Tải bản đầy đủ (.doc) (121 trang)

Thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội ở tỉnh hòa bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (879.87 KB, 121 trang )

1
mở đầu
1. Tớnh cp thit ca ti
Bo him xó hội (BHXH) là một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước
ta, trong nó bản chất nhân văn sâu sắc vì cuộc sống an lành, hạnh phúc của
con người.
Ngay từ khi mới thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Đảng và
Bác Hồ đã đặc biệt quan tâm đến cơng tác BHXH. Chính sách BHXH đã
được ban hành phù hợp với từng giai đoạn, phục vụ cho mục tiêu cách mạng
qua từng thời kỳ. Đồng thời, đảm bảo nguyên tắc hưởng thụ theo cống hiến và
tính đến đơng đảo các tầng lớp nhân dân. Qua nhiều lần ban hành, sửa đổi, bổ
sung, chính sách BHXH ở nước ta đã đạt được những mục tiêu quan trọng
nhằm ổn định đời sống và là chỗ dựa vững chắc cho hàng triệu người lao
động, góp phần tích cực trong sự phát triển nền kinh tế - xã hội.
Trong quá trình xây dựng và phát triển, trước sự thay đổi lớn lao và
không ngừng của xã hội Việt Nam kể từ sau khi đất nước thống nhất và nhất
là từ khi nền kinh tế chuyển sang cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, chính sách BHXH đã đã có nhiều
thay đổi.
Việc xây dựng, ban hành, tổ chức triển khai thực hiện và kiểm tra giám
sát q trình thực hiện chính sách BHXH ở nước ta là một yêu cầu khách
quan, là đòi hỏi cấp bách trong quá trình phát triển. Sự thay đổi mang tính
bước ngoặt được đánh dấu bằng việc ngày 26/01/1995 Chính phủ ban hành
Nghị định số 12/CP qui định về việc thực hiện điều lệ BHXH, và Nghị định
19/CP ban hành ngày 16/02/1995 của Chính phủ về việc thành lập hệ thống
BHXH Việt Nam.
Theo Nghị định 19/CP của Chính phủ, hệ thống BHXH Việt Nam gồm
ba cấp: Trung ương, các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và cấp các


2


quận, huyện. HƯ thèng nµy tạo lập quỹ BHXH tập trung độc lập với ngân
sách Nhà nước dưới sự quản lý và điều hành trực tiếp của Chính phủ. Nh»m
thực hiện cải cách hành chính giảm bớt đầu mối các cơ quan Trung ương,
ngày 22/01/2002 Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 20/2002/QĐCP về việc chuyển giao ngành Bảo hiểm y tế (BHYT) Việt Nam sang ngành
BHXH Việt Nam và ngày 06/12/2002 Chính phủ ban hành Nghị định số
100/2002/NĐ-CP Quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ
chức của Bảo hiểm xã hội Việt Nam bãi bỏ Nghị định 19/CP ngày 16/02/1995.
BHXH Việt Nam là tổ chức thực hiện chính sách BHXH và BHYT. Qua 6
năm hoạt động ngành BHXH Việt Nam theo Nghị định số 100/2002/NĐ-CP
đã thu được những kết quả to lớn, đặc biệt là hình thành Quỹ BHXH tập trung
và đồng thời thực hiện đúng chính sách BHXH đối với người lao động và
người hưởng Bảo hiểm y tế, song tổ chức thực hiện chính sách BHXH vẫn
cịn nhiều tồn tại.
Từ những yêu cầu thực tiễn của hoạt động BHXH ở Hồ Bình, việc
nghiên cứu khắc phục những tồn tại trong tổ chức thực hiện là cần thiết để
chính sách BHXH đi vào cuộc sống.
Với những lý do trên, em chọn đề tài "thực hiện chính sách Bảo hiểm
xã hội ở tỉnh Hồ Bình’’ để nghiên cứu với mong muốn góp một phần nhỏ
làm sáng tỏ một số quan điểm về lý luận, tổ chức thực hiện BHXH nhằm thực
hiện tốt hơn chính sách ở Hồ Bình, đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ cho người
lao động, người quản lý sử dụng lao động, trong và sau quá trình hoạt động
cống hiến của họ cho xã hội.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Chính sách BHXH đã được nhiều người, nhiều cơ quan nghiên cứu trên
nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội như Quản lý tài chính BHXH trên
địa bàn tỉnh Nghệ An của Thạc sỹ Trần Quốc Hồn, Hà Nội 1999; Đổi mới
chính sách quản lý hoạt động BHXH Việt Nam giai đoạn 1986-2001- Thực


3

trạng và giải pháp của Thạc sỹ Chu Đức Hoài, H., 2002; Hoàn thiện vốn đầu
tư xây dựng cơ bản của BHXH Việt Nam của Thạc sỹ Phạm Trường Giang,
H.,2003; Giải pháp nhằm tăng cường quản lý tài chính bảo hiểm xã hội tại cơ
quan bảo hiểm xã hội Hà Nội của Th.s Tô Thị Thiên Hương, H., 2003; Tổ
chức chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội Việt Nam - Thực trạng và giải pháp
của Th.s Nguyễn Thị Chính H., 2003; Nghiên cứu thống kê bảo hiểm xã hội
hưu trí ở Việt Nam của Th.s Đào Hồng Lan, H., 2003; Giải pháp tăng trưởng
nguồn thu quỹ bảo hiểm xã hội ở Việt Nam của Th.s Lê Thị Quế, H., 2004;
Hồn thiện cơng tác quản lý tài sản tại Công ty bảo hiểm Việt Nam, luận văn
Th.s của Hồ Cơng Chung, Hà Nội năm 2004; Hồn thiện tổ chức hạch tốn
kế tốn tại Cơng ty Bảo hiểm Việt Nam trong điều kiện phân cấp quản lý tài
chính của Th.s Vũ Thu Hương, Hà nội năm 2004; Giải pháp nâng cao chất
lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư tại Tổng công ty Bảo hiểm Việt Nam
của Th.s Phạm Lương Hoàng, Hà Nội năm 2004; Giải pháp đảm bảo cân đối
Quỹ bảo hiểm xã hội ở Việt Nam của Th.s Lê Minh Châu, H., 2005; Hoàn
thiện cơ chế quản lý vốn và tài sản của Tổng công ty Bảo hiểm Việt Nam theo
mơ hình cơng ty mẹ - cơng ty con của Th.s Nguyễn Phi Sơn, Hà Nội năm
2005; Hoàn thiện tổ chức quản lý BHXH trên địa bàn TP Hà Nội của Th.s
Huỳnh Mai Phương, HN-2006; Quản lý và đầu tư xây dựng cơ bản BHXH
Việt Nam: thực trạng và giải pháp của Th.s Võ Đức Thuận, HN-2006; Hồn
thiện quản lý tài chính của BHXH Hà Tĩnh của Th.s Hoàng Văn Minh, HN2008;, Hoàn thiện quản lý tài chính BHXH trên địa bàn tỉnh Thanh Hố của
Th.s Phạm Hoàng Tiến, HN-2008.
Trên phạm vi cả nước và các tỉnh bạn đã có nhiều cơng trình ngun
cứu về thực hiện chính sách BHXH, BHYT xong thực tế ở tỉnh Hồ Bình việc
thực hiện chính sách BHXH cũng là đề tài nguyên cứu mới mà em đề cập
đến nhằm tổ chức thực hiện tốt hơn một chính sách lớn của Đảng và Nhà
nước đảm bảo an sinh xã hội hoặc hỗ trợ giúp đỡ những người có hồn cảnh


4

khó khăn khi tuổi già, mất sức lao động, ốm đau hoặc tai nạn rủi ro bất
thường xảy ra.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Đánh giá đúng việc thực hiện chính sách BHXH; đề xuất giải pháp
nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả thực hiện chính sách BHXH ở tỉnh Hồ
Bình trong những năm tới.
3.2. Nhiệm vụ
- Nghiên cứu cơ sở lý luận và kinh nghiệm thực tế về việc thực hiện
chính sách BHXH.
- Đánh giá thực hiện chính sách BHXH tại tỉnh Hồ Bình từ năm 2005
đến năm 2010.
- Đề xuất một số giải pháp khắc phục những tồn tại nhằm thực hiện tốt
chính sách BHXH ở Hồ Bình từ 2011 đến 2015 và tầm nhìn đến năm 2020.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là thực hiện chính sách BHXH.
- Phạm vi nghiên cứu: luận văn nghiên cứu thực hiện chính sách BHXH
ở tỉnh Hồ Bình, từ năm 2005 đến năm 2010.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn dựa trên cơ sở phương hướng lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin và những quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước Việt Nam để
nghiên cứu. Đề tài vận dụng các phương pháp nghiên cứu cơ bản sau:
- Kết hợp phương pháp kinh tế chính trị học với phương pháp đối
chiếu, so sánh, phương pháp phân tích và tổng hợp để giải quyết nội dung
nghiên cứu của đề tài.
- Kế thừa chọn lọc kết quả nghiên cứu của các cơng trình nghiên cứu
trước để làm sáng tỏ nội dung nghiên cứu của đề tài.


5
- Đề tài tổ chức nghiên cứu thực tế ở một số địa phương, đơn vị doanh

nghiệp, đơn vị hành chính sự nghiệp về chính sách BHXH ở tỉnh Hồ Bình.
6. Những đóng góp của luận văn
6.1. Về mặt lý luận: luận văn hệ thống hoá, làm sáng tỏ khái niệm, bản
chất, nội dung và điều kiện thực hiện chính sách BHXH.
6.2. Về mặt thực tiễn: luận văn đánh giá mặt đạt được và tồn tại trong
thực hiện chính sách BHXH ở tỉnh Hồ Bình, từ đó đề xuất một số giải pháp có
ý nghĩa thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế, xã hội trong thực hiện chính
sách BHXH ở tỉnh Hồ Bình từ 2011 đến năm 2015.
7. Kết cấu nội dung của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tham khảo. Nội dung luận
văn gồm 3 chương, 8 tiết.
Chương 1: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chính sách bảo hiểm
xã hội.
Chương 2: Thực trạng chính sách bảo hiểm xã hội ở tỉnh Hịa Bình.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp chủ yếu thực hiện chính sách
bảo hiểm xã hội ở tỉnh Hịa Bình giai đoạn 2011-2015.


6
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ CHÍNH SÁCH BẢO HIỂM XÃ HỘI
1.1. BẢN CHẤT CỦA CHÍNH SÁCH BẢO HIỂM XÃ HỘI

1.1.1. Khái niệm, lịch sử ra đời và phát triển của chính sách bảo
hiểm xã hội
Trong cuộc sống và sản xuất kinh doanh hàng ngày luôn luôn phải đối
mặt với những rủi ro, bởi sự biến đổi mơi trường thiên nhiên, xã hội. Để đối
phó với các rủi ro, con người có nhiều biện pháp khác nhau nhằm kiểm soát,
cũng như khắc phục hậu quả của nó. Một biện pháp quan trọng phù hợp với bản

chất của con người là lập ra các quỹ BHXH. Bởi lẽ, con người là ”một thực thể
sinh học-xã hội”, là thực thể lồi, cơng việc ”hoạt động lồi” [43, tr.135] mang
tính lồi. Đó là tìm cách chia sẻ rủi ro thơng qua các tổ chức bảo hiểm, mà nó
là "hoạt động thể hiện người quản lý bảo hiểm cam kết bồi thường cho người
tham gia bảo hiểm trong từng trường hợp xảy ra rủi ro thuộc phạm vi bảo
hiểm với điều kiện người tham gia nộp một khoản phí cho chính anh ta hoặc
người thứ ba” [51, tr.13]. Thực chất của hoạt động bảo hiểm là quá trình phân
phối lại thu nhập giữa những người tham gia nhằm đáp ứng nhu cầu tài chính
phát sinh khi tai nạn rủi ro bất ngờ xảy ra gây tổn thất đối với người tham gia
bảo hiểm. Khi người tham gia bảo hiểm gặp biến cố sẽ được quỹ bảo hiểm
đền bù theo hợp đồng. Điều này địi hỏi phải hình thành quỹ từ sự đóng phí
của những người tham gia bảo hiểm.
Theo Luật Bảo hiểm xã hội của Quốc hội Nước Cộng hoà Xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, khoá XI, kỳ họp thứ 9 (từ 16/5 đến 29/6 năm 2006), Bảo
hiểm xã hội "là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của
người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn
lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ
sở đóng vào quỹ bảo hiểm xã hội” [3, tr.8-9].


7
1.1.1.1. Sự phát triển chính sách bảo hiểm xã hội trên thế giới
Qua nhiều năm nghiên cứu về BHXH, giáo sư Henri Kliller thuộc
trường đại học Solray của Bỉ đã khẳng định: nguồn gốc của BHXH xuất phát
từ những vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội (Economic, Political, Social). Đúng
thế, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất (cuối thế kỷ XVIII - đầu thế kỷ
XIX) được bắt đầu từ nước Anh rồi sau đó lan ra các nước Tây Âu khác. Nội
dung của nó là thay thế hệ thống kỹ thuật cũ có tính truyền thống của thời đại
nông nghiệp (kéo dài 17 thế kỷ), chủ yếu dựa vào gỗ, sức mạnh cơ bắp, sức
nước, sức gió và sức kéo động vật bằng một hệ thống kỹ thuật mới với nguồn

động lực là máy hơi nước và nguồn nguyên, nhiên liệu và những năng lượng
mới là sắt và than đá, tạo ra sự đột phá trong phát triển lực lượng sản xuất, tạo
nên tình thế phát triển vượt bậc của nền kinh tế. Chính cuộc cách mạng cơng
nghiệp đã tạo điều kiện cho sản xuất hàng hoá phát triển. Cơng nghiệp hố
càng phát triển, thì đội ngũ những người công nhân làm thuê ngày càng đông.
Công nhân làm thuê được giới chủ cam kết trả tiền lương, tiền cơng. Người
cơng nhân bị bóc lột tàn bạo và bị đối xử khơng cơng bằng trong thời kỳ tích
luỹ ngun thuỷ. Giờ làm việc của họ thường bị kéo dài và cường độ lao động
cao, nhưng tiền công thấp không thể đảm bảo cuộc sống của mình cũng như
gia đình mình. Hiện tượng ốm đau, tai nạn lao động xảy ra phổ biến. Đứng
trước tình hình đó, giai cấp cơng nhân đã liên kết lại để tương trợ, giúp đỡ lẫn
nhau; lập ra các quỹ cứu trợ (Cash benefits) người ốm, người bị tai nạn; rồi
lập các tổ chức tương tế và vận động mọi người tham gia; đấu tranh với giới
chủ đòi tăng lương, giảm giờ làm.
Mâu thuẫn giữa giới chủ và thợ ngày càng trầm trọng và sâu sắc. Các
cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân diễn ra ngày càng rộng lớn và có tác
động nhiều mặt đến đời sống kinh tế - xã hội. Do vậy, nhà nước đã phải đứng
ra can thiệp và điều hoà. Sự can thiệp này buộc cả giới chủ và giới thợ phải
đóng góp hàng tháng một khoản tiền nhất định đối với người làm thuê. Ngoài


8
nguồn đóng góp của giới chủ, thợ để hình thành quỹ, cịn có sự bổ sung từ
ngân sách Nhà nước khi cần thiết. Nguồn quỹ này nhằm đảm bảo đời sống
cho người lao động khi không may gặp phải những biến cố bất lợi. Giới chủ
cũng thấy mình có lợi và được bảo vệ, sản xuất kinh doanh diễn ra bình
thường, tránh được những xáo trộn khơng cần thiết. Vì vậy, nguồn quỹ tiền tệ
tập trung được thiết lập ngày càng lớn và nhanh chóng. BHXH xuất hiện và
phát triển cũng với sự phát triển kinh tế, xã hội.
Với ý tưởng muốn có một dân tộc hùng cường về sức khoẻ, mẫn tiệp về

tinh thần thông qua sự bảo đảm về an sinh xã hội, Cố thủ tướng nước Đức,
Von Bismarck đã đưa ra mơ hình an sinh xã hội đầu tiên trên thế giới năm
1883, trong đó có bảo hiểm y tế (BHYT) cho cộng đồng dân Đức. Vào cuối
thế kỷ XIX, chế độ bảo hiểm tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp ra đời ở
nước Phổ bằng luật định; năm 1850 và năm 1861 các quỹ ốm đau được thành
lập ở Đức; năm 1894 và 1896 nước Bỉ và Hà Lan đầu tiên đã ban hành Bộ luật
về các tổ chức tương tế; năm 1935, Mỹ ban hành đạo luật về An sinh xã hội
(trong đó BHXH là hạt nhân). Trong đạo luật đó có quy định về chế độ bảo hiểm
tuổi già, tử tuất, tàn tật và trợ cấp thất nghiệp cho người lao động [13].
Thời kỳ chiến tranh thế giới thứ II (1940-1945) có 3 sự kiện lớn đánh
dấu sự phát triển BHXH ở tầm quốc tế. Đó là, tổ chức lao động quốc tế
(International Labour Organization) đã tổ chức thảo luận một số vấn đề liên quan
đến BHXH như: tàn tật và sinh đẻ của lao động nữ, Vấn đề tử tuất của các binh sỹ
trong chiến tranh; Luật BHXH ở Mỹ đã được ban hành; kế hoạch Beveridge
(1942) đã được Chính phủ Bỉ quyết định thành lập hệ thống BHXH [13].
Ngày 10/12/1948, Đại hội đồng liên hiệp quốc đã ra bản Tuyên ngôn
nhân quyền và trong đó có đoạn: “Tất cả mọi người với tư cách là thành viên
của xã hội, có quyền lợi về kinh tế, xã hội và văn hoá cần cho nhân cách và
sự tự do phát triển con người”. Ngày 4/6/1952, Hội nghị tồn thể của ILO đã
thơng qua Cơng ước về an tồn xã hội (số 102), trong đó quy định 9 chế độ trợ


9
cấp sau: "Chăm sóc sức khoẻ; Trợ cấp ốm đau; Trợ cấp thất nghiệp; Trợ cấp tuổi
già; Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp; Trợ cấp gia đình; Trợ cấp
sinh đẻ; Trợ cấp khi tàn phế; Trợ cấp cho người nuôi dưỡng” [13, tr.286].
Nội dung Công ước được tập hợp từ các chế độ và các vấn đề an tồn
xã hội đã có và thực hiện ở một số nước trên thế giới trước đó. Sau cơng ước
số 102 đến nay hầu hết các nước ở Châu Á, Châu Phi và Châu Mỹ La tinh đều
xây dựng cho mình một hệ thống BHXH phù hợp với điều kiện kinh tế - xã

hội, tương quan lực lượng giữa giới chủ và giới thợ và phù hợp với thể chế
chính trị trong mỗi thời kỳ ở từng nước. Cũng sau công ước 102, một loạt các
công ước quốc tế khác nhằm bổ sung, hồn thiện và cụ thể hố các vấn đề liên
quan đến BHXH, như: Công ước số 111 (năm 1985) đề cập đến vấn đề việc
làm và thất nghiệp, chống phân biệt đối xử giữa những người lao động có
mầu da, tơn giáo và chủng tộc khác nhau; Công ước số 128 (ngày 7/6/1967)
về trợ cấp tàn tật, tuổi già và tiền tuất; Công ước số 156 (năm 1981) đã
khuyến cáo các vấn đề về người lao động và trách nhiệm gia đình; Cơng ước
số 158 (năm 1982) về việc giới chủ cho người lao động không được cho thơi
việc mà khơng có lý do chính đáng. Những cơng ước quốc tế đó là cơ sở để
các nước xây dựng BHXH [13].
1.1.1.2. Sự phát triển chính sách bảo hiểm xã hội ở Việt Nam
BHXH là một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Sau
Cách mạng Tháng Tám thành công, trên cơ sở Hiến pháp năm 1946 của nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hồ, Chính phủ đã ban hành nhiều sắc lệnh nhằm
thực hiện BHXH:
Sắc lệnh số 54/SL ngày 1/11/1945 ấn định những điều kiện cho
công chức về hưu; Sắc lệnh 105/SL ngày 14/6/1946 ấn định việc cấp
hưu bổng cho công chức; Sắc lệnh 76/SL ngày 20/5/1950 ấn định cụ
thể các chế độ trợ cấp hưu trí, thai sản, chăm sóc y tế, tai nạn, tiền
tuất đối với công chức; Sắc lệnh 29/SL ngày 12/3/1947 và Sắc lệnh


10
77/SL ngày 22/5/1950 ấn định các chế độ trợ cấp ốm đau, thai sản,
tai nạn lao động, hưu trí, tử tuất đối với công nhân sản xuất [30].
Cơ sở pháp lý tiếp theo của BHXH được thể hiện trong Hiến pháp năm
1959, mà đã thừa nhận công nhân viên chức có quyền được trợ cấp BHXH.
Quyền này được cụ thể hoá trong Điều lệ tạm thời về BHXH đối với công
nhân viên chức Nhà nước, ban hành kèm theo Nghị định 218/CP ngày

27/12/1961 và Điều lệ đãi ngộ quân nhân ban hành kèm theo Nghị định
161/CP ngày 30/10/1964 của Chính phủ. Suốt trong những năm tháng kháng
chiến chống xâm lược, chính sách BHXH Việt Nam đã góp phần ổn định cuộc
sống cho công nhân viên chức, quân nhân và gia đình họ, góp phần rất lớn
trong việc động viên sức người sức của cho thắng lợi của cuộc kháng chiến
chống xâm lược, thống nhất đất nước.
Từ năm 1986, Việt Nam tiến hành đổi mới chuyển đổi nền kinh tế từ cơ
chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường, sự thay đổi mới về cơ chế
kinh tế đòi hỏi có những thay đổi tương ứng về chính sách xã hội nói chung
và chính sách BHXH nói riêng. Đến năm 1991 trong Nghị quyết đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ VII đã chỉ rõ “đổi mới chính sách BHXH theo hướng mọi
người lao động và đơn vị kinh tế thuộc các thành phần kinh tế đều đóng góp
vào quỹ BHXH. Từng bước tách quỹ BHXH khỏi Ngân sách Nhà nước và
hình thành quỹ BHXH chung cho mọi người lao động thuộc mọi thành phần
kinh tế”. Hiến pháp năm 1992 đã nêu rõ: “Nhà nước thực hiện chế độ BHXH
đối với công chức Nhà nước và người làm công ăn lương, khuyến khích phát
triển các hình thức BHXH khác đối với người lao động”. Điều 39 Hiến pháp
1992 nêu: "Thực hiện bảo hiểm y tế, tạo điều kiện để mọi người dân được
chăm sóc sức khoẻ” [35].
Ngày 23/6/1994, Bộ Luật Lao Động đã được Quốc hội thơng qua trong
đó có quy định “loại hình tham gia BHXH áp dụng đối với doanh nghiệp có sử
dụng từ 10 lao động trở lên. Ở những doanh nghiệp này, người sử dụng lao


11
động, người lao động phải đóng BHXH theo quy định...”; “người lao động làm
việc ở những nơi sử dụng lao động dưới 10 lao động hoặc làm những cơng việc
có thời hạn dưới 3 tháng, theo mùa vụ hoặc làm các cộng việc tạm thời khác,
thì các khoản BHXH được tính vào tiền lương do người sử dụng lao động trả
để người lao động tham gia BHXH theo loại hình tự nguyện hoặc tự lo liệu về

bảo hiểm”. Đồng thời Bộ luật cũng xác định: Chính phủ ban hành Điều lệ
BHXH, thành lập hệ thống tổ chức BHXH. Trong văn kiện Đại hội VII của
Đảng cộng sản Việt Nam cũng đã chỉ rõ, cần đổi mới chính sách BHXH theo
hướng mọi người lao động và các đơn vị kinh tế thuộc các thành phần kinh tế
đều có nghĩa vụ đóng góp BHXH, thống nhất tách quỹ BHXH ra khỏi ngân
sách. Tiếp đến Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VIII (1996) cũng đã nêu “Thực
hiện và hoàn thiện chế độ bảo hiểm xã hội, bảo đảm đời sống người nghỉ hưu
được ổn định, từng bước cải thiện. Xây dựng luật bảo hiểm xã hội” [23, tr.115116]. Đồng thời, mở rộng chế độ BHXH đối với người lao động thuộc các
thành phần kinh tế. Ngày 26/05/1997, Chỉ thị số 15/CT-TƯ của Bộ Chính trị
Ban chấp hành Trung ương Đảng (khố VIII) về “tăng cường lãnh đạo thực
hiện các chế độ BHXH trong đó nhấn mạnh việc tập trung chỉ đạo, phát huy vai
trò lãnh đạo của các tổ chức Đảng ở các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong
việc thực hiện các chế độ BHXH đối với người lao động nhằm đảm bảo thực
hiện tốt Điều lệ BHXH đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh”.
Đại hội Đảng lần thứ X (2006) nêu tiếp tục: ”Đổi mới hệ thống bảo
hiểm xã hội, đa dạng hố hình thức bảo hiểm phù hợp với kinh tế thị trường;
xây dựng chế độ bảo hiểm thất nghiệp” [24, tr.216]. Đặc biệt Đại hội khẳng
định: "Xây dựng hệ thống an sinh xã hội đa dạng; phát triển mạnh hệ thống
bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, tiến tới bảo hiểm y tế toàn dân” [24, tr.202].
Như vậy, các văn bản trên của Đảng và Nhà nước là những cơ sở pháp lý
quan trọng cho việc đổi mới và phát triển chính sách BHXH Việt Nam theo cơ
chế thị trường.


12
Ngay sau khi Bộ luật lao động có hiệu lực từ ngày 1/1/1995, Chính phủ
đã ban hành Nghị đình 12/CP ngày 26/1/1995/ về Điều lệ BHXH đối với
người lao động trong các thành phần kinh tế. Nội dung của bản Điều lệ này
góp phần thực hiện mục tiêu của Đảng và Nhà nước đặt ra, góp phần thực
hiện cơng bằng và tiến bộ xã hội, góp phần lành mạnh hố thị trường lao

động. Đồng thời, đáp ứng được sự mong mỏi của đông đảo người lao động
trong các thành phần kinh tế của cả nước.
Ngày 24/01/2002, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số
20/2002/QĐ- TTg về việc chuyển giao BHYT Việt Nam sang BHXH Việt Nam,
theo đó BHXH Việt Nam là cơ quan thực hiện các chế độ, chính sách BHXH
trong đó có BHYT. Do vậy, đối tượng tham gia BHXH ở khu vực kinh tế
ngoài quốc doanh bao gồm đối tượng tham gia BHXH bắt buộc và BHYT bắt
buộc. Ngày 02/01/2003 Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số
02/2003/QĐ-TTg về việc ban hành quy chế quản lý tài chính đối với BHXH
Việt Nam trong đó có quy định hàng tháng các đơn vị sử dụng lao động có
trách nhiệm đóng đầy đủ, kịp thời vào quỹ BHXH, ngay sau khi thanh toán
tiền lương hàng tháng cho người lao động. Trường hợp chậm nộp BHXH từ
30 ngày trở lên so với quy định, thì ngồi việc phải nộp số tiền chậm nộp và
nộp phạt hành chính theo quy định hiện hành, còn phải nộp số tiền phạt nộp
chậm theo mức lãi suất tiền vay quá hạn do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
quy định tại thời điểm truy nộp. Đối với những đơn vị cố tình vi phạm hoặc
chây ỳ thì, cơ quan BHXH được quyền đề nghị Kho bạc Nhà nước, Ngân
hàng nơi đơn vị giao dịch trích tiền từ tài khoản của đơn vị để nộp đủ tiền
đóng BHXH và tiền phạt chậm nộp mà khơng cần có sự chấp thuận thanh
tốn của đơn vị sử dụng lao động.
Ngày 09/01/2003, Chính phủ ban hành Nghị định số 01/2003/NĐ-CP
sửa đổi bổ sung một số điều của Điều lệ BHXH, đã mở rộng phạm vi và đối
tượng người lao động làm việc theo hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ 3


13
tháng trở lên và hợp đồng không xác định thời hạn trong các hoạt động theo
Luật doanh nghiệp, hộ sản xuất kinh doanh cá thể, tổ hợp tác; người lao động,
xã viên làm việc và hưởng tiền công theo hợp đồng lao động trong các hợp
tác xã thành lập, hoạt động theo Luật hợp tác xã; các tổ chức khác có sử dụng

lao động. Ngày 16/05/2003, Bộ tài chính có Thông tư số 49/2003/TT- BTC
hướng dẫn Quyết định số 02/2003/QĐ- TTg về quy chế quản lý tài chính đối
với BHXH Việt Nam, trong đó nhấn mạnh việc phạt các đơn vị sử dụng lao
động không chịu tham gia BHXH bắt buộc.
Để tháo gỡ, khắc phục những hạn chế và từng bước hồn chỉnh cơ chế,
chính sách BHXH đáp ứng những yêu cầu đòi hỏi của xã hội và phù hợp với
quan hệ quốc tế. Trong điều kiện mới, Việt Nam mở cửa hội nhập với khu vực
và thế giới, ngày 29/6/2006 Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, khoá XI, kỳ họp thứ 9 đã ban hành Luật BHXH số 71/2006/QH11. Luật
Bảo hiểm xã hội (2006) gồm 11 chương, 141 điều đã nêu toàn diện về vấn đề
BHXH từ những quy định chung đến quyền, trách nhiệm của người lao động,
người sử dụng lao động, tổ chức BHXH, BHXH bắt buộc, BHXH tự nguyện,
Quỹ BHXH, tổ chức BHXH, thủ tục BHXH, khiếu nại tố cáo BHXH, khen
thưởng và sử lý hành vi vi phạm và cuối cùng là điều khoản thi hành; ngày
19/4/2007, Chính phủ Cộng hồ Xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành Nghị
định về Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Bảo
hiểm xã hội bắt buộc đối với qn nhân và cơng an nhân dân. Ngày
28/12/2007, Chính phủ ban hành Nghị định số 190/2007/NĐ-CP về Hướng
dẫn một số điều của luật bảo hiểm xã hội về bảo hiểm xã hội tự nguyện, trong
đó Điều 2 quy định rõ: Người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện
là công dân Việt Nam trong độ tuổi lao động, không thuộc diện
áp dụng của luật pháp về bảo hiểm xã hội bắt buộc, bao gồm:1.
Người lao động làm việc theo hợp đồng lao động có thời hạn dưới 3
tháng; 2. Cán bộ không chuyên trách cấp xã; 3. Người tham gia các


14
hoạt động sản xuất, kể cả xã viên không hưởng lương, tiền công
trong các hợp tác xã, liên hợp hợp tác xã; 4. Người lao động tự tạo
việc làm; 5. Người lao động làm việc có thời hạn ở nước ngồi mà

trước đó chưa tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc hoặc nhận bảo
hiểm xã hội một lần; 6. người tham gia khác [3, tr.246-247].
Ngày 22/8/2008, Chính phủ ban hành Nghị định số: 94/2008/NĐ-CP
qui định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bảo hiểm xã
hội Việt Nam, Trong Nghị định, Điều 1 nêu:
Bảo hiểm xã hội Việt Nam là cơ quan thuộc Chính phủ, có chức
năng tổ chức thực hiện chế độ, chính sách bảo hiểm xã hội bắt buộc,
bảo hiểm xã hội tự nguyện, bảo hiểm y tế bắt buộc, bảo hiểm y tế tự
nguyện; tổ chức thu, chi chế độ bảo hiểm thất nghiệp; quản lý và sử
dụng các quỹ: bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm xã hội tự nguyện,
bảo hiểm thất nghiệp theo quy định của pháp luật [3, tr.279].
Ở Việt Nam chính sách BHXH đã chính thức được xây dựng và thực
hiện suốt hơn 50 năm qua. Đến năm 2006 Quốc hội ban hành Luật Bảo hiểm
xã hội số 71/2006/QH11 và được thực hiện từ 01/01/2007. Theo luật qui định
đối tượng tham gia BHXH là rất lớn, trong đó đối tượng
tham gia BHXH bắt buộc là cơng dân Việt Nam bao gồm: a)
Người làm việc theo hợp đồng lao động khơng xác định thời hạn,
hợp đồng có thời hạn từ đủ ba tháng trở lên; b) Cán bộ, cơng chức,
viên chức; c) Cơng nhân quốc phịng, cơng nhân công an; d) Sĩ
quan, quân nhân chuyên nghiệp quân đội nhân dân: sĩ quan, hạ sĩ
quan nghiệp vụ; sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật công an
nhân dân; người làm cơ yếu hưởng lương như đối với quân đội nhân
dân, công an nhân dân; đ) Hạ sĩ quan, binh sĩ quân đội nhân dân và
hạ sĩ quan, chiến sĩ cơng an nhân dân phục vụ có thời hạn; e) Người
làm việc có thời hạn ở nước ngồi mà trước đó có đóng bảo hiểm xã
hội bắt buộc [3, tr.7].


15
Chính sách BHXH ở nước ta thuộc loại hình chính sách kinh tế - xã hội

đặc thù của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Để hiểu rõ về
khái niệm chính sách BHXH, trước hết cần làm rõ các khái niệm chính sách.
Theo từ điển Bách khoa tồn thư mở,
Chính sách là tập hợp các chủ trương và hành động về phương
diện nào đó của chính phủ, nó bao gồm các mục tiêu, mà chính phủ
muốn đạt được và cách làm để thực hiện các mục tiêu đó. Những
mục tiêu này bao gồm sự phát triển tồn diện trên các lĩnh vực kinh
tế - văn hoá - xã hội - môi trường [30].
Theo Từ điển Bách khoa toàn thư của Viện Từ điển học và Bách khoa
thư Việt Nam thuộc Viện Khoa học xã hội Việt Nam, chính sách là
Những chuẩn tắc cụ thể để thực hiện đường lối, nhiệm vụ;
được thực hiện trong một thời gian nhất định, trên những lĩnh vực
cụ thể nào đó. Bản chất, nội dung và phương hướng của chính sách
tuỳ thuộc tính chất của đường lối, nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn
hố, xã hội ... Muốn định ra chính sách đúng phải căn cứ vào tình
hình thực tiễn trong từng lĩnh vực, từng giai đoạn, phải vừa giữ
vững mục tiêu, phương hướng được xác định trong đường lối,
nhiệm vụ chung, vừa linh hoạt vận dụng vào hoàn cảnh và điều
kiện cụ thể [37].
Trong Tập bài giảng Chính trị học dùng cho hệ cao cấp lý luận chính trị
của Viện Khoa học chính trị thuộc Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia
Hồ Chí Minh (2004) đã nêu ra: “Chính sách là khái niệm chi phối sự hiểu biết
của chúng ta về việc thực thi quyền lực nhà nước”[28, tr.234]. Theo đó,
Cần phân biệt ba khái niệm: đường lối, chính sách và biện
pháp. Đường lối bao gồm những nguyên tắc và định hướng phát
triển chung nhất. Chính sách là cụ thể hoá và thể chế hoá của đường
lối. Các biện pháp là cụ thể hố của chính sách, thường có ý nghĩa là


16

các hành động thực tiễn. Chính sách theo nghĩa rộng có thể bao gồm
cả ba cấp độ trên [28, tr.234-235].
Trên những quan niệm trên, Chính sách BHXH là sự cụ thể hoá và thể
chế hoá đường lối BHXH của Đảng Cộng sản Việt Nam bằng những chuẩn
tắc cụ thể để thực hiện đường lối, nhiệm vụ; được thực hiện trong một thời
gian nhất định, trên những lĩnh vực BHXH, BHYT. Bản chất, nội dung và
phương hướng của chính sách BHXH thuộc tính chất của đường lối, nhiệm vụ
chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội.
Căn cứ vào chủ trương, đường lối của Đảng: "Thực hiện và hoàn thiện
chế độ bảo hiểm xã hội, bảo đảm đời sống người nghỉ hưu được ổn định, từng
bước cải thiện. Xây dựng Luật bảo hiểm xã hội”, ”Mở rộng chế độ bảo hiểm
xã hội đối với người lao động thuộc các thành phần kinh tế” [23, tr.115-116,
204], Nhà nước Việt Nam đã xây dựng và thực hiện chế độ, chính sách
BHXH thể hiện các văn bản: Luật BHXH của Quốc hội nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam số 71/2006/QH11, ngày 29/6/2006; các Nghị định của
chính phủ, các quyết định của Thủ tướng Chính phủ, Thủ trưởng Bộ, Ngành,
các thơng tư, văn bản hướng dẫn của các Bộ, Ngành như: Nghị định số
93/2006/NĐ-CP ngày 07/9/2006 của Chính phủ về điều chỉnh lương hưu, trợ
cấp BHXH và điều chỉnh trợ cấp hàng tháng đối với cán bộ xã đã nghỉ việc;
Nghị định số 83/2008NĐ-CP ngày 31/7/2008 của Chính phủ về điều chỉnh
tiền lương, tiền cơng đã đóng bảo hiểm xã hội đối với người lao động thực
hiện chế độ tiền lương do người sử dụng lao động quyết định; Quyết định số
41/QĐTTg ngày 29/3/2007 của TTCP về quản lý tài chính đối với Bảo hiểm
xã hội Việt Nam; Thông tư số 03/2007/TT-BLĐTBXH ngày 15/9/2006 về
hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 152/2006/NĐ-CP ngày
22/12/2006 của Chính phủ hướng dẫn một số điều của Luật BHXH về bảo
hiểm bắt buộc; Công văn số 1694/LĐTBXH-BHXH ngày 21/5/2007 V.v
hướng dẫn thực hiện một số quy định về chế độ BHXH…



17
1.1.2. Tính chất của chính sách bảo hiểm xã hội
Chính sách BHXH là một loại hình đặc biệt gắn với chính sách an sinh
xã hội. BHXH xét dưới góc độ như là một loại hình phục vụ đã ra đời khá
sớm. Khi viết về phục vụ với tư cách là một hàng hoá, C.Mác Viết: “Những
sự phục vụ này với tư cách là sự phục vụ cũng có giá trị sử dụng và do những
chi phí sản xuất của chúng nên cũng có giá trị trao đổi” [42, tr.215]. Như vậy,
bản chất chính sách BHXH thể hiện các mặt chủ yếu sau:
Một là, chính sách BHXH là sản phẩm tất yếu của sự phát triển kinh tế.
Khi trình độ phát triển kinh tế của một quốc gia đạt đến một mức độ nào đó,
thì hệ thống chính BHXH có điều kiện ra đời phát triển. Vì vậy, các nhà kinh
tế cho rằng, sự ra đời và phát triển của chính sách BHXH phản ánh sự phát
triển của nền kinh tế. Một nền kinh tế chậm phát triển, đời sống nhân dân thấp
kém khơng thể có một hệ thống chính sách BHXH vững mạnh được. Kinh tế
càng phát triển, hệ thống BHXH càng đa dạng, các chế độ BHXH ngày càng
mở rộng, các hình thức BHXH ngày càng phong phú.
Hai là, BHXH là một loại hình phục vụ. Giá trị của BHXH trong quá
trình thực hiện các giao dịch là những người làm công tác BHXH trong các cơ
quan BHXH khi thực hiện cơng việc thu, chi, quản lý chính sách, quản lý sử
dụng quỹ BHXH và được tính vào giá trị phục vụ BHXH. Biểu hiện bên
ngoài của giá trị trao đổi BHXH là một phần đóng góp của đối tượng được
hưởng BHXH. Phí đóng góp ở Việt Nam hiện nay là 23% tổng quỹ tiền lương
cơ bản của một đơn vị sử dụng lao động, trong đó đơn vị đóng 17%, người
lao động đóng 6%. Ngân sách nhà nước chi cho BHXH trong trường hợp cần
thiết khi quỹ BHXH không đáp ứng khả năng chi trả các chế độ BHXH cho
người lao động. Dưới góc độ giá trị sử dụng, người tham gia BHXH sẽ được
bảo đảm về thu nhập hoặc bù đắp một phần về thu nhập khi gặp rủi ro hoặc
trợ cấp tuổi già hay nghỉ hưu. Giá trị sử dụng của BHXH mang tính bù đắp,
theo ngun tắc “số đơng bù số ít”. Giá trị trị sử dụng BHXH có thể ngắn hạn



18
hoặc dài hạn phụ thuộc vào những sự kiện BHXH đã thoả thuận trước có thể
xảy ra hay khơng. Thực chất chính sách BHXH là sự tổ chức “đền bù” hậu
quả của những “rủi ro xã hội” hoặc các sự kiện bảo hiểm. Sự đền bù này được
thực hiện thông qua tổ chức và sử dụng quỹ tiền tệ tập trung hình thành do sự
đóng góp của các bên tham gia BHXH và các nguồn thu hợp pháp khác của
quỹ BHXH do Nhà nước quy định. Xét trên phạm vi toàn xã hội, BHXH là
một bộ phận của GDP, được xã hội phân phối lại cho những thành viên khi
phát sinh nhu cầu BHXH như ốm đau, sinh đẻ, tai nạn lao động và bệnh nghề
nghiệp, già yếu, chết...Phân phối theo chiều dọc là sự phân phối giữa những
người khoẻ mạnh cho người ốm đau, bệnh tật; giữa những người trẻ cho
người già; giữa những người không sinh đẻ (nam giới) và người sinh đẻ (nữ
giới); giữa những người có thu nhập cao và người có thu nhập thấp... Để dễ
hình dung có thể dùng “lát cắt ngang” vào một tập hợp những người đang và
đã tham gia BHXH vào bất kỳ thời điểm nào vào bất kỳ “đoạn” nào của tập
hợp ta đều có thể thấy được mối quan hệ của sự phân phối này. Ở lát cắt này
có cả người mới tham gia BHXH, người đang hưởng BHXH; người khoẻ
mạnh, người ốm đau; người già, người trẻ; người có thu nhập cao, người có
thu nhập thấp... Nói cách khác, đây là sự phân phối lại thu nhập theo khơng
gian. Qua đây có thể thấy, chính sách BHXH góp phần thực hiện mục tiêu bảo
đảm an toàn kinh tế cho người lao động và gia đình họ. BHXH là quá trình tổ
chức sử dụng thu nhập cá nhân và tổng sản phẩm trong nước (GDP) để thoả
mãn nhu cầu an toàn kinh tế của người lao động và an toàn xã hội. BHXH
mang cả bản chất kinh tế và cả bản chất xã hội. Về mặt kinh tế, nhờ sự tổ
chức phân phối lại thu nhập, đời sống của người lao động và gia đình họ ln
được bảo đảm trước những bất trắc, rủi ro xã hội. BHXH là sự bảo đảm thu
nhập, bảo đảm cuộc sống cho người lao động khi họ bị giảm hay mất khả
năng lao động. Có nghĩa là tạo ra một khoản thu nhập thay thế cho người lao
động khi họ gặp phải các rủi ro thuộc phạm vi BHXH. Về mặt xã hội, do có



19
sự “san sẻ rủi ro” của BHXH, người lao động chỉ phải đóng góp một khoản
nhỏ trong thu nhập của mình cho quỹ BHXH, nhưng xã hội sẽ có một lượng
vật chất đủ lớn trang trải những rủi ro xảy ra. ở đây, BHXH đã thực hiện
nguyên tắc “lấy của số đơng bù cho số ít”. Tuy nhiên, tính kinh tế và tính xã
hội của BHXH khơng tách rời, mà đan xen lẫn nhau. Khi nói đến sự bảo đảm
kinh tế cho người lao động và gia đình họ là đã nói đến tính xã hội của BHXH,
ngược lại, khi nói tới sự đóng góp ít nhưng lại đủ trang trải mọi rủi ro xã hội thì
cũng đã đề cập đến tính kinh tế của BHXH. Về mặt chính trị, BHXH góp phần
liên kết giữa những người lao động xuất phát từ lợi ích chung của họ.
Ba là, tính xã hội và tính nhân văn của chính sách bảo hiểm xã hội.
Trước hết phải khẳng định BHXH là sự bảo đảm xã hội, đối với yếu tố lao
động sản xuất, tức là hoạt động nhằm đảm bảo cho người lao động ổn định
cuộc sống bằng cách bù đắp một phần hoặc toàn bộ những thiếu hụt, mất mát
về thu nhập do các rủi ro như: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề
nghiệp, chăm sóc y tế, mất việc làm, mất khả năng lao động, già, chết. Như
vậy, mục tiêu của chính sách bảo hiểm xã hội là nhằm thoả mãn những nhu
cầu thiết yếu của người lao động trong trường hợp bị giảm hoặc mất thu nhập,
mất việc làm. Mục tiêu này đã được tổ chức lao động quốc tế (ILO) cụ thể
hoá như sau: đền bù cho người lao động những khoản thu nhập bị mất để đảm
bảo nhu cầu sinh sống thiết yếu của họ; chăm sóc sức khoẻ và chống bệnh tật;
xây dựng điều kiện sống đáp ứng các nhu cầu của dân cư và các nhu cầu đặc
biệt của người già, người tàn tật và trẻ em.
Với những mục tiêu trên, BHXH đã trở thành một trong những quyền
con người và được Đại hội đồng Liên hợp quốc thừa nhận và ghi vào Tuyên
ngôn Nhân quyền ngày 10/12/1948 rằng: “Tất cả mọi người với tư cách là
thành viên của xã hội có quyền hưởng bảo hiểm xã hội, quyền đó được đặt cơ
sở trên sự thoả mãn các quyền về kinh tế, xã hội và văn hoá nhu cầu cho nhân

cách và sự tự do phát triển con người” [13, tr.14].


20
Ở nước ta, BHXH là một bộ phận quan trọng trong chính sách bảo đảm
xã hội. Ngồi bảo hiểm xã hội, chính sách bảo đảm xã hội cịn có cứu trợ xã
hội và ưu đãi xã hội.
Cứu trợ xã hội là sự giúp đỡ của Nhà nước và xã hội về thu nhập và các
điều kiện sinh sống khác đối với mọi thành viên của xã hội, trong những
trường hợp bị bất hạnh, rủi ro, nghèo đói, khơng đủ khả năng để tự lo cuộc
sống tối thiểu của bản thân và gia đình. Sự giúp đỡ này được thực hiện bằng
các nguồn quỹ dự phòng của Nhà nước, bằng tiền hoặc hiện vật đóng góp của
các tổ chức xã hội và những người hảo tâm.
Ưu đãi xã hội là sự đãi ngộ đặc biệt cả về vật chất và tinh thần của Nhà
nước, của xã hội nhằm đền đáp công lao đối với những người hay bộ phận xã
hội có nhiều cống hiến cho xã hội. Chẳng hạn, những người có cơng với
nước, liệt sỹ và thân nhân liệt sỹ, thương binh v.v...đều là những đối tượng
được hưởng sự đãi ngộ của Nhà nước, của xã hội, ưu đãi xã hội tuyệt nhiên
khơng phải là sự bố thí, ban ơn, mà nó là một chính sách xã hội có mục tiêu
chính trị, kinh tế, xã hội góp phần củng cố thể chế chính trị của Nhà nước
trước mắt và lâu dài, đảm bảo cơng bằng xã hội.
1.1.3. Vai trị của chính sách bảo hiểm xã hội
Ở bất kỳ hồn cảnh, thời điểm nào, rủi ro ln ln rình rập, đe doạ
cuộc sống của mỗi người, mỗi gia đình. Rủi ro phát sinh hồn tồn ngẫu
nhiên, bất ngờ khơng lường trước được, chính sách BHXH có vai trị to lớn ở
chỗ đó:
1.1.3.1. Đối với người lao động và gia đình của họ, chính sách bảo
hiểm xã hội có vai trị
Thứ nhất, đảm bảo lợi ích của các bên tham gia bảo hiểm. Sự tồn tại
các tổ chức bảo hiểm và các hoạt động của nó nhằm mang lại lợi ích đối với

người tham gia bảo hiểm. Chính sách lớn nhất của BHXH là đảm bảo cho
người lao động về tài chính trước rủi ro. Khi tham gia BHXH, người lao động


21
phải trích một khoản phí nộp vào quỹ BHXH, khi gặp rủi ro, bất hạnh như:
ốm đau, thai sản, tai nạn lao động làm cho chi phí gia đình tăng lên hoặc phải
ngừng làm việc tạm thời. Do vậy, thu nhập của gia đình bị giảm, đời sống
kinh tế lâm vào tình cảnh khó khăn, túng quẫn. Nhờ có chính sách BHXH mà
họ được nhận từ quỹ BHXH một khoản tài chính bồi thường theo chế độ
trong hợp đồng. Khoản bồi thường này tạo điều kiện bù đắp lại phần thu nhập
bị mất hoặc bị giảm để đảm bảo ổn định đời sống, khắc phục và phát triển sản
xuất. Đây là vai trị quan trọng nhất của chính sách BHXH;
Thứ hai, bảo đảm tâm lý an tâm. Ngoài việc đảm bảo đời sống kinh tế,
BHXH tạo được tâm lý an tâm. Khi đã tham gia, BHXH góp phần nâng cao
đời sống tinh thần, cuộc sống bình yên, hạnh phúc cho nhân dân lao động.
1.1.3.2. Đối với xã hội, chính sách bảo hiểm xã hội có vai trị
Thứ nhất, tăng cường mối quan hệ giữa Nhà nước, người sử dụng lao
động và người lao động, mối quan hệ ràng buộc, chặt chẽ, chia sẻ trách
nhiệm, chia sẽ rủi ro chỉ có được trong quan hệ của BHXH. Tuy nhiên, mối
quan hệ này thể hiện trên giác độ khác nhau. Người lao động tham gia BHXH
với vai trò bảo vệ quyền lợi cho chính mình, đồng thời phải có trách nhiệm
đối với cộng đồng và xã hội. Người sử dụng lao động tham gia BHXH là để
tăng cường tình đồn kết và cùng chia sẻ rủi ro cho người lao động, nhưng
đồng thời cũng bảo vệ, ổn định cuộc sống cho các thành viên trong xã hội.
Mối quan hệ này thể hiện tính nhân văn sâu sắc của BHXH.
Thứ hai: BHXH thể hiện chủ nghĩa nhân đạo cao đẹp, BHXH tạo cho
những người bất hạnh có thêm những điều kiện, những lực đẩy cần thiết để
khắc phục những biến cố xã hội, hồ nhập vào cộng đồng, kích thích tính tích
cực của xã hội trong mỗi con người giúp họ hướng tới những chuẩn mực của

chân-thiện-mỹ nhờ đó có thể chống lại tư tưởng “Đèn nhà ai nhà ấy rạng”.
BHXH là yếu tố tạo nên sự hồ đồng mọi người, khơng phân biệt chính kiến,
tơn giáo, chủng tộc, vị thế xã hội đồng thời giúp mọi người hướng tới một xã
hội nhân ái, cuộc sống cơng bằng, bình n.


22
Thứ ba: BHXH thể hiện truyền thống đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau tương
thân tương ái của cộng đồng: Sự đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau trong cộng đồng
là nhân tố quan trọng, giúp đỡ những người bất hạnh là nhằm hoàn thiện
những giá trị nhân bản của con người, tạo điều kiện cho một xã hội phát triển
lành mạnh và bền vững.
Thứ tư: BHXH góp phần thực hiện bình đẳng xã hội: trên giác độ xã
hội, BHXH là một công cụ để nâng cao điều kiện sống cho người lao động.
Trên giác độ kinh tế, BHXH là một công cụ phân phối lại thu nhập giữa các
thành viên trong cộng đồng. Nhờ sự điều tiết này người lao động được thực
hiện bình đẳng khơng phân biệt các tầng lớp trong xã hội.
Thứ năm, góp phần ổn định tài chính cho các doanh nghiệp. Đối với
các doanh nghiệp, khi những người lao động khơng may gặp rủi ro, thì đã
được chuyển giao cho cơ quan BHXH chi trả. Nhờ vậy, tình hình tài chính
của các doanh nghiệp được ổn định hơn.
Thứ sáu, góp phần tăng trưởng, phát triển kinh tế và tạo công ăn việc
làm cho người lao động. Quỹ BHXH do các bên tham gia đóng góp được tích
tụ tập trung rất lớn, phần quỹ nhàn rỗi được đem đầu tư cho nền kinh tế tạo ra
sự tăng trưởng, phát triển kinh tế và tạo công ăn việc làm cho người lao động.
1.2. NHỮNG NHÂN TỐ CHI PHỐI ĐẾN VIỆC THỰC HIỆN NỘI DUNG
CHÍNH SÁCH BẢO HIỂM XÃ HỘI

1.2.1. Nội dung chính sách bảo hiểm xã hội ở Việt Nam
Chế độ BHXH từ xưa đến nay ở tất cả các nước trên thế giới đều có

mục đích chung là giúp đỡ những người tham gia BHXH giải quyết những
khó khăn về vật chất tạm thời và ổn định cuộc sống lâu dài khi đã hết tuổi lao
động. Ở nước ta cũng vậy, qua một thời gian thực hiện, vừa nghiên cứu, vừa
triển khai thực hiện đã đúc kết và bổ sung những điều kiện, chế độ, mức trợ
cấp và hình thức trợ cấp của các chế độ BHXH. Văn bản mới nhất ở nước ta
hiện nay về chính sách bảo hiểm xã hội là Luật BHXH, Luật đã qui định về


23
hình thức BHXH bắt buộc, BHXH tự nguyện và Bảo hiểm thất nghiệp cho
người lao động và cụ thể hoá các chính sách này đã được quy định trong Bộ
luật lao động vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội cơng bằng, dân chủ, văn
minh. Chính sách BHXH thực hiện các chế độ như sau: “Chế độ trợ cấp ốm
đau; Chế độ trợ cấp thai sản; Chế độ trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề
nghiệp; Chế độ hưu trí; Chế độ tử tuất”.
Chính sách BHXH ra đời và phát triển do nhu cầu của xã hội. Đầu tiên là
hình thức tự bảo hiểm của những người lao động, sau đó có sự tham gia của giới
chủ và Nhà nước. BHXH thường do một cơ quan trung gian đảm nhận, có nhiệm
vụ quản lý quỹ do các bên tham gia đóng góp và chi trả các trợ cấp cho đối
tượng khi có nhu cầu phát sinh. Những nội dung cơ bản của BHXH như sau:
1.2.1.1. Chính sách bảo hiểm xã hội bắt buộc đối với công dân Việt Nam
Những người lao động và người sử dụng lao động sau đây phải tham
gia bảo biểm xã hội bắt buộc:
Thứ nhất, Người lao động tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc là công
dân Việt Nam, bao gồm: a) Người làm việc theo hợp đồng lao động không
xác định thời hạn, hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ ba tháng trở lên; b)
Cán bộ, công chức, viên chức; c) Cơng nhân quốc phịng, cơng nhân cơng an;
d) Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan
nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật công an nhân dân; người
làm công tác cơ yếu hưởng lương như đối với quân đội nhân dân, công an

nhân dân; đ) Hạ sĩ quan, binh sĩ quân đội nhân dân và hạ sĩ quan, chiến sĩ
công an nhân dân phục vụ có thời hạn; e) Người làm việc có thời hạn ở nước
ngồi mà trước đó đã đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc.
Thứ hai, người sử dụng lao động tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc
bao gồm cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân; tổ
chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề
nghiệp, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội khác; cơ quan, tổ chức
nước ngoài, tổ chức quốc tế hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam; doanh nghiệp,


24
hợp tác xã, hộ kinh doanh cá thể, tổ hợp tác, tổ chức khác và cá nhân có thuê
mướn, sử dụng và trả công cho người lao động [3, tr.7-8].
Với chính sách của BHXH bắt buộc, những đối tượng người Việt Nam
ở trên được hưởng các chế độ bảo hiểm: “a) Ốm đau; b) Thai sản; c) Tai nạn
lao động, bệnh nghề nghiệp; d) Hưu trí; đ) Tử tuất” [3, tr.9].
Chính sách cho từng đối tượng được Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam chỉ ra rất cụ thể trong chương 3 Bảo hiểm xã hội bắt buộc từ
điều 21 đến điều 68 của Luật Bảo hiểm xã hội số 71/2006/QH11: điều kiện
được hưởng, thời gian được hưởng và mức được hưởng, …
1.2.1.2. Chính sách bảo hiểm xã hội tự nguyện đối với công dân Việt Nam
“Những người lao động tham gia BHXH tự nguyện là công dân Việt
Nam trong độ tuổi lao động” [3, tr.8] không thuộc đối tượng BHXH bắt buộc.
Chính sách cho đối tượng tự nguyện được Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam chỉ ra rất cụ thể trong chương 4 Bảo hiểm xã hội tự nguyện từ
điều 69 đến điều 79 của Luật Bảo hiểm xã hội số 71/2006/QH11. Với chính
sách của BHXH tự nguyện, những người tham gia BHXH tự nguyện được
hưởng các chế độ: chế độ hưu trí, chế độ tử tuất.
1.2.1.3. Chính sách bảo hiểm thất nghiệp
Đối trượng áp dụng Chính sách bảo hiểm thất nghiệp là “cơng dân Việt

Nam làm việc theo hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc mà các hợp đồng
này không xác định thời hạn hoặc xác định thời hạn từ đủ mười hai tháng đến ba
mươi sáu tháng với người sử dụng lao động quy định …” [3, tr.8]. Chính sách
bảo hiểm thất nghiệp được Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam chỉ
ra rất cụ thể trong chương 4 Bảo hiểm thất nghiệp từ điều 80 đến điều 87 của
Luật Bảo hiểm xã hội số 71/2006/QH11.
1.2.1.4. Chế độ, chính sách thu chi quỹ bảo hiểm xã hội
Lợi ích thiết thực của người tham gia BHXH (dù theo loại hình BHXH
bắt buộc hay BHXH tự nguyện) là trong những trường hợp gặp phải rủi ro mà


25
trong phạm vi quy định, thì được cơ quan BHXH trợ cấp kịp thời, nhằm bù
đắp một phần thu nhập bị giảm sút hoặc mất đi. Nhiệm vụ của cơ quan BHXH
là phải có nguồn tài chính để sẵn sàng đáp ứng kịp thời nhu cầu của mọi
người được bảo hiểm. Nguồn tài chính của BHXH cịn phải đủ để trang trải
các chi phí quản lý bộ máy từ Trung ương đến địa phương. Nguồn tài chính
đó cần phải vững chắc và đều đặn, các ngành kinh tế xã hội cần phát triển tạo
điều kiện thuận lợi cho hoạt động của cơ quan BHXH, phải ln đảm bảo có
một lượng dự trữ có thể ứng phó những tình huống đột xuất, như dịch bệnh
lan tràn, số người thơi việc có nhu cầu lĩnh trợ cấp một lần hoặc có số người
về hưu sớm nhiều... Nguồn tài chính của BHXH được hình thành từ ba nguồn
chính, đó là mức đóng góp của người sử dụng lao động, người lao động và sự
hỗ trợ của Nhà nước.
Ở Việt Nam trước khi có Nghị định số 19/CP, thì phần thu của BHXH
chủ yếu là do Ngân sách Nhà nước cấp, sau khi có Nghị định số 19/CP của
Chính phủ và Nghị định số 100/2002/NĐ-CP, thì nguồn tài chính của BHXH
phần lớn tách khỏi ngân sách Nhà nước và đi vào hoạt động, dưới sự quản lý
trực tiếp của Chính phủ. Quỹ BHXH được quản lý thống nhất theo chế độ tài
chính của Nhà nước, hạch toán độc lập và được Nhà nước bảo hộ. Quỹ

BHXH được thực hiện các biện pháp để bảo tồn giá trị và tăng trưởng theo
quy định của Chính phủ.
Quỹ BHXH được hình thành do sự đóng góp của người sử dụng lao
động, người lao động, Nhà nước hỗ trợ và các nguồn khác. Các nguồn thu của
quỹ BHXH được quy định rất rõ mục 1: quỹ BHXH bắt buộc; mục 2: quỹ
BHXH tự nguyện; mục 3: quỹ bảo hiểm thất nghiệp từ điều 88 đến điều 105
của Luật Bảo hiểm xã hội số 71/2006/QH11. Theo qui định của pháp luật hiện
hành, người sử dụng lao động đóng góp 15% tổng quĩ lương cấp bậc chức vụ
và các phụ cấp khác (nếu có), người lao động đóng góp 5% tiền lương của
bản thân, mức đóng này theo qui định của luật này tăng dần hàng năm cho


×