Tải bản đầy đủ (.pdf) (351 trang)

Phương thức hoạt động ở Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam: Phần 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (33.55 MB, 351 trang )


J

r

D Ẻ CO
N Ọ T B Ả O TÃN G
SổNGHDÒNG
QUAN NIỆM VÀ PHƯƠNG THỨC HOẠT ĐỘNG
ở BẢO TÀNG DÂN TỘC HỌC V IỆT NAM


VÕ QUANG TRỌNG - NGUYỄN DUY TH IỆU
ĐỒNG CHỦ BIÊN

J



DE CÓ
N Ộ T BẢO TÃ N G
SONG ĐÓNG
i

QUAN NIỆM VÀ PHƯƠNG THỨC HOẠT ĐỘNG
ở BẢO TÀNG DÂN TỘC HỌC VIỆT NAM

THẾ GIĨI

Nhà xuất bản Thế Giới
Hà Nơi-2 017



BẢO TÀNG DÂN TỘC HỌC VIỆT NAM


Biên tập
PHẠM THỊ THỦY CHƯNG
NGUYỄN THỊ THÙY DƯƠNG
PHẠM VĂN DƯƠNG
NGUYỄN VŨ HOÀNG
VŨ PHƯƠNG NGA
LÊ PHƯƠNG THẢO
VÕ THỊ THƯỜNG


MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
CHUẨN

Mực VÀ QUAN

NIỆM MỚI

v õ QUANG TRỌNG - NGUYỄN d u y t h i ệ u

21 Nhìn ra thế giới qua hệ thống trưng bày thường xuyên
tại Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam
v õ QUANG TRỌNG

40 Bảo tàng của sự đa dạng và sống động
NGUYỄN VĂN HUY - LÊ THỊ MINH LÝ


56 Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam và sự lan tỏa
phong cách làm bảo tàng mới
PHẠM VĂN DƯƠNG

75 Một số quan điểm tiếp cận trong trưng bày ở
Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam
L ư u HÙNG

102 Đa dạng tộc người ở Việt Nam: Từ thực tế
đến trưng bày Các dân tộc Việt Nam

ở Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam
v ũ THỊ HÀ

126 Sự chuyển dịch vai trò của nhà nghiên cứu
trong các trưng bày nhất thời có sự tham gia
của cộng đồng tại Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam


PHƯƠNG THỨC H O Ạ T Đ Ộ N G
v õ THỊ THưỜNG

151 Trưng bày nhất thời của Bảo tàng Dân tộc học
Việt Nam: Đa dạng nội dung, đa dạng hình thức
NGUYỄN VĂN HUY

2 1 6 Trưng bày Bao cấp:
Phản biện xã hội và hồi niệm
HỒNG THỊ T ố QUN


2 4 8 Chăm sóc hiện vật bảo tàng
NGUYỄN TH Ị HưỜNG

2 7 4 Phần mềm “Quản lý hiện vật và ảnh tư liệu”
của Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam
HOÀNG BÉ

3 0 0 Chăm sóc các cơng trình kiến trúc
dân gian ở Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam
TRẦN TH Ị THU THỦY

325 Hoạt động giáo dục dành cho công chúng
tại Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam
v ũ HỒNG NHI

3 5 9 Những tiếp cận mới trong hoạt động giáo dục

ở Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam
PHÙNG THỊ MAI ANH

383 Hoạt động trình diễn thường niên vào dịp Tết
Nguyên đán tại Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam


N G U YỄN T R ư Ờ N G GIANG

395

Phim dựa vào cộng đồng trong bảo tàng

AN THU TRÀ

409

Kết nối công chúng với bảo tàng: Hoạt động
truyền thông tại Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam
NGUYỄN THỊ THÁI HÒA

435 Sử dụng mạng xã hội trong hoạt động truyền thông
tại Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam

NGHIÊN CỨU Ở BẢO TÀNG
NGUYỄN DUY THIỆU

4 4 9 Bảo tàng với giọng nói của chủ thể văn hóa:
Cách tiếp cận cộng đồng
VI VĂN AN

477

Nghiên cứu, sưu tầm và trưng bày Văn hóa
Đơng Nam Á
v õ THỊ MAI P H ư ơ N G

495

Nghiên cứu, sưu tầm và trưng bày về các dân tộc
miền núi phía Bắc Việt Nam: Đa dạng và bình đẳng
CHU THÁI SƠN


5 1 0 Tản mạn về việc sưu tầm hiện vật
ở Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam
v ũ P H ư ơ N G NGA

520 Vai trò của tư liệu nghe-nhìn trong bảo tàng


LA CƠNG Ý

543 Tìm hiểu và giới thiệu then Tày
ở Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam
LÊ DUY ĐẠI

5 5 7 Nhìn lại việc phục dựng khn viên truyền thống của
người Chăm tại khu trưng bày ngoài trời
PHẠM VĂN LỢI

573 Cụm kiến trúc Trường Sơn - Tây Nguyên trong
Vườn Kiến trúc Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam
NGUYỄN ANH NGỌC

592 Đẩy mạnh hơn nữa việc nghiên cứu, sưu tầm và
trưng bày về biển
v ũ HỒNG THUẬT

6 1 1 Hiện vật thiêng của người Việt ử Bảo tàng Dân tộc học
Việt Nam
NGUYỄN THỊ TUẤN LINH

6 3 6 Sưu tập ché của cư dân tại chỗ vùng Trường Sơn Tây Nguyên ở Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam

LÊ ANH HÒA

6 5 9 Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam với biến đổi văn hóa
tộc người
675 20 NĂM BẢO TÀNG DÂN TỘC HỌC VIỆT NAM
THEO DÒNG Sự KIỆN


TABLE OF CONTENTS
INTRODUCTION
STANDARDS AND NEW PERSPECTIVES
v õ QUANG TRỌNG
NGUYỄN DUY THIỆU

21 Seeing the World through the Permanent Exhibitions
at the Vietnam Museum of Ethnology
v õ QUANG TRỌNG

40 A Museum of Diversity and Liveliness
NGUYỄN VĂN HUY
LÊ THỊ MINH LÝ

56 The Vietnam Museum of Ethnology and the Pervasion
of a New Method in the Museum Work
PHẠM VĂN DITƠNG

75 Some Approaches in Exhibition of the Vietnam
Museum of Ethnology
L ư u HÙNG


102 The Diversity of Ethnic Groups in Vietnam: from
Reality to The Peopỉes ofVietnam Exhibition at the
Vietnam Museum of Ethnology
v ũ THỊ HÀ

126 The Shiíting of Museum Researchers' Roles in
Organizing Temporary Exhibitions with Community
Engagement at the Vietnam Museum of Ethnology


M ETH O D O LO G Y
v õ THỊ T H ư Ờ N G

151

Temporary Exhibitions of the Vietnam Museum of
Ethnology: Diverse and Prịund
NGUYỄN VĂN HUY

216

The Bao cấp Exhibition: Social Criticism
and Nostalgia
HOÀNG THỊ TỐ QUYÊN

248

Care and Preservation of Museum Objects
NGUYỄN THỊ HưỜNG


274

The Database Software for Object and Photography
of the Vietnam Museum of Ethnology
HOÀNG B É

300

Preservation of Folk Architecture at the Vietnam
Museum of Ethnology
TRẦN TH I THU THỦY

325

Educational Activities at the Vietnam Museum of
Ethnology
v ũ HỒNG NHI

359

New Approaches to Education at the Vietnam Museum
of Ethnology
PHÙNG TH Ị MAI ANH

383

Annual Lunar New Year Períịrmances at the Vietnam
Museum of Ethnology



N G U YỄN TRU-ỜNG GIAN G

395

13

Community-Based Videos in Museums
AN THU TRÀ

409 Connecting the Public to the Museum: Communication
and Outreach Activities of the Vietnam Museum of
Ethnology
NGUYỄN TH Ị THÁI HÒA

435 The Use of Social Netvvork in Communication and
Outreach Activities at the Vietnam Museum of
Ethnology
MUSEUM RESEARCH
NGUYỄN DUY THIỆU

449 The Museum with the Voices of Culture Bearers A Community-Based Approach
VI VĂN AN

477 Research, Collection, and Exhibition on Southeast Asia
v õ THỊ MAI P H ư ơ N G

495 Research, Collection, and Exhibitions on Northern
Mountainous Peoples in Vietnam: Diversity and
Equality
CHU THÁI SƠN


510 Approaches to Object Collection at the Vietnam
Museum of Ethnology
v ũ PHƯƠNG NGA

520 The Roles of Audio-visual Documents in Museums


LA CÔNG Ý

543

Research and Presentation of then Ritual of Tay People
at the Vietnam Museum of Ethnology
LÊ DUY ĐẠI

557

Reílection on the Restoration of Cham Traditional
Houses in the Outdoor Exhibition
PHẠM VĂN LỢI

573

The Architectures of Truong Son Mountains and
the Central Highlands in the Garden of Architectures
at the Vietnam Museum of Ethnology
NGUYỄN ANH NGỌC

592


Promoting and Developing Research, Collection, and
Exhibitions on Seas
v ũ HỒNG THUẬT

611

Sacred Objects of Viet People at the Vietnam Museum
of Ethnology
NGUYỄN THỊ TUẤN LINH

636

The Jar Collection of Local Peoples in the Truong Son
Mountains and the Central Highlands at the Vietnam
Museum of Ethnology
LÊ ANH HÒA

659

The Vietnam Museum of Ethnology and Changes
in Ethnic Cultures

675

20™ ANNIVERSARY O F TH E VIETNAM MUSEUM
O F ETHNOLOGY: DEFINING M OM ENTS AND
EVENTS



LỜI NÓI ĐẦU

Ngày 12 tháng 11 năm 1997, tại Hà Nội diễn ra một sự
kiện quan trọng: Phó Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam Nguyễn Thị Bình và Tổng thống Cộng
hịa Pháp Jacques Chirac cắt băng khai trương Bảo tàng
Dân tộc học Việt Nam. Đến nay đã 20 năm trôi qua.
Trong thời gian ấy, Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam,
từ tòa Trống đồng giới thiệu 54 dân tộc Việt Nam, đã
từng bước hoàn thiện khu Vườn Kiến trúc với 10 cơng
trình dân gian đại diện cho các loại hình khác nhau của
nhiều dân tộc và vùng văn hóa. Khơng dừng lại ở giới
thiệu về Việt Nam, Bảo tàng xây dựng tòa Cánh diều,
trưng bày kết nối với các tộc người ở Đông Nam Á. Và
xa hơn thế, các trưng bày vươn ra châu Á, châu Đại
Dương, châu Phi và Mỹ Latin, nhờ những sưu tập hiện
vật được tặng. Trong hành trình 20 năm, cùng với các
trưng bày thường xuyên đó là hàng loạt trưng bày nhất
thời, những hoạt động trình diễn văn hóa phi vật thể,
các chương trình hoạt động giáo dục trải nghiệm... đã
làm cho Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam sống động và
trở thành một điểm sáng, một điểm tham quan thu hút
đông đảo du khách trong nước và quốc tế, được công
chúng mến mộ. Từ 10 năm nay, hằng năm, Bảo tàng
đón khoảng nửa triệu lượt khách tham quan. Trong ba
năm liền (2012, 2013, 2014], Bảo tàng Dân tộc học Việt
Nam được TripAdvisor, trang web du lịch nổi tiếng thế
giới, bình chọn là Bảo tàng xuất sắc, xếp thứ tư trong 25
bảo tàng hấp dẫn nhất châu Á. Ba năm tiếp theo (2015,



16

2016, 2017), Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam được vinh

-----

danh là Điểm tham quan du lịch hàng đầu Việt Nam, do
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Tổng cục Du lịch và
Hiệp hội Du lịch Việt Nam trao tặng.
Để đạt được các kết quả đó, trong suốt quá trình
hình thành và phát triển, đội ngũ nhân viên của Bảo
tàng Dân tộc học Việt Nam luôn hướng theo các quan
niệm, tiếp cận phương thức hoạt động mới. Bảo tàng
cũng ln nhận được sự hỗ trợ có hiệu quả của nhiều
chuyên gia và tổ chức quốc tế. Quá trình làm việc khơng
mệt mỏi ấy là q trình cán bộ, nhân viên Bảo tàng tích
lũy kiến thức và những trải nghiệm chuyên nghiệp quý
báu. Nhân dịp kỷ niệm lần thứ 20 ngày Bảo tàng mờ cửa
đón cơng chúng, chính họ - những người trong cuộc cùng nhau nhìn lại chặng đường vừa qua và chia sẻ kinh
nghiệm bằng cách cùng thực hiện cuốn sách Đ ể có m ột

bảo tàng sống động: Quan niệm và phương thức h oạt
động ờ Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam. Cơng trình tập
thể này thể hiện kết quả nghiên cứu về nhân học/dân
tộc học và bảo tàng học. Cuốn sách được tổ chức thành
3 phần: Chuđn mực và quan niệm mới, Phương thức h oạt

động, Nghiên cứu ở bảo tàng.
Cuốn sách đề cập nhiều lĩnh vực khác nhau, nhưng

cũng còn nhiều vấn đề trong hoạt động đa dạng của Bảo
tàng Dân tộc học Việt Nam chưa được đề cập như: vấn
đề về quản trị bảo tàng, vai trò của họp tác quốc tế, vấn
đề đào tạo, dịch vụ bảo tàng... Các bài viết là thu hoạch
của mỗi cá nhân sau nhiều năm miệt mài cơng việc.
Trong cùng một chí hướng nhằm xây dựng một bảo tàng
chuyên nghiệp, sống động và hấp dẫn công chúng, từng
người viết có cách nhìn nhận riêng, cuốn sách tơn trọng

LỜI NÓI ĐẦU


sự đa dạng ấy. Có thể nói, đây là cuốn sách cung cấp cho
bạn đọc những kiến thức và kinh nghiệm hữu ích về bảo
tàng và bảo tàng học thơng qua thực tiễn hoạt động tại
Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam.
Mặc dù các tác giả và Ban Biên tập đã hết sức cố
gắng, nhưng cuốn sách không tránh khỏi thiếu sót và
bất cập. Mong bạn đọc lượng thứ.

PGS. TS. VÕ QUANG TRỌNG
GIÁM ĐỐC
BẢO TÀNG DÂN TỘC HỌC VIỆT NAM



CHUAN Ml/C

QUAN NIEM MCfl



NHÌN RA THẾ GIỚI
QUA HỆ THỐNG TRƯNG BÀY
THƯỜNG XUN
tai
• Bảo tàng
^ Dân tơ•c h o•c Viêt
• Nam

v õ QUANG TRỌNG
NGUYỄN DUY THIỆU

Sau hơn 20 năm kiến tạo, đến nay có th ể nói Bảo
tàng Dân tộc học Việt Nam (DTHVN) đã hồn tất
khơng chỉ trưng bày giới thiệu các dân tộc ở Việt
Nam, mà còn đặt truyền thống tộc người ở Việt
Nam trong bối cảnh chung của khu vực và cung
cấp một cái nhìn so sánh với nhiều vùng trên thế
giới. Với các không gian hiện hữu về các dân tộc
ở Việt Nam, ở Đông Nam Á, châu Á, châu Đại
Dương, châu Mỹ và châu Phi1, Bảo tàng DTHVN
đã đi đâu trong trưng bày giới thiệu về các cộng
đồng trên thế giới song hành với các cộng đồng
của quốc gia. Nhìn rộng ra trong khu vực Đơng
Nam Á, chỉ hai bảo tàng tổ chức trưng bày theo
cách thức trên, đó ỉà Bảo tàng Các nền văn minh
châu Á (ACM) của Singapore và Bảo tàng Dân
tộc học Việt Nam.
Ở hai bảo tàng này, các cộng đồng tộc người
của quốc gia đều được giới thiệu trong bối cảnh

lịch sử - văn hóa - tộc người chung của khu vực.
1. Trưng bày Các dân tộc Việt Nam (1997) trong tòa Trống đồng, các trưng
bày Vân hóa Đơng Nam Á (2013), Một thống châu Á (2015), Vòng quanh thế

giới (2 0 1 5 ) trong tòa Cánh diều.


Cả hai bảo tàng đêu dùng hình thức ưưng bày
diễn giải thơng qua hiện vật và hình ảnh. Trong
trường hợp ACM, lối sống/vãn hóa của các cộng
đồng người Singapore (người Sing, người Malay
và người Indian) được đặt trong bối cảnh các nền
văn minh châu Á. Còn với Bảo tàng DTHVN, sự
đa dạng tộc người ở Việt Nam cùng với sự phong
phú về truyền thống của họ được đặt Ưong nên
cảnh chung của khu vực Đông Nam Á.
Điểm khác nhau rất dễ nhận thấy giữa hai
bảo tàng này là: ACM chú trọng sử dụng hiện vật
ỉịch sử đ ể giải thích về các nền văn hóa của châu
lục và mối quan hệ giữa chúng, nghĩa là theo
cách "nhìn từ ngồi vào" (Ấn Độ, Trung Hoa, th ế
giới Malay, Singapore]. Trong khi đó, Bảo tàng
DTHVN lấy cư dân làm trung tâm và diễn giải văn
hóa của họ chủ yếu bằng hiện vật dân tộc học1 và
hình ảnh phản ánh đời sống đang sống động, và
theo tiếp cận "nhìn từ trong ra" (các dân tộc Việt
Nam, Đông Nam Á, châu Á, các châu lục khác).
1. Bắt đầu từ Việt Nam
Trưng bày đầu tiên của Bảo tàng DTHVN trong khơng gian
tịa Trống đồng giới thiệu toàn bộ 54 dân tộc ở Việt Nam.

Lý thú là ử khơng gian mử đầu lộ trình tham quan
là năm ngữ hệ ở Đông Nam Á (Nam Á, Nam Đảo, Thái Kadai, Hmông - Dao, Hán - Tạng), tạo bối cảnh học thuật
cho những diễn giải chi tiết trong trưng bày. Hơn nữa,
cùng vói bức tranh tộc người ử Việt Nam, một bản đồ thể
hiện vùng phân bố của năm ngữ hệ ở Đông Nam Á, cung
cấp một cái nhìn chung, trực quan về tồn khu vực. Ở đây,
khơng chỉ nhận diện sự đa dạng tộc người của Đông Nam
Á, mà còn thấy cả đặc điểm nổi trội của sự phân bố tộc
người xuyên quốc gia. Thực tế này đương nhiên gợi cho
người xem nhiều liên tưởng lý thú.
1. Nguyễn Duy Thiệu (2 0 1 3 , 5-12).

Võ Quang Trọng, Nguyễn Duy Thiệu
NHÌN RA TH Ế G IỚ I Q U A HỆ TH Ố N G TRƯNG BÀY THƯỜ N G XUYÊN
tại Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam


Các không gian trưn g bày của Bảo tàng DTHVN
1. Tòa Trống đỏng (Các dân tộc Việt Nam)
2. Vườn Kiến trúc (Các cơng trình kiến trúc dân gian)
3. Tịa Cánh diều (Đông Nam Á và các châu lục)


Với những bản đồ khoa học và "bắt mắt” trong phần dẫn
nhập của không gian Các dân tộc Việt Nam, ngay từ đàu lộ
trình tham quan, đã có thơng tín về sự phân bố tộc người trên
diện rộng, bước đầu thể hiện mối quan hệ trong tiến tìn h
tộc người ở Việt Nam và Đông Nam Á. Các bản đồ này cũng
là xuất phát điểm, từ đó cơng chúng được dẫn tới các không
gian trưng bày theo chủ đề, nơi có những bản đồ khác, cụ thể

hem về mỗi nhóm, thậm chí về từng tộc người (tên gọi, dân
số, địa bàn cư trú và các thông tin khác). Hệ thống bản đồ và
sơ đồ trong trưng bày của Bảo tàng DTHVN thực sự là một
cơng trình khoa học và bảo tàng học tiên phong.
Về lộ trình, trung bày được tổ chức theo ngôn ngữ tộc
người và phân bổ theo vùng miền địa lý1. Xuất phát từ các
cư dân nhóm Việt-Mường, trưng bày mử đầu bằng không
gian của người Kinh (Việt] - tộc người đa số của đất nước.
Tiếp đến là các nhóm Tày-Thái, Kadai, Hmơng-Dao; TạngMiến, Mơn-Khơme miền Bắc, Mơn-Khơme Trường Sơn
- Tây Nguyên, Nam Đảo miền núi. Cuối lộ trình là cư dân
Chăm, Hoa, Khome. Vậy là trong tịa Trống đồng, các nhóm
tộc người thuộc năm hệ ngữ được giói thiệu trong những
khơng gian cụ thể, tạo thành một chuỗi tham quan liên hoàn.
Về nội dung, như đã đề cập ử phần trên, mặc dù có
cùng thời điểm khai trương (1997), nhưng trong khi ACM
của Singapore giới thiệu các nền văn minh của châu Á, chú
trọng sử dụng các sưu tập cổ vật, thì Bảo tàng DTHVN với
trọng tâm là con người, đời sống đa dạng của các cộng đồng,
đã lựa chọn sử dụng chủ yếu tư liệu hiện vật dân tộc học
đương đại. Đương nhiên, là hiện vật trưng bày trong bảo
tàng, là cổ vật hay hiện vật đương đại, cũng phải đảm bảo
các thuộc tính cần thiết (tính kỹ thuật, tính mỹ thuật, tính
văn hóa). Trước hết các hiện vật đó phải là những đồ vật
được chế tác để đáp ứng một mục đích sử dụng nào đó, thể
hiện một phong cách tạo tác nào đó, các motỉf (nếu có) phản
ánh bản sắc tộc người hoặc đặc tính địa phương. Cũng cần
nói rằng, ở Bảo tàng DTHVN, chất liệu tạo nên trưng bày
1. Chi tiết, xem: Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam, 1997 (Catalogue trưng bày).

Vỗ Quang Trọng, Nguyễn Duy Thiệu

NHÌN RA T H Ế G IỚ I Q U A HỆ THỐ NG TRƯNG BÀY TH ƯỜ N G XU YÊN
tại Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam


không đơn thuần là hiện vật. Các nguồn tư liệu hình ảnh,
bản đo, các bài giới thiệu, chú giải khơng chỉ bổ trợ cho hiện
vật mà cịn có vai trị riêng, được tổ chức phân cấp một cách
hệ thống, hài hòa với nhau và hài hòa trong tổng thể. Các số
liệu về dân số và phân bố tộc người được "đồ họa hóa" một
cách hiện đại, được hiển thị trên bản đồ, sơ đồ một cách hấp
dẫn và khoa học. Các bài viết được phân cấp rõ ràng về nội
dung thơng tin cũng như hình thức thị giác, cho đến vị trí
bài trí của mỗi loại. Ở trong các bài viết đó là giới thiệu về
tộc người hoặc nhóm ngơn ngữ tộc người, về phương thức
kiếm sống cũng như đời sống hằng ngày, đời sống xã hội,
nghệ thuật trình diễn, tín ngưỡng, tơn giáo... Các thơng tin
như vừa đề cập cung cấp cho khách tham quan những hiểu
biết cụ thể, hình ảnh điền dã cung cấp những thơng tin sống
động về tộc người, về chủ nhân văn hóa, trong khi các hiện
vật giúp họ có những khám phá với nhiều cung bậc cảm xúc.
Như trên đã trình bày, từ phịng dẫn nhập, khách tham
quan được cung cấp thông tin về các cư dân theo năm hệ
ngữ, kể cả ngôn ngữ và âm ngữ (qua video ghi giọng nói
của người dân]. Ở các khơng gian tiếp theo của lộ trình,
dàn dần theo tiến trình khám phá, khách tham quan được
cung cấp thông tin theo hệ phân cấp ngày càng chi tiết: các
nhóm tộc người, các nhóm địa phương và thậm chí thông
tin đến từng tộc người cụ thể. Với cách trưng bày này, Bảo
tàng DTHVN không chỉ là nơi giới thiệu "cái đẹp", những
thành quả và sự tích lũy của truyền thống cộng đồng, mà

trưng bày này còn như một "bách khoa thư" sinh động về
đời sống đa dạng của các tộc người ờ Việt Nam.
Về bài trí, trong từng khơng gian cụ thể, ln có mặt
của hai hình thức tổ chức hiện vật: giới thiệu trong các tủ
kính và ở các không gian “mở" dạng sắp đặt, tạo sự sinh
động, nhịp điệu trong tồn lộ trình và cho khơng gian
trưng bày. Sự kết hợp hài hòa, tinh tế và khoa học giữa các
hiện vật được bảo vệ trong tủ kính và hiện vật trong "ngữ
cảnh" ở các khu vực "tái tạo" vừa thể hiện sự tôn trọng
hiện vật (dù là hiện vật đời thường), vừa cải thiện được
tính "khơ cứng" có phần đơn điệu của các trưng bày chỉ


tập trung lột tả hiện vật. Hơn nữa, các video về cuộc sống
ở cộng đồng, kỹ thuật thủ công, sinh hoạt tâm linh của chủ
thể văn hóa... được ghi hình trực tiếp từ thực tế tại nhiều
vùng miền, được trình chiếu trong các không gian làm cho
không chỉ không gian mà cả hiện vật trử nên có sức sống.
Đặc biệt, giải pháp trưng bày đang đề cập đưa bảo tàng
gần gũi với cuộc sống của cộng đồng ử các địa phương nơi
các chủ thể văn hóa đang sinh sống. Có thể nói đây chính
là điểm mấu chốt thu hút khách tham quan mà không phải
bảo tàng nào cũng thành công.
Các dân tộc ở Việt Nam còn được giới thiệu trong
Vườn Kiến trúc - một tổ họp những cơng trình dân gian
được đưa về từ các vùng khác nhau, tái dựng trong vườn
cây của Bảo tàng, tạo một không gian đặc thù. 10 cơng
trình của Vườn Kiến trúc phơ diễn nhiều dáng vẻ và loại
hình kiến trúc của tộc người, của vùng miền1. Khơng chỉ là
cơng trình kiến trúc - những mẫu hình đích thực từ cộng

đồng được tái dựng ở Bảo tàng - mà cả các đò dùng trong
nhà cũng góp phần tái hiện khơng gian sống của chủ nhân,
phản ánh đời sống của cư dân địa phương nơi khửi nguồn
của cơng trình. Những cơng trình trong Vườn Kiến trúc
khơng chỉ bổ sung cho trưng bày thường xuyên trong tòa
Trống đồng về sự đa dạng văn hóa tộc người ử Việt Nam
mà các "hiện vật" đặc biệt này còn là nguồn hứng khởi đối
với sự khám phá của khách tham quan, khơng chỉ khám
phá các loại hình kiến trúc dân gian, kỹ thuật truyền thống,
mà cịn về khơng gian sống, về tập quán tộc người và gợi
lên sự liên hệ giữa chúng với các cơng trình tưong ứng tại
các vùng khác nhau mà khách tham quan đã hoặc sẽ được
thưởng ngoạn ờ các không gian khác.
Sau hơn 20 năm miệt mài kiến tạo hai không gian
trưng bày, Các dân tộc Việt Nam và Vườn Kiến trúc, bức
khảm tộc người đa dạng của Việt Nam được Bảo tàng
DTHVN giới thiệu một cách tinh tế và sống động.
1. Chi tiết, xem: Musée cTEthnographie du Vietnam (2013), Ịardin d'archi-

tectures (cataỉogue)

Võ Quang Trọng, Nguyễn Duy Thiệu
NHÌN RA TH Ế GIỚI Q UA HỆ THỐ NG TRƯNG BÀY THƯỜNG XUYÊN
tại Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam


2. Đến Đông Nam Á
Việt Nam là một bộ phận của Đông Nam Á. Các cộng đồng cư
dân nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa này, từ cội nguồn,
đã lấy nơng nghiệp làm hoạt động mưu sinh chính. Theo các

nhà nghiên cứu, cho tới thời kỳ đầu Công nguyên, thời kỳ
mà Đông Nam Á vẫn "phi Hoa, phi Ấn”, trình độ phát triển
và văn hóa/lối sống của các cộng đồng cư dân trong khu
vực về cơ bản là tương đồng. Thời kỳ tiếp theo, Đông Nam Á
chịu sự bành trướng lâu dài của hai nền văn minh lớn: văn
minh Ấn Độ và văn minh Trung Hoa, sự khác nhau trong
sắc thái văn hóa giữa các vùng miền tăng dần1. Muộn hơn
sau này, các cộng đồng cư dân Đông Nam Á chịu sự đô hộ
của thực dân phương Tây, là cư dân trong những thuộc địa
của Pháp, Hà Lan, Anh hoặc của Bồ Đào Nha tuỳ theo khu
vực. Quá trình giao lưu tiếp xúc với văn minh Ả Rập và văn
minh phương Tây ở mức độ khác nhau giữa các vùng, miền
tăng cường sự đa dạng nội tại vốn có trong khu vực. Phải tói
sau Thế chiến II, cùng với trào lưu phục hưng và xây dựng
các quốc gia độc lập, nhất là từ khi các nước cùng nhau xây
dựng ASEAN - Hiệp hội về chính trị, kinh tế, văn hóa, thì ý
thức về một bản sắc Đơng Nam Á chung mới được các cộng
đồng cư dân và các quốc gia thực sự quan tâm.
Trong bối cảnh như vừa đề cập, việc nghiên cứu, nhận
thức, giới thiệu về lối sống/văn hóa của các cộng đồng (tộc
người, nhóm tộc người, quốc gia dân tộc) ở từng quốc gia
riêng biệt, không đặt chúng trong nền cảnh chung của khu
vực thì khó có thế nhận biểt một cách thấu đáo các đặc
tính riêng của mỗi nền văn hóa cụ thể, hay những điếm
chung của văn hóa khu vực.
Trên tinh thần đó, ngay từ 1997, khi Bảo tàng DTHVN
mở cửa đón cơng chúng tham quan trưng bày Các dân tộc
Việt Nam, cũng là lúc dự án "Mử rộng Bảo tàng Dần tộc
học Việt Nam” được xây dựng. Sau gân chục năm lao động
không mệt mỏi của toàn thể nhân viên Bảo tàng DTHVN,

1. G. Condominas (1987), "Ethnologie Régionale du Sud-Est", Ethnologie

Régiorìle //, Encyclopédie de la Pléiade, Paris.


với sự giúp đỡ tích cực và có hiệu quả của các chuyên gia
quốc tế, đặc biệt là bạn bè ờ khu vực Đông Nam Á, cuối
2013, không gian Đông Nam Á đầu tiên, trong tòa nhà
mới mang tên tòa Cánh diều, chính thức mờ cửa. Cũng
cần phải nói rằng, trước sự kiện này, đã có nhiều bảo
tàng ở khu vực và trên thế giới tổ chức giới thiệu về văn
hóa của Đơng Nam Á. Tuy nhiên, đấy chỉ là các hoạt động
nhất thời và về một số lĩnh vực, cịn một trưng bày mang
tính dài hạn, đề cập nhiều mặt đời sống của các cư dân
Đông Nam Á, như một thực thể, thì trưng bày ở Bảo tàng
DTHVN là đầu tiên1.
Khai trương khơng gian trưng bày có tiêu đề Văn
hóa Đơng Nam Á này là sự kiện có ý nghĩa về nhiều mặt.
Trước hết, sự kiện này thể hiện một cách sinh động vai
trò và vị thế của Việt Nam, một thành viên có trách nhiệm
của ASEAN, khơng chỉ trong lĩnh vực an ninh chính trị,
kinh tế mà cịn cả trong bảo tồn và phát huy di sản văn
hóa khu vực. Theo đó, hình ảnh Việt Nam chắc chắn sẽ
đẹp hơn trong lòng bạn bè quốc tế. Bằng việc khai trương
trưng bày này, Bảo tàng tạo dựng thêm sản phẩm mới thu
hút khách du lịch, đồng thời tạo cơ hội cho công chúng
Việt Nam, nhất là những người chưa có điều kiện đi du
lịch nước ngồi, có thể thỏa mãn nhu cầu tìm hiểu về láng
giềng của mình khi tham quan Bảo tàng.
Để có khơng gian trưng bày thường xuyên về Đông

Nam Á, Bảo tàng DTHVN đã phải vượt qua rất nhiều khó
khăn, thách thức. Đơng Nam Á là một khu vực rộng lớn,
ngồi Việt Nam cịn có tới 10 quổc gia, mỗi quốc gia có hàng
chục, thậm chí hàng trăm tộc người2, với truyền thống rất
đa dạng và hàng loạt sắc thái văn hóa địa phương. Trong
điều kiện diện tích trưng bày có hạn, hiện vật và tư liệu
1. Vẽ Đơng Nam Á, Bảo tàng DTHVN có phịng trưng bày có tiêu đề Văn
hóa Đơng Nam Á (khai trương 201 3 ) và phịng Tranh kính Indonesia (khai
trương 2014).
2. Nguyễn Duy Thiệu Cb. (1997), Các dân tộc Đông Nam Á, Nxb. Văn hóa dân
tộc, Hà Nội

Vỗ Quang Trọng, Nguyễn Duy Thiệu
NHÌN RA TH Ế GIỚI Q U A HỆ THỐ NG TRƯNG BÀY THƯỜNG XUYÊN
tại Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam


×