Nghiên cứu và Bảo tồn
TRÁN BÌNH ĐÀI VÀ VAI TRỊ CỦA NĨ TRONG HỆ THỐNG
PHỊNG THỦ KINH THÀNH H
Nguyễn Đắc N ghĩa
Trong suốt lịch sử triều Nguyễn, Trấn Bình Đài ln được xem là cơng
trình phịng thủ quan trọng của Kinh đơ Phú Xn. Tịa thành này kết họp với
pháo đài Bắc Định và Đông Vĩnh không chỉ bảo vệ Kinh Thành ở mặt đơng bắc
mà cịn kiểm sốt tuyến đường thủy từ Thuận An lên Huế. Chính vì vậy, Trấn
Bình Đài sớm được xây dựng thời Gia Long và thường xuyên tu sửa trong các
đời vua tiếp theo.
I. Lịch sử xây dựng Trấn Bình Đài
Sau khi đánh bại vương triều Tây Sơn, năm 1802, Nguyễn Ánh lên ngơi
hồng đế lấy niên hiệu Gia Long đã chọn Phú Xuân để xây dựng kinh đô mới. Từ
năm 1803, vua Gia long cùng với các quan chuyên lo xây đắp thành trì thuộc vệ
Giám Thành đã đi khảo sát địa thế, định ra kích thước và cách thức xây dựng.
Đến năm 1805, cơng cuộc xây dựng Kinh Thành tiến hành, tịa thành này được
thiết kế theo phong cách kiến trúc Vauban kết họp với những nguyên tắc địa lý,
phong thủy phương Đông. Song song với việc xây dựng Kinh Thành Phú Xuân,
vua Gia Long cịn cho xây dựng ở góc đơng bấc của Kinh Thành một tịa thành
nữa gọi là Thái Bình Đài. Đây là thành phụ mang phong cách kiến trúc Vauban
đắp bằng đất có dạng hình lục giác khơng đều mà các nhà nghiên cứu phương
Tây gọi là “cơng trình bên ngồi ”. Kinh Thành và Trấn Bình Đài cách nhau bởi
một đoạn hào chung rộng 30m..
Cùng với với quá trình hồn thiện Kinh Thành Huế từ thời vua Gia Long
đến đầu triều Minh Mạng, Thái Bình Đài cũng được gia cố thêm cho vững chắc
bằng cách xây gạch ờ hai mặt tường thành. Theo L. Cadière "Ban đầu đây chi là
một cơng trình bảng đắt. Các bức thành bằng gạch chỉ được xây dựng vào nám
Phòng N ghiên cứu Khoa học
260
D i tích và cuộc sơng
1818 hay 182 2 ”
khi cho rằng: Tháng 2 năm thứ 17 (1818), các cơng trình cùa các thành nam, tây
và sau đó là tất cả các pháo đài đều được xây bàng gạch(2). Thực tể, các bộ sư
chính thống của triều Nguyễn như: Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Đại Nam
thực lụ c... ghi chép về thời vua Gia Long cũng không đề cập đến vấn đề này.
Tuy nhiên, khi tìm hiếu những nguồn sử liệu trên, chúng tơi nhận thấy đến đầu
triều Minh Mạng tịa thành này đã được xây bằng gạch.
Năm Minh M ạng thứ 13 (1832), nhà vua nhận thấy tường thành ớ Thái
Bình Đài có kích thước khác so với tường thành ờ các mặt của Kinh Thành nên
đã cho xây lại. v ề việc này, sách Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ chép: “M ộí
đoạn tường bên tả đài Thái Bình và cửa Trường Định ở góc đơng bắc kinh thành
dày 4 trượng, cịn chơ khác đểu dày 3 trượng 5 thước, so le không đểu. Nay
chuẩn cho các m ặt đài ấy, về chiều dày đều lấy 3 trượng 5 thước làm hạn ”(3).
Tháng 7 năm Minh Mạng thứ 17 (1836), nhà vua cho “Đoi tên Thải Bình
Đài làm Tran Bình Đài, Thải Bình Mơn làm Trấn Bình Mơn ”<4>với ý nghĩa đây
là cơng trình kiến trúc dùng để giữ yên Kinh Thành. Tuy nhiên, nhân dân địa
phương vẫn quen gọi di tích này là Mang Cá (hay Mang Cá nhỏ) mà theo L.
Cadière, do hai cái hồ trong Trấn Bình Đài nằm theo dạng hình chữ V gợi nhớ
các m ang của một con cá nên mới có tên gọi này.
Kích thước của Trấn Bình Đài được ghi chép rất rõ trong sách Đụi Nam
nhất thong chi dưới thời vua Duy Tân: “M ặt ngoài chu vi 246 trượng 7 thước 4
tấc, cao I trượng 2 thước, thềm dày 3 trượng 5 thước. Trên dày 2 thước 8 tấc,
dưới dàv 4 thước 3 tấc, chân móng sâu ì thước. M ặt trong chu vi 208 trượng, 9
tấc, cao 6 thước 7 tấc, trên dày ỉ thước 4 tấc, dưới dày 2 thước 1 tấc, chân móng
sâu 5 tấc ’’
cao 5 ,lm , thành trên dày l,2m , thành dưới dày l, 8m và móng sâu 0 ,2 lm. Mặt
trong của thành có chu vi 884m, cao 2,8m; tường trên dày 0,6m, tường dưới dày
0,9m, móng sâu 0,2 lm và toàn bộ thân thành dày 14,87m.
(l> L. C adière, Kinh Thành H uế- địa danh, N XB Đ à Nang, 1996, trang 92.
<2) Võ L iêm ,“ K inh đơ T huận H óa (H uế)”, Ưc N hữ ng N g u à i Bạn c ố Đ ó H uế, N X B Thuận Hóa, Huế 1997,
tập 3/1916, trang 289.
' ” N ội Các triều N guyễn, K hâm định Đ ại Nam hội điền sự lệ, bàn dịch cùa V iện Sừ học, N XB Thuận
Hóa, H uế, 1993, tập 13, trang 124.
141 Ọ uốc Sử Q uán triều N guyễn, Đ ại Nam thực lụ c, bản dịch của Viện Sừ Học, N X B Khoa học Xã hội, Hà
N ội, 1967, tập 18, trạng 194.
151 Ọ uốc Sừ Quán triều N guyễn, Đ ại Nam nhắt thống chí, quyền Kinh sư, bàn dịch của Viện Sử học, NXB
K hoa Học Xã H ội, Hà N ội, 1969, tập 1, trang 15.
261
Nghiên cứu và Bảo tơn
II. 1. Trấn Bình Mơn.
Trấn Bình M ơn được xây bằng gạch theo dạng hình vịm cao 3,6m, rộng
2,77m (vòm cao l,59m , rộng 2,9m), ở góc đơng bắc Kinh Thành tức ở phía tây
của Trấn Bình Đài. Bên trên cổng có tấm đá Thanh khá lớn khắc ba chữ Hán
Trấn Bình M ơn
• Phần trên của cổng vòm xây dựng theo lối xếp gạch vồ
thành hỉnh rẽ quạt . Trên cửa Trấn Bình vần cịn 2 cánh cửa gồ thượng song hạ
bản, sơn màu đỏ rất lớn.
Từ Trấn Binh M ôn đi vào đài Trấn Bình qua chiếc cầu gạch bắc qua đoạn
hào chung rộng 30m. c ầ u dài 33m, rộng 5,5m, được xây ốp gạch ở hai mặt trái
và phải dày 0,8m. M ặt trên của cầu vốn có tráng một lớp nhựa đường nhưng nay
đã bị xói lở,
hình vịm thơng nước khá lớn m à các loại ghe nhỏ có thể qua lại được.
II.2. Trường Định Môn.
Cửa Trường Định được trổ ra ở giữa đoạn tường phía nam của Trấn Bình
Đài với kích thước nhỏ hon so với các cửa khác của Kinh Thành. Nguyên lúc
mới xây dựng Trấn Bình Đài, tịa thành phụ này chỉ có m ột cửa ra vào là Trấn
Bình Mơn. Các bộ chính sử của triều N guyễn m à chúng tôi đã nêu ở phần trên
không đề cập đến thời điểm xây dựng, nhưng thời điểm sớm nhất mà Trường
Đ ịnh M ôn được đề cập đến là đầu triều M inh Mạng. Do vậy, chúng tôi cho rằng
thời gian xây dựng cửa Trường Định vào cuối triều Gia Long đến đầu triều M inh
M ạng (cùng thời điểm xây gạch ở hai m ặt trong và ngoài của tường thành).
Kích thước của Trường Định M ơn dưới thời Nguyễn được ghi trong sách
Khâm định Đ ại Nam nhất thống chí là: “hưởng đơng g ọ i là cửa Trường Định,
cao 1 trượng [sách ghi nhầm là 2 trượng] 2 thước [4,8m], cửa khuyết cao 7 thước
3 tấc [2,92m], rộng 4 thước 7 tấc [ l , 88m ]” . Theo nhà nghiên cứu Phan Thuận
An, chữ khuyết trong cửa khuyết cần hiểu theo nghĩa là vòm cửa trổ xuyên qua
thân thành. Đầu thế kỷ XX, L. Cadière cho biết thêm, bên trên Trường Định Mơn
có m ột tấm đá cẩm thạch ghi tên cửa này(l). Do cửa Trường Định khơng có vọng
lâu và khơng vượt q thân thành nên dân chúng thường gọi là cửa Trịt hay cửa Trệt.
(l) L éopòld C adière, La C itadelle D e H u ế O nom otique (K inh T hành Huế- đ ịa danh), sđd, trang 90.
262
D i tích và cuộc sơng
ỉ 1.3. Hào và Phịng lộ.
Hào và phòng lộ là hai yếu tố rất quan trọng trong tuyến phịng thứ bơn
ngồi của bất cứ tịa thành nào trên thế giới, ơ Trấn Bình Đài, hệ thống hào và
phòng lộ được quy hoạch rất đăng đối, hài hòa theo kiến trúc của tòa thành này
ngay từ khi mới xây dựng, v ề hào và phòng lộ cúa Trấn Bình Đài, sách Khám
định Đại Nam hội điên sự lệ ghi rỏ: "Đ ât thừa ở chân thành bên trong bên ngoài
đều rộng / trượng 5 thước [6m]. Bờ hào ở m ặt đỏng, mặt nam, m ặt bắc đài rộng
7 trượng 5 thước [30m], sâu 1 trượng [4m], thông với hào Kinh thành"0 \ Trên
thực tế, hệ thống hộ thành ờ Trấn Binh Đài không phân chia theo các mặt đông,
tây, nam, bắc mà lại chạy theo các m ặt tường thành như của đài. Hộ thành hào
mặt tây chung với hào góc đơng bắc của Kinh Thành và ở đầu phía bắc của đoạn
hào này chảy thông ra cống sông đào (theo tên gọi của dân địa phương) ở đường
Tăng Bạt Hố. Các đoạn hào khác của Trấn Bình Đài cũng rộng 30m, cùng thơng
với nhau và thông với hào của Kinh Thành. Nguồn nước cung cấp cho hộ thành
hào của Trấn Bình Đài chính là sông Bạch y ế n (thông qua cống sông đào) và
Ngự Hà chảy qua Kinh Thành. Hai bờ của hộ thành hào xây kè bàng đá hộc, đá
gan gà cao l , 6m, dày l,3m .
Phòng lộ là đường đất ở bên ngoài thân thành được sách Khâm định Đ ại
Nam hội điếu sự lệ ghi lại chỉ rộng 1 trượng 5 thước ( 6m), nhưng trên thực tế,
con số này rất khác biệt. Ớ những đoạn phòng lộ hẹp nhất chúng tôi đo được là
7,2m; những đoạn rộng hơn là 7,8m. Có thế do những đợt lụt lớn trong một thời
gian dài ở Huế, các đoạn phòng lộ ở Trấn Bình Đài ngày càng được bồi đắp rộng
hơn. Hiện nay, đoạn phòng lộ ở hai bên cửa Trường Định bị các hộ dân ở phường
Phú Bình lấn chiếm xây dựng nhà ở. Thậm chí, họ cịn đóng các cọc sắt lên thân
tường thành đế kéo giữ nhà trong các m ùa m ưa lũ.
11.4. Hệ thống tường thành và các Pháo nhãn.
Hệ thống tường thành của Trấn Bình Đài nguyên dưới thời Gia long được
đấp bằng đất. Trong khoảng từ năm 1818- 1822, tường thành ở tòa thành phụ này
được đắp bằng gạch ở hai mặt. v ề kích thước tường thành, sách Đại Nam nhất
thơng chí cho biêt: “ngồi cửa Trân Bình lại xâ y m ột tầng thành chu vi 246
trượng 7 thước 4 tấc [986,96m]”<2). N hững chi tiết về mặt thành thì hầu như
khơng có một bộ sử chính thống nào cùa triều Nguyễn đề cập đến. Đầu thế kỷ
(1' Quốc Sứ Quán triều N guyễn, Khám định Đ ạ i Nam h ộ i điển s ự lệ,sđd, tập 13, trang 120.
Q uốc Sừ Quán triều N guyễn. Đ ạ i N am nh ấ t th o n g chi, sđd, tập ì, trang 15.
263
Nghiên cứu và Bảo tôn
XX, các nhà nghiên cứu như A.Du Picq, L.Cadière đều cho rằng chu vi vòng
thành chỉ vào khoảng lOOOm. Nhà nghiên cứu Phan Thuận An, trong cuốn Kinh
Thành Huế lại đưa ra con số khác là “C/ỉM vi mặt ngoài 248 trượng 7 thước 4 tấc
= 1 048,645m
.
Đe tiện cho việc khảo sát, đo vẽ và khảo tả, chúng tôi tạm quy ước các
mặt tường thành bằng cách đánh số La Mã trên các mặt thành (như bản đồ bên
dưới). Trong đó, mặt thành phía bắc được lấy làm chuẩn và đánh dấu số I rồi tiếp
tục xoay theo chiều kim đồng hồ cho đén các mặt II, III, IV, V và mặt tường lớn
phía đơng là VI.
B ản đ ồ tổ n g th ể T rấ n B ìn h Đ ài tro n g P L A N C H E .L a C ita d e lle d e H u é
Hiện nay trên thực địa, kích thước các mặt tường thành đo được là:
111 Phan Thuận An, Kình Thành Huế, N X B Thuận Hóa, Huế, 1999, trang 195.
264
D i tích và cuộc sơng
Mặt thành số I dài 251,5m
Mặt thành số II dài 80,6m
M ặt thành số III dài 170,3m
M ặt thành số IV dài i 70,8m
-
M ặt thành số V dài 80,9m
-
Mặt thành sổ VI dài 253,7m
Với kích thước các mặt thành như trên, chu vi vịng thành ngồi của Trấn
Rình Đài là 1007,8m. v ề kích thước và hình dáng, Trấn Bình Đài có sự đăng đối
rất cao giữa các cặp mặt tường thành: mặt thành số I (25!,5m ) và mặt thành số
VI (253,7m), mặt thành số II (80,6m) và mặt thành số V (80,9m), mặt thành số
III (170,3m) và mặt số IV (170,8m).
Như chúng ta đã biết, tường thành của Trấn Bình Đài bao gồm hai lóp
được xây bằng gạch vồ trát vơi vừa truyền thống ớ mặt trên, bề dày thân thành là
14,5m. Tường thành ngoài cao 5m được chia làm ba phần: móng, thành và đỉnh
thành. M óng sâu 0,2m, thân thành (từ mặt đất phòng lộđến tai thành) cao 3,7m.
R iêng phần đỉnh thành (tính từ tai thành lên) cao l,3m , được xây vát vào
trong m ột khoán 0,375m. Như vậy, phần thân thành ở trên dày l,3m và ở
dày l,65m . Tai thành rộng ra phía ngồi 0,12m. Tường thành trong xây
gạch vồ trát vừa truyền thống cao l , 6m, dày 0,63m. Tường thành trong
phía
dưới
bằng
cách
tường thành ngồi 1 l,5tn tạo thành bề mặt thượng thành phục vụ cho việc phịng
thủ và đi tuần.
Trên mặt tường thành trong có trố các hệ thống bậc cấp để đi lên thân
thành. Ở mặt thành số I có 2 dãy bậc cấp, một dãy ngay chính giữa thành và một
dãy ở góc phía tây. Mặt thành so VI cũng có 2 dãy bậc cấp, một dãy ngay sát bên
phải Trường Định Môn và một dãy cách cửa này 30m về phía nam. v ề cơ bản,
các hệ thống bậc cấp được xây bàng gạch vồ rộng 4,2m, bao gồm 11 bậc cấp;
mỗi bậc cao 0,3m và rộng 0,33 m. Hiện trạng các hệ thống bậc cấp này bị hư hại
nghiêm trọng, đặc biệt là ở giữa tường thành số I gạch đã bị sụp đổ phần lớn.
Trấn Bình Đài là tịa thành phụ trấn giữ góc đơng bắc của Kinh Thành
Huế, do vậy, trên thân thành có rất nhiều pháo nhãn đế đặt súng đại bác. v ề cơ
bản, pháo nhăn có dạng hình thang cân với miệng mờ rộng ra bên ngồi để chỉnh
góc độ bắn của súng. Hai cạnh bên của pháo nhãn dài l,3m , cạnh đáy nhỏ (ở
265
Nghiên cứu và Bảo tôn
trong) dài 0,9m và cạnh đáy lớn (ở ngồi) dài l,25m . Tuy có kích thước tương
đương nhau, nhưng độ sâu của các pháo nhãn ở Trấn Bình Đài rất khác nhau.
Những pháo nhãn ở các mặt thành số I, II, III, có lẽ dùng để đặt súng nhỏ nên chỉ
sâu từ 0,2- 0,3m. Trong khi đó, những pháo nhãn ở thành số IV và VI lại sâu từ
0,4- 0,9m.
II.5. Hỏa dược khố.
Hỏa Dược Khố hay cịn gọi là kho đạn là một trong những cơng trình kiến
trúc hiếm hoi được xây dựng dưới thời Nguyễn còn lại đến bây giờ.
về
tổng thể
đây là nhà kho quay mặt về hướng tây, dạng hình khối chữ nhật dài 8, 8m, rộng
2,1 lm và cao 2,38m. Mái Hỏa Dược Khố lợp bằng ngói liệt dốc 15° bị cỏ xây
bám dày làm sụt lở ngói nghiêm trọng. Phía trước trổ một cửa duy nhất, dạng
hình vịm cao l,4m , rộng 0,73m. Tường của cơng trình này 0,77m để đảm bảo an
toàn khi phải thường xuyên chứa đựng m ột lượng lớn thuốc nổ. Để đảm bảo yếu
tố an toàn cũng như ánh sáng, trên các m ặt tường cịn có những cửa thơng gió
kích hước 0,2m X 0,2m (tường trước và sau 3 cửa mồi mặt; tường hai mặt bên chỉ
1 cửa kích thước 0,25m X 0,3 m). Nội thất của Hỏa Dược Khố cũng có dạng hình
vng, kích thước 2,1 lm X 7,4m. Trần được xây bằng gạch trát vơi vữa theo hình
vịm, nền đất.
Vị trí đặt Hỏa Dược Khố ở Trấn Bình Đài rất hợp lý, ở ngay sát chỗ giao
nhau giữa đoạn thành số III và IV. Ở vị trí này, H ỏa Dược ỈChố sẽ nhanh chóng
cung cấp đạn dược cho các pháo nhãn khắp tường thành. Đ ặt biệt là đoạn thành
số III với 10 pháo nhãn nhắm bắn thẳng ra nơi sông Hương và sơng Bạch Yến
gặp nhau. Đồng thời khi có hỏa hoạn, nguồn nước của hồ Trấn Bình bên cạnh sẽ
giúp dặp tắt ngọn lửa nhanh chóng.
II.ổ.Trấn Bình hồ.
Vào đầu thế kỷ XX, Léopold Cadière cho biết nơi đây chỉ có 2 cái hồ nằm
theo hình chữ V gọi là Trấn Bình Đài H ồ(1). Hiện nay trên thực địa, Trấn Bình
Đài có khá nhiều hồ. Hai cái hồ mà L. Cadière đề cập vẫn cịn và chúng ta có thể
thấy rõ khi đứng trên mặt thành, nơi giao nhau của đoạn thành số III và sổ IV.
Tuy nhiên, hai hồ này đã bị biến dạng nhiều do bồi đắp và sự lấn chiếm của
người dân ở đây. Ngồi ra, cịn có 4 hồ nhỏ khác do nhân dân ở đây tự đào từ các
hố bom để phục vụ nhu cầu canh tác của họ trong khn viên Trấn Bình Đài.
111 Léopold C adière, “ Kinh Thành H uế- địa d an h ” , sđd, trang 91.
266
Di tích và cuộc sơng
III. Vai trị của Trấn Bình Đài trong hệ thống phịng thủ Kinh Thành Huế
Trấn Bình Đài, tuy chỉ là tòa thành phụ nhưng tọa lạc tại góc đơng bắc
Kinh Thành, nơi giao nhau của hai hô thành hà là sông Đông Ba và sông An Hịa
nên đóng vai trị quan trọng trong hệ thống phịng thủ của Kinh Thành Huế. Các
nhà quân sự thời Nguyền kỳ vọng vào Trấn Bình Đài đó là việc kiểm soát đường
thủy từ Thuận An, cảng Bao Vinh lên Kinh Thành Huế hỗ trợ pháo đài Bắc Định
và Đông Vĩnh bảo vệ Kinh Thành ở m ặt đône bẳc. Như vậy, muốn đánh vào góc
đơng bắc Kinh Thành, trước hết phải đánh vào Trấn Bình Đài. Nhưng trong thế
phịng thù liên hồn giữa Trấn Bình Đài, pháo đài Bắc Định và pháo đài Đơng
Vĩnh thì việc đó rất khó khăn.
Trên các mặt thành của Trấn Bình Đài, các vị vua Nguyền cho xây dựng
rất nhiều pháo nhàn đế đặt súng đại bác. v ề cơ bản, pháo nhãn có dạng hình
thang cân với miệng m ở rộng ra bên ngồi đe chỉnh góc độ bắn của súng. Hai
cạnh bên của pháo nhãn dài l,3m , cạnh đáy nhỏ (ở trong) dài 0,9m và cạnh đáy
lớn (ở ngoài) dài l,25m . Tuy có kích thước tương đương nhau, nhung độ sâu của
các pháo nhãn ở Trấn Bình Đài rất khác nhau. Những pháo nhãn ở các mặt thành
số I, II, III, có lẽ dùng đế đặt súng nhỏ nên chỉ sâu từ 0,2- 0,3m. Trong khi đó,
những pháo nhãn ở thành số IV và VI lại sâu từ 0,4- 0,9m. Trên thực địa, ở các
mặt thành hướng ra Hộ Thành Hà (sông Bạch Đằng, sông Bạch Yến) được thiết
kế đến 10 lỗ châu mai đe đặt đại bác hạng nặng. Đặc biệt hơn, trên mặt thành số
III chỉ dài 170,3m lại được bố trí 10 cỗ súng hạng nặng hướng ra điểm giao nhau
của các nhánh sơng Hương. Trong khi đó, ở những mặt thành khác ít quan trọng,
sự bố phịng gần như khơng đáng kể khi chỉ có 1 cỗ pháo (mặt thành số IV) hoặc
khơng có cỗ pháo nào (mặt thành số V). Có thể nói, mặt thành số VI đóng vai trị
quan trọng nhất trong việc phịng thủ của Trấn Bình Đài. Ở giữa mặt thành này
có Trường Định Mơn, con đường duy nhất thơng ra bên ngồi thành. Chính vì
vậy, ở sát hai bên cửa Trường Định, các nhà quân sự thời Nguyễn đã bố trí 4
pháo nhãn mỗi bên. Những pháo nhăn này sâu từ 0,4- 0,9m để đặt súng đại bác
cỡ lớn. Ngoài ra, quân đội Pháp và Việt Nam Cộng Hòa còn xây ở đây các lồ
châu mai nhỏ (0,2m X 0,2 m ) xuyên qua thân thành và trại lính trên thượng thành
đê phịng thủ.
Với vị tri xung yếu như vậy, Trấn Bình Đài là nơi ghi lại nhiều sự kiện
lịch sử quan trọng trong cuộc chiến tranh bảo vệ độc lập dân tộc. Sau hiệp ước
Patenotre (1884), người Pháp đã biến đây thành khu nhượng địa đầu tiên và xây
267
Nghiên cứu và Bảo tơn
dựng các cơng trình qn sự của mình ở bên trong. Năm 1885, phe chủ chiến của
triều Nguyễn đã chủ động tấn công vào căn cứ quân sự này và Tòa Khâm Sứ với
mong muốn đánh bại thực dân Pháp ở Huế, từ đó mở rộng ra toàn quốc. Ke
hoạch tuy thất bại, nhưng cuộc tấn cơng đã thể hiện tấm lịng n nước, tinh thần
độc lập cao của người Việt Nam dưới thời Nguyễn.
Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, Trấn
Bình Đài trở thành một địa điểm tấn cơng quan trọng của quân đội Cách mạng
Việt Nam. Đặc biệt, trong chiến cuộc Mùa xuân 1968 và Tổng tiến công và nối
dậy năm 1975, chiến trường ở đây diễn ra rất quyết liệt. Theo lời ơng Hồng
Đình Chiểu (người đã tham gia trận dánh này, hiện ở trong khuôn viên di tích),
qn ta gặp rất nhiều khó khăn khi tiến công vào đây, nhưng với tinh thần cách
mạng dâng cao, các chiến sĩ đã không ngại hy sinh để giành thắng lợi cuối cùng.
Từ sau ngày đất nước thống nhất, Trấn Bình Đài thuộc quản lý của Bộ chỉ
huy Quân sự Tỉnh, khí tài và các cơ sở vật chất chiến tranh đã bị triệt bỏ, chức
năng phòng thủ của tịa thành này khơng cịn nữa. Tuy chiến tranh đã qua đi gần
40 năm, nhưng mỗi khi nhắc đến Trấn Bình Đài (Mang Cá nhỏ), người dân Huế
lại nhớ đến các cuộc chiến đấu hào hùng của dân tộc ta để giành độc lập, thống
nhất đất nước.
N.Đ.N
268
Di tích và Di vật
BẢO TỊN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ CHÂU BẢN
T R IÈ U NG UYỄN (1802 -1945) - N H ÌN T Ừ HUẾ
Phan Thanh Hải
L ê Thị Toán*
I. Đ ặt vấn đề
Đối với di sản văn hóa của dân tộc, tài liệu châu bản là một di sản có giá trị
lớn. Đó là ký ức của lịch sử, là nguồn sử liệu gốc có ý nghĩa to lớn đối với việc
nghiên cứu và biên soạn lịch sử dân tộc. Tuy nhiên, hầu hết các triều đại phong
kiến Việt Nam đều khơng cịn lưu giữ được nguồn tài liệu quý báu này, trừ triều
Nguyễn (1802-1945), do những điều kiện lịch sử đặc biệt.
Trong thời gian tồn tại 143 năm, triều Nguyễn đã để lại nhiều di sản văn hóa
vật thể và phi vật thể vơ giá, khơng ít trong số đó đã được cơng nhận là di sản thế
giới như Quần thể di tích c ố đơ Huế, Nhã nhạc cung đình Huế, Mộc bản triều
N guyễn... Một di sản văn hóa đồ sộ khác là hệ thống văn bản, sách vở m à theo
đánh giá của giáo sư Trần Văn Giàu: “có thể bằng hoặc hơn tất cả các triều đại
trước đỏ cộng lại ”, cũng là di sản hết sức quý giá, trong đó có khối châu bản
triều Nguyễn.
Châu bản là các văn bản hành chính do các cơ quan chính quyền từ trung
ương đến địa phương soạn thảo dâng tấu lên và được nhà vua trực tiếp phê duyệt,
ban hành. Châu bản là nguồn sử liệu đặc biệt có giá trị với độ tin cậy cao, nên
việc nghiên cứu, tìm hiểu và đánh giá đúng tiềm năng của khối tài liệu này có ý
nghĩa rất lớn trong việc nghiên cứu giai đoạn lịch sử đầy biến động của Việt Nam
ở thế kỷ XIX và nửa đầu thế kỷ XX. Bên cạnh đó, việc phát huy giá trị của khối
tư liệu đồ sộ này với tư cách là một di sản văn hóa cũng là điều hết sức có ý
nghĩa. Trong bài viết này, với cái nhìn của một người làm cơng tác bảo tồn, tôi
muốn bàn thêm đôi điều về việc bảo tồn và phát huy giá trị châu bàn triều
Nguyễn, nhìn từ c ố đô Huế. Bài viết gồm các nội dung sau:
Tiến sĩ. G iám đốc T rung tâm Bảo tồn Di tích c ố đơ Huế
Thạc sĩ. Phó trưởng phịng N ghiên cứu K hoa học
269
Nghiên cứu và Bảo tồn
- Đặt vấn đề;
- Công tác quản lý, lưu trữ và sử dụng châu bản dưới triều Nguyễn;
- Công tác quàn lý, liru trữ và sử dụng châu bản hiện nay;
- Bảo tồn và phát huy giá trị châu bản, nhìn từ Huế.
- Thay lời kết
2. Công tác quản lý, lưu trữ và sử dụng châu bản dưới thời Nguyễn
2.1. Quản lý, lưu trữ châu bản
Châu bản triều Nguyễn là các bản tấu, sớ, sẳc, dụ, chiếu, chỉ và các tờ
truyền, sai, phó, khiển, di (loại công văn của các cơ quan, tổ chức nhà nước)
thuộc kho lưu trữ của triều đình Nguyễn được vua ngự lãm và ngự phê. Trước
khi ngự phê, vua tham khảo “phiếu n g h ĩ’ của Nội Cáp, Lục Bộ sau đó trực tiếp
cho ý kiến đồng ý hay phủ nhận.
Ngự phê là ý kiến chỉ đạo, phê bình hay bố sung của nhà vua dưới dạng một
đoạn văn dài hay vắn tắt đều viết bằng chữ son (châu phê), hay chấm son (châu
điểm) điếm lên đầu chữ tấu biểu thị vua đã xem và chấp nhận, hay vòng khuyên
đỏ (châu khuyên) lên tên người hay sự vật được lựa chọn, hay quẹt một nét son
lên tên người hoặc câu văn nếu phủ nhận (gọi là châu mạt, châu cải). Vì thể tất cả
các văn bản đã được vua ngự lãm và châu phê đều gọi là châu bản.
Như vậy, châu bản triều Nguyền loại văn bản hành chính được hình thành
trong quá trình hoạt động của bộ máy nhà nước phong kiến thời Nguyễn từ trung
ương đến địa phương. Nội dung văn bản phản ánh một cách toàn diện các mặt
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, qn sự, ngoại giao của xã hội Việt Nam trong
thời gian tại vị của 13 đời vua Nguyễn, từ Gia Long đến Bảo Đại (1802-1945).
Đe quản lý và lưu trữ loại văn bản hành chính này, tất cả các đời vua
Nguyễn đều cho thực hiện theo nguyên tắc nhất định. Dù ở mỗi thời có đơi chút
thay đối, nhưng tất cả đều phải thực hiện theo kiểu công văn phái được chuyên
theo đường chính thống của nhà nước, từ cấp cơ sở ở địa phương lên cấp trung
ương theo ngành dọc quản lý đến các bộ, nha, sau đó mới chuyến đến Nội Các.
Nội Các là cơ quan xử lý văn bản cuối cùng trước khi chuyển đến cho vua ngự
lãm, châu phê.
Đối với các bản tấu được dâng lên từ các địa phương trấn, dinh, tỉnh thì phải
qua ty Thơng Chính gởi tới quan chức cua văn phịng bộ trực tại nhà Tả Vu, rôi
270
Di tích và Di vật
chuyên ngay cho quan chức chuyên môn của các bộ, nha tương quan xem xét nội
dung. Lục Bộ tháo “phiếu n g h ĩ’ đề nghị cách giải quyết công việc được nêu
trong bản tâu, rồi mới chuyến đến Nội Các. Nội Các chí có qun duyệt lại và
đóng ấn. Đối với Lục Bộ và các nha trung ương thì trực tiếp giao cho Nội Các
(văn phịng của vua). Như vậy, tất cà các cơng văn của cả địa phương và trung
ương đều phai giao về Nội Các.
Tất cả các bản tấu của địa phương hay của các cơ quan gửi đến Nội Các đều
phải đầy đủ 3 ban, gồm ] bản chính (bản giáp f?P) và 2 bản phó (bản ất
bản này đều phải ghi tên người phụng thảo, phụng khảo và đóng dấu quan phịng
của cơ quan ấy. Việc giao nhận các bản tấu cho thấy được làm rất chặt chẽ, sau
khi kiếm tra nội dung và hình thức, Nội Các có trách nhiệm thảo “phiếu n g h ĩ’
(phải có quan bộ duyệt lại, trên nguyên tắc phối họp trao đối giữa Nội Các và các
bộ nha) kèm theo bản chính dâng lên vua ngự lãm, 2 bản phó (bản sao) được giữ
lại ở Nội Các.
Sau khi vua ngự phê, các bản tấu được giao trở lại cho Nội Các đế sao chép
những lời ngự phê trên bản chính vào 2 bản phó (đóng dấu quan phịng của Nội
Các). Sau khi sao chép và đóng ấn tỷ xong, Nội Các gửi 1 bản phó cho bộ nha
đương sự thi hành, 1 bản phó giao cho Quốc Sử Quán đế làm sử liệu chép sử, cịn
bán chính (châu bản) giao cho Bản Chương Sở thuộc Nội Các lưu giữ. Cách làm
chặt chẽ như vậy là đe tránh sai sót, và nếu sai sót cũng dề dàng truy cứu trách
nhiệm để trị tội.
Dưới triều Nguyễn, việc quản lý, bảo quản, lưu trừ châu bản được chú trọng
ngay từ đầu triều Gia Long (1802-1820) với việc lập ra Thị Thư Viện, Thị Hàn
Viện và Nội Hàn Viện. Ba viện này chuyên trách việc khởi thảo, phân phát và coi
giữ các chiếu dụ cùng các văn thư của triều đình và những thư từ, ngự chế của
vua. Năm Gia Long thứ 2 (1803) đặt hai chức quan: Thị chiếu viện thừa chỉ và
Thượng bửu khanh để quản lý công việc.
Năm 1820, vua Minh Mạng đổi Thị Thư Viện thành Văn Thư Phịng đảm
nhiệm cơng việc của cả ba viện trên. Văn Thư Phịng ngồi trách nhiệm giúp việc
vua trong công tác văn bản giấy tờ, cịn có trách nhiệm lưu trữ các văn bản liên
quan đên hoạt động quản lý đất nước của nhà VLia. Năm sau (1821), đặt thêm
chức quan Thượng bửu thiếu khanh và Thượng bửu khanh quản lý công việc tại
Văn Thư Phòng.
271
Nghiên cứu và Bảo tôn
Năm Minh Mạng thứ 10 (1829), Văn Thư Phòng được đổi thành Nội Các,
gồm 4 tào: Thượng Bửu Tào, Chú Ký Tào, Đồ Thư Tào và Biểu Bộ Tào, 4 tào
này được phân công nhiệm vụ rất cụ thể:
Thượng Bửu Tào: phụ trách châu bản, đóng dấu các chiếu, dụ, tấu, sớ, hội
đồng với các cơ quan tương quan để sử dụng ấn, dấu. Tấu sớ đã được châu phê,
châu khuyên, châu điểm, châu mạt thì lấy bản phó gởi cho bộ nha liên quan, bản
chính chuyển Biểu Bộ Tào lưu giữ. Ngồi ra cịn giữ các loại bảo tỷ, các loại
quan phòng, đồ ký, bản phó dụ chi, bản thảo chiếu biếu.
Ký Chú Tào (Thừa Vụ Tào): ghi chép tất cả những việc xảy ra khi nhà vua
tuần hành ngồi kinh đơ như: việc sinh hoạt ăn uống, lời nói, cử chỉ của vua, các
lời tấu sớ của các quan tâu lên vua.
Đồ Thư Tào (Bí Thư Tào): ghi lại các ngự chế, thi văn, coi giữ sách vở của
triều đình, cơng văn ngoại giao.
Biểu Bộ Tào: có nhiệm vụ lưu trữ châu bản, các phó bản văn thư, sổ sách,
giấy tờ hình thành trong hoạt động của Nội Các. Như vậy, Biểu Bộ Tào là cơ
quan chuyên trách lưu trữ châu bản và các tài liệu của Nội Các. Đây là một bước
tiến bộ của triều Nguyễn mà cụ thể là của vua Minh Mạng, đã lập ra một cơ quan
lưu trữ chuyên lưu giữ các văn bản hành chính quan trọng trong quản lý, điều
hành đất nước, mà các triều đại trước Nguyễn đều chưa hề có.
Tồn bộ văn thư của triều Nguyễn đều được lưu giữ ở tịa nhà Đơng Các(l),
tọa lạc phía sau nhà Tả Vu trong Hồng Thành. Tài liệu lưu trữ ở đây khơng chỉ
có châu bản mà cịn cỏ ngự chế thi văn, bản đồ, các văn thư ngoại giao và các
điều ước ngoại giao của triều Nguyễn.
Đến năm Bảo Đại thứ 8 (1933), nhà vua cho thành lập Ngự Tiền Văn
Phòng(2), Nội Các coi như bị giải thể, tuy nhiên, châu bản vẫn lưu giữ ở Đông
Các. Đến năm Bảo Đại thứ 17 (1942), Đổng lý Văn phòng Trần Văn Lý nhận
thấy Nội Các từ khi giải thể đã trở nên hoang phể, các châu bản lưu giữ ở đó
trong tình trạng hư hỏng, nên đã dâng tấu với vua Bảo Đại xin đem tất cả văn thư
(1) Đ ông Các được xây dụng năm 1826, là m ột kiến trúc 2 tầng, tọa lạc phía sau tịa Tả vu của điện Cân
Chánh. C ơng trình này hiện chỉ cịn phế tích nền móng.
(2) N gự Tiền V ăn Phịng được xây dựng năm 1933 ờ phía bắc, bên trái lầu Kiến Trung, gằn cừa Tường
Loan, trong T ử c ấ m Thành. Đ ây là m ột tịa nhà hai tầng, xây bằng bê-tơng, lợp ngói. Sau khi cơng trình
này ra đời, triều N guyễn đã trồ thêm một cửa phía sau của T ử c ấ m Thành, gọi là Văn Phịng Mơn. Cơng
trình này hiện vẫn tồn tại, được sừ dụng làm trụ sở của phòng Ọuản lý Bào vệ thuộc Trung tâm Bảo tơn
Di tích Cố đơ Huế.
272
Di tích và Di vật
trong Nội Các ra Viện Vãn Hóa111. Một hội đồng được thành lập do Ngơ Đình
Nhu đúng đầu đà làm việc trong vòng hai năm đế kiểm điểm, phân loại và đóng
tập châu bản, đồng thời kiểm kẽ sô sách các loại ở Nội Các. Hội đồng đã làm bản
mục lục băng chữ Hán và quôc ngừ, chia tài liệu thành các loại: châu bản, hòa
ước, quốc thư, các loại sách, các quyến điện thí, tư liệu linh tinh. Toàn bộ khối tài
liệu này được đem về Viện Văn Hóa bảo quản.
Có thể nói, các vua nhà Nguyễn từ Gia Long cho đến Bảo Đại đều rất quan
tâm đến công tác quản lý, lưu trừ và bảo tồn văn thư nói chung và châu bản nói
riêng. Điêu này được thê hiện ở việc vua đặt các chức quan và cơ quan trông coi
công tác lưu trữ văn thư của nhà nước, trong đó có châu bản. Đặc biệt là vua
Minh Mạng đâ đề ra nhiều chủ trương và biện pháp về lưu trữ văn bản nhà nước,
số sách, nhằm phục vụ cho công tác quản lý điều hành lúc bấy giờ và bảo tồn lâu
dài cho hậu thế.
2.2. S ử dụng châu bản
Châu bản dưới triều Nguyễn được sử dụng rất hiệu quả trong công tác quản
lý và điều hành đất nước. Do quản lý tốt nên các tấu sớ tâu lên vua đều được thực
hiện theo trình tự từ dưới lên trên. Trước khi tâu lên vua, các bộ, nha và Nội Các
đều duyệt qua nội dung và cho ý kiến hay giải pháp, đồng thời có sự kiếm tra
chéo giữa Lục Bộ và Nội Các đế tránh sự sai sót. Sau khi được ngự phê, châu bản
phát đi cho đương sự thi hành, một bản phó được gửi cho Quốc Sử Quán để làm
tài liệu biên soạn các cơng trình lịch sử, địa c h í...
Ọuốc Sử Quán và Nội Các triều Nguyễn đã sử dụng châu bản được lưu trữ
qua các đời vua để biên soạn nên những bộ sử, địa chí rất có giá trị như Đại Nam
thực lục, Đại Nam liệt truyện, Minh Mệnh chính yếu, Khâm định Đại Nam hội
điên sự lệ, Đại Nam nhất thong chí, Khâm định Việt sử thơng giám cươnọ, mục...
Đó là những cơng trình phản ánh tồn diện về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội,
an ninh quốc phòng của đất nước trong hàng trăm năm lịch sử.
Như vậy, nhờ châu bàn, các nhà nghiên cứu ngày nay mới hiểu được đât
nước Việt Nam trong suốt thế kỷ XIX và nửa đầu thế kỷ XX.
3. Công tác quản lý, lưu trữ và sử dụng châu bản hiện na\'
Viện V ăn hóa hay Viện Văn hóa Trung kỳ được thành lập năm 1947. sư dụng tòa nhà rường bên trái
điện Long A n (trên nền cù của tòa nhà Tẻ tửu Quốc T ử G iám ) làm trụ sờ. Cơng trình này hiện vẫn được
bào tôn, thuộc quản lý cua Bảo tàng Cô vật Cung đình Huế.
273
Nghiên cứu và Bảo tôn
Sau khi triều Nguyễn cáo chung (tháng 8.1945), những biến cố lịch sử trong
thời kỳ 1945-1954 đã tác động không nhỏ đến khối tài liệu châu bản của triều
Nguyễn đề lại. Tác động của chiến tranh, thời gian và cả hành động vô thức của
con người đã làm một phần lớn khối lượng châu bản bị hư hỏng, mất mát. Đây là
điều vô cùng đáng tiếc, một tổn thất to lớn đối với di sản văn hóa dân tộc!
Năm 1959, dưới thời chính quyền Miền Nam, Viện Đại học Huế tiếp nhận
toàn bộ thư tịch và châu bản triều Nguyễn cịn lại ở Viện Văn Hóa, tổng cộng
còn 614 tập, thuộc 10 đời vua Nguyễn*". Thời gian tiếp theo là cả một hành trình
luân chuyển của châu bản. Cuối năm 1963 đến đầu năm 1964, châu bản được
chuyển lên Đà Lạt theo Viện Văn Hóa; đến năm 1978 lại chuyển về kho Lưu trữ
quốc gia II Thành phố Hồ Chí Minh. Trong thời gian hơn 12 năm cất giữ ở kho
Lưu trữ II, nguồn tài liệu châu bản này được bảo quản trong điều kiện phương
tiện thiếu thốn, cách quản lý và khai thác, sử dụng còn rất hạn chế.
Sau nhiều năm được luân chuyển qua nhiều nơi, khối tài liệu châu bản triều
Nguyễn đã được Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước cho chuyến về Trung tâm
Lưu trữ quốc gia I tại Hà Nội, nhằm tìm cách khắc phục những văn bản hư hỏng,
và khai thác bước đầu những giá trị to lớn của khối văn bản này.
Sau nhiều năm thực hiện công tác dịch tóm tắt nội dung từng văn bản để
làm mục lục tra cứu, bộ mục lục tra cứu châu bản đã hoàn thành với trên 121 tập,
mồi tập trên đều từ 400- 500 trang. Đây thực sự là một nỗ lực to lớn của Cục Văn
thư và Lưu trữ Nhà nước mà đon vị thực hiện trực tiếp là Trung tâm Lưu trữ
quốc gia I nhằm khai thác các thông tin quý giá của khối tài liệu châu bản triều
Nguyễn. Năm 2010, Cục Văn Thư và Lưu trữ Nhà nước đã cho in ấn công bố
cuốn Mục lục châu bản triều Nguyễn tập I thời Gia Long, M inh Mạng, đây
khơng chỉ là một cơng trình bổ ích đối với giới nghiên cứu mà cịn là một tín hiệu
vui về khả năng khai thác, phát huy giá trị của châu bản.
Tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia I, với phương tiện bảo quản tiên tiến, hệ
thống kho bảo quản tài liệu khoa học và hiện đại, châu bản và các nguồn tư liệu
khác đều đã được xử lý chống ấm, chống mốc và những tác nhân khác gây hư
hỏng tài liệu và được bảo quản rất tốt. Ngoài ra, Trung tâm cũng có được một số
dự án tài trợ để phục hồi tư liệu xuống cấp, bồi lại những tờ châu bản đã bị hư
hỏng. Quyết tâm đưa nguồn tài liệu quý giá trong châu bản được khai thác phục
n) Các đời vua Dục Đ ức (1883), Hiệp H òa (1884) và Hàm N ghi (1885) khơng có châu bản hoặc khơng
cịn được bảo tồn.
274
D i tích và Dì vật
vụ cơng tác nghiên cứu lịch sử triều Nguyễn và Việt Nam thời cận, hiện đại, Cục
Văn thư và Lưu trữ Nhà nước và Trung tâm Lưu trừ Quốc gia I đã phần nào thực
hiện được một khối lượng công việc khổng lồ, rất đáng ngưỡng mộ, được giới
nghiên cứu đánh giá cao.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong việc đưa châu bản ra phục vụ độc giả,
nhưng trên thực tế trong nhiều năm qua, công tác nghiên cứu, tham khảo nguồn
tai liệu quý giá này vẫn còn một số hạn chế do mấy nguyên nhân sau:
Thứ nhất, nguồn tài liệu này rất kén độc giả, vì đó khơng phái là tài liệu viết
bằng chừ quốc ngữ mà ai cũng có thế đọc được. Trong khi đó bản dịch trong mục
lực chi là bán tóm tắt, vì thế muốn nghiên cứu nội dung thì phải tìm đến bản gốc
(chữ Hán). Đây chính, là rào cản cho rất nhiều người khi muốn tìm hiểu, nghiên
cứu về châu bán.
Thứ hai, đối tượng muốn tiếp cận và nghiên cứu châu bản chù yếu là các
nhà nghiên cứu, người nước ngoài, sinh viên, nghiên cứu sinh đang làm luận án
có liên quan đến triều Nguyễn hoặc xã hội Việt Nam dưới thời Nguyễn. Tuy
nhiên chỉ có một số ít nhà nghiên cứu là có thể khai thác trực tiếp tài liệu, cịn lại
chủ yếu là phải thơng qua bản dịch, nhưng hiện nay việc dịch thuật nhằm chuyến
ngữ châu bản sang tiếng Việt lại chưa hoàn thành' do đây là một cơng việc khó,
địi hỏi phải có thời gian và nguồn kinh phí rất lớn.
Thứ ba, nguồn tài liệu châu bản hiện còn là độc bản, lại đang lưu trữ tại Hà
Nội, nên buộc người muốn nghiên cứu phải đến tại Trung tâm Lưu trữ Ọuốc gia I
thì mới có thể tham khảo. Đây là một khó khăn khơng nhỏ cho những người
khơng ở tại Hà Nội, vì vậy, muốn khai thác và sử dụng châu bản có hiệu quả hơn
thì phải có kế hoạch m ở rộng diện phục vụ, nhất là đối với các cá nhân, viện,
trường đại học và các cơ quan có chức năng nghiên cứu ở các địa phương trong
nước.
4. Bảo tồn và ph át huy giá trị châu bản triều Nguyễn, nhìn từ H uế
Châu bản vốn hình thành từ triều Nguyễn, gắn liền với kinh đô Huế trong
suốt 143 năm lịch sử (1802-1945), nhưng do những biến động về chính trị, nguồn
tài liệu quý này đã thiên di qua nhiều nơi như đã đề cập. Mặc dù, từ năm 1959,
ủ y ban phicn dịch sử liệu Việt Nam - Viện Đại học Huế đã tiến hành chỉnh lý tài
liệu theo thứ tự các đời vua, biên dịch tóm lược đê hình thành nên Mục lục châu
bản triều Nguyễn đầu tiên cho khối tài liệu châu bản này và đã xuất bản được 2
275
Nghiên cứu và Bảo tôn
tập (tập 1- Triều Gia Long, năm 1960, và tập 2- Triều Minh Mạng, năm 1962),
nhưng nói chung vẫn cịn hết sức vắn tắt, giá trị tham khảo, nghiên cứu chưa cao.
Đen năm 1963, do nhiều ngun nhân, ủ y ban này khơng cịn hoạt động, còn
18.351 bản thảo chưa được in ấn (dạng phiếu) của các đời vua Minh Mạng,
Thiệu Trị, Tự Đức, sau này được Thư viện trường Đại học Tổng hợp Huế quản
lý. Hiện nay, khối tài liệu châu bản đã về đúng địa chỉ mà nó cần đến - tại thủ đơ
Hà Nội - và đã được bảo tồn bàng các phương pháp hiện đại, việc thực hiện mục
lục hoàn chỉnh và đưa ra khai thác sử dụng phục vụ tham khảo nghiên cứu khoa
học cũng đã được làm tốt hơn nhiều.
Tuy nhiên, đối với Huế, nơi ra đời của châu bản triều Nguyễn, sẽ là vơ cùng
hữu ích và có ý nghĩa nếu châu bản bằng cách này hay cách khác, dưới dạng này
hay dạng khác được bảo tồn và phát huy giá trị tại đây.
Cố đô Huế hiện nay đang gìn giữ, bảo tồn cả một quần thể di tích kiến trúc
đồ sộ vốn là Kinh đô của triều Nguyễn và những di sản văn hóa phi vật thế liên
quan. Việc bảo tồn, trùng tu tôn tạo và phát huy giá trị của quần thể di tích cũng
như các di sản văn hóa phi vật thể nói trên là một trách nhiệm rất nặng nề và đòi
hỏi những kiến thức sâu sắc về lịch sử, văn hóa dân tộc, nhất là trong giai đoạn
lịch sử từ đầu thế kỷ XIX đến giữa thế kỷ XX. Vì thế, Huế là nơi cần nhất những
thông tin quý giá chứa đựng trong châu bản.
Bên cạnh đó, Huế cũng đang được xây dựng và phát triển theo hướng hình
thành một trung tâm văn hóa, giáo dục, khoa học của cả nước và khu vực (Ket
luận 48 của Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 25/5/2009), vì vậy nhu
cầu về tài liệu phục vụ cho công tác tham khảo, nghiên cứu ngày càng lớn. Việc
đưa khối tài liệu đồ sộ và có giá trị cao như châu bản, dưới hình thức nào đó
(chẳng hạn như bản số hóa) về phục vụ nhu cầu này chắc chắn sẽ là một việc làm
phù hợp và có ý nghĩa.
Mặt khác, hiện nay và trong tương lai gần, những cơng trình kiến trúc tại cố
đỏ Huế vốn gắn liền với sự hình thành của châu bản như Tả vu (của điện c ầ n
Chánh), Đông Các, trụ sở của Viện Văn hóa, Tàng Thơ L âu... đã và sẽ được
phục hồi. Việc đưa châu bản về để trưng bày, khai thác, phát huy giá trị là việc
làm hết sức cần thiết.
Cụ thể hơn, đối với công cuộc bào tồn di sản văn hỏa Huế, có thể thấy vai
trị của châu bản rất quan trọng ở các khía cạnh sau:
276
Di tích vù Di vật
- Huế là thành phố Fetival đặc trưng của Việt Nam, nơi đã tổ chức phục
dựng thành cơng rất nhiều lễ hội cung đình gắn liền với triều Nguyễn nhàm phục
vụ phát triên văn hóa, du lịch, đơntỉ thời auang bá được những nét văn hóa độc
đáo riêng có của vùng đất cố đơ. Đê làm tốt hơn nữa công việc này, rất cần
những thông tin đà được ghi chép trong châu bản, chăng hạn thông tin về việc bài
trí, soạn nghi lề, nghi thức làm lễ ơ đàn Nam Giao, Xã Tắc, lễ tế ớ các miếu, các
nghi thức về nhạc lễ, múa cung đình, tuồna cung đình, các nhạc khí...
- Việc bảo tồn, trùng tu các di tích làm thế nào vẫn đảm bảo được tính
ngun gốc của nó đang là một vấn đề nhức nhối ơ nhiều địa phương. Riẽng cố
đô Huế lại đang quản lý một quần the di tích triều Nguyền đồ sộ, trong số đó có
khơng ít cơng trình quan trọng chỉ cịn là phế tích. Việc phục dựng như thế nào
cho đúng vẫn đang là một bài tốn khó đối với các nhà quản lý, bảo tồn. Châu
bản là tài liệu đề cập khá nhiều về việc xây dựng, tu bổ các cơng trình dưới triều
Nguyễn, kế cả việc bài trí, sinh hoạt trong cung điện. Neu khai thác được mảng
tài liệu này, thì đây cũng là một lời giải quan trọng cho các nhà quản lý, bảo tồn
ở Huế.
- Những ghi chép về c ô n g năng sử dụng, cách bài trí, các nghi lễ diễn ra
trong từng cung điện dưới triều Nguyễn ở châu bản cũng có thế giúp cho các nhà
nghiên cứu và nhà quản lý có hướng sử dụng các di tích sau khi đã trùng tu, phù
hợp với cuộc sống đương đại và phát huy hiệu quả đối với du lịch.
Tuy nhiên, việc khai thác giá trị của châu bản đòi hỏi phải có thời gian, có
nguồn lực và có kế hoạch cụ thế, phù hợp. Trước mắt, Trung tâm BTDTCĐ Huế
dự kiến phối hợp với Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I tổ chức trưng bày, giới thiệu
về m ột số giá trị tiêu biểu của châu bản ngay tại quần thể di tích cố đơ Huế. Dự
kiến, trong tháng 9/2013, nhân kỷ niệm 20 năm ngày di sản Huế được UNESCO
công nhận, sẽ tô chức trưng bày khoảng trên 150 châu bàn với chủ đê “Bút tích
ngự phê của các hồng đế trên châu bàn triều Nguyễn (1802-1945)” ; năm 2014,
trong Festival Huế sẽ trưng bày các châu bản với chủ đề “ngoại giao và hội nhập
văn hóa” . Chẳc chắn việc trưng bày, giới thiệu châu bản tại Huế sẽ ý nghĩa sâu
sắc và có tác dụng quảng bá to lớn đối với di sản văn hóa độc đáo này. Bên cạnh
đó, hai bên cũng đã cam kết hỗ trợ nhau trong cơng tác xây dựng hồ sơ, đệ trình
UN ESCO công nhận châu bản trở thành Di sản Ký ức Thế giới.
Đây cũng là những bước chuẩn bị tích cực để châu bản thực sự “trở về” với
cố đô Huế.
277
Nghiên cứu và Rảo tôn
Thay lời kết
Châu bản là một khối văn bản đồ sộ, gắn liền với triều Nguyễn, triều đại
quân chủ cuối cùng tại Việt Nam. Dù trải qua bao thăng trầm của lịch sử, một
khối lượng châu bản rất lớn vẫn cịn được bảo tồn, đó là một may mắn lớn của
người Việt Nam!
Hiện nay, việc bảo tồn, gìn giữ châu bản tại Trung tâm Lưu trừ Quốc gia I,
Hà Nội đang được thực hiện tốt, nhưng việc khai thác, phát huy giá trị của di sản
quý báu này vẫn cịn nhiều hạn chế.
Cố đơ Huế là nới gắn liền với sự hình thành của châu bản, cũng là nơi có
nhu cầu to lớn trong việc khai thác, phát huy giá trị của châu bản. Vì vậy, việc
các đơn vị quản lý và chuyên môn phối họp chặt chẽ với nhau đế đưa châu bản,
bằng nhiều hình thức và cách làm khác nhau, về Huế để khai thác, phát huy giá
trị là việc làm hết sức cần thiết và phù hợp. Và đây cũng là m ột phương cách hữu
hiệu để tôn vinh giá trị của di sản châu bản ngay tại nơi nó được sinh ra.
P.T.H-L.T.T
278
Di tích và Di vật
ĐỊ S Ứ KÍ K IẺU NĂM MẬU TÝ (1828) TRIÈU VUA MINH M ẠNG
Trần Đình Sơn
Vào thời Lê - Nguyền, Vua Chúa Việt Nam thường cho gởi kiểu thức đặt
làm đồ sứ tại các lò cao cấp ứ Cảnh Đức trấn (Giang Tây, Trung Ọuốc ) đê phục
vụ nhu cầu sinh hoạt hoàng gia, triều đình. Loại đồ sứ đặc biệt này có ghi nhiều
hiệu đề khác nhau như: Nội Phu - Khánh Xuân - Minh Mạng - Thiệu Trị niên
ch ế... Nhưng thú vị nhất đối với giới sưu tập cố ngoạn là phát hiện được những
vật phẩm ghi rõ thời điểm chính xác như: Giáp tý niên chế (1804), Canh ngọ niên
chế (1810)... lần này, chúng tôi xin giới thiệu đồ sứ “ Mậu Tý niên chế” kí kiếu
dưới triều vua Minh Mạng năm thứ 9 (1828) đến nay tồn tại đúng 185 năm.
1-Tơ đựng nước: đường kính miệng 19 cm - cao 7 cm 5. Thân tô vẽ 8 vị
tiên đứng trên mây (Bát tiên đằng vân). Theo truyền thuyết là: Hán Chung Ly, Lã
Dồng Tân, Lý Thiết Quải, Trương Quả Lão, Tào Quốc Cựu, Lam Thái Hòa, Hàn
Tương Tử, Hà Tiên Cô. Dưới đáy tô ghi: Mậu Tý niên chế.
T ô B á t T iê n Đ ằ n g V ân
Nhà N ghiên cứu và sưu tầm cô vặt
279
Nghiên cứu và Bảo tồn
2-Hộp đự n g son đỏng ẩn: hình vng, cạnh 10,5 cm, cao 0,5
rạn.
Ctrl.
Men
Phần nắp hộp, trên mặt vẽ đường viền hoa dây xanh quanh ô vng trắng
ghi câu thơ trích từ bài “Ấn tứ Lệ Chính điện thư viện tứ yến ” (Vua ban yến tại
thư viện điện Lệ Chính) của Thi sĩ Trương Duyệt đời Đường :
“ Đơng bích đồ thư phủ
Tây viên hàn mặc lâm. ”
( Đường củ)
Dịch:
Kho tranh sách ở vách bên đơng,
Rừng bút mực nơi tường phía tây.
Hộp đựng son đóng ấn
Hộp đựng son đóng ấn (nhìn ngang)
Chung quanh cạnh nắp trang trí văn hoa thị phân ơ vẽ trúc. Thân dưới hộp
trang trí văn hoa thị phân ơ vẽ phong cảnh bốn mặt giống nhau. Đáy ghi: M ậu tý
niên chế.
3-Tơ đựng nước, đường kính miệng 19cm, cao 7,5cm. Thân tơ trang trí
theo kiếu thơ họa.
Một phần vẽ cây hoa “ngọc đường” bên cạnh phiến đá kỳ lạ. Dưới cành
hoa có con quái thú to lớn đứng ngước đầu gầm gừ nhìn lên con chim ưng (diều
hâu) hung dữ đang quắc mắt xòe cánh đáp xuống. Đe tài này gọi là: “anh hùng
hội”, với ý nghĩa anh là vua loài hoa, hùng là vua loài thú.
280
Di tích vù Di vật
T ơ an h h ù n g hội
T ô a n h h ù n g h ội ( m ặ t đ á y )
Đơ án trang trí này cịn được giải thích theo lối biểu tượng đồng âm. Vì
chữ ưng và chữ anh người Trung Quốc phát âm giống nhau (ying). Nên chim ưng
gặp quái thú cũng diễn tả ý nghĩa anh hùng hội ngộ.
Nửa phần còn lại ghi bốn càu thơ chữ Hán:
Âm:
Đa niên ma trảo bàn khê thượng
Hữu nhật phi thân ngọc hạm tiền
Nhạ đắc trường xuân hoa cảnh tú
Hương phản thái ất điện ngưng yên
Nghĩa:
Nhiều năm mài vuốt trên đá bên suối
Có ngày vươn mình trước hiên ngọc
Nhờ được mùa xuân dài lâu hoa càng đẹp
Hương thơm lan tỏa tụ thành khói ở điện Thái Ất
Dịch thơ:
Đá khe mài vuốt đã bao năm
Hiên ngọc vươn mình nổi tiếng tăm
Nhờ được xuân dài hoa thêm đẹp
Thơm lan điện Ất quyện hương trầm.
T.Đ.S
281
Nghiên cứu và Bảo tơn
M Ộ T SĨ PH Á P BẢO TH Ờ I C H Ú A N G U Y Ễ N PH Ú C CH U HIỆN
CỊ N TẠ I 3 N G Ơ I C H Ù A HUÉ
Phan Thuận An
Có một thời Huế chẳng những là đất Thần kinh mà còn là đất Thiền kinh
của Việt Nam. N gày nay, Thần kinh đã trở thành cố đơ, nhưng Thiền kinh thì hầu
như vẫn cịn tồn tại. Theo một thống kê vào năm 2007, toàn tỉnh Thừa Thiên Huế
có 215 tự viện, tịnh xá, tịnh thất và 321 niệm Phật đường
Dưới thời các vua chúa nhà Nguyễn kéo dài gần 400 năm (1558 - 1945),
Phú Xn - Huế cịn đóng vai trị trung chuyển để dân tộc Việt Nam phát triển
vào phía nam của xứ Đàng Trong trên mọi lãnh vực, bao gồm cả lãnh thổ lẫn
Phật giáo, v ề lãnh thổ, chúa N guyễn Phúc Chu (1691 - 1725) là một nhân vật có
cơng đầu trong việc m ở m ang bờ cõi ở Nam Bộ. v ề Phật giáo, vị chúa Nguyễn
này cũng đã thực hiện được khơng ít cơng tích có giá trị đế đời, đặc biệt nhất là
tại Thủ phủ của xứ Đ àng Trong.
Tuy thời gian đã trải qua ngót 3 thế kỷ, nhưng mãi đến ngày nay, cố đô
Huế vẫn còn bảo lưu được m ột số văn vật quí báu từ thời vị chúa Nguyễn ấy đê
lại. Những văn vật ấy đều có liên quan đến đạo Phật, cho nên, có the xem đó là
các pháp khí hoặc pháp bảo nếu khơng nói là quốc bảo.
Chúng tơi có may mắn tiếp cận được với các văn vật này, cho nên, xin
giới thiệu ở đây đế góp phần vinh danh vị chúa Nguyền đã có cơng lao trong việc
xiển dương đạo pháp.
Q ua tìm hiểu trên thực địa, chúng tơi biết được hiện cịn ít nhất là 8 văn
vật thời M inh V ương đang được trân tàng tại ba ngôi chùa cồ ở Huế. Tám văn
vật bao gồm 1 chng đồng, 1 bia đá, 2 hồnh phi, 2 cặp đối liễn, 1 bình bát và 1
bức chân dung. Ba ngôi chùa vừa nêu là chùa Thiên Mụ, chùa Quốc Ân và chùa
Trúc Lâm.
N hà N ghiên cứu Huế
'" B á o T hừa T hiên H uế, số 3935, ra ngày 2 7 ,- 1 - 2007. tr. 1.
282
D i tích và Di vật
Sau đây, chúng tơi xin lần lượt giới thiệu từng văn vật ở mồi chùa.
I.
C ác p h á p bảo ở ch ù a T hiên Mụ
Chùa Thiên Mụ đã gán liền với đời sống tâm linh của dòng họ Nguyễn từ
vị chúa đầu tiên cho đến vị vua cuối cùng, đặc biệt nhất là chúa Nguyền Phúc
Chu và vua Thiệu Trị (1841 - 1847).
Chùa được xây dựng chính thức vào năm 1601 dưới thời chúa Nguyền
Hoàng, nhưng phải đợi đến thời vị chúa thứ 6, mới được nâng cấp, m ơ mang và
kiến thiết một cách qui mơ. Ngồi việc sai người qua Ọuảng Đơng mời Hịa
thượng Thích Đại Sán về truyền giới cho mình và nhiều Phật tử khác, chúa
Nguyễn Phúc Chu cịn cho xây thêm hàng chục cơng trình kiến trúc mới và đúc
chuông đồng, dựng bia đá ở chùa này(l).
Trong phạm vi chùa hiện nay, còn tồn tại 3 pháp bảo có niên đại thời vị
chúa ấy: 1 chng đồng, I bia đá và 1 bức hoành phi bằng gồ.
A.
Q uả chuông đồng: Thường gọi là Đại hồng chung, được treo trên một
cái giá rất kiên cố trong một ngôi nhà xây bàng gạch với mặt bằng hình lục giác
thật vững chắc, v ề loại chuông treo, đây là quả chuông lớn nhất ở Việt Nam xưa
nay. Được đúc vào năm 1710, chng cao 2,50m, đường kính m iệng l,34m ,
nặng khoảng 2.052kg(2). Ngoại trừ phần đầu chuông thu nhỏ và phần miệng
chuông loe ra, phần thân chuông được đúc theo dạng trụ trịn với đường kính
l,20m . Từ quai đến miệng đều trang trí những hình ảnh, văn tự cùng hoa văn rất
phong phú và đa dạng bàng cách đúc chìm hoặc đúc nổi. Mật độ trang trí ở đây
rât cao. Quai chng là hình 2 con măng xà mặt nhìn ra hai hướng ngược chiều
nhau, thân nối liền với nhau và hơi cong lên để tiện treo chuông lên giá.
Đầu chng là những dải hoa văn chấm trịn, cành lá cách điệu và 4 cặp
rồng phụng ở trong tư thế đang bay.
Thân chuông được chia làm nhiều dải rộng hẹp khác nhau, tính từ trên xuống:
Trên hết là 8 chữ thọ viết theo dạng chữ “lệ” với những nét có phần khác
nhau đơi chút.
Cách đó một dải hẹp hồi văn liên hồn là dải rộng nhất trên chng dùng
để trang trí minh văn (chừ khắc trên chng).
01 Q uốc Sừ Quán triều N guyễn, Đ ại Nam thự c lụ c , bản dịch của V iện Sử H ọc, N X B Sử Học. Hà N ội. tập
I, tr. 171, 177 - 1 7 8
<2’ A. Bonhom m e, "La Pagode Thiên M au: D escription", BA VH, 1915. tr. 260 - 261.
283
Nghiên cứu và Bảo tôn
Đ ại H ồ n g C h u n g ở c h ù a T h iê n M ụ
B ia th ờ i c h ú a N g u y ễ n P h ú c C h u ở c h ù a T h iê n M ụ
Tiếp đó, dưới dải đúc nổi 4 vú chng hình mặt trời trịn có những ngọn
lửa tóe ra hai bên là dải trang trí hình “bát qi” và dải trang trí hình “bát bảo” .
Cuối cùng, ở miệng chng là dải trang trí hoa văn thủy ba với những
ngọn sóng và làn nước nhấp nhô.
v ề chiều dọc, thân chuông được chia thành 4 -phần bằng nhau và phần này
cách phần kia bằng 5 đường kẻ thẳng đứng chạy song song ở bên trên các vú chng.
Riêng về phần minh văn, ở chính giữa 4 mặt có 4 dịng chữ lớn, tính từ
phải qua trái là:
1. ỈẾ Ệ É S ậ ặ Pháp luãn thường chuyển: Đạo Phật được truyền bá khắp nơi.
2. M in HỄ® H ồng đồ củng cố: Cơ đồ nhà Nguyễn bền vững mãi.
3. 'iínMiìM B Đe đạo hà xương : Chính sách tốt đẹp của vua được thi hành ở
khắp nơi.
4. \% 0 iỆ M Phật nhật tăng huy: Đạo Phật ngày càng sáng ngời.
Dưới đây là những dịng chữ nhỏ được khắc trên 4 mặt chng, cũng tính
từ phải qua trái (xin tạm chia mỗi mặt ra làm 2 phần a và b):
M ăt l i
a.
Duy nguyện: phong điều
vũ thuận, quốc thái dân an, pháp giới chủng sinh, đồng viên chủng trí: Xin câu
284