Tải bản đầy đủ (.pdf) (351 trang)

Phương thức hoạt động ở Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam: Phần 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (28.56 MB, 351 trang )

359

NHỮNG TIẾP CẬN MỚI
TRONG HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC




ở Bảo tàng Dân tơc
h o• c Viêt
Nam



v ũ HỒNG NHI

Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam (DTHVN) là
bảo tàng có tuổi nghê trẻ nhẫt trong số các bảo
tàng quốc gia ở Việt Nam. Mặc dù vậy, phạm vi
hoạt động và những kết quả mà Bảo tàng đã
đạt được trong những năm qua ỉn được xã
hội và giới bảo tàng trong và ngồi nước đánh
giá cao. Một trong những thành công và cũng là
th ế mạnh của Bảo tàng là hoạt động giáo dục.
Những bước đi tiên phong mang tính đột phá
trong cách tiếp cận và tổ chức hoạt động giáo
dục đã thu hút nhiều đổi tượng công chúng đến
với Bảo tàng, đem ỉại cho họ sự hứng khởi và
hiểu biết về văn hóa các dân tộc với nhiều hoạt
động trải nghiệm, khám phá. Trong bài viết,
chúng tôi đề cập đến những yếu tố và cách tiếp


cận m ới trong hình thức tổ chức các hoạt động
giáo dục; tồn tại và hạn ch ế cồn khắc phục đ ể
Bảo tàng thực hiện thành cơng hơn nữa các
chương trình giáo dục.




1. Quan niệm truyền thống
về hoạt động giáo dục trong bảo tàng
Trước đây, ử Việt Nam, giới bảo tàng vẫn thường quan
niệm rằng công tác giáo dục là công tác quần chúng, với
nhiệm vụ tuyên truyền, giáo dục văn hóa, khoa học cho
quần chúng theo hình thức thuyết minh và để người xem
trực tiếp quan sát hiện vật gốc. Giáo trình Cơ sở bảo tàng
học đề cập đến cơng tác này như sau: "Công tác quần
chúng là một khâu rất quan trọng của bảo tàng nhằm
phát huy tác dụng của bảo tàng và chỉ có cơng tác quần
chúng mới thực hiện được chức năng giáo dục tư tưởng
cho quảng đại quần chúng... Công tác quàn chúng được
tiến hành dưới nhiều hình thức phong phú: hội họp, cổ
động, tuyên truyền... Nhưng hình thức tốt nhất, có hiệu
quả nhất vẫn là hình thức trưng bày hiện vật bảo tàng,
làm cho quãn chúng mắt thấy tai nghe” (Lê Thị Dung
1990,103).
Với quan niệm trên, hầu hết các hoạt động giáo dục
trong các bảo tàng là tun truyền giáo dục thơng qua hình
thức hướng dẫn tham quan: hướng dẫn tham quan khái
quát; hướng dẫn tham quan theo chủ đề; hướng dẫn tham
quan phần trọng tâm. Một số bảo tàng đa dạng hóa hình

thức tun truyền giáo dục dưới dạng: kể chuyện truyền
thống; nói chuyện lịch sử; công bố những sưu tập hiện vật,
các bức ảnh quý của bảo tàng trên báo, tạp chí, sách; tổ
chức sinh hoạt chính trị...
Phương pháp trên ít đem lại hiệu quả bởi hình
thức hướng dẫn tham quan thường được trình bày dưới
dạng "bài giảng" đơn điệu, khô khan. Các thuyết minh
viên trong bảo tàng trở thành những người "thầy" và
khách tham quan là "học sinh”. Những "bài giảng" như
vậy thiếu hấp dẫn, ít tranh luận, hoặc mang tính lý luận,
trừu tượng và sức thuyết phục không cao. Từ bài thuyết
minh đã có sẵn, các thuyết minh viên của bảo tàng áp
dụng một cách "máy móc" cho mọi đối tượng khách. Họ
khơng phải suy nghĩ, tìm hiểu nhiều, chỉ cần học thuộc
bài thuyết minh mà các nhà nghiên cứu đã chuẩn bị hay

Vũ Hổng Nhi
NHỮNG TIẾP CẬN MỚI TRO N G H O ẠT Đ Ộ N G G IÁO DỤC

ở Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam


nhắc lại thông tin từ các bài viết trong trưng bày là đã
được coi như hồn thành "xuất sắc” cơng tác giáo dục
tuyên truyền của bảo tàng.
Sau vài năm mử cửa và đi vào hoạt động, Bảo tàng
DTHVN nhận thấy quan niệm trên khơng cịn phù hợp,
cần có sự đổi mới nhận thức cơ bản về công tác giáo dục:
thực sự phải khoa học, mang đặc thù bảo tàng. Công tác
giáo dục trong các bảo tàng không phải chỉ là cơng tác

tun truyền với những bài thuyết minh, nói chuyện
về tư tưởng, chính trị, mang tính cổ động, hay một bài
thuyết minh được áp dụng cho mọi đối tượng. Do khách
tham quan thuộc nhiều đổi tượng khác nhau, có nhu
cãu và hiểu biết khác nhau, nên nếu nội dung, cách thức
truyền đạt của thuyết minh viên bảo tàng dành cho họ
giống nhau thì sẽ gây ra cảm giác gị bó, thụ động và nhàm
chán. Nếu chỉ tập trung quan sát hiện vật và nghe thuyết
minh, khách tham quan sẽ chán nản, mệt mỏi. Như vậy,
dù trưng bày của bảo tàng có nhiều hiện vật có giá trị, nội
dung phong phú đến đâu cũng khó thu hút và hấp dẫn
được khách tham quan.
Từ thực tế trên, để thu hút du khách, các bảo tàng
phải đổi mới phương pháp, cách thức tiến hành công tác
giáo dục. Việc tham quan bảo tàng không đơn thuần chỉ
mang tính giải trí mà các bảo tàng nên quan tâm đến việc
du khách thu lượm được gì sau chuyến tham quan ấy. Bảo
tàng phải tạo ra những buổi tham quan với các hoạt động
giáo dục cho nhiều đối tượng, có mục tiêu cụ thề, tạo sự
hấp dẫn cho khách tham quan. Đặc biệt, cần khơi gợi ử
họ sự ham muốn hiểu biết, lòng say mê khám phá khi tìm
hiểu, tiếp cận các hiện vật cũng như các phần trưng bày để
họ tự rút ra những điều hữu ích. Cán bộ làm công tác giáo
dục trong bảo tàng không chỉ nắm rõ nội dung trưng bày
mà phải biết khai thác, sử dụng những câu chuyện có giá
trị về hiện vật một cách uyển chuyển, phù hợp với từng
đối tượng. Có như vậy, nhiệm vụ và cơng tác giáo dục khoa
học của bảo tàng thông qua con đường phổ biến tri thức
khoa học mới được thực hiện theo đúng nghĩa.



Ngồi ra, để tạo mơi trường tốt cho du khách tìm hiểu
và học tập, các trưng bày của bảo tàng phải hấp dẫn và có
tính giáo dục. Các bài viết trong trưng bày cần ngắn gọn,
dễ hiểu. Thông tin, nội dung cơ bản về cuộc trưng bày nên
được chuyển tới du khách trước khi đến bảo tàng để họ có
sự chuẩn bị trước về những điều sẽ được thấy, được trải
nghiệm. Bảo tàng cần nắm bắt tâm lý, nhu cầu của khách
tham quan để tạo ra các hoạt động cho du khách khi họ
đến bảo tàng.
2. Hoạt động giáo dục với cách tiếp cận mới
Từ nhận thức trên, Bảo tàng DTHVN đã áp dụng phương
pháp, cách tiếp cận mói trong công tác giáo dục: lấy cộng
đồng xã hội, các đối tượng công chúng tham quan làm tâm
điểm để xây dựng, thực hiện các hoạt động giáo dục. Trên
tinh thần đó, cách tiếp cận mới trong công tác giáo dục của
Bảo tàng được thực hiện trên các phương diện sau:
2.1. Xây dựng nội dung thuyết minh
phù hợp với từng đổi t ư ợ n g khách tham quan,
có sự tương tác với công chúng
Nội dung hướng dẫn khách tham quan không phải là
những bài thuyết minh "rập khuôn", đơn điệu mà phải là
những thông tin, câu chuyện hấp dẫn, được chắt lọc cho
phù họp với nhiều đối tượng công chúng. Để làm được
như vậy, người hướng dẫn phải chọn lựa, cung cấp các
thơng tìn một cách chính xác, dễ hiểu và lơi cuốn người
nghe. Đặc biệt, phải có những hình thức tương tác từ hai
phía như đưa ra những vấn đề gợi mở để khách tham quan
tập trung nghe, quan sát và giải thích, trao đổi và đặt câu
hỏi cho khách, khuyến khích khách đưa ra các câu hỏi.

Các câu hỏi phải phù họp vói trình độ, lứa tuổi của các
đối tượng khách tham quan, nếu không sẽ phản tác dụng.
Chẳng hạn, ử phần giới thiệu chung về các dân tộc ở Việt
Nam, với lứa tuổi nhi đồng, tiểu học, nếu yêu cầu các em
đọc tên dân tộc ở một số bức ảnh hay chỉ vào bản đồ nước
ta để đặt câu hỏi đất nước Việt Nam có hình giống chữ gì

Vũ Hồng Nhi
NHỮNG TIẾP CẬN MỚI TRO N G HO ẠT Đ Ộ N G G IÁO DỤC
ở Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam


sẽ giúp các em dễ dàng ghi nhớ, nhận biết 54 dân tộc ở
Việt Nam, điều mà trẻ em rất khó ghi nhớ nếu chỉ nhìn
ảnh, xem băng hình. Vì nhi đồng là lứa tuổi chuyển tiếp
từ đứa trẻ đến học sinh, trí nhớ của các em cịn mang tính
chủ quan, chưa biết đâu là trọng tâm, nên việc giới thiệu
cần phải cụ thể. Người thuyết minh cần nói ngắn gọn, súc
tích, có minh họa kèm theo; nên nhắc đi nhắc lại nhiều lần
theo cách hỏi đáp để các em dễ nhớ và điều chỉnh kịp thời
những sai sót cho các em.
Ở lứa tuổi thiếu niên và trung học cơ sở, các em có
sự tiếp xúc rộng hơn trong nhà trường và xã hội, kiến
thức cũng đa dạng phong phú hơn. Để các em hứng thú
khi nghe giới thiệu, tìm hiểu trưng bày, cần đưa ra các
câu hỏi mà câu trả lời là sự gắn kết với kiến thức đã học
của các em, ví dụ như: Có bao nhiêu dần tộc sinh sống ở
Việt Nam? Dân tộc nào có dân số đông nhất? Nhận diện
trên bản đồ Việt Nam một số dân tộc sống ở các miền Bắc,
Trung, Nam... Nhưng nếu áp dụng câu hỏi này cho học

sinh trung học phổ thơng và sinh viên đại học sẽ khơng
khuyến khích họ tích cực, chủ động khi tham quan trưng
bày và trả lời câu hỏi, thậm chí khiến họ khơng thoải mái.
Các câu hỏi đưa ra cho đối tượng này cần đa dạng, địi hỏi
các em vận dụng những thơng tin có tính đúc rút từ phần
giới thiệu vừa được nghe và kiến thức của mình. Thuyết
minh viên cũng cần có những câu hỏi mang tính thăm dị,
đánh giá sự hiểu biết, nhu cầu của các em để hướng dẫn
cho phù hợp.
Điều quan trọng với mỗi cán bộ giáo dục là phải biết
cách truyền tải nội dung, thông điệp của trưng bày cho các
đối tượng công chúng khác nhau một cách dễ hiểu, phù
hợp với trình độ, nhu cầu của từng đối tượng.
2.2. Xác định công chúng mục tiêu
của mỗi trưng bày để xây dựng chương trình,
hoạt động giáo dục phù hợp
Công tác giáo dục không chỉ là việc thuyết minh, hướng
dẫn khách tham quan mà còn tổ chức các hoạt động

363


tương tác dành cho công chúng. Các hoạt động này phải
dựa trên nội dung và hiện vật trưng bày, mang phong
cách giáo dục bảo tàng, tức là khuyến khích sự chủ động
của khách tham quan.
Mỗi trưng bày nhất thời, cần xác định các đối tượng
công chúng mục tiêu và đưa ra hoạt động giáo dục thích
hợp, trong đó có các hoạt động thực hành. Bảo tàng cần
làm cho các đối tượng cơng chúng đến nhiều lần nhưng

vẫn thích thú khi tham quan trưng bày và khơng cảm thấy
xa lạ, khó hiểu. Tính giáo dục phải được chú trọng trong
các hoạt động trải nghiệm, giúp khách tham quan hiểu rõ
nội dung, các chủ đề và hiện vật trong trưng bày, tự rút ra
những kinh nghiệm, nhận thức về di sản văn hóa, từ đó có
ý thức trân trọng hơn di sản văn hóa của các dân tộc.
Sự khởi đầu cho ý tưửng xây dựng các hoạt động
giáo dục gắn với trưng bày và trình diễn phải kể đến
trưng bày Tết trẻ em (1999]. Trong buổi khai mạc trưng
bày, du khách gặp gỡ và trao đổi với cụ Nguyễn Thị
Chuyên (phố Hàng Chiếu, Hà Nội) về Tết Trung thu ở
Hà Nội trước đây, những nuối tiếc của bà khi trẻ em ở
khu phố cổ giờ đây không được rước đèn và trông trăng,
phá cỗ. Câu chuyện của chị Hà Lan Châu, Chủ tịch Quỹ
LC Phát triển kỹ nghệ quốc tế về những hoạt động đem
lại niềm vui trong cuộc sống cho trẻ thơ. Cuộc giao lưu,
chia sẻ với "người trong cuộc” giúp cơng chúng hiểu rõ
hơn những khó khăn, thách thức của đồ chơi dân gian
trong cuộc sống hiện đại; khơi gợi sự quan tâm và ý thức,
trách nhiệm của cộng đồng, xã hội với trẻ em. Tuy nhiên,
phần trưng bày và giao lưu chưa thực sự thu hút sự quan
tâm, chú ý của nhiều người, nhất là với trẻ em - đối tượng
chính của cuộc trưng bày. Qua quan sát và tiếp nhận câu
hỏi của khách tham quan, chúng tôi nhận thấy trưng bày
sẽ thành công hơn nếu công chúng được tận mắt chứng
kiến và tham gia vào những hoạt động trải nghiệm gắn
với các chủ đề trưng bày như làm đồ chơi Trung thu, tạo
hoa văn trang trí trên mũ cho trẻ em theo cách của người
Hmông, người Dao...


Vũ Hống Nhi
NHỮNG TIẾP CẬN MỚI TRO N G HOẠT Đ Ộ N G GIÁO DỤC
ở Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam


Hạn chế trên đã được khắc phục trong trưng bày và
trình diễn Làm giây dó, in tranh Đơng Hị và làm đò chơi

bằng đất sét, giấy bồi (2000) tại nhà Việt ở khu trưng bày
ngoài trời của Bảo tàng. Trong khi người lớn say sưa tìm
hiểu và thực hành kỹ thuật xeo (làm) giấy, in tranh, trẻ em
lại thích thú khi được tô vẽ con giống bằng đất, thử bồi
giấy lên khuôn để làm đồ chơi giấy bồi dưới sự hướng dẫn
của nghệ nhân. Rõ ràng là cuộc trưng bày, trình diễn đã trở
nên sổng động, hấp dẫn hơn bởi Bảo tàng đã đưa ra các
hoạt động phù hợp, đáp ứng được nhu cầu của người lớn
v à t r ẻ e m - đ ố i t ư ợ n g c ô n g c h ú n g m ụ c tiê u c ủ a t r ư n g b à y .

Từ sau năm 2000, hầu hết các cuộc trưng bày nhất
thời của Bảo tàng đều có hoạt động trình diễn đi kèm.
Hoạt động giáo dục cho trưng bày nhất thời được tổ chức
thường xuyên; quy mô, chất lượng ngày càng được chú
trọng. Để hỗ trợ tốt nhất cho các cuộc trưng bày, trình
diễn, mỗi chương trình, hoạt động giáo dục đều có những
mục tiêu cụ thể, trả lời cho các câu hỏi: Đối tượng cơng
chúng nào phù hợp với cuộc trưng bày, trình diễn? Cần
định hướng cho công chúng quan tâm đến vấn đề gì trong
trưng bày, trình diễn? Hoạt động trải nghiệm nào họ có thể
tham gia để hiểu rõ hơn về trưng bày?
Cũng tùy thuộc vào đối tượng công chúng mục tiêu

mà hoạt động giáo dục được xây dựng ử mức độ khó hay
dễ. Nếu đối tượng là học sinh tiểu học và trung học cơ sở,
các bước thực hiện phải đơn giản, dễ hiểu theo phương
châm "Học mà chơi, chơi mà học". Chẳng hạn, năm 2001,
đối tượng chính của hoạt động giáo dục cho trưng bày
Gia phả Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại là học sinh
tiếu học. Đây là lứa tuổi bắt đầu nhận diện về mối quan hệ
trong gia đình, dịng họ; làm quen và biết cách xưng hô với
họ hàng bên nội, bên ngoại... Ở trường học và gia đình, các
em được giải thích, hướng dẫn một cách cơ bản; tuy nhiên,
đế nhớ và chọn cách xưng hô cho phù hợp với từng trường
hợp lại không dễ với các em. Qua nhiều lần khảo nghiệm
với chính con em của cán bộ Bảo tàng, hoạt động giáo dục
được đưa ra với hình thức đơn giản, dễ hiểu, dễ nhớ như:

365


xem sơ đồ gia phả của một gia đình để nhận biết mối quan
hệ của các thành viên; sử dụng sơ đị hình cây để các em
hồn thiện cây phả hệ của gia đình mình; chơi trị chơi xác
định mối quan hệ của một người qua cách xưng hô của
người đó với những người thân trong gia đình; tìm hiểu
những cách gọi khác nhau về bố và mẹ...
Trong trưng bày và trình diễn Nghề dệt vải và thổ căm
của các dân tộc Thái, Cơtu, Việt (2001), đối tượng thích
hợp là học sinh trung học phổ thơng, sinh viên; vì thế, hoạt
động thực hành được thực hiện ử mức độ khó hơn. Các
hoạt động trải nghiệm gồm: cán bông, xe sợi, nhuộm ikat
của người Thái; dệt vải của người Cotu; tước sợi, xe sợi

lanh, vẽ hoa văn trên vải bằng sáp ong, nhuộm chàm của
người Hmông. Điều này giúp các em dễ dàng nhận biết đặc
điểm, ý nghĩa hoa văn của mỗi dân tộc. Hơn thể nữa, qua
sự trao đổi, tương tác với người trình diễn, các em thêm
trân trọng các nghệ nhân và có ý thức, trách nhiệm hơn về
bảo tồn nghề truyền thống.
Trong trưng bày Làng thuốc nam Đại Yên (2003),
chương trình giáo dục tập trung vào hai đối tượng: học
sinh tiểu học và trung học cơ sở. Mục đích của các hoạt
động là đế các em hiểu được nghề thuốc nam với ý nghĩa
như một di sản văn hóa, cung cấp tri thức dân gian trong
việc sử dụng một số cây, lá, củ, hạt quanh nhà để chữa
bệnh. Sau khi tham quan, tìm hiểu và giao lưu với những
người bán thuốc nam của làng Đại Yên, hoạt động giáo dục
được tổ chức theo các cấp học. Học sinh tiểu họe tham gia
vào hoạt động tô màu, viết tên cây thuốc theo hình vẽ, chơi
trị chơi bịt mắt và sử dụng giác quan sờ, ngửi, nếm để
nhận biết và nói tên đó là củ, hạt gì. Học sinh trung học cơ
sử chơi trị chơi xóc thẻ đố vui; xác định công dụng của
các lá cây, củ, hạt thường dùng để chữa các bệnh thông
thường như đau bụng, đau đầu, đau mắt...; trò bịt mắt và
sử dụng giác quan để nhận biết về một số loại lá. Các hoạt
động trong chương trình đều được các em thích thú, tham
gia một cách hào hứng. Sau khi tham gia, bạn nào cũng
"thành thạo" khi được hỏi về các loại cây, lá mọc quanh
Vũ Hổng Nhi
NHỮNG TIẾP CẬN MỚI TRO N G H O ẠT Đ Ộ N G G IÁ O DỤC
ở Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam



nhà có thể chữa một số bệnh thường gặp. Nhiều bạn quay
trử lại cùng gia đình, bè bạn và trở thành người hướng dẫn
cho trưng bày.
2.3. Tạo ra những hoạt động giáo dục đa dạng
liên quan đến nội dung, hiện vật trưng bày
để thu hút công chúng
Trong những năm gần đây, đời sống vật chất và tinh thần
của người Việt Nam đã được nâng lên đáng kể. Nhu càu
tìm hiểu văn hóa, trong đó có việc tham quan các bảo tàng,
di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh... đã tăng lên. Khách
tham quan người Việt Nam là đối tượng công chúng đầy
tiềm năng; tuy nhiên, lượng khách đến bảo tàng sẽ khơng
thể tăng lên nếu ở đó họ chỉ được tham quan một cách
thụ động, tức là chỉ tham quan và nghe thuyết minh. Họ
cần được tham gia một cách chủ động, tích cực vào việc
tìm hiểu, khám phá nội dung trưng bày với các hoạt động
khác nhau.
Nhận thức rõ điều này, Bảo tàng đã khơng ngừng
khích lệ và u cầu các cán bộ làm công tác giáo dục, cán
bộ nghiên cứu phải năng động, sáng tạo để tổ chức các
hoạt động giáo dục đa dạng, thu hút các đối tượng công
chúng đến với Bảo tàng. Từ năm 2000, các chương trình
giáo dục của Bảo tàng được tổ chức thường xuyên, mỗi
chương trình mang sắc thái riêng với những đối tượng,
mục tiêu cụ thể1.
Để công chúng tiếp cận với trưng bày một cách đa
chiều, cùng với các chương tìn h giáo dục gắn với trưng
1. Chương trình giáo dục gắn vói trưng bày và trình diễn Nghê dệt vải của

người Thái, Cotu, Việt (2 0 0 1 ); Cho con đến bảo tàng học làm đồ chơi dân

gian, kết họp vói trư n g bày đồ chơi dân gian (2 0 0 2 ); Liên hoan trò chơi Việt
Nam - Nhật Bản (2 0 0 3 ); Lớp gổm mùa hè cho học sinh..., chương trình giáo
dục gắn với trưng bày Gốm làng Trù (2004); chương trình giáo dục trong
trưng bày Làng chài Cửa Vạn, chương trình giáo dục Truy tìm b í m ật các ngơi

nhà ngồi Ười) chương trình giáo dục gắn vói trưng bày Ngày hội trình diễn
nghề rèn., đúc, khoan truyền thống của các dân tộc Việt, Nùng, Hmồng (2005).

367
____


bày, trình diễn chun đề, Bảo tàng cịn tổ chức các chương
trình chiếu phim, thuyết trình hằng tháng gắn với trưng
bày Đị vải của người Thái ở tiểu vùng sơng Mê Cơng: Tiếp
nối và biến đổi; thuyết trình và trình diễn múa rối nước cho
Hội Những người bạn di sản Việt Nam; chiếu phim, thuyết
trình hằng tháng gắn với trưng bày Việt Nam: Những cuộc
hành trình của con người, tinh thẫn và linh hồn... Mỗi buổi
thuyết trình, chiếu phim ở Bảo tàng có đặc trưng riêng.
Phim chọn chiếu và nội dung thuyết trình phải gắn với nội
dung trưng bày, thường được sắp xếp tuần tự theo các
chủ đề của cuộc trưng bày. Phần giới thiệu trước mỗi buổi
thuyết trình, chiếu phim giúp công chúng nhận diện mối
liên quan của nội dung thuyểt trình với trưng bày; đồng
thời tạo sự thân thiện, hòa đồng giữa những người tham
dự. Sau khi nghe thuyết trình, xem phim, những vấn đề
liên quan đến nội dung, hiện vật trong trưng bày được đưa
ra để công chúng thảo luận, đánh giá. Trước khi kết thúc
buổi thuyễt trình, cán bộ giáo dục ln gửi phiếu đánh giá

buổi thuyết trình và những nội dung mà người tham dự
muốn nghe để những buổi thuyết trình hoặc chiếu phim
sau này được chuẩn bị tốt hơn nữa.
Trưng bày, trình diễn và các hoạt động giáo dục giới
thiệu nghề thủ công truyền thống được thực hiện khá
nhiều trong Bảo tàng; tuy nhiên, mới chỉ đáp ứng được
nhu cầu cơ bản của khách tham quan. Qua các hoạt động
thực hành và việc tổ chức Lóp gốm hè 2003, các cán bộ
giáo dục nhận thấy thanh thiếu niên và ưẻ em rất thích
tìm hiểu, thực hành các nghề thủ công. Các lớp đồ vải hè
2005,2006,2007 lân lượt được tổ chức. Tham gia lóp học,
các em được tìm hiểu, giới thiệu về trang phục, ý nghĩa hoa
văn trang trí trên vải. Các em tự làm thẻ đánh dấu trang
sách bằng hình người giấy mặc trang phục truyền thống;
tạo hoa văn trang trí bằng kỹ thuật nhuộm ikat của người
Thái, in sáp ong của người Hmông; học kỹ thuật thêu đơn,
thêu vặn thừng và sa hạt của người Việt. Các lớp học đều
được tổ chức trong hai tháng hè, thu hút sự tham gia của
nhiều học sinh trung học cơ sở và trung học phổ thông.

Vũ Hồng Nhi
NHỮNG TIẾP CẬN MỚI TRO N G HOẠT Đ Ộ N G G IÁO DỤC
ở Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam


Trên cơ sử đó, Phịng Giáo dục tiếp tục mở Lớp đồ đan cho
trẻ em (2007, 2013). Ở mỗi lớp học, Bảo tàng đều tổ chức
cho các em trưng bày sản phẩm của mình.
Các chương trình, hoạt động giáo dục của Bảo tàng
DTHVN được công chúng đánh giá cao. Ngày càng có nhiều

cơ quan, trường học lựa chọn Bảo tàng làm nơi tham
quan, vui chơi cho con em và học sinh của mình. Nhằm
đáp ứng nhu cầu của cơng chúng, đẩy mạnh cơng tác giáo
dục bằng hình thức xã hội hóa, Bảo tàng đã quyết định tạo
ra các chương trình giáo dục có tính dịch vụ. Các cán bộ
của Phịng Giáo dục đã làm việc với nhiều cơ quan, trường
học để xây dựng và tổ chức các hoạt động riêng cho mỗi
chương trình: có chương trình tổ chức tại cơ quan, có
chương trình tổ chức tại trường học, có chương trình tổ
chức định kỳ mỗi tháng một lần. Hầu hết các chương trình
giáo dục đều có sự tham gia của các nghệ nhân, thự thủ
công với các hoạt động như: làm mặt nạ, làm nón, in tranh
Đơng Hồ, nặn tị he, làm đèn Trung thu... Dù địa điểm tổ
chức, quy mơ của các chương trình khác nhau, nhưng
điểm chung là các hoạt động đều giới thiệu văn hóa truyền
thống và cán bộ giáo dục của Bảo tàng ln đóng vai trị là
cầu nối giữa nghệ nhân với cơng chúng.
2.4. Xây dựng hoạt động trải nghiệm
đặc thù với Phòng Khám phá dành cho trẻ em
và Phòng Khám phá âm thanh - hình ảnh
Phịng Khám phá dành cho trẻ em: Trẻ em ln là đối
tượng mục tiêu trong các chương trình giáo dục của Bảo
tàng. Là những chủ nhân tương lai của đất nước, các em
cần có kiến thức về văn hóa các dân tộc ờ Việt Nam, biết
kế thừa và phát huy những di sản văn hóa của dân tộc.
Tuy nhiên, các hoạt động giáo dục dành cho trẻ em vẫn
mang tính "thời vụ", gắn với trưng bày, trình diễn chun
đề. Vì thế, cần xây dựng các hoạt động giáo dục gắn với
trưng bày thường xuyên (trưng bày cố định) để các em
có thói quen đến tham quan bảo tàng và trử thành những

du khách thường xuyên của Bảo tàng. Các em cũng sẽ là

369


những "tuyên truyền viên" tích cực của các bậc phụ huynh
•và các đối tượng khác.
Các gia đình đến tham quan Bảo tàng chiếm số lượng
khá đông và hầu hết đều có trẻ em đi cùng. Việc tham
quan Bảo tàng với nhiều thế hệ trong gia đình là dịp để
mọi người cùng tìm hiểu, chia sẻ thơng tin và gắn kết tình
thân. Tuy nhiên, trẻ em thường thích vận động, khơng tập
trung quan sát, lắng nghe trong thời gian dài; do đó, cần có
khơng gian riêng để những gia đình có trẻ em có thể cùng
nhau tìm hiểu, khám phá về văn hóa các dân tộc.
Sau gần một năm nghiên cửu, tìm hiểu và xây dựng
nội dung vói sự tư vấn của bà Claire Burkert (chuyên gia
người Mỹ), phòng Khám phá dành cho trẻ em của Bảo tàng
được khai trương đầu năm 2002. Tại đây, trẻ em được tự
tìm hiểu, khám phá văn hóa các dân tộc Việt Nam qua các
hoạt động: nhận diện khu vực cư trú các dân tộc trên bản
đồ; tơ màu và tìm hiểu hoa văn của một số dân tộc; tập dệt
vải trên mơ hình khung dệt đơn giản nhất; mặc trang phục
dân tộc và học cách địu em bé; tìm hiểu và thực hành kỹ
thuật in tranh Đơng Hồ; chơi một số trị chơi dân gian rèn
luyện trí tuệ vả sự khéo tay... Đặc biệt, Bảo tàng cịn tổ chức
những hoạt động khuyến khích các em sử dụng các giác
quan: sờ, nắm, ngửi để khám phá tên gọi, chất liệu, công
dụng của các đồ dùng, vật dụng như: khám phá nguyên
liệu, chu trình dệt vải của người Hmơng trong chiếc hịm

thần bí; tìm hiểu bí mật trong các ngăn tủ...
Phòng Khám phá âm thanh - hình ảnh: Giới thiệu văn
hóa phi vật thể như nghề thủ công truyền thống, các nghi
lễ và lễ hội của một số dân tộc ở Việt Nam qua các thước
phim cũng là nội dung được khách tham quan thích thú và
có nhu cầu tìm hiểu nhiều hơn. Do đặc thù của Bảo tàng,
chỉ có một số ít được giới thiệu qua hệ thống video trong
các phần trưng bày với thòi lượng ngắn, trong khi đó Bảo
tàng có thế mạnh về loại hình này. Điều đó đặt ra u cầu
Bảo tàng cần có khơng gian dành cho cơng chúng nghiên
cứu, tìm hiểu và khám phá văn hóa phi vật thể qua các
đoạn phim tư liệu. Trên cơ sở đó, tháng 1/2004, phòng
Vũ Hổng Nhi
NHỮNG TIẾP CẬN MỚI TRO N G HOẠT Đ Ộ N G GIÁO DỤC

ở Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam


Khám phá âm thanh - hình ảnh được khai trương và đưa
vào sử dụng.
Tại đây, ngoài những phim sử dụng trong trưng bày
thường xun, trưng bày nhất thời, cịn có hơn 200 phim
dân tộc học và văn hóa dân gian, trong đó có 100 đĩa phim
về âm nhạc dân gian thế giới do Viện Smithsonian Hoa
Kỳ cung cấp. 6 màn hình kết nối trực tiếp với các đầu đọc
đĩa điều khiển từ một vị trí có thể phục vụ 30 người xem
phim một lần. Các phim được lập thành danh mục, sắp xếp
theo chủ đề để khách lựa chọn. Du khách sử dụng tai nghe
ngoài cùng bộ điều khiển rời để điều chỉnh, âm lượng và có
thể lựa chọn 1 trong 5 đĩa phim đang phát để xem. Trong

những dịp tổ chức sự kiện hay trưng bày nhất thời, Bảo
tàng cũng bổ sung thêm các phim có liên quan như: lễ cấp
sắc, lễ hội bỏ mả, phim hoạt hình dựng từ các câu chuyện
cổ tích của Việt Nam dành cho trẻ em...
2.5. Tổ chức các hoạt động
sự kiện thường niên
Bảo tàng cũng nhận thấy, muốn thu hút khách thường
xuyên thì phải tạo được những chương trình giáo dục tiếp
cận và đáp ứng nhu cầu của mọi đối tượng công chúng.
Với quan niệm bảo tàng là của cộng đồng xã hội, các hoạt
động trong Bảo tàng cũng hướng tới mọi đối tượng. Các
hoạt động mang tính sự kiện vào dịp Tết Nguyên đán, Tết
Trung thu, ngày Quốc tế thiếu nhi 1/6... đã lần lượt được
tổ chức và trở thành sự kiện thường niên của Bảo tàng.
Chương trình Trung thu đầu tiên được tổ chức tại
Bảo tàng năm 2002 với tiêu đề Cho con đến Bảo tàng học
làm đồ chơi Trung thu. Chương trình có các phần trưng
bày, trình diễn và hướng dẫn làm đồ chơi. Mục đích là
giới thiệu đị chơi và cách làm đồ chơi Trung thu truyền
thống trước đây người lớn thường làm cho con em mình.
Do đó, các hoạt động này hướng tới khơng chỉ có trẻ em,
gia đình mà cịn nhiều đối tượng cơng chúng khác. Từ
kinh nghiệm tổ chức hoạt động thực hành cho công chúng
qua các trưng bày, trình diễn nghề thủ cơng, Bảo tàng

371
____


nhận thấy du khách thích mua nguyên liệu để tự mình

hồn thiện hơn là mua sản phẩm. Vậy trẻ em, gia đình có
thể tham gia làm những đồ chơi gì, ở mức độ nào, những
điều này đều được tính đến trong quá trình nghiên cứu,
sưu tầm và mời người trình diễn, hướng dẫn. Các cán bộ
giáo dục cũng tham gia thực hành khi làm việc với thợ thủ
công. Từ trải nghiệm của mình, họ lựa chọn đồ chơi và đặt
thợ thủ công chuẩn bị dưới dạng bộ nguyên liệu để trẻ em
hồn thiện, thường ở các cơng đoạn cuối như: dán, trang
trí đèn ơng sao; tơ vẽ mặt nạ giấy bồi; sơn tàu thủy sắt
tây... Chương trình đã rất thành công, thu hút được nhiều
người tham gia, nhất là trẻ em và gia đình, được dư luận
xã hội đánh giá cao.
Nghiên cứu và xây dựng chương trình hội xuân đã
được thực hiện ử Bảo tàng từ năm 2003. Chương trình
Trình diễn mừng xuân Quý Mùi với những hoạt động mang
tính đặc thù của ngày xuân với các trò chơi: đánh đu của
người Việt; tung còn của người Thái; đánh pao, chơi quay
của người Hmơng; trình diễn hát trống qn, múa rối
nước. Chương trình đã tiếp cận được với mọi đối tượng
cơng chúng, lơi cuốn họ say mê tìm hiểu, khám phá nét đẹp
ngày xuân của các dân tộc ở Việt Nam. Các hoạt động trong
hội xuân ở Bảo tàng đã mang đến cho du khách những giờ
phút vui chơi lý thú; những trải nghiệm, hiểu biết chân
thực về bản sắc văn hóa các dân tộc. Đây cũng là hình thức
giáo dục và phổ biến khoa học mang tính đặc thù mà Bảo
tàng DTHVN đã và đang thực hiện rất thành công.
2.6. Xây dựng tài liệu, tổ chức tập huấn
cho giáo viên, cán bộ giáo dục khai thác,
sử dụng trưng bày và các di sản vần hóa
trong giảng dạy, hướng dẫn khách

Giáo dục chính quy trong trường học là hình thức phổ biến
nhất trong giáo dục ở Việt Nam, đóng vai trò quan trọng
đối với thế hệ trẻ ử Việt Nam. Nếu trưng bày bảo tàng được
giáo viên khai thác, sử dụng trong giảng dạy trên lóp hay
ngoại khóa, thì cơng tác giáo dục khoa học của Bảo tàng đã
Vũ Hổng Nhi
NHỮNG TIẾP CẬN MỚI TRO N G HOẠT Đ Ộ N G G IÁO DỤC
ở Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam


thực sự phát huy hiệu quả và mang ý nghĩa sâu sắc. Mặc dù
cách làm này đã được các bảo tàng ở các nước phát triển
áp dụng khá nhiều, nhưng ở Việt Nam đây vẫn là hình thức
khá mới mẻ.
Năm 2004, dưới sự hướng dẫn và tư vấn của TS.
Frank Proschan1, cán bộ Phòng Giáo dục của Bảo tàng
đã nghiên cứu chương trình giảng dạy phổ thơng, tìm ra
sự gắn kết giữa trưng bày và các di sản văn hóa với bài
học trên lớp; xây dựng tài liệu cho giáo viên, học sinh; tổ
chức các chương trình tập huấn cho giáo viên, cán bộ giáo
dục khai thác, sử dụng trưng bày và di sản văn hóa tại địa
phương minh họa cho bài giảng.
Tài liệu cho giáo viên được xây dựng dựa trên chương
trình học chính khóa, có sự tham gia góp ý của giáo viên
phụ trách mơn học liên quan. Tài liệu cung cấp cho giáo
viên thông tin về trưng bày, mối liên hệ giữa trưng bày
này với các phần trưng bày khác trong Bảo tàng, những
hoạt động mà giáo viên, học sinh tham gia khi đến tham
quan trưng bày; gợi ý về các chủ đề, câu chuyện, hình ảnh
trong trưng bày có thể lồng ghép với một số mơn học. Tài

liệu cũng đưa ra một số gợi ý cho giáo viên chuẩn bị trước
khi đến tham quan (những câu hỏi có định hướng để kiểm
tra kiến thức và hiểu biết của học sinh, khuyến khích các
em tìm hiểu thơng tin có liên quan đền chủ đề trưng bày),
trong khi tham quan (giáo viên có thể giải thích, củng cố
kiến thức các bài học trên lóp ở một số phần, đưa ra chủ
đề để các em tìm hiểu nâng cao trình độ, phiếu hoạt động
cá nhân giúp các em kiểm tra kiến thức của mình), sau
khi tham quan (giáo viên kiểm tra học sinh đã học được
những kiển thức gì mới, cho các em thảo luận về chủ đề
được giao và trình bày theo nhóm, so sánh kết quả thu
được với kết quả dự kiến đế rút kinh nghiệm cho các hoạt
động tiếp theo].
1. TS. Frank Proschan làm việc tại Trung tâm Di sản văn hóa và lễ hội, thuộc
Viện Smithsonian Hoa Kỳ, là cổ vấn dự án Năng cao năng lực nghiên cứu, suv

tăm và trưng bày dân tộc học vê văn hóa cư dân đồng bằng sơng Cửu Long.

373


Chương trình tập huấn đầu tiên để giáo viên khai
thác và sử dụng trưng bày Cuộc sống đồng bằng sông Cửu
Long: Câu chuyện của sáu cộng đồng được thực hiện tại An
Giang do TS. Frank Poschan và một chuyên gia về giáo dục
bảo tàng của Mỹ thuyết giảng. Nhóm cán bộ giáo dục của
Bảo tàng DTHVN tham gia với vai trò quan sát, hỗ trợ và
học hỏi. Một số cán bộ giáo dục của Bảo tàng An Giang và
Bảo tàng Vĩnh Long tham dự với tư cách là quan sát viên.
Sau chương trình tập huấn cho giáo viên tại An Giang, cán

bộ giáo dục của Bảo tàng DTHVN đã có được những kinh
nghiệm quý giá về phương pháp xây dựng tài liệu, thiết kế
bài giảng cho giáo viên; kỹ năng làm việc nhóm; cách trình
bày; kỹ năng phân tích, đánh giá... Trên cơ sử đó, nhóm đã
tổng họp các phần thuyết trình của chun gia và tư liệu
hóa các kinh nghiệm cá nhân để vận dụng vào việc tổ chức
các chương trình tập huấn ở các địa điểm khác.
Để đảm bảo sự thành cơng, những người thực hiện
chương trình tập huấn cho giáo viên đã có buổi trình bày
nội dung tập huấn cho các cán bộ nghiên cứu, sưu tàm và
thực hiện trưng bày. Các chương tìn h tập huấn cho giáo
viên, cán bộ giáo dục bảo tàng ờ thành phố Hồ Chí Minh,
Cần Thơ và Hà Nội diễn ra theo đúng kế hoạch. Qua mỗi
chương trình tập huấn, các cán bộ giáo dục của Bảo tàng
từng bước trưởng thành và có thêm kinh nghiệm.
Những kinh nghiệm, phương pháp cơ bản này đã được
áp dụng linh hoạt khi thực hiện chương trình Xây dựng
phương pháp đưa di sản văn hóa phi vật thể của Hà Nội vào
bài giảng một số môn khoa học tự nhiên cấp trung học cơ
sở (2004 - 2005)1. Cái khó của dự án là phải tìm ra sự gắn
kết giữa di sản văn hóa phi vật thể với bài học thuộc các
môn khoa học tự nhiên như vật lý, hóa học. Ngay từ đầu,
dự án đã gặp nhiều khó khăn khi thuyết phục các giáo viên,
1. Chương trình có 4 nhóm thực hiện, mỗi nhóm gồm 2 cán bộ giáo dục của
Bảo tàng DTHVN, 1 chuyên viên vật lý hoặc hóa học của Sở Giáo dục và đào
tạo Hà Nội, 1 giáo viên vật lý hoặc hóa học của Trường Trung học cơ sờ Ngơ
Sĩ Liên và Trung học cơ sở Cầu Diễn.

Vũ Hồng Nhi
NHỮNG T IẾP CẬN MỚI TRO N G H O Ạ T Đ Ộ N G G IÁ O DỤC

ở Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam


chuyên viên vật lý, hóa học phối họp thực hiện. Dù đã có
kinh nghiệm xây dựng tài liệu giáo dục cho giáo viên, nhưng
các môn học thuộc khoa học tự nhiên càn có cách tiếp cận
mới - điều mà cán bộ giáo dục của Bảo tàng chưa tùng làm.
TS. Frank Poschan là cổ vấn dự án đã nhấn mạnh: “Các bạn
phải đưa ra các ví dụ vê sự gắn kết giữa di sản văn hóa phi vật
thể với những mơn tự nhiên mới thuyết phục được giáo viên
thực hiện". Vói tinh thần học hỏi, vận dụng linh hoạt và sáng
tạo những kinh nghiệm đã có, các cán bộ giáo dục của Bảo
tàng đã khẳng định được vai trị của mình trong mỗi nhóm.
Họ đã phối họp thành cơng với giáo viên, chuyên viên để xây
dựng các bài giảng mẫu, tìm ra phương pháp để lồng ghép
nội dung về di sản văn hóa phi vật thể với bài học một cách
tự nhiên và hiệu quả nhất Từ phương pháp và kinh nghiệm
có được của dự án, cán bộ giáo dục của Bảo tàng làm việc
chuyên nghiệp hơn, chương trình giáo dục giữa Bảo tàng và
nhà trường được thực hiện ngày một tốt hon.
2.7. Xây dựng tài liệu giáo dục
dành cho học sinh
Giáo dục và phổ biến tri thức khoa học cho thế hệ trẻ luôn
được coi là nhiệm vụ trọng tâm trong công tác giáo dục
của Bảo tàng. Nghiên cứu chương trình học tập của học
sinh để xây dựng tài liệu giáo dục, bổ trợ và củng cố kiến
thức cho các em khi tham quan trưng bày cũng là một cách
làm đột phá ử Bảo tàng DTHVN.
Việc xây dựng tài liệu giáo dục cho học sinh được bắt
đầu từ 2004 với tờ áp phích dành cho học sinh trung học

cơ sở gắn với trưng bày Cuộc sống địng bằng sơng Cửu
Long: Câu chuyện của sáu cộng đồng. Áp phích cung cấp
thơng tin theo các chủ đề trưng bày, gắn kết với các mơn
học và có câu hỏi ờ các dạng: lựa chọn đánh dấu vào ô
trống, viết câu trả lời1. Đặc biệt, để những học sinh không
1. T ờ áp p h ích k hổ AO, in hai m ặt, m ặ t ch ín h in m àu, khi gấp lạ i th à n h tậ p tà i
liệu A 4. Văn p hong, c ỡ ch ữ và cá c h ìn h vẽ m inh h ọa đều đ ư ợ c th iế t k ế ch o
lứ a tu ổ i h ọ c sinh.

375


có điều kiện đi tham quan trưng bày vẫn có thể hiểu nội
dung và liên hệ thực tế để nâng cao kiến thức, Bảo tàng
cung cấp kèm theo bản hướng dẫn sử dụng áp phích.
Cũng từ bước khửi đầu này, việc xây dựng tài liệu
giáo dục và hướng dẫn lộ trình tham quan cho học sinh
bắt đầu được thực hiện. Cơng việc này được duy trì như
một phàn của các chương trình giáo dục cho trưng bày/
nhất thời1. Cơ sở để xây dựng các tập tài liệu dành cho
học sinh là các trưng bày, nhưng có sự khác nhau về dung
lượng thông tin, ngôn ngữ diễn đạt, màu sắc theo trình độ,
tâm lý lứa tuổi, về cơ bản, tài liệu giáo dục dành cho học
sinh ln khuyến khích, gợi mử cho các em tìm hiểu, nắm
bắt nhanh nội dung trưng bày; liên hệ những kiến thức đã
học với thông tin, hiện vật trong trưng bày; củng cố kiến
thức cho các em bằng những hình thức khác nhau: cung
cấp thơng tin, hình ảnh để trả lời câu hỏi; điền từ vào ô
trống; trò chơi ô chữ; giải câu đố vui...
2.8. Tăng cường phối hợp với nhà trường

để tổ chức các chuyến tham quan
cho học sinh có chất lượng hơn
Tham quan trưng bày với số lượng học sinh q đơng dẫn
đến tình trạng lộn xộn trong Bảo tàng. Những chuyến tham
quan như vậy khơng có hiệu quả, thậm chí ảnh hưởng đến
khách tham quan, hiện vật trưng bày và cảnh quan môi
1. T ài liệu g iáo dục d ành ch o h ọ c sin h tiể u h ọ c và tru n g học c ơ s ở tro n g

trưng bày Đồ vái của người Thái ở tiểu vùng sông Mê Công: Tiếp nối và biến
đổi ( 2 0 0 5 ) ; Tài liệu cho h ọ c sin h tru n g h ọ c c ơ sỏ* củ a trư n g bày Chúng tôi ăn
rừng... Georges Condominas ở S a r Luk ( 2 0 0 7 - 2 0 0 8 ) ; Tài liệu d ành ch o h ọ c
sinh tiểu h ọ c và tru n g h ọ c c ơ s ờ tro n g tr ư n g b à y Sống ừ-ong b í tích - Vồn hóa

cơng g iáo đương đại Việt Nam (2008) (Việt, Anh, Pháp); Tài liệu cho trẻ em
và gia đình gắn vói trưng bày Đường 9: Cơ hội và thách thức (2009); Tài liệu
cho h ọ c sinh tiểu học, tru n g h ọ c c ơ sở, tru n g h ọ c phổ th ô n g củ a trư n g b à y

Câu chuyện Mê Công: Thách thức và ước m ơ; Tài liệu cho giáo viên, học sinh
trung học cơ sở, trung học phổ thông trong trưng bày Nỗi đau và Hy vọng:

20 năm HỈV/AỈDS ở Việt Nam (2010)...

Vũ Hồng Nhi
NHỮNG TIỂP CẬN MỚI TRO N G HOẠT Đ Ộ N G G IÁO DỤC

ở Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam


trường Bảo tàng. Tình trạng này thường thấy ở các trường
học tự tổ chức cho học sinh tham quan hoặc tổ chức thông

qua các công ty du lịch. Để khắc phục tình trạng trên, Bảo
tàng đã nghiên cứu và đưa ra nhiều giải pháp thực hiện
như: Tổ chức tọa đàm và thiết lập mối quan hệ với trường
học, công ty du lịch về cách tổ chức tham quan có hiệu
quả ở Bảo tàng1; khuyến khích giáo viên chủ động tham
gia hướng dẫn học sinh khi tham quan; tổ chức thuyết
minh chung cho các đoàn lớn, lồng ghép nội dung giới
thiệu trưng bày với phổ biến nội quy và nhắc nhở những
điều cần lưu ý khi tham quan; đưa ra chính sách quản lý
số lượng một đoàn khách tham quan2 và số lượng người
nghe thuyết minh để nâng cao chất lượng tham quan cho
học sinh theo đoàn; xây dựng tuyến tham quan theo khu
vực trong nhà trưng bày, ngoài trời theo hình thức chia
nhóm nhỏ, sau đó trao đổi chéo; nghiên cứu chương trình
học tập của học sinh để xây dựng các phiếu hoạt động,
chương trình giáo dục phù họp với lóp học, mơn học và
thời lượng tham quan; cung cấp thông tin trưng bày, các
hoạt động giáo dục ở Bảo tàng để giáo viên chủ động xây
dựng chương trình tham quan cho học sinh.
Bên cạnh việc học tập chính quy ờ trường học, khi đến
Bảo tàng, học sinh có cơ hội trải nghiệm và đối sánh thực
tế với những gì đã học trong sách vở. Một trong những
nhiệm vụ trọng tâm của công tác giáo dục ở Bảo tàng là
tạo ra hoạt động cho trường học. Bảo tàng luôn duy trì việc
họp tác chặt chẽ với giáo viên để xây dựng tài liệu và cũng
tổ chức các chương trình tập huấn sử dụng trưng bày cho
giáo viên, ở một số trưng bày nhất thời, Bảo tàng cịn thiết
kế góc hoạt động để học sinh tương tác, trải nghiệm.

1. Năm 2000, Bảo tàng tổ chức tọa đàm Làm th ế nào đ ể tổ chức tham quan


b ảo tàng cho hiệu quả với sự tham dự của cán bộ Sở Giáo dục và Đào tạo Hà
Nội, giáo viên một số trường học, hướng dẫn viên công ty du lịch.
2. Từ năm 2005, Bảo tàng bắt đầu thực hiện chính sách khơng tiếp nhận
đoàn trên 300 người.

377


2.9. Tuyển chọn và tập huấn tình nguyện viên
cho các chương trình giáo dục
Với các chương trình giáo dục ngày càng sâu rộng, cùng
với cán bộ giáo dục, Bảo tàng còn tuyển chọn học sinh,
sinh viên của nhiều trường trung học phổ thông, cao đẳng,
đại học1 đến hướng dẫn cho khách tham quan và tham gia
các hoạt động.
Để phục vụ chương trình Liên hoan trị chơi Việt Nam
- Nhật Bản (2003), Bảo tàng đã mử rộng hon đối tượng
tình nguyện viên. Sau mỗi chương trình, các cán bộ tham
gia hoạt động đều họp rút kinh nghiệm để hạn chế và khắc
phục những khó khăn. Việc tuyển chọn tình nguyện viên
ngày càng chuyên nghiệp và đảm bảo chất lượng. Từ Trung
thu 2006, quá trình tuyển chọn tình nguyện viên được
thực hiện bằng hình thức đăng ký qua đơn, qua các vịng
sơ tuyển, phỏng vấn, thực hành. Thông báo tuyển chọn,
mẫu đơn được cung cấp trên trang web của Bảo tàng.
Đặc biệt, từ năm 2010, tình nguyện viên có thể đăng
ký những hoạt động mình ưa thích và có khả năng để
tham gia. Việc này tránh được tình trạng có nhóm hoạt
động có q nhiều tình nguyện viên đăng ký, trong khi các

nhóm khác có ít hoặc khơng đảm bảo chất lượng cho các
hoạt động. Ngoài ra, quy định về thời hạn nhận đơn hay
bố trí hai buổi sơ tuyển vào ngày cuối tuần cũng giúp cho
Bảo tàng chủ động tiếp nhận và dễ dàng phân nhóm tình
nguyện viên. Các tình nguyện viên cũng thuận lợi hơn khi
tham gia tuyển chọn, tập huấn. Cách làm này thu hút ngày
càng nhiều học sinh trung học phổ thông và sinh viên của
các trường đại học ờ Hà Nội trở thành tình nguyện viên
của Bảo tàng. Chương trình Trung thu, Hội xuân, ngày
Quốc tế thiếu nhi 1/6, các hoạt động giáo dục cho trưng
bày nhất thời... đều có sự tham gia và đóng góp khơng nhỏ
của các tình nguyện viên.

1. Các tình nguyện viên đàu tiên của Bảo tàng đến từ Trường trung học phổ
thông Cầu Giấy, Trường Cao đẳng Sư phạm mẫu giáo Trung ương.

Vũ Hống Nhi
NHỮNG TIẾP CẬN MỚI TRO N G HO ẠT Đ Ộ N G G IÁO DỤC

ở Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam


2.10. Tim hiểu nhu cầu khách tham quan
để tổ chức hoạt động giáo dục
Các chương trình giáo dục được coi là hiệu quả và thành
công khi thu hút được sự tham gia của nhiều khách tham
quan. Để làm được điều này, các cán bộ giáo dục của Bảo
tàng phải nghiên cứu, tìm hiểu nhu cầu của các đối tượng
cơng chúng. Trong những năm đầu mới đi vào hoạt động,
Bảo tàng có sử dụng phiếu lấy ý kiến của khách tham quan

về trưng bày thường xuyên làm cơ sở cho các hoạt động;
tuy nhiên, phần lớn thông tin thường liên quan đến công
tác trưng bày, dịch vụ. Sau này, nhằm đánh giá kết quả các
chương trình giáo dục, Bảo tàng đã đưa ra những phiếu
đánh giá riêng cho từng chương trình, chú trọng tới việc
tổng họp và phân tích các ý kiến đánh giá, những gợi ý của
khách tham quan. Nhu cầu của công chúng là trọng tâm
để Bảo tàng xây dựng các chương trình giáo dục, đảm bảo
các nhu cầu đó được đáp ứng một cách tốt nhất trong điều
kiện của Bảo tàng.
2.11. Cán bộ giáo dục
tham gia vào quá trình thực hiện trưng bày
Trước đây, khi tổ chức các hoạt động giáo dục cho
trưng bày, cán bộ giáo dục chỉ tiếp cận nội dung sau khi
việc nghiên cứu, tổ chức trưng bày đã hồn thiện; do
đó, việc thực hiện chương trình giáo dục cho trưng bày
ln bị động...
Từ năm 2005, các cán bộ giáo dục của Bảo tàng bắt
đầu tham gia vào quá trình tổ chức thực hiện trưng bày.
Nhóm thực hiện trưng bày thường có cán bộ nghiên cửu,
trưng bày, bảo quản, giáo dục và truyền thông... Cán bộ
giáo dục tham gia và đóng góp ý kiến cho nội dung trưng
bày, đặc biệt là về góc tương tác và không gian dành cho
các hoạt động giáo dục trong trưng bày.
3. Những hạn chế cần khắc phục
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác giáo dục
của Bảo tàng DTHVN còn những hạn chế cân khắc phục.

379



Việc tổ chức hướng dẫn khách tham quan theo đoàn
với các hình thức trao đổi, tương tác tuy đã được thực hiện
nhưng cần được chú trọng hơn nữa. Các cán bộ hướng dẫn
khách chưa thực sự thường xuyên nghiên cứu và cập nhập
thông tin khi chuẩn bị nội dung thuyết minh. Để làm tốt
hơn cơng việc của mình, mỗi người cần trang bị kỹ năng,
phương pháp hướng dẫn và trau dồi kiến thức chuyên môn
đế giới thiệu, hướng dẫn cho các đối tượng công chúng
khác nhau một cách linh hoạt, sáng tạo. Các cán bộ giáo
dục của Bảo tàng cần chủ động hon nữa trong các chương
trình giáo dục vì họ là người có nhiệm vụ xây dựng, phát
triển các chương trình giáo dục cho mọi đối tượng cơng
chúng; đánh giá và giám sát các chương trình giáo dục.
Hoạt động tại phòng Khám phá dành cho trẻ em và
phòng Khám phá âm thanh - hình ảnh chưa thực sự hiệu
quả, cịn mang tính hình thức, đơn điệu theo lối mịn. Do
khơng có chun mơn về lĩnh vực phim nên cán bộ giáo
dục ử đây chỉ có thể hướng dẫn khách xem phim; chưa
giải đáp được những câu hỏi của khách liên quan đến kỹ
thuật quay, dựng phim dân tộc học; nguồn gốc các tư liệu
âm thanh hình ảnh của Bảo tàng. Để đa dạng hóa các hoạt
động của hai phịng khám phá và đáp ứng nhu cầu của
công chúng, các chương trình liên quan cần được xã hội
hóa sâu rộng hơn; mở rộng hoạt động trải nghiệm, khám
phá sự đa dạng văn hóa của các dân tộc bằng tất cả các
giác quan.
Trong những năm gần đây, chưcmg trình giáo dục gắn
với trưng bày nhất thời ít được thực hiện; vì thế, trưng bày
chưa thu hút được nhiều đổi tượng công chúng, nhất là

cơng chúng trẻ. Việc tìm hiểu, đánh giá nhu cầu của khách
tham quan qua các cuộc trưng bày bằng hình thức phiếu
tham khảo ý kiến, sổ ghi cảm tưởng cũng chưa thực sự
được quan tâm. Do đó, Bảo tàng cãn phát huy thế mạnh
trong việc phối hợp giữa các cán bộ giáo dục với cán bộ
nghiên cứu, trưng bày, truyền thông, bảo quản... để xây
dựng và thực hiện các chương trình giáo dục, phù hợp với
mọi đối tượng công chúng.
Vũ Hổng Nhi
NHỮNG TIẾP CẬN MỚI TRO N G HO ẠT Đ Ộ N G GIÁO DỤC

ở Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam


Các hoạt động giáo dục phải luôn đổi mới và đa dạng
hình thức tổ chức; cần thường xuyên tổ chức hoạt động
vào ngày cuối tuần, các hoạt động theo tháng, quý và
những hoạt động giáo dục theo yêu cầu của cơng chúng.
Lời kết
Bảo tàng dù thuộc bất cứ loại hình nào, ra đời sớm hay
muộn, đều đảm nhiệm hai chức năng xã hội cơ bản là
nghiên cứu khoa học và giáo dục khoa học. Thay vì như
trước đây khách tham quan chỉ được tiếp cận thông tin
một cách thụ động, thì nay các bảo tàng chủ động tiếp
cận với cơng chúng bằng các hoạt động giáo dục đặc thù.
Tương lai của các bảo tàng phụ thuộc vào cơng chúng; do
đó các bảo tàng cần phải đổi mới và không ngừng nâng cao
chất lượng các hoạt động giáo dục, đáp ứng nhu cầu ngày
càng cao của cơng chúng, có như vậy mới thu hút công
chúng đến với bảo tàng.

Yếu tố quan trọng tạo nên sự thành công trong công
tác giáo dục của Bảo tàng DTHVN là sự hướng tới mọi đối
tượng công chúng, lấy nhu cầu của công chúng làm trọng
tâm cho các hoạt động. Bảo tàng ln chủ động khuyến
khích và tạo điều kiện cho công chúng tự khám phá và khai
thác các giá trị văn hóa bằng các hoạt động trải nghiệm.
Ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của các phương
tiện kỹ thuật, công nghệ thông tin, các loại hình dịch vụ
văn hóa, giải trí, trình độ dân trí và nhu cầu hưửng thụ văn
hóa của cơng chúng ngày càng cao, công tác giáo dục của
Bảo tàng luôn phải đổi mới và sáng tạo đế thích nghi với
điều kiện xã hội, cũng như đáp ứng được những mong đợi
của công chúng.

381
____


TÀI LIỆU THAM KHẢO

Đặng Văn Bài (2005), "Nhận thức về
chức năng giáo dực của bảo tàng",
Một con đường tiếp cận di sỏn vân

Cục Di sản văn hóa và Bảo tàng
Hồ Chí Minh (2005), Cơng tác giáo

hóa, Cục Di sản văn hóa, Hà Nội.

dục của bảo tàng, Tọa đàm khoa

học, Hà Nội.

Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam (1999,

Lê Thị Dung (1990), "Các phương

2001, 2002, 2004 và 2011), Các cơng
trình nghiên cứu của Bởo tàng Dân tộc

pháp giáo dục phố biến tri thức khoa
học của bảo tàng", Cơ s ở b ảo tàng

học Việt Nam, tập l# II, III, IV, VII, Nxb.
Khoa học xã hội, Hà Nội.

học, tập 3, Nxb. Khoa học xã hội, Hà
Nội, tr.103.

Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam
(2007), Di sản vàn hóa bảo tàng và
những cuộc đối thoợi, Nxb. Thế giới,
Hà Nội.

Vũ Hồng Nhi
NHỮNG TIẾP CẬN MỚI TRONG HOẠT ĐỘNG G IÁO DỤC
ở Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam


HOẠT ĐỘNG TRÌNH DIỄN
THƯỜNG NIÊN VÀO DỊP



TẾT NGUN ĐÁN
tai
Bảo tàng
Dân tơc
h o• c Viêt
Nam

w



PHÙNG T H Ị MAI ANH

Nấm trong dịng chảy vân hóa, bảo tàng - một
thành tố, một thiết ch ế văn hóa mang ý nghĩa
hết sức quan trọng với đời sống xã hội. Bảo tàng
với nhiệm vụ sưu tâm, trưng bày những hiện
vật có giá trị đem lại cho cộng đồng có cái nhìn
đẫy đủ hơn về ỉịch sử văn hóa, các giá trị nhân
văn, nhân đạo sâu sắc. Hoạt động của bảo tàng
đóng một vai trị quan trọng trong việc phát huy
giá trị di sản văn hóa phi vật thể vì bảo tàng là
của cơng chúng, hoạt động bởi cơng chúng và
vì câng chúng. Mong muốn của công chúng đến
bảo tàng không đơn thuần chỉ ngổm nhìn các
hiện vật, nghe thuyết minh những câu chuyện
liền quan đến hiện vật mà cịn đ ể tìm hiểu về
phong tục, tập quán, nét sinh hoạt văn hóa,

truyền thống dân gian cũng như đời sống hiện
tại. Điều này đòi hỏi người làm công tác bảo
tàng phải đáp ứng ngày càng lớn không chỉ bề
rộng mà cả bề sâu những hoạt động giới thiệu di
sản văn hóa phi vật thể tới cơng chúng.
Xuất phát từ nhu câu thực tế đó, Bảo tàng
Dân tộc học Việt Nam (DTHVN), một bảo tàng
mang đậm tính nhân văn, tính lịch sử và tính
dân tộc học đã được hình thành và phát triển
trong hai thập kỷ qua đã đem lại những ý nghĩa

383


×