2
Quyết định của Hội đổng Chính phủ số 56-CP ngày 18/3/1975 về việc ban hành bản
Thề lệ về tổ chức việc cưới, việc tang, ngày giỗ, ngày hội, đã xác định "các việc xem bói,
xem số, xem tướng, gọi hồn, lên đồng, xóc thẻ, yểm bùa, cúng ma, bắt tà trừ ma, đội bát
nhang, đốt vàng mã, dùng phù phép chữa bệnh, v.v. là mê tín dị đoan".