DI SAN VAN HOA HỤE
NGHIÊN CỨU & BẢO TÒN
Ể& TgUNG TẦM »ịo Tịa ụ TÍCH CƠ 8 0 muậ
1P
PMÒNG NGHIÊN
cứu IÉMQẠHỌC
Huế - 2013
ờ i GIỚI THIỆU
D i sản văn hóa Huê trong mây thập niên vừa qua đã được cả thê
giớ i biết đên và ngưỡng mộ. Sự kết tinh trí tuệ của bao nhiêu thế hệ trên
miên đât này đã đê lại những di sản văn hóa vơ giá. Với lịch sử hơn 700
năm hình thành và phát triến, trong đỏ có 165 năm là thủ phủ của các
chúa Nguyễn, rồi Kinh đô của triều đại Tây Sơn (1636-1801) và 143
năm Kinh đô của vương triều Nguyền (1802-1945), H uế đã hội tụ tinh
hoa văn hóa của cả nước đê hình thành một nền văn hóa vơ cũng đặc
sắc từ kế thừa, tiếp biến và p h á t triển.
Nghiên cứu di sản văn hóa H uế là m ột cơng việc hình thành tắt
yêu từ m ây thê kỷ nay. Chính nhờ những thành quả của cơng tác này
cùng nơ lực bảo tôn, tu bô và quảng bá một cách toàn diện các di sản
văn hỏa trên cả ba lĩnh vực: văn hóa vật thể, văn hóa p h i vật thể và
cảnh quan môi trường, D i sản H uế đã hai lần được vinh danh trong
Danh mục Di sản Thế giới của UNESCO (Quần thể di tích cố đơ và Nhã
nhạc, Am nhạc cung đình Việt Nam). Và, cũng chính sự đăng quang của
di sản văn hóa trên lại có íác dụng thúc đấy cơng tác nghiên cứu Huế
càng lúc càng quy củ, càng đa dạng... đòi hỏi nhiều cơng sức và trí tuệ
hơn nữa.
Là một đom vị được Đ ảng và Nhà nước giao trọng trách gìn giữ
và p h á t huy cả 2 di sàn văn hóa được thế giới cơng nhận, Trung tâm
Bảo tơn D i tích Cơ đơ H ln nơ lực vận động đê kiện tồn bộ máy,
phát huy tơi đa cơng suất làm việc và năng lực sáng tạo của mỗi thành
viên, hồn thành tơt các nhiệm vụ được giao, đáp ứng lòng mong mỏi
của nhân dân gửi găm. Trong rất nhiều lãnh vực phải đầu tư hoạt động,
Trung tâm luôn đặt công tác nghiên cứu lên hàng quan yếu, xem đó là
mũi nhọn tiên phong trong lãnh vực bảo tồn. Trong 30 năm từ ngày
thành lập, thông qua đầu tư đủng mực cho công tác nghiên cứu và xuãt
bản, Trung tâm Bảo tồn Di tích c ố đô H uế đã cho ra m ắt độc già trong
và ngồi nước hơn 30 cơng trình khoa học, được bạn bè, đồng nghiệp
và các to chức nghiên cứu, bảo tổn trên thế giới nhìn nhận và đảnh giá
cao.
Ân phẩm D i sản Văn hóa H uế - Nghiên cứu & Bảo tồn đã được
xuất bản tập 1 năm 2007 và tập II năm 2012 là một tập san của cơng tác
nghiên cứu của Trung tâm Bảo tồn Di tích Co đô H uế đ ể công bổ những
thành quả nghiên cứu cũng như trưng cầu tư liệu hoặc tri thức của
những người quan tâm. Nhìn nhận hiệu quả tích cực của ân phâm đôi
với công cuộc bảo tồn di tích, lãnh đạo Trung tâm đã động viên khích lệ
đ ể ấn phẩm trở thành tập san thường niên của cơng tác nghiên cứu
trong Trung tâm.
Lần này, cũng mang tính chất thường niên, đồng thời lại nhân Kỷ
niệm 20 năm Quần thể Di tích c ổ đơ H uế đã được cơng nhận D i sản
Văn hóa Thế giới và 10 năm Nhã nhạc, Ấm nhạc cung đình Việt Nam
được vinh danh là Kiệt tác Văn hóa Phi vật thể và Truyền khẩu của
nhân loại, chúng tôi cho ra m ắt ấn phẩm D i sản Văn hóa H u ế - Nghiên
cứu & Bảo tồn tập III ngõ hầu bày tỏ sự trân trọng đối với công sức
nghiên cứa văn hóa H uế của các tác giả, và hy vọng đây sẽ là một món
quà có ỷ nghĩa trong ngày lễ kỷ niệm hai sự kiện trọng đại của di sản
Cổ đô H uế
M ặc dừ đã đầu tư khả nhiều tâm sức trong công tác tra cứu,
thâm định thông tin khi biên tập, song chắc hăn tập sách vân cịn những
thiếu sót, chủng tơi rất thành tâm mong mỏi nhận được những góp ỷ của
các tác giả gần xa, đ ể công tác nghiên cứu cùa Trung tâm ngày càng
quy chuẩn, vù các ấn phắm chất lượng sẽ ngày càng tốt hov.
Trân trọng.
Huế, ngày 9 tháng 9 năm 2013
TS PHAN THANH HẢI
Giám đốc Trung tâm Bảo tồn Di tích c ố đơ Huế
Huế trên dặm dài lịch sử
LỊCH S Ữ Đ À N G TRONG VIỆT NAM THẾ KỶ X V l-X V Ill
NHÌN T Ừ C Ẩ C TH Ủ PHỦ
Phan Thanh H ải
MỞ ĐẦU
Từ thế kỷ XVI-XVIII, xã hội Việt Nam có nhiều biến động lớn. Sự tranh
giành quyết liệt giữa các tập đoàn phong kiến đã khiến cho xã hội Việt Nam liên
tục bị xáo động, đất nước bị phân liệt, chia cắt kéo dài. Tuy nhiên, đây cũng là
thời kỳ Việt Nam có những bước phát triển vượt bậc. Đó là sự mở rộng lãnh thổ
về phía Nam, sự phát triến mạnh mẽ của kinh tế hàng hóa cùng các mối quan hệ
giao lưu quốc tế, và sự hình thành nên một loạt các đơ thị - cảng trên khắp miền
đất nước như Phố Hiến, Thanh Hà, Hội An, Nước Mặn, Sài Gòn... Đặc biệt là sự
xuất hiện của Đàng Trong trên vùng đất phía Nam, tồn tại như một miền đất mới,
mang dáng dấp của một quốc gia độc lập, tạo thêm sinh lực và làm phong phú lên
rất nhiều cho bản sắc văn hóa Việt Nam.
Cùng với sự hình thành và phát triển của Đàng Trong, thủ phủ của nó đă
có một q trình thay đổi và phát triển liên tục và ln có vai trị to lớn đối với
tất cả mọi mặt đời sống chính trị, xã hội, quân sự, kinh tế, văn hóa của vùng đất
mới này. Tính từ khi Nguyễn Hồng vào Nam đến khi quân Trịnh chiếm được
Phú Xuân-Huế (1558-1775), Thủ phủ của Đàng Trong đã trải qua 8 lần dời dựng
thay đổi vị trí(l). Ở mỗi thời kỳ, tầm vóc, qui mơ cũng như vai trị của thủ phủ đối
với Đàng Trong đều có sự khác biệt. Nhưng cỏ thể nói, với tư cách là đầu năo về
chính trị, quân sự, văn hóa, xã hội, các thủ phủ ln có sự chi phối mạnh mẽ đến
sự hưng suy của Đ àng Trong và ảnh hưởng đến cả lịch sử Việt Nam trong giai
đoạn này.
Tác giả bài viết đặc biệt quan tâm đến lịch sử phát triển của Đàng Trong
trong quan hệ tương tác nội sinh với thủ phủ/kinh đơ của nó và q trình Đơng
Tiến sĩ. G iám đốc Trung tâm Bảo tồn Di tích c ố đơ Huế
(1) Đ ó là Ái T ử (1558-1572), T rà Bát (1572-1600), Dinh C át (1600-1626) đến Phước Yên (1626-1636),
Kim Long (1636-1687), Phú X uân lần thứ nhất (1687-1712), Bác V ọng (1712-1738) và Phú X uân lần thứ
2 (1738-1775).
7
Nghiên cứu và Báo tồn
Nam Á hóa của Việt Nam. Trên góc độ này, người viết cho rằng, lịch sử Đàng
Trong là lịch sử hình thành một vương quốc mới ở Đông Nam Á gắn liền với sự
hỉnh thành của một trung tâm chính trị, văn hóa mới là Phú Xuân-Huế. Với vị thế
đặc biệt cùa mình, từ cuối thế kỷ XVIII đến năm 1945, trung tâm này đã thay thế
vai trị của Thăng Long để trở thành kinh đơ của nước Việt Nam thống nhất.
1. Nguyễn H oàng và những thủ phủ đầu tiên bên sơng Thạch Hãn
Nguyễn Hồng (1525-1613) là vị chúa đầu tiên của dòng họ Nguyễn xây
dựng cơ nghiệp ở vùng đất mới Thuận - Quảng, ô n g là người đặt nền m óng cho
sự hình thành của Đàng Trong, những thủ phủ đầu tiên mà ông xây dựng bên bờ
sông Thạch Hãn-Quảng Trị cũng là sự chuẩn bị có tính chất tiền đề cho việc hình
thành trung tâm Phú Xn-Huế sau đó.
Năm 1558, Nguyễn Hoàng vào nam với tư cách một vị tướng của triều Lê
Trung Hưng để trấn thủ đất Thuận Hóa. Thực chất, cuộc ra đi của ơng là sự đào
thốt khỏi triều đình, nơi đang xảy ra cuộc cạnh tranh khốc liệt về quyền lực giữa
hai dịng họ có cơng trung hưng lại triều Lê: họ Nguyễn và họ Trịnh. Nguyễn
Hoàng, người kế thừa của dịng họ Nguyễn phải tìm một phương trời mới để
dung thân và tạo lập cơ nghiệp. Trong bối cảnh đó, Thuận Hóa là cơ hội và cũng
là nơi thử thách ý chí và tài năng của Nguyễn Hồng. Trên vùng đất mới, Nguyễn
Hồng khơng đóng lỵ sở tại các trung tâm cũ của Thuận Hóa như thành Thuận
Châu hay thành Hóa Châu mà ơng lại xây dựng trấn dinh ngay trên bãi cát trắng
ở ngã ba sơng Thạch Hãn-Ái Tử. Từ đó cho đến khi ơng qua đời, trung tâm
quyền lực của đất Thuận Hóa, rồi cả Đàng Trong chỉ di chuyển loanh quanh tại
khu vực này(1).
Khi khảo sát vùng tam giác hình thành bởi 3 con sơng Thạch Hãn-Ái TửVĩnh Phước để tìm dấu vết các dinh Ái Tử (1558-1570), Trà Bát (1570-1600) và
Dinh Cát (1600-1626), người viết đã không ngừng băn khoăn về sự chọn lựa của
chúa Tiên Nguyễn Hoàng, v ấ n đề chỉ được sáng tỏ khi tác giả phát hiện ra vị trí
chiến lược của xứ sở cát nhiều hơn đất này.
(1) Trên thực địa, các địa danh Ái Tử, Trà Bát và Dinh Cát đều nằm trên m ột địa bàn khá hẹp thuộc 2 xã
Triệu G iang và T riệu Ái, huyện T riệu Phong, tỉnh Q uảng Trị (riêng Ái Tử đâ trở thành thị trân huyện lỵ
huyện T riệu Phong từ tháng 6.1993). Toàn bộ vùng đất trên được giới hạn bởi, phía đơng là sơng Thạch
Hàn, m ột dịng sơng lớn của tỉnh Ọ uảne Trị, phía tây là sơng Ai Từ, m ột chi lưu của sơng Thạch H ăn và
phía tây bắc là sơng Vĩnh Phước, m ột chi lưu khác cũng của sông Thạch Hãn. T ừ kêt quả nghiên cứu các
nguồn tư liệu, nhất là hệ thống bản đồ cổ, kết hợp với việc khả sát thực địa, người viết đà tim ra rất nhiêu
dấu tích liên quan đên ba thủ phủ đầu tiên.
8
H uế trên dặm dài lịch sử
Vùng đất Ái Tử-Trà Bát (nay là Trà Licn) tưởng như trống trải và bất lợi
về mọi mặt nhưng thực chất là địa bàn có tính chiến lược quan trọng bậc nhất ở
phía bắc Thuận Hóa. Án ngữ ngay bên con đường bộ Thiên Lý, giữa khu vực tam
giác lọt giữa 3 dịng sơng Thạch Hãn, Ái Tử và Vĩnh Phước, vùng đất này đúng
là chồ yết hầu của mọi tuyến giao thông. Chi đóng lỵ sở tại đây, Nguyễn Hồng
mới khống chế được cả tuyến đường thủy bộ Bắc-Nam(1), cả hành lang giao
thông và giao lưu kinh tế Đông-Tây (từ cửa khấu Lao Bảo và các “nguồn” ở phía
tày về Cửa Việt). Từ đây ra vùng đất đỏ Do Linh -Hồ Xá, nối liền với sông Hiền
Lương (xưa gọi là sông Minh Linh) về cửa Tùng cùng khá gần và rất thuận tiện.
Thêm nừa, đất Quảng Trị vốn là một trung tâm kinh tế rất quan trọng ở phía bấc
vương quốc Champa. Đây là một trung tâm cung cấp hồ tiêu và nhiều loại hương
liệu quý cho thị trường nhiều nước trên thế giới(2>. Ở phía bắc Đường 9, trải dài
từ Do Linh đến Hồ Xá cho đến nay vần còn bảo tồn cả một hệ thống giếng cổ
(giếng khơi) vốn phục vụ cho việc tưới hồ tiêu của cư dân bản địa thời tiền
Chămpa, Chămpa, rồi được họ Nguyễn kế thừa và phát huy từ cuối thế kỷ XVI.
Cố giáo sư Trần Quốc Vượng cho rằng cửa Việt và cửa Tùng đều là
những cảng thị quốc tế quan trọng của người Chămpa, từng rất thịnh đạt trong
thời Đường (TKVIl-IX) và được các chúa Nguyễn kế thừa rất tốt ớ các thế kỷ
XVI-XVII. Khảo sát tại vùng Quảng Trị, đoàn điều tra khảo cố học của ông cũng
đã phát hiện một số di chỉ bến cảng cổ cùng các hiện vật gốm sứ có niên đại từ
thế kỷ VII đến XVI-XVII ở gần hai cửa biển và dọc hai tuyến sơng chính (sơng
Thạch Hãn và sông Hiền Lương)*'’.
' " c à 3 dinh Ái Từ, Trà Bát và Dinh Cát đều nằm sát bên con đường Thiẻn Lý từ Bắc vào Nam. X em các
bàn đ ồ cồ về vùng Thuận Hóa như Thiên N am Tứ ch í Lộ đo th ư
(vẽ năm 1686), G iáp
ngọ niên B ình Nam đơ
(được cho là vẽ vào năm G iáp ngọ 1774, riêng Li Tana cho răng vẽ
vào cuối thế ký XVII, khoảng từ năm ỉ 687-1690) đều có thê thấy rõ điều này. Lê Q uý Đ ôn trong Phủ
biên tạp lục jf e } Ề ítÌ ậ c ũ n g mơ tả trấn dinh của họ N guyễn (dinh Ái T ử năm 1775) và cựu dinh Ái T ử đều
năm gần đường Thiẻn Lý. Ket quả khảo sát thực địa của tác giả cũng đã xác định rò các vị trí này đều
nằm kề cận tuyến giao thơng cà đường thủy và đường bộ từ Bắc vào N am (Xem: Phan Thanh Hải, “ Hệ
thống Thủ phủ các chúa N guyễn trên đất Q uảng Trị và Thừa Thiên- H uế” , Tc Thông tin Khoa học và
C ông nghệ Thừa Thiên- H uế, số 1, Phần I: “N hững Thủ Phủ Đ ầu Tiên Trên Đất Ọ uảng Trị: Ái Tử, Trà
Bát, Dinh C át” , Huế, 1998).
(2) Tại Hội thảo ‘T h a y đồi của văn hóa truyền thống ở Thừa Thiên Huế: tiếp cận nhân loại học và sử học
trong và ngoài nước” ngày 30/8/2008 tại H uế, Trằn Kỳ Phương cho rằng, trong thời kỳ hưng thịnh cúa
vương quôc Cham pa, Q uảng Trị là m ột trung tâm kinh tế quan trọng do là nơi sản xuất và cung cấp hồ
tiêu và m ột sô hương liệu quý đê xuât khâu. Q uảng Trị lại có cả khẩu Lao Bảo nối thơng với miên Tây
(qua Lào, Thái Lan, Miên Đ iện) nên rât thuận lợi cho việc trao đơi hàng hóa Đ ơng-Tây. Chính vì vậy, cư
dân ờ đây rất giàu có và họ đủ sức xây dựng nhừng đền tháp rất lớn.
(3> Trần Q uốc Vượng, “Vài suy nghĩ về văn hóa Q uảng Trị cổ”, in trong sách Việt Nam cái nhìn địa vãn
hỏa, N xb V ăn hóa Dân tọc và T ạp chí Văh hóa Nghệ thuật, H à N ội, 1998, tr 356-364.
9
Nghiên cứu và Bảo tằn
Tuy nhiên, Nguyễn Hồng đã khơng lựa chọn thành Thuận Châu hay Hóa
Châu, những trung tâm hành chính cũ của người Chăm pa (vốn hơi dịch sát về
phía biển) làm lỵ sở, mà lại chọn vùng Ái Tử-Trà Liên, khu vực có vị thế quan
trọng hơn trong việc kết nối các tuyến giao thông theo cả hai trục Đơng-Tây và
Bắc-Nam. Điều này cịn có ý nghĩa quan trọng trong việc phát triến nền kinh tế
của vùng đất mới: kết họp làm ruộng lúa nước theo truyền thống người Việt ở
miền Bắc (trục Bắc-Nam ) với kinh tế buôn bán trao đổi vốn là thế mạnh của cư
dân bản địa (trục Đơng-Tây), m ột mơ hình kinh tế độc đáo mà A.Hardy đã phát
hiện và phân tích khá kỳ(l). Như vậy, ngay trong việc lựa chọn vị trí để xây dựng thủ
phủ, chúa Tiên Nguyễn Hồng đã cho thấy sự tinh tế và tầm nhìn chiến lược của ơng.
Trên vùng đất mới, N guyễn Hồng đã tự do thi triển tài năng của m ình và
ơng đã cực kỳ thành công khi lựa chọn m ột hướng đi mới: Tiếp thu và bản địa
hóa chính m ình, hay nói cách khác, ơng đã thốt ly hẳn mơ hình Nho giáo của
triều Lê để Đ ơng N am Á hóa cả m ơ hình kinh tế, chính trị và văn hóa cho vương
triều mà ơng ươm mầm và khai sinh.
Trước hết là về kinh tế, nền tảng quyết định cho mọi sự thành cơng khác.
N guyễn H ồng đã sáng suốt nhận ra những ích lợi to lớn của ngoại thương và đã
nhiều lần chủ động mời gọi thương nhân nước ngồi đến bn bán<2). Khu vực
trấn dinh của chúa N guyễn không phải nằm trên một vựa lúa mà lại nằm trên
giao điểm của tuyến đường trao đổi bn bán Đơng-Tây. Điều đó cho thấy, dù
vẫn m ang theo tư duy kinh tế nông nghiệp truyền thống của người Việt ở phương
Bắc - bám vào lưu vực các con sơng để canh tác, Nguyễn Hồng đã nhận ra lợi
thế và coi trọng hơn tư duy kinh tế trao đổi buôn bán của người Chămpa. Trong
(1) Với nhiều năm nghiên cứu về vấn đề này, Andrevv H ardy cho rằng, trong khoảng từ thế kỷ X V I-X V IH ,
nền kinh tế của các chúa N guyễn ở Đ àng T ro n g là m ột “nền kinh tế lai tạp” giữa hai mơ hình kinh tê khác
biệt: K inh tế C hăm P a dựa vào trao đổi bn bán hàng hóa có giá trị cao g iữ a m iền núi và m iền biển, theo
định hướ ng Đ ông-T ây, và m ô hình kinh tế V iệt N am truyền thống là kinh tế trồ n g lúa và di dân, theo định
hướng B ắc-N am . C hính hệ thống kinh tế lai tạp này là nhân tố chủ chốt tro n g sự thành công và trư ờ n g tôn
của chế độ các ch ú a N guyễn. X em Andrevv H ardy (2008), “N guồn trong kinh tế hàng hóa ở Đ àng T ro n g ”,
in trong Kỷ yêu H ội thảo khoa học C húa N guvên và Vương triều N guyên tro n g lịch s ử Việt N am từ th ê kỷ
X V I đến th ế kỷ X IX , N hà xuất bản T hế G iới, tr 56 và 64.
(2) N guyễn H oàng đã nhiều lần chủ động v iế t thư và tặng quà với m ục đích m ời M ạc phú T okugaw a của
N hật Bản cho thư ơ ng nhân đến Đ àng T rong buôn bán. X em thêm bài viết của cùng tác giả “ Vê n h ừ n g văn
thư trao đồi giữa chúa N guyền và N hặt B ản” , Tc N ghiên cứ u & P hát triền, số 4 (4/2006) Trong luận án
tiến sĩ của m ình, LiT ana, sau khi sử dụng rất nhiều tư liệu đê thống kê, so sánh cũng đã rút ra kêt luận:
"số thương thuyền tới buôn bán với Đ àng T rong vào đầu thế ký X V II đã vượt xa số thương thuyên tới
buôn bán với X iêm và C ao M iên. Đ àng T ro n g của họ N guyễn được đặt ở đầu danh sách các nước ờ lục
địa Đ ông N am châu Á có quan hệ thương mại với N h ật Bản" [Li T ana (1999), X ử Đ àng Trong, lịch sử
Kinh tế-X ã hội Việt N am th ế kỳ 17 và 18, Bản dịch củ a N guyễn N ghị, Nxb T rẻ, T P HCM , tr 84-85].
10
H uế trên dặm dài lịch sự
đợt khảo sát vào tháng 4/1997, người viết cũng đã phát hiện vết tích của một khu
vực cảng cố (hay một bến đỗ lớn) gần trấn dinh Ái Tử với vô số mảnh gốm sứ.
Qua so sánh đối chiếu và tham khảo ý kiến của một số chuyên gia thì được biết
ràng, các sản phẩm gốm sứ trên chu yếu có niên đại trong khống thế kỷ XIVXVIII. Ngồi đồ gốm sứ có nguồn gốc Trung Quốc thì cũng có các loại mảnh
gốm, vị sản xuất tại vùng Quang Trị-Thừa Thiên Huế(l). Sử liệu cho biết, từng
có nhiều thuyền bn nước ngồi lui tới vùng Cửa V iệt để buôn bán với chúa
N guyễn'2’. Trong thập niên 80-90 của thế kỷ trước, đoàn khảo sát của giáo sư
Trần Quốc Vượng cũng đã phát hiện khá nhiều dấu vết của các bến đồ hay cảng
cô ở vùng cứa sông và ven biên gần cửa Tùng, cửa Việt cùng nhiêu mảnh vỡ của
gốm sứ Nhật Bản (đồ Hizen), Trung Quốc và đồ gốm sành Việt Nam có niên đại
từ thế kỷ VI đến X V II-X V III(1). Điều này chứng tỏ việc giao lun buôn bán với
nước ngồi ơ vùng Q uảng Trị đã có từ thời Chăm pa và được chúa Nguyễn khơi
dậy, phát huy khi tiếp quản đất Thuận Hóa(4>.
Với tài năng phi thường của mình, chỉ sau hơn 10 năm cai trị, Nguyễn
Hoàng đã biết khơi dậy những tiềm năng đặc biệt của vùng đất mới (thực chất là
kế thừa cách thức m à người Chăm pa đã tìmg thực hiện) để thay đổi hồn tồn
diện mạo của Thuận Hóa vốn nơi danh là vùng Ô châu ác đ ịa :
"Chúa ở trấn hơn 10 năm, chính sự rộng rãi, quản lệnh nghiêm trang,
nhân dân đều yên cư lạc nghiệp, chợ không hai giá, khơng có trộm cướp. Thuyền
bn bán các nước đến nhiều. Trấn trở nên m ột nơi đô hội lớn ”(5).
về
chính trị, mặc dù ln giữ mối quan hệ mềm m ỏng với triều Lê-Trịnh
và chưa hề cải cách bộ máy hành chính vốn được thiết lập từ đầu triều Lê Trung
Hưng, nhưng Nguyễn Hoàng đã từng bước xác lập vị thế đặc biệt cùa mình trên
(l’ T rong các thế ký X V -X V III, tại T huận H óa có m ột số đ ịa ph ư ơ n g chuyên sản xuất đ ồ gốm rất nổi
tiếng, như Phước Tích (huyện Phong Đ iền, T hừ a T hiên Huế), Phước Lý (huyện V ĩnh Linh. Q uảng
Trị). . .N ăm 1994, đoàn khảo cổ của T rần Q uốc V ượng đà từng khai q u ật m ột lò gốm rất iớn ở Phước Lý
có niên đại thế kỷ X V II-X V III. X em T rần Q uốc V ương, “C ây văn hóa Ọ uảng T r ị ...” , sđd, tr385.
( Sừ triều N guyễn có ghi lại m ột vụ đụng độ g iữ a m ột thư ơng nhân N hật Bản là H iển Q u ý với quân đội
chúa N guyễn tại Cửa V iệt năm 1585. T rong văn thư trao đổi của N guyễn H oàng với M ạc phủ T okugaw a
lcyasu cũng nhăc đên sự kiện này (nhưng vào năm C anh T ý - 1600). Q ua đó, ta có thê th ây việc thun
bn nước ngồi đến khu vực này không phải là chuyện hiếm .
lJ| T rần Ọ uốc V ương, “C ây văn hóa Ọ uảng T r ị . s đ d , tr385.
(4) C ần chủ ý là từ thế kỷ X -X V , khu vực T huận H óa là vùng đ ất th ư ờ n g xuyên xảy ra tranh chấp g iữ a Đại
V iệt và Chăm pa. Việc giao thư ơng với nước ngoài tại khu vực này hầu như rất ít p h át triển. Chi sau khi
N guyễn H oàng vào trấn thủ tại đây, vấn đề ngoại thương m ới đ ư ợ c chú ý và gây dựng lại.
,5) Q uốc Sừ Q uán triều N guyễn (2004), Đ ại N am Thực Lục, Tập /, Bàn dịch V iện Sử học, N xb G iáo dục,
Hà Nội, tr 31.
11
Nghiên cứu và Bảo tơn
vùng đất mới. Ơng khéo léo tạo nên những huyền thoại mà trong đó ơng là đại
diện của một quyền lực mới được các thần thánh bản địa công nhận và ủng hộ.
Tại đất Quảng Trị, Nguyễn Hoàng đã đánh thắng đội quân rất mạnh do tướng nhà
Mạc là Lập Bạo cầm đầu với sự giúp đỡ của thần sông Ái Tử. Trên đất Huế, ông
trở thành nhân vật trung tâm trong huyền thoại “Bà Trời” hiện lên trên gị Hà
Khê để tị đó lập chùa Thiên Mụ, củng cố long mạch để phát triển vùng đất
Thuận H ó a'1\
Sau khi trở về từ đất Bắc năm 1600, Nguyễn Hồng đã quyết định gắn bó
cơ nghiệp của dịng họ mình với vùng đất phương Nam. Ơng đã có một loạt hoạt
động để tiếp tục xác lập và m ở rộng quvền lực của mình tại Thuận Quảng, chuẩn
bị cho sự ra đời của Đàng Trong*2’.
Keith W .Taylor cho rằng, Nguyễn •Hồng là người mở đầu cơng cuộc
Nam tiến của người Việt<3). Nhưng có lẽ cịn hơn thế, Nguyễn Hồng chính là
người đặt nền tảng cho sự ra đời của Đàng Trong và thủ phủ/kirih đô của nó, Phú
Xn-Huế.
2. S ự ra địi của Đ àng Trong và Phú Xuân-H uế
Sau khi Nguyễn Hoàng qua đời năm 1613, Nguyễn Phước Nguyên đã kế
thừa sự nghiệp của Tiên chúa, quyết tâm tạo dựng một cơ nghiệp riêng cho dịng
họ. Ơng đã tích cực phát triển binh bị, cải cách bộ máy hành chính của Thuận
Quảng theo mơ hình gần gũi với Đông Nam Á. Năm 1626, để chuẩn bị cho chiến
tranh với Đàng Ngồi, ơng đã cho dời thủ phủ vào làng Phước Yên bên cạnh
sông Bồ. Và sự ly khai của họ Nguyễn với triều Lê-Trịnh được chính thức bắt
đầu một năm sau đó đánh dấu bằng cuộc đại chiến giữa quân đội hai miền NamBắc. Đàng Trong chính thức ra đời.
(1) N hững huyền thoại này đều được ghi lại trong các sử liệu quan trọng cùa triều N guyễn như Đ ại Nam
thực lục, Đ ại Nam nhât thông chỉ, Đ ại Nam liệt truyện. Đ ây cũng là m ột cách thức quen thuộc đê chính
danh sự xuất hiện của m ột cá nhân trên vùng đất mới. Trên ý nghĩa này, những huyền thoại trên khơng
khác gì những huyền thoại gắn liền với Lý Thái Tồ (huyền thoại dời đô về Thăng Long) hay Lê Thái Tô
(huyền thoại về hồ G ư ơ m )...
(2) Sau khi từ đất Bắc về, N guyền H oàng đã cho chuyển trấn dinh từ Trà Bát sang Dinh Cát, khảo sát địa
hình vùng đất phía N am và cho dựng nhiều ngôi chùa quan trọng như chùa Thiên M ụ (1601), chùa Sùng
Hóa (1602).., dựng Dinh Chiêm và đưa N guyễn Phước N guyên vào trấn thủ đất Q uảng Nam; đặc biệt,
năm 1611, ông đã m ở m àn công cuộc N am tiến thời chúa N guyễn với việc bình định và lập ra đât Phú
Yên, đưa biên giới Thuận Q uảng từ đèo Cù M ông về đến mũi Đại Lãnh.
(3) Trên ý nghĩa này mà Keith W .T aylor đă đặt tên cho bài nghiên cứu của m ình !à “ N guyễn H oàng và sự
m ở đâu cuộc nam tiên của người V iệt” .
12
H uế trên dặm dài lịch sử
Thủ phu Phước Yên chỉ tồn tại trong 10 năm (1626-1636). Thời kỳ ngắn
ngủi này chi mang tính chất thừ nghiệm của chúa Nguyễn đối với việc xây dựng
thú phủ theo mô thức một đô thị (xem bản đồ tái hiện khu vực phú Phước Yên).
Ngay từ năm 1635, Nguyễn Phước Nguyên đã cho ràng, Phước n đã hết vai
trị lịch sử, ơng bắt đầu cho quy hoạch và xây dựng cung thất tại Kim Long, dưới
chân chùa Thiên Mụ( 1
Năm 1636, vị chúa đời thứ ba Nguyễn Phước Lan chuyển thủ phủ Đàng
Trong vào Kim Long, chính thức khai sinh ra đơ thị Huế(2) Ke từ khi chúa Tiên
Nguyễn Hoàng lập chùa Thiên Mụ đến thời điểm này đã qua ba vòng hoa giáp và
cũng trải qua đúng ba đời. Theo quan niệm truyền thống, long mạch đã được
củng cố, linh khí núi sơng đã sung mãn thịnh vượng. Vì vậy, sự ra đời của trung
tâm mới tại đất Huế là một tất yếu. Với vị thế là thủ phủ Đàng Trong, Kim Long
tồn tại trong 51 năm (1636-1687). Ngay trong thời kỳ này, Huế đã mang tầm vóc
của một đơ thị quy mô với trục liên kết kinh tế độc đáo: Kim Long-Thanh Hà-Hội An.
Kim Long là thủ phủ của chúa Nguyễn, là đầu não về chính trị, quân sự và
hành chính của Đàng Trong. Giáo sĩ A.de Rhodes luôn gọi đây là “thành phố
lớn” . Còn về cảng Thanh Hà, được hình thành gần như đồng thời với phủ Kim
Long, cách Kim Long 7 km về phía hạ lưu sơng Hương, thì bấy giờ đóng vai trị
là một trung tâm giao dịch thương mại có tầm cỡ quốc tế, nhằm đáp ứng các nhu
cầu về ngoại giao, kinh tế cho phủ chúa cũng như trên tồn khu vực Huế. Bên
cạnh đó, hệ thống các làng nghề thủ công ở vùng Huế đã xuất hiện khá nhiều.
Chúng nằm chung quanh khu vực phủ chúa hoặc đan xen trong các làng xã
chuyên sản xuất nông nghiệp<3). Sự phát triển của hệ thống làng mạc-dân cư (bao
(l> Q uốc Sừ Quán triều N guyễn (2004), Đ ại Nam thực lục, bản dịch cùa Viện Sử học, N xb G iáo dục, Hà
Nội, tr53.
(2) Tôn N ữ Q uỳnh Trân căn cứ trên các tiêu chí về đơ thị học của G ordon Childe cũng đã chứng minh
rằng, thù phủ Kim Long đã xứng tầm m ột đô thị thời tiền cận đại với đầy đủ các yếu tố: 1-Sự tập trung
dân cư, 2-Tập trung m ột lực lượng lớn thợ thủ cơng, 3-CĨ thặng d ư về nơng nghiệp, 4-C ó giai cấp đặc
quyền về chính trị, tơn giáo, 5-CĨ hệ th ố n g 'đ ền đài, dinh thự và các cơng trình cơng cộng, 6-CĨ nền
thương mại đường dài thơng qua cảng Thanh Hà, 7-CÓ phong cách thẩm mỹ riêng, 8-CÓ yếu tố chữ viết,
9- Có m ột số tiến bộ về khoa học kỹ thuật... X em Tôn N ữ Q uỳnh Trân (2006), “ Bàn thêm về thời điểm ra
đời của đô thị H uế”, Kỷ yếu Hội thảo 700 năm Thuận H óa-P hủ X uân-Thừa Thiên H u ế, Hội KHLS Thừa
T hiên Huê, Huê.
(3) Hệ thống làng nghề thủ công của nhà nước và dân gian đều có bước phát triển lớn cả về quy mơ, số
lượng và chất lượng m ặt hàng. H ệ thống chợ hình thành m ột m ạng lưới rộng lớn và có mối quan hệ chặt
chẽ từ chợ địa phương, chợ xã, chợ huyện, chợ khu vực, chợ trung tâm ... với những tên gọi phong phú:
ch ợ Hôm, ch ợ M ai, chợ Phiên, chợ D inh... V à cùng với sự phát triền của kinh tế sản xuất hànẸ hóa và
m ạng lưới lưu thơng phân phối, hệ thống kho tàng, bến cảng cũng hỉnh thành. X em các bản đồ thể hiện hệ
thông cảng, chợ, kho tàng, quán trọ của Đ àng T rong vào năm 1690 của LiTana, thời điểm thủ phủ chúa
13
N ghiên cứu và Bảo tôn
gồm cả làng thủ công và làng nông nghiệp) chung quanh hai trung tâm Kim Long
và Thanh Hà đã tạo nên vẻ trù phú, đông đúc đặc biệt của vùng Huế lúc bấy giờ.
Quan hệ giữa các thủ phủ Kim Long với cảng thị Thanh Hà có thể xem là
m ột mối quan hệ tiêu biểu của mơ hình kết hợp đơ + thị ở Việt Nam thời tiền cận
đại. Trên cùng hệ sông H ương, cách nhau chỉ khoảng 7km, Kim Long và sau đó
là Phú Xn (phần đơ) cùng Thanh H à (phần thị) đã tạo ra m ột mối kết hợp khá
lý tưởng. N gay từ ban đầu, sự ra đời của Kim Long gần như ngay lập tức kéo
theo sự xuất hiện của Thanh Hà, thể hiện rõ tính chất quyết định của phần đô đối
với phần thị, m ột đặc điểm tiêu biểu của đô thị Việt N am truyền thống. Tuy
nhiên, nó cũng phản ánh vai trị khơng thể thiếu của phần thị đối với phần đô
trong thời kỳ m ở cửa rất đặc biệt này.
Sự thành lập thủ phủ Kim Long và sau đó là Phú Xuân cùng với sự ra đời
của cảng thị Thanh Hà đã khiến cho các hoạt động kinh tế hàng hóa tại khu vực
Huế trở nên nhộn nhịp. Cung ứng các nhu cầu cho đô thị đầu não của Đàng
Trong, nơi tập trung cả triều đình họ N guyễn cùng đơng đảo quan lại, tướng lĩnh,
giai cấp quý tộc, binh lính..., m ột hệ thống tượng cục, làng nghề thủ công đã xuất
hiện ngày càng đông đảo, m ột m ạng lưới chợ lớn nhỏ đã hình thành và nối kết
với nhau để tập trung hàng hóa, sản phẩm về các đầu m ối lớn nhất tại Kinh đô
(Kim Long-Phú Xuân), rồi từ đó phân tiêu qua cảng thị quốc tế Thanh Hà. Diện
mạo một đô thị quy mô tại khu vực Huế, trải dài bên bờ sông Hương đã hiện ra
khá rõ nét. N gay từ thời kỳ đầu gắn với sông Hương, đơ thị ấy có "thành phố
lớn" Kim Long, có "thành phố nhỏ" Thanh Hà, tập hợp m ột số lượng cư dân
đơng đúc m à L.Cadière đã ước đốn là không thua kém số lượng cư dân thành
phố Huế đầu thế kỷ XX.
Hội An trong suốt thời kỳ tồn tại vẫn là thương cảng quốc tế lớn nhất của
Đ àng Trong. Các chúa N guyễn đã thực hiện một chính sách mở cửa rộng rãi để
phát triển ngoại thương, và họ đã thành công lớn. Thương nhân, thương thuyền
các nước từ Trung Quốc, N hật Bản, Bồ Đào Nha, Hà Lan... tấp nập kéo đến
Đ àng Trong, đặc biệt là Hội An. Cùng lúc với việc thủ phủ chúa Nguyền dời về
Kim Long và được xây dựng theo hướng một đô thị, thương cảng Thanh Hà được
N guyền m ới chuyên từ K im Long về Phú X uân được vài năm , chúng ta có thê thấy các tụ điêm kinh tê
biêu hiện cho phân thị này xuât hiện với m ật đ ộ dày đặc... X em Li T ana & A nthony Reid (2003),
Southern Vieínam u n d er the Nguvến, D o cu m en ts ơn the E conom ic H isto iy o f C ochinchina (Đ àng Trong),
Ỉ6 0 2 -I7 7 7 . E conom ic H istory o f S outheast A sia P rọịect-R esearch School o f Pacitìc Studies, A ustralian
N ational U niversity C anberra and A sean E conom ic R esearch U n it-ỉn stitu te o f Southeast A sian Studies
Singapore.
14
H uế trên dặm dài lịch sử
thành lập ở gần đó làm đại lý để phân tiêu nguồn hàng hóa từ Hội An đến Kinh
đơ. Đây chính là lý do tại sao, suốt trong thời kỳ này phố Thanh Hà - tên gọi về
m ặt hành chính, lại thuộc về phố Hội An ở Q uảng Nam. Thông qua Thanh Hà,
kinh đơ Kim Long đã có tác động mạnh mẽ đến tình hình thưưng nghiệp Hội An,
bới phần lớn nhu cầu hàng hóa nhập khấu đều xuất phát và được quyết định từ
đầu não này. Ngược lại, Hội An ra đời và phát triển với tính cách là một trung
tâm tập trung và phân phối hàng hóa nhập từ bên ngồi vào. Ngồi ra, Hội An
cịn là trưng tâm tập trung các nguồn hàng hóa của Đàng Trong nhất là phía Nam
đèo Hải Vân đế xuất khấu. Mãi đến cuối thời các chúa Nguyễn, tỉnh hình này vẫn
khơng thay đối. Lê Q Đơn đã ghi nhận: "Phàm hóa vật sản xuất ở phủ Thăng
Hoa, Điện Bàn, Quy N hơn, Bình K hang và dinh Nha Trang, đường thủy, đường
bộ, đi thuyên, đi ngựa đêu hội tập ở bên H ội An, vì thế khách phư ơ ng Băc đều tụ
tập ở đây đê buôn bán về nước. Trước đây hàng hóa nhiều lắm, dù trăm chiếc
tàu to chở cùng m ột lúc cũng không đi hết đư ợ c'AU. Như vậy, với thị trường nội
địa, Hội An là đầu mối thương nghiệp của đất Đàng Trong; còn với thị trường
quốc tế, Hội An cũng là cửa ngõ thương mại lớn nhất của tồn xứ sở(2>. Với kinh
đơ Kim Long, Phú Xuân, Hội An là phần thị rất đặc biệt, có ảnh hưởng hết sức
quan trọng đối với sự phát triển và mức độ phồn thịnh của các trung tâm đầu não
này. Hội An đối với Đô thành của họ Nguyễn không chỉ là m ột cảng thị quốc tế,
là “cửa sổ” nhìn ra thế giới, mà cịn là nơi cung cấp nguồn năng lượng chủ yếu
cho mọi hoạt động, đặc biệt là cho cuộc chiến tranh với 'Đàng Ngoài và cơng
cuộc mở đất về phương Nam. Trên m ột góc độ nào đó, quan hệ giữa Kim LongPhú Xuân với Hội An khá giống mối quan hệ giữa Thăng Long và Phổ Hiến ở
Đàng Ngoài. Tuy nhiên, về mức độ chi phối, ảnh hưởng lẫn nhau thì mối quan hệ
giữa Kim Long, Phú Xuân với Hội An gắn bó chặt chẽ, sâu sắc hơn nhiều. Trong
con mắt các chúa Nguyễn, đất Q uảng Nam và Hội An ln ln có vị trí chiến
lược đặc biệt quan trọng. Vì vậy, các thế tử được lựa chọn để kế vị bao giờ cũng
có một quãng thời gian thực tập ở cương vị trấn thủ dinh Quảng Nam bao gồm
m Lê Quý Đôn (1977), L ê Q uỷ Đ ơn tồn tậ p , T ập 1: Phủ biên tạp lục, bán dịch của V iện Sừ học,
N xbK H X H . Hà Nội, tr 234.
121 T rone nghiên cứu của m ình về vai trò của biển ờ Đ àn g T rong, C harles W heelcr cũng nhấn m ạnh 2
điếm : l-T hời kỳ lập quốc gan với chúa N guyễn (1 558-1777), các cản g biền Việt N am đã có nhũ n g sự
phát triển ke thừa không thua kém những ho ạt độ n g vốn có trước đó. điển hình là cảng Hội A n; 2-Càng
Hội An như m ột điếm sáng về m ậu dịch khu vực, trong m ối quan hệ hội nhập m ột cách thuần thục và
quan trọng, đôi với con đư ờ ng hàng hải liên quốc gia. Đ ày là cảng biển cực thịnh trong suốt các thế ky
X V il-X V III được dùng như một điêm xuất nhập khâu với những chuyến tàu phục vụ cho m ậu dịch đường
biến châu Á. và đã cạnh tranh thành công trước các hải cảng châu Á khác. X em N guyễn Hữu T hòng
(2010), "B iển trong lịch sư Việt N am dưới góc nhìn cùa C h arles VVhecler (dần liệu từ vùng ThuậnQ uàna), Tạp chí Phát triển kình té xã hội Đù XằiìíỊ, sơ 3-4, tr87.
15
Nghiên cứu và Bảo tồn
phố cảng Hội An. Điều đó có nghĩa là, họ Nguyễn đã coi việc nắm giữ và điều
hành được Hội An và Quảng Nam là điều kiện bắt buộc trước khi nắm quyền
điều hành toàn xứ sở Đàng Trong.
Thời kỳ phát triển của thủ phủ Kim Long cũng là thời kỳ Đàng Trong
được m ở rộng mạnh mẽ về phía Nam, nhất là trong thời Nguyễn Phước Tần
(1648-1687).
Năm 1687, chúa Nguyễn Phước Thái chuyển phủ chính về phía hạ lưu 5
dặm, đặt trên đất Phú Xuân, biến Kim Long thành phủ thờ(l). Vị trí trung tâm của
Huế trên Vương đảo (vùng đất tạo bởi hai con sông Hương và Kim Long) được
xác định không chỉ để hài hòa hơn về phong thủy mà còn hợp lý hon trong việc
mở rộng quy mô đô thị và phát triển kinh tế. Phú Xuân trong thời kỳ này đã thực
sự trở thành đàu mối để điều tiết hoạt động kinh tế của Đàng Trong theo cả hai
trục Bắc-Nam (kinh tế nông nghiệp) và Đông-Tây (kinh tế trao đổi thương
nghiệp). Chính vì vậy, dù có thời kỳ phủ chính chuyển ra làng Bác Vọng (17121738) nhưng vị thế và vai trị của Phú Xn Huế vẫn khơng thay đổi.
Năm 1738, chúa Nguyễn Phước Khốt chuyển phủ chính về lại Phú Xn,
mở rộng quy mơ đơ thị và sau đó chính thức gọi thủ phủ của Đàng Trong là Đô
thành(2). Đây chính là thời kỳ đỉnh cao của Huế cho đến trước thế kỷ XIX với
một kiểu thức đô thị độc đáo và những đặc điểm riêng. Cũng từ đây, Đàng Trong
được mở rộng và hoàn thiện với toàn bộ phần đất đai, lãnh hải của m iền Nam
hiện nay<3).
3. Những đặc điểm m ới của Đ àng Trong
Trong một bài nghiên cứu rất thú vị cùa mình, Li Tana cho rằng, Đàng
Trong là một “mơ hình khác của Việt N am ”, đó là một mơ hình theo kiểu Đơng
Nam Á và nó rất khác với mơ hình truyền thống kiểu Nho giáo ở Đàng Ngồi.
(1) Lê Q Đơn (1977), Lê Q uỷ Đ ơn tồn tập, Tập I: Phủ biên tạp lụ c , sđd, tr 63.
(2) Q uốc Sử Q uán triều N guyễn, Đ ại Nam thực lục, Sđd, tr 148-151.
(3) Công cuộc N am tiến vẫn được tiếp tục đẩy m ạnh từ khi thủ phủ chuyển về Phú X uân. C ác sự kiện tiêu
biểu tính đến khi chúa Nguyễn hồn thành cơng cuộc được Đại Nam thực lục, phần Tiền biên ghi lại rất rõ:
N ăm 1698, chúa N guyễn Phúc Chu sai N guyễn H ữu K ính đem quân đi kinh lược đ ât C hân Lạp, lây
đất lập dinh Trấn Biên, dinh Phiên Trấn và đặt phủ G ia Đ ịnh để quàn lãnh hai dinh trên, m ở rộng thêm
đất được nghìn dặm với hơn 4 vạn hộ dân... (ÍT 111).
N ăm 1708, M ạc Cửu dâng đất Hà Tiên và được bổ chức Tổng binh trấn Hà Tiên, lãnh thổ Đàng
T rong được m ờ rộng về phía T ây N am bộ (tr 122).
Năm 1731, chúa N guyên Phúc Chú sai Thông suât Trương Phước Vĩnh đem quân vào đât Chản Lạp. Năm
1732, chia đặt thêm châu Định Viễn và dựng dinh Long Hồ (tức tinh Vĩnh Long ngày nay) (tr 142-143).
N ăm 1757, chúa N guyễn Phúc K hốt lấy nốt các phần đất cịn lại đặt đạo Đ ỏng K.hâu ớ Sa Đ éc, đạo
Tân Châu ờ Tiền G iang, đạo Châu Đ ốc ờ Hậu G iang, đạo K iên G iang ờ Rạch G iá, đạo Long X uyên ở Cà
M au (tr 166-167).
16
Huế trên dặm dùi lịch sứ
Qua thật, Đàng Trong mang những đặc điếm rất gần gũi với xã hội Đông
Nam Á trong các thế kỷ XVII-XVI1I. Đó là một xã hội đã hoàn toàn xa rời tư
tưởng Nho giáo truyền thống, lấy Phật giáo Đại thừa làm gốc nhưng lại dung hịa
tuyệt vời với các loại hình tơn giáo và tín ngưỡng bản địa. ơ Đàng Trong,
Cham pa vốn là một quốc gia Án Độ giáo nhưng Phật giáo cũng có những vai trị
khá quan trọng. Phật giáo Đại thừa cua Trung Hoa không hề xa lạ với vùng đất
này bởi môi quan hệ giao lưu buôn bán lâu đời giữa hai bên. Tuy nhiên, chỉ khi
chúa Nguyễn sử dụng Phật giáo Đại thừa làm công cụ về tư tưởng đế dung hòa
và cố kết mối quan hệ giữa các tầng lớp xã hội thỉ tôn giáo này mới thực sự
“hoang dương chánh pháp” tại Đàng Trong. Điều đáng nói là, tại đây Phật giáo
Đại thừa lại tỏ ra rất thích hợp với một xã hội đậm chất Đơng Nam Á dù nó có
nguồn gốc từ phía Bắc.
Trong thời kỳ xây dựng các thu phủ, nhất là từ thời kỳ Kim Long-Phú
Xuân, cùng với cuộc chiến khốc liệt với chúa Trịnh ở Đàng Ngồi để báo vệ cơ
đồ của mình, các chúa Nguyền đều rất chú ý xây dựng một bản sắc văn hóa riêng
cho xứ sở. Trên nền tảng các giá trị văn hóa truyền thống, chúa Nguyễn cho
phép, thậm chí khuyến khích tiếp nhận các yếu tố văn hóa mới. Đạo Kitơ được tự
do truyền bá (thời gian chưa xảy ra xích mích với người Hà Lan); các yếu tố văn
hóa Trung Hoa do người Minh hương đem tới được tiếp nhận thoải mái(l); những
yếu tố vãn hóa bản địa của người Chăm, nếu phù hợp đều được tiếp thu.
Chúa Nguyễn còn cho phép người Nhật, người Hoa đảm nhận một số
chức quan trong bộ ináy chính quyền của mình; thậm chí họ cịn sử dụng cả
người phương Tây trong triều đình, tuy chi làm bác sỹ hoặc thầy dạy học. Đây là
điều chưa từng xảy ra trong các triều đại trước đó. Đối với các nhóm di dân
người Hoa, nhất là các cộng đồng thương nhân, chúa Nguyễn đã cho phép họ
định cư tại các thành phố có cảng khẩu bn bán như Huế, Hội An, Qưy Nhơn,
Sài Gịn, Hà Tiên. Chúa Nguyễn khơng chỉ lợi dụng tối đa vai trị của người Hoa
trong việc bn bán hay mỡ mang đất đai mà cịn thơng qua họ để mời gọi các vị
hòa thượng Phật giáo Đại thừa người Trung Quốc có uy tín đến Đàng Trong
“hoang dương chánh pháp” . Thực tế tại khu vực Huế cho thấy, các vị hịa thượng
khai sơn các ngơi chùa lớn như Thiên Mụ, Báo Quốc, Từ Đàm, Quốc Ân... đều là
những danh tăng người Trung Quốc(2>.
111 Khảo sát của Trần Đại Vinh trong Tín ngưỜMỊ dân gian H u ế cho thấy, đó là tục thờ Thiên Hậu, thờ
thân Tài. thờ Tam vị vương gia và N gũ vương, thờ Quan Thánh đế qn... [Trần Đại Vinh (1995). Tín
ngườìĩg dân gian H uê, Nxb Thuận Hóa, tr 53-112] .
Chùa Thiên Mụ tuy do N guvễn Hoàng sai dự n e từ năm 1601 và đèn năm 1695 hịa thượng Thích Đại
Sán mới được mời tới “hoăng dương chánh pháp", nhưng nay chùa vẫn thờ Đại Sán như vị tô khai sơn.
17
Nghiên cứu và Bảo tôn
Đàng Trong dựa trên nền tảng kinh tế trao đổi buôn bán, nhất là ngoại
thương, tạo nên sự xuất hiện và phồn thịnh của một loạt phố cảng cận hoặc ven
biển Đông như Thanh Hà, Hội An, Nước M ặn (Quy Nhơn), Sài Gòn, Hà T iên ...
Tuy nhiên, yếu tố Việt truyền thống không hẳn đã mất đi ở Đàng Trong,
mà trái lại, nó đã được chọn lựa để kế thừa và phát huy trong một bối cảnh mới.
4. K ết luân
•
Thế kỷ XVI đến XVIII là một giai đoạn lịch sử rất đặc biệt của Việt Nam
với những biến động to lớn trên nhiều lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã
hội. Từ sự khủng hoảng và suy yếu của chế độ phong kiến tập quyền triều Lê đã
dẫn đến những cuộc nội chiến khốc liệt giữa những thế lực khác nhau trong chính
giai cấp thống trị, khiến cho đất nước bị chia cắt kéo dài. Bên cạnh đó, tác động
mạnh mẽ của các trào lưu khu vực và của thế giới, nhất là sự bùng nổ của thương
mại trên biển đã góp phần tạo nên những thay đổi lớn lao của Việt N am hồi ấy.
Trong bối cảnh lịch sử đó, Đ àng Trong đã hình thành và phát triển như
một vương quốc độc lập, tạo nên hình ảnh m ột nước Việt Nam khác ở phía nam
với những bản sắc văn hóa mới, phong phú và đa dạng. Chính sự đối đầu với
Đàng Ngoài của vua Lê-chúa Trịnh đã làm Đàng Trong của chúa Nguyễn phát
triển nhanh chóng, mà đầu não quyết định sự phát triển ấy là các thủ phủ. Các thủ
phủ, với vai trò đặc biệt quan trọng của mình, đã có những tác động mạnh mẽ
đến q trình hình thành, phát triển của Đ àng Trong. Sự tác động này thể hiện rõ
ở quy mô và tốc độ của quá trình N am tiến, sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh
tế, nhất là kinh tế ngoại thương, ở cả việc xây dựng một bộ máy chính quyền
Đàng Trong với những nét đặc thù riêng biệt... Các thủ phủ cũng đóng vai trị
trung tâm trong việc kế thừa, chuyển tải và phát huy truyền thống văn hóa dân
tộc Việt trên miền đất mới, đồng thời lại có tác động quyết định trong việc tiếp
thu các yếu tố văn hóa bản địa và văn hóa ngoại lai để định hình nên một sắc thái
văn hóa Đàng Trong phong phú, sinh động và hết sức đa dạng. Văn hóa Việt
Nam đã phát triển và được làm giàu lên rất nhiều chính qua q trình này.
P.T.H
Các chùa tổ đình khác của Huế do các hòa thượng nồi tiếng người T rung Q uốc khai sơn tiêu biêu như,
chùa Báo Q uốc là hòa thượng G iác Phong, chùa T ừ Đ àm là M inh H oang Tử D ung, chùa Quốc Ản là hòa
thượng Tạ N guyên Thiều...
18
H u ế trên dặm dài lịch sử
CÁC Đ À N TỂ TH Ờ I N G U Y ỀN ở HUẾ
ĐÀN XẢ TẮC - Đ À N TIÊ N N Ô N G - ĐÀN SƠN XUYÊN
Phan Thuận An
TỒNG QUAN
Đàn là “nền đất đắp cao hoặc đài xây dựng cao đế tế lễ” {Từ điển Tiếng
Việt), thường được dịch ra tiếng Pháp là “esplanade” nếu là đàn được xây dựng
với qui mơ to lớn, ví dụ như đàn Nam Giao (Esplanade de Nam Giao), hoặc là
“tertre” nếu là đàn được xây dựng với tầm cờ nhỏ, chẳng hạn như đàn Âm Hồn
(Tertre des Âmes Abandonnées).
Các đàn tế đều nằm lộ thiên. Một số đàn được che phủ tạm thời khi tế lễ.
Ớ Kinh đô Huế, ngoại trừ những đàn tế được thiết lập cố định hoặc nhất thời ở
các phường xóm, các nhà thờ họ phái hay các chùa chiền trong dân gian, triều
đình nhà Nguyễn đà cho xây dựng những đàn tế thuộc loại quan trọng sau đây:
1. Nam Giao Đàn Ĩ$J £'|S iề dùng để tế trời đất
2. X ã Tắc Đàn
#.
iỀ dùng để tế thần đất đai và thần lúa má
3. Tiên Nông Đàn ỹ t n * i dùng để tế Thần Nông, vị thủy tổ của
nghề tàm ruộng
4. Sơn X uyên Đàn ilí ;i|
dùng để tế các thần núi và thần sông
nổi tiếng ớ đất Thần kinh.
Ngoài ra, sử sách cho biết bấy giờ cịn có một số đàn tế thứ yếu mà sự
quản lý và cúng tế cũng thống thuộc triều đình khơng nhiều thì ít. Đó là những
đàn tế mang tên:
1. Thiên Đàn ^ M
2. Hiển Trung Đàn sỊ§
3. Kỳ Đạo Đ àn
iũ
â
4. Lệ Tế Đàn JỆị &
5. Hoang Mộ N gũ Đàn £
ỉ
J|
* Nhà Nghiên cứu Huế
19
Nghiên cứu và Báo tôn
6. Liễn Lộ Đàn jậ s ị
7. Hoang Mộ Nhất Đàn 7ft.
i f n>
8. Âm Hồn Đàn ĨỀ ĨẾ, ÌỀ
v ề Thiên Đàn, Quốc Sử Quán triều Nguyễn đã viết trong sách Khâm định
Đại Nam Hội điên Sự lệ Tục biên như sau:
“Năm Đồng Khánh thứ 2 (1887), được sắc rằng: “Nguyên trước mỗi năm
đến ngày 25 tháng 8 có lệ đặt tế Thiên Đàn ở bên hữu điện Văn Minh. Nay trầm
có một đàn vọng tế, giao cho Bộ Công dự trù vật liệu sao cho trung tuần tháng 7
có đủ sẽ cho Túc vệ vào dựng ở trước cung Khôn Thái, qui mô bằng bảy phần
mười đàn ấy năm trước, về các loại g ỗ cần dùng, nếu cỏ thiếu cho cắt bọn lính
đã sai đi thu dọn Hậu Phố, Hậu Hồ, hồ Tĩnh Tâm và lên núi mà đẵn, làm việc
xong thì triệt về
"Bộ Cơng có xin chuấn: đã xét ở Thiên Đàn trước đây, về qui thức cấu
tạo cùng vật liệu hiện đã bỏ mất. N ay trù tính đàn này nên làm một tịa nhà
vng kiêu “nhị vị, một gian hai c h á i’’, ngang dọc đều 26 thước (1 ì,05m), đại
trụ cao 18 thước (7,65m), trung trụ cao 15 thước (6,37m), lòng rường nhà (lòng
xuyên, lòng trến) đều 10 thước 4 tấc (4,42m), sàn nhà cao 3 thước 6 tấc (l,52m),
đều lát gơ hơng sắc; địn tay, rui đểu làm bang tre, trên lợp lả dừa, ngoài che
phên nứa ”(2>.
Như vậy, so với các đàn tế quan trọng khác là đàn Nam Giao, đàn Xã Tắc,
đàn Tiên Nông và đàn Sơn Xuyên thì Thiên Đàn là đàn tế mang các tính đặc thù
sau đây:
- Thiên Đàn đã được thiết lập ngay bên trong Tử c ấ m Thành là nơi vua và
Hoàng gia ăn ở và làm việc. Đàn tế này khi thì “ở bên hữu điện Văn Minh ”, khi
thì "dựng ở trước cung Khơn T hái”.
- Đây chỉ là “đàn vọng tế”, nơi vua vọng tế trời vào ngày 25 tháng 8 âm
lịch hàng năm, chứ không phải tế trời một cách chính thức vào mùa xuân tại đàn
Nam Giao.
" ' v ề Hiển Trung Đ àn, Kỳ Đạo Đ àn, Lệ Tế Đ àn, H oang Mộ Ngũ Đàn. Liễn Lộ Đàn và H oang M ộ Nhất
Đàn, chúng tôi thấy nhừng đàn tế này đà được Q uốc Sử Quán triều N guyền ghi nhận trong sách Khâm
định Đ ụi Nam H ội điên S ự lệ Tục Biên (H ội điên Tục biên), phần Bộ Lề. ở quyến 23. tờ 44a. 5 la, 60a.
X em ban dịch của Viện Sư Học Việt N am và T rung tâm Bảo tồn Di tích c ố đô H uế, N X B KHXH, Hà
Nội, 2007, tập 5, tr. 53. 54, 58, 6 3 ...
Q uốc Sử Q uán triều N guyền, H ội diên Tục biên, phần Bộ Công, quyển 44. tờ 24 ab. han dịch đã dần,
chưa xuất bản.
20
Huê trên dặm dài lịch VM
- Thiên Đàn chỉ là một cơng trình được xây dựng tạm thời bằng những vật
liệu thô sơ, như cột gồ, sườn tre, vách nứa, mái lá. Diện mạo của nó trơng như
một ngơi nhà rội trong dân gian với 2 vì kèo, 1 gian, 2 chái. Mồi lần làm lề xong
là đàn tế được triệt giải, năm sau có thể dựng lại ở một chỗ khác trong cung.
- Đàn tế này chỉ xuất hiện trong một giai đoạn rất ngắn dưới thời Đồng
Khánh ( 1886
1888) và trong những năm trước đó khơng lâu. Đoạn sử dẫn trên
có viết rằng: "Nguyên trước [thời Đồng Khánh] mỏi năm đến ngày 25 tháng H cỏ
lệ đặt tế Thiên Đàn ở bên hĩni điện Vãn Minh. Nay trầm có một đàn vọng tế...
qui mơ bang bảy phần mười đàn ẩy năm trước Những câu này cho biết rõ rằng
đã có Thiên Đàn trong Hồng cung ngay từ trước thời Đồng Khánh. Theo thiến
ý, có thế đàn tế này đã được thiết lập từ những năm đầy biến động vào cuối thời
Tự Đức, hoặc từ thời đoạn “tứ nguyệt tam vương”
Hỉnh như Thiên Đàn có khi cịn được gọi là “Tôn Đàn”. Chúng tôi đọc
thấy cái tên mới lạ này trong quyển Đồng Khảnh, Khải Định chính vếii 1
Riêng về Âm Hồn Đàn, vào khoảng đầu thế kỷ XX, ở Huế có ít nhất là 3
cái đàn được thiết lập để cúng tế hàng năm. Vào năm 1914, trong bài Liệt kê các
chùa và các nơi thờ tự ở Huế, A. Sallet và Nguyễn Đinh Hòe cho biết bấy giờ tại
đây có 3 đàn Âm Hồn nằm ở 3 phường khác nhau. Đàn thứ nhất tọa lạc tại
phường Đệ cửu, đàn thứ hai nằm ở góc phía tây của Kinh thành, đàn thứ ba tại
phường Thuận Cát ờ trong Thành Nội(z). Đen nãm 1933, trong một bài khảo cửu
rất kỹ về các địa danh ở phạm vi Kinh thành Huế, L. Cadière ghi nhận rằng có
một Ảm Hồn Đàn ở phường Huệ An bên trong góc tây nam của Kinh thành(1). Có
lẽ đây là cái đàn thứ hai trong bài nêu trên, mặc dù tên của hai phường, nơi nó
tọa lạc, được ghi khơng giống nhau (phường Thuận Cát và phường Huệ An).
v ề đàn Àm Hồn này, vào năm 1916, một tác giả người Pháp khác đã viết
như sau:
“Vào ngàv 24 [sic] tháng 5 [âm lịch hàng năm], trong Kinh thành có một
cuộc lê đơn giản mà cảm động đê tưởng nhớ các cô hồn. Theo lời kê của cư dân
ở Kinh thành, sau các trận đánh ớ Huê vào ngày 5 - 7 - ì 885, vong linh người
chết đã trở thành những hồn ma gây ra nhiều vụ hỏa hoạn vì khơng ai cúng quảy
111 Quốc Sừ Quán triều N guyễn, Đ ồng Khánh - K hải Đ ịnh chính vếu, bán dịch của N guyễn Văn N guyến,
NXB Thời Đại và Trung tâm Văn hóa N gôn ngữ Đ ông Tây, Há Nội, 2010, tr.30.
A. Sallet và N guyền Đ ình Hịe, “ É num ération des pagodes et lieux đe culte de H ué”. BA v u , 1914, p.
185, 342.
11 L. Cadière, “ La C itadelle de Hué: onom astique” , BA VH, 1933, p. 124.
21
N ghiên cứu và Bảo tôn
cho họ. Bởi vậy, vào năm 1894, Bộ L e đã cho xây dựng ở gần cửa Quảng Đức
m ột cái đàn nhỏ, tại đây, vào ngày giơ m ơi năm, người ta thiêt trí các bàn thờ đê
cúng lê vật cho vong hồn các nạn nhân của cuộc chiên. Vị Đ ê ãôc Kinh thành
đứng ra làm chủ lễ và trong buổi lễ có đọc m ột bài văn tế ngan ”(l\
N hư thế, đàn Ảm Hồn này đã được triều đình nhà Nguyễn cho xây dựng
sau sự kiện Thất thủ Kinh đô xảy ra vào ngày 5 - 7 - 1885, tóc là ngày 23 tháng
5 năm Ất dậu. Đ àn tế này vẫn cịn dấu vết tại địa chỉ 24 đường Ơng ích Khiêm
thuộc phường Thuận Hòa trong Thành Nội. Cho đến nay, tại địa chỉ này, hàng
năm, hễ đến ngày đó (Âm lịch) là nhân dân địa phương tổ chức cuộc lễ tưởng
niệm và cúng tế cho oan hồn của các nạn nhân thuở ấy.
Nhìn chung, những cuộc tế lễ tại các đàn miếu do nhà Nguyễn xây dựng
đã được chia ra làm ba bậc là Đại tự
íE* , Trung tự Ỳ íEL và Quần tự #
Tự nghĩa là tế. Đại tự là tế lớn, như tế N am Giao, tế Xã T ắ c ... Trung tự là những
lễ tế vừa, như tế K hổng Tử, tế Thần N ô n g ... Quần tự là những lễ tế ở các đàn
miếu nhỏ hơn, như tế Võ M iếu, tế đàn Sơn X u y ên .. .<2)
Hàng năm , ở Kinh đơ Huế, triều đình nhà Nguyễn đã cử hành khoảng 50
cuộc tế lễ các thiên thần và nhân thần tại các đàn miếu lớn nhỏ khác nhau mà
trọng đại nhất là lễ tế trời đất ở đàn N am Giao. Riêng về đàn Nam Giao và lễ tế
Giao đã có hàng ngàn trang tư liệu bàng chữ Hán, chữ Pháp và chừ Việt đề cập
đến. Hơn nữa, cho đến nay, di tích kiến trúc này vẫn cịn tương đối nguyên vẹn.
Cho nên, với nhan đề “Các đàn tế thời N guyễn ở Huế (trừ đàn Nam Giao)” , bài
viết này chỉ xin tìm hiểu về đàn Xã Tắc, đàn Tiên Nông vả đàn Sơn Xuyên là
những đàn tế đã bị hư hỏng nhiều hoặc đã trở thành phế tích.
ĐÀN XÃ TẮC
I. Lịch sử xây dựng, q trình hư hỏng và việc trùng tu
Dưới thời các chúa N guyễn (1558-1775), ở Thủ phủ - Đơ thành Phú Xn
chưa có đàn Xã Tắc. Sau đó, vào thời Tây Sơn (1788-1801), Phan Huy ích
(1750-1822) cho biết rằng phần lớn nền chùa Thiên Mụ đã bị “san đi để đắp đàn
(l) R. O rband, “L es fêtes à H u é”, B .4VH , 1916, p. 188.
( ' N ội C ác triều N guyễn, Khám Đ ịnh Đ ạ i N am H ội điển S ự lệ (Hội điền), bản dịch cùa Viện Sử Học,
N X B T huận H óa, H uế 1993, tập 6, tr. 15, 338 - 339.
22
H uế trên dặm dài lịch sử
[Xã Tắc]. Ngày hạ chí, vua ra tế thần đ ấ t”(]). Mãi đến đầu thế kỷ XIX, đàn Xã
Tắc mới được triều Nguyễn xây dựng một cách chính thức ớ Kinh đơ H.
Đ àn X ã T ắc n ăm 1914
(À n h : P h ilip p e É b e r h a r d t)
Sau khi thống nhất sơn hà và đăng quang vào năm 1802, vua Gia Long đã
cho qui hoạch lại, mở rộng thêm và xây dựng mới nhiều cơng trình kiên trúc đê
vinh thăng và phục vụ cho triều đại của mình, trong đó có đàn Nam Giao và đàn
Xã Tắc.
Các tác giả của Đ ại Nam Thực lục cho biết đàn Xã Tắc được xây dựng sau
đàn Nam Giao chỉ một tháng, khới công vào ngày Đinh tỵ tháng 3 năm Bính dân,
năm Gia Long thứ 5 (27-4-1806). Đàn được xây “ở bên hữu H oàng thành; sai
các thành dinh trấn đều phải cống đât địa phư ơ ng đê đăp. Đàn làm hai tâng.
Tang thử nhất cao 2 thước, vuông moi chiều 15 trượng. Tân% thứ hai cao 1 thước
5 tấc, vuông môi chiều 29 trượng. Chu vi 2 tâng đêu có lan can, ngồi trông cây,
xãv tường chung quanh. Tầng thứ nhất đ ể tế thần Thải X ã Thái Tắc (đểu hướng
về bắc), bên hữu p h ố i thờ thần Hậu thô Cảu Long Thị, bên tả p h ô i thờ Hậu Tác
Thị (đông tây hướng vào nhau). Tâng thứ hai thì p hía tây băc đặt ê khảm. Sai
Chưởng quản Phạm Văn Nhân trông coi công việc. Rôi sai bộ Lê bàn định vê
phép thờ tự, môi năm cứ ngày mậu vê tháng trọng xuân vả trọng thu thì tê (tháng
trọng xuân thì ngày mậu sau ngày tế Nam Giao, tháng trọng thu thì ngày mậu
đầu tháng) ”(2).
Khi khởi cơng xây dựng đàn Nam Giao trước đó hơn một tháng, vào ngày
Giáp thân tháng 2 (25-3-1806), Chưởng quân Phạm Văn Nhân cũng đã được vua
Gia Long giao nhiệm vụ “trông coi công việc”(3). Bấy giờ, Chưởng quân là vị võ
(1) Thơ vàn Phan H uy íc h , tập III “Dụ A m ngâm lụ c” , N X B K H X H , Hà Nội, 1978, tr 118 - 119.
(2) Ọuốc Sừ Q uán triều N guyễn, Đ ại Nam Thực lục ( Thực lục), bản dịch của V iện Sử H ọc, N X B Sử Học,
Hà Nội, tập 3, 1963, tr.269 - 270.
í3) Thực lục, bản dịch đà dẫn, tập 3, tr. 265 - 266.
23
Nghiên cứu và Bảo tồn
tướng cao cấp nhất trong hàng quan võ, trật Chánh nhất phẩm (Chưởng quân là
cách gọi tắt của chức danh Chưởng quân Chưởng phu sự, người đứng đầu tất cả
các đơn vị quân đội trong nước). Được giao đứng ra điều hành công tác xây dựng
một lúc hai đàn tế Nam Giao và Xã Tắc, vị đại thần Chánh nhất phẩm võ ban ấy
có lợi thế là dễ dàng điều động số đông binh sĩ dưới quyền để thi cơng (Dưới
triều Nguyễn, ở Huế có câu phương ngơn “Nước sơng, cơng lính”). Như vậy, đã
có hàng ngàn binh lính và quan lại tham gia cơng việc xây dựng đàn Xã Tắc.
Mặc dù sử sách triều Nguyễn không cho biết đàn tế này đã được xây dựng trong
bao lâu, nhưng với một cơng trình to lớn địi hỏi nhiều cơng sức như thế, có lẽ
việc thi cơng phải kéo dài từ đầu mùa hè đến khoảng cuối mùa thu năm 1806. Tất
nhiên, trước khi thi cơng thì việc chuẩn bị đã kéo dài hàng tháng. Chuẩn bị từ
khâu lựa chọn địa điểm, qui hoạch kiến trúc đến vật liệu xây dựng, bao gồm cả
thời gian tập kết đất đắp đàn chuyển về từ các địa phương trong nước. Chẳng
hạn, ngay từ ngày mồng 7 tháng 2 năm Gia Long thứ 5 (7-3-1805), nhà vua đă
ban ra một tờ Chiếu cho Bắc thành về việc 5 nội trấn và 6 ngoại trấn ở đây phải
nạp đất về Kinh đơ để xây đàn. Tờ chiếu ấy đã được tóm tắt như sau:
“Chiếu: Khâm sai Bắc thành Tổng trấn đặng rõ: Nay xây đắp đàn X ã
Tắc, là việc rất quan hệ, vậy truyền cho 11 trấn trong hạt phải nạp 256 tạ đắt, để
làm cho kịp ”(l
Chẳng những thế, Nội Các triều Nguyễn còn cho biết thêm rằng, để đắp
đàn Xã Tắc, triều đình đã ấn định lượng “đất sạch và chắc” m à tất các dinh, trấn
(đơn vị tỉnh về sau) trong cả nước đều phải chuẩn bị sẵn cho các thuyền từ Kinh
đô đi chở về bằng đường biển: “Dinh Quảng Đức (nay là phủ Thừa Thiên) 100
khiêng; Quảng Nam, Quảng Ngãi, Nghệ An, Thanh Hỏa, mỗi dinh 50 khiêng;
trấn Thuận Thành 1 khiêng; Phiên An, Biên Hòa, Vĩnh Thanh (nay là tỉnh Vĩnh
Long), Định Tường 4 dinh mỗi dinh 50 khiêng, trấn Hà Tiên 2 khiêng; Bắc
Thành: 5 trấn ở trong [nội trấn] moi trấn 50 khiêng, 6 trấn ở ngoài [ngoại trấn]
mồi trấn 1 khiêng, phải thuyền ra giải về Kinh xảy đắp ”(2).
(l) M ục lục Châu bàn triều Nguvễn, tập thứ I, triều G ia Long, ù y ban Phiên dịch Sử liệu V iệt Nam thuộc
Đại Học H uế xuất bản, 1960, tr. 116. v ề trọng lượng đất, 256 tạ bấy giờ tương đươ ng với 15.475 kg ngày
hay.
Nội Các triều N guyễn, H ội điển, quyển 208, tờ 24 a, bàn dịch đã dẫn tập 13, tr. 108. Đ ơn vị “khiêng”
đâ được Viện Sử Học dịch từ chữ “đài”trong nguyên bàn của Nội Các. Trong Han Việt Tự điển, Thiều
Chừu định nghĩa “đài” là “hai người cùng nâng đồ gì lên” . C húng tơi nghĩ đến cái trạc dùng đe khiêng vật
nặng. Trong Từ điển tiếng Việt, V iện N gơn N gữ Học Việt Nam giải thích chữ “trạc” là "đ ồ đan bàng tre
24
Huê trên dặm dài lịch sử
Thời Minh Mạng (1820-1840), đàn Xã Tắc đó được tu bơ 3 lần. Lần thứ
nhất là vào năm 1822. Lần thứ hai vào năm 1831: sửa sang vịng tường thấp bao
quanh khn viên của đàn và bờ hô Xã Tấc. Lân thứ ba vào năm 1840: "Tu bổ
cánh cửa mặt trước đàn Xã Tăc và dựng tảng đá đê cắm tàn ở mật trước tầng
thành th ứ h a i" {ị).
Trong sách Minh Mệnh chính yếu, Quốc Sử Ọuán cho biết rõ hơn về chi
tiết mà Nội Các ghi vắn tắt là “Tu bổ cánh cửa mặt trước đàn X ã Tắc " (nguyên
văn: “tu bô Xã Tẳc Đàn tiền diện môn phi” ). Nhân dịp năm ấy là năm “gặp tiết
Ngũ tuần Vạn thọ Đại khánh” của vua Minh Mạng (1791-1840), chính nhà vua
thân hành đi tế Xã Tắc. Khi đến đây, nhà vua ban Dụ cho Bộ Lề rằng: “...Trầm
xem điên lệ nhà Thanh, trước đàn X ã Tắc có cửa Linh Tinh, cốt theo nghĩa cho
được thông suôt. c ỏ thế khảo xét thê chế cho rị ràng, giao Bộ Cơng làm cửa
Linh Tinh trước đàn Xã T ắ c”{2). Tất nhiên, ngay sau đó, Bộ Cơng đã phải xây
mới Linh Tinh Mơn ờ đàn tế này.
Khơng thấy sử sách nào nói đến việc tu bố đàn Xã Tắc sau thời Minh
Mạng. Mãi đến năm 1914 mới có một tấm ảnh do Philippe Eberhardt chụp và
đăng trong quyến sách Guide de 1’A nnam (Hướng dẫn Du lịch Trung Kỳ) của
ông cho thấy khá rõ tình trạng bắt đầu xuống cấp của nó(3). Xem xét kỳ lưỡng
tấm ảnh ấy, chúng ta thấy tuy hai tầng xây của đàn tế vẫn còn nguyên vẹn, nhưng
vịng la thành xây bằng đá ở chung quanh khn viên của đàn đã sụp đổ một số
đoạn.
Kể từ đó, vi sự suy thối của triều đình nhà Nguyễn và vì những tác nhân
khác nữa, đàn Xã Tấc xuống cấp dần. Đen cuối thập niên 1950, tác giả Thái Văn
Kiểm, một chứng nhân từng sống và làm việc tại Huế lúc ấy, đã viết trong một
quyến sách của mình rằng: “Đàn X ã Tắc hiện nav vẫn còn nhưng điêu tàn
lắm ”,4).
Dù vậy, mãi đến đầu thập niên 1960, toàn bộ khn viên của di tích này
vẫn chưa bị xâm hại. Theo bản vẽ bình đồ đàn Xã Tắc do Kỳ sư Cơng chánh ở
rộng miệng, nơng lịng, thường dùng để khiêng đ ất” . N hư vậy, “khiêng” (hay “đ ài” ) là trạc đất do hai
người khiêng.
(l) H ội điên, quyển 208, tờ 24 ab, bản dịch đã dẫn, tập 13, tr. 108.
Ọuốc Sử Quán triều N guyền, M inh M ệnh chính y ế u , quyển 12, tờ 35b - 36a, bản dịch cùa Võ Khắc
Văn và Lê Phục Thiện, tập IJI, Bộ Văn H óa G iáo dục và Thanh niên xuất bản, Sài G òn, 1974, tr 224 225.
3 Philippe Éberhardt, G uide de 1’A nnam , N X B A ugustine Challam el, Paris, 1914, tr. 129.
<4) Thái Văn Kiểm, c ố đỏ H uế, N ha Văn hóa, Bộ Quốc gia G iáo dục xuất bản, Sài G òn, 1960, tr.4 1.
25
N ghiên cứu và Báo tôn
Huế là Ngô Nam ký duyệt ngày 20-3-1963 thì các bộ phận kiến trúc của đàn, từ
hai tầng xây ở giữa đến la thành chung quanh với các bậc thềm và cửa chính
cũng như cửa phụ ở bốn phía, đều cịn thấy được trên thực địa. Nhờ vậy, tác giả
của bản vẽ mới có thể đo được mọi kích thước cụ thể (dài, rộng, cao, dày) cùa các bộ
phận kiến trúc để ghi vào bản vẽ của mình (Xem bản vẽ đính kèm).
Nhưng, vào những năm cuối thập niên ấy, sau sự kiện Tet Mậu thân (1968),
phần lớn mặt bàng đàn Xã Tắc đã bị chế độ cũ dùng làm khu gia binh (bấy giờ còn
được gọi là “trại gái”) và người ta đã xây dựng tại đây 40 dãy nhà đê cho vợ con lính
tráng ăn ở.
Từ năm 1975, khu gia binh ấy dùng làm khu ở tập thể cho cán bộ công
nhân viên thuộc m ột số cơ quan đóng tại Huế, và cho xây thêm 5 dãy nhà ở tập
thể khác nữa, vị chi là 45 dãy. Theo số liệu được ghi nhận vào tháng 6-2002, ở
khu tập thể Xã Tắc có 416 hộ gia đình với 1.614 nhân khấu thường trú (Diện tích
trung bình của mồi căn hộ là 40m 2). Tại đây cũng có N hà trẻ của phường Thuận
Hịa và Trụ sở của Công ty Xây dựng Thủy lợi 26 thuộc Bộ N ông nghiệp và Phát
triển Nông thôn. Trong m ấy chục năm qua, việc bán hóa giá nhiều căn hộ đã diễn
ra và chúng được m ua đi bán lại cho nhiều thành phần sở hữu chủ khác nhau
trong xã hội, chứ không phải chỉ là cán bộ công chức. M ột số căn hộ đã được
nâng tầng và xây kiên cố thành nhà lầu. M ột số hộ đã được cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất...
v ề phương diện quản lý hành chính, khn viên đàn Xã Tắc hiện nay
thuộc địa phận phường Thuận Hòa, một trong bốn phường ở Thành Nội. Khuôn
viên ấy được giới hạn bởi bốn con đường: đường Ngô Thời Nhiệm ở phía bắc
(chưa kể hồ Xã Tắc ở bên kia đường), đường Trần Nguyên Hãn ở phía nam (chưa
kể tấm bình phong hậu của đàn nằm ở bên kia đường), đường Trần Ngun Đán ở
phía đơng và đường Nguyễn Cư Trinh ở phía tây.
N hư vậy, kế từ những thập niên đầu thế kỷ XX, nó chắng những khơng
được tu sửa một lần nào, mà còn bị chiếm dụng ngày càng mạnh bạo từ cuối thập
niên 1960 và tiếp tục xuống gần hết cấp và hầu như đă trở thành một phế tích.
Đứng trước tinh hình đáng tiếc đó, trong những năm vừa qua, chính quyền
tỉnh sở tại đã bắt đầu tìm cách cứu vãn đàn Xã Tắc. Trước hết làm hồ sơ di tích
cho nó, và đã được bộ Văn hóa Thơng tin (nay là Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch)
26