1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam đang trong q trình đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hoá
gắn với phát triển kinh tế tri thức theo đường lối đổi mới, mở cửa hội nhập
vào nền kinh tế thế giới để phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành
một nước cơng nghiệp. Do đó, việc tiến hành xây dựng và phát triển các khu
công nghiệp là cần thiết, có vai trị quan trọng của việc thu hút vốn đầu tư đẩy
nhanh tiến trình cơng nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Hội nghị giữa nhiệm kỳ Ban Chấp hành Trung ương Đảng, khoá VII
(1994) xác định “Quy hoạch các vùng, trước hết là các địa bàn trọng điểm,
các khu cơng nghiệp tập trung”. Ngày 24/4/1997, Chính phủ ban hành Nghị
định số 36-NĐ/CP về việc xây dựng và vận hành khu công nghiệp tập trung
trên phạm vi cả nước. Nghị quyết Đại hội IX của Đảng đã chỉ đạo: “Quy
hoạch phân bố hợp lý công nghiệp trên cả nước. Phát triển có hiệu quả các
KCN, KCX”. Ngày 14 tháng 3 năm 2008, Chính phủ ban hành Nghị định
số 29/2008/NĐ-CP quy định về khu công nghiệp, khu chế xuất và khu kinh
tế là cơ sở quan trọng cho việc quản lý phát triển các khu công nghiệp trên
cả nước.
Việt Nam đã và đang hồn thiện mơi trường đầu tư hấp dẫn với chính
sách pháp luật ngày càng minh bạch, rõ ràng. Sự ra đời của Luật Đầu tư, Luật
Doanh nghiệp, Luật Kinh doanh bất động sản, Luật Đất đai là những dấu mốc
quan trọng tạo hành lang pháp lý cho hoạt động kinh doanh hạ tầng KCN và
của các doanh nghiệp trong KCN. Đồng thời, các văn bản này cũng là cam kết
mạnh mẽ của Việt Nam đối với việc phát triển KCN nói riêng và các hoạt
động đầu tư, kinh doanh trên lãnh thổ Việt Nam nói chung. Có thể nhận thấy
rằng sự phát triển của các KCN trên địa bàn cả nước nói chung và Đà Nẵng
nói riêng trong thời gian qua đã đạt được những kết quả nhất định, đóng góp
cho sự phát triển kinh tế - xã hội.
2
Cho đến nay, việc hình thành và phát triển các khu cơng nghiệp trên địa
bàn Đà Nẵng đã có sáu khu công nghiệp tập trung đi vào hoạt động, ban đầu
thu hút nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước vào các khu cơng nghiệp. Bởi
vì, Đà Nẵng có vị trí địa lý đặc biệt thuận lợi, là điểm cuối của Hành lang
kinh tế Đông - Tây, là vùng kinh tế trọng điểm của miền Trung - Tây Nguyên.
Kết cấu hạ tầng tương đối hồn chỉnh; có hệ thống giao thông đầy đủ các loại:
đường biển, đường bộ, đường sắt và đường hàng không; là thị trường rộng
lớn, đầy tiềm năng; có nguồn nhân lực tương đối dồi dào; có hệ thống tài
chính tín dụng phát triển, là những điều kiện thuận lợi, tạo sự hấp dẫn các nhà
đầu tư trong và ngoài nước khi đầu tư vào Đà Nẵng nói chung, cũng như đầu
tư vào các khu cơng nghiệp để sản xuất, kinh doanh.
Đà Nẵng tập trung cho xây dựng kết cấu hạ tầng tương đối đồng bộ, đảm
bảo tiêu chuẩn, là điều kiện thu hút các nguồn lực trong và ngoài nước vào đầu
tư sản xuất, kinh doanh. Sự phát triển các khu công nghiệp tạo điều kiện cho các
ngành phát triển; thúc đẩy tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
cơng nghiệp hố; giải quyết việc làm; đóng góp vào ngân sách; cải thiện đời
sống nhân dân và xây dựng thành phố ngày càng phát triển bền vững.
Tuy nhiên, tình hình hoạt động của các khu cơng nghiệp Đà Nẵng thời
gian qua vẫn cịn những tồn tại, hạn chế đó là: việc thu hút vốn đầu tư chưa
tương xứng với tiềm năng các khu công nghiệp hiện nay; do một vài khu công
nghiệp chưa thật sự tạo hấp dẫn cho nhà đầu tư; cải cách hành chính, xúc tiến
đầu tư cịn nhiều bất cập; khó khăn về tiếp cận nguồn vốn; thiếu đội ngũ công
nhân lành nghề, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; cơng nghệ phần lớn
lạc hậu, ít có cơng nghệ cao; cơ cấu đầu tư, ngành nghề chưa khai thác được
lợi thế địa phương; các vấn đề xã hội; vấn đề môi trường nảy sinh gây nhiều
bức xúc chưa được giải quyết kịp thời.
Xuất phát từ thực tế trên, việc nghiên cứu làm thế nào thu hút được
nhiều nguồn vốn đầu tư vào các khu công nghiệp Đà Nẵng là nhiệm vụ hết
3
sức cần thiết để các khu công nghiệp Đà Nẵng hoạt động có hiệu quả góp
phần phát triển kinh tế- xã hội thành phố. Đó là lý do tơi đã chọn đề tài “Thu
hút vốn đầu tư vào các khu công nghiệp Đà Nẵng hiện nay” làm đề tài
nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu
Phản ánh về tình hình thu hút vốn đầu tư vào các khu công nghiệp của
một số địa phương trong nước đã được nghiên cứu với nhiều góc độ khác
nhau, từ nhiều tác giả và cơ quan nghiên cứu như Viện Kinh tế Việt Nam,
Viện nghiên cứu phát triển kinh tế - xã hội Đà Nẵng,.. Có thể nêu một số cơng
trình nghiên cứu liên quan đề tài này có thể tham khảo như:
- PGS.TS Trần Quang Lâm chủ biên (2004), “Kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam: Thực trạng và triển vọng”, Đề tài cấp bộ, của khoa Kinh tế - Chính trị,
Học viện Chính trị -Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.
- PGS.TS Phạm Thanh Khiết (2007), “Phát triển khu kinh tế, khu công
nghiệp ở các tỉnh Duyên hải Nam Trung bộ - Thực trạng và những vấn đề đặt ra”
Đề tài khoa học, Học viện Chính trị - Hành chính Khu vực III.
- Nguyễn Khắc Thân, Chu Văn Cấp chủ biên (1992) “Những vấn đề giải
pháp chính trị, kinh tế nhằm thu hút có hiệu quả đầu tư trực tiếp nước ngoài
vào Việt Nam”, Nxb Pháp lý H.1992.
- Viện nghiên cứu kinh tế- xã hội thành phố Đà Nẵng (2009),“Định
hướng phát triển công nghiệp Đà Nẵng đến năm 2020”
- Đinh Văn Cường (2004), “Thu hút đầu tư trực tiếp từ các nước trong
khu vực nhằm thúc đẩy phát triển nền kinh tế Việt Nam - thực trạng và giải
pháp”, Luận văn thạc sĩ kinh tế
- Nguyễn Lương Đình - Võ Thị Phương Ly (2009), “Một số giải pháp
phát triển các khu công nghiệp trên địa bàn thành phố Đà Nẵng”, Tạp chí
của Viện Nghiên cứu phát triển kinh tế - xã hội Đà Nẵng.
4
- Ths. Nguyễn Bình Đức (2009),“Lao động trong các khu công nghiệp ở
thành phố Đà Nẵng - Thực trạng và giải pháp”, Đề tài khoa học cấp cơ sở,
Học viện Chính trị- Hành chính Khu vực III.
- Nguyễn Văn Chiến (2006),“Tác động đầu tư trực tiếp nước ngoài vào
phát triển kinh tế - xã hội ở thành phố Đà Nẵng hiện nay”, Luận văn thạc sĩ,
Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh.
- Trần Hồng (2006), “Thu hút vốn đầu tư vào các khu công nghiệp, khu
kinh tế ở tỉnh Quảng Trị hiện nay”, Luận văn thạc sĩ, Học viện Chính trịHành chính Quốc gia Hồ Chí Minh.
- Trung tâm Xúc tiến đầu tư Đà Nẵng (2003),“Một số giải pháp cơ bản
nhằm thu hút và quản lý đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn thành phố
Đà Nẵng, Đề tài khoa học cấp thành phố.
- Nguyễn Văn Thành (2006), “Thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp
ở Nghệ An hiện nay”, Luận văn thạc sĩ, Học viện Chính trị - Hành chính
Quốc gia Hồ Chí Minh.
Tuy nhiên cho đến nay, chưa có đề tài nào nghiên cứu về thu hút vốn đầu
tư vào các khu cơng nghiệp Đà Nẵng dưới góc độ kinh tế chính trị. Vì vậy, đề
tài đi sâu phân tích thu hút vốn đầu tư vào các khu công nghiệp Đà Nẵng thời
gian qua, chỉ ra những thành công và hạn chế. Từ đó, đề xuất những giải pháp
cơ bản nhằm đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư vào các khu cơng nghiệp Đà Nẵng
trong thời gian đến.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Trên cơ sở phân tích thực trạng thu hút vốn đầu tư vào các khu công
nghiệp Đà Nẵng thời gian qua, đề tài làm rõ những kết quả đạt được, những
hạn chế và vấn đề đặt ra trong thu hút vốn đầu tư vào các khu công nghiệp Đà
Nẵng. Từ đó đề xuất giải pháp cơ bản nhằm thu hút vốn đầu tư vào các khu
công nghiệp ở Đà Nẵng trong thời gian tới hiệu quả.
5
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
- Hệ thống hoá những vấn đề lý luận, quan điểm của Đảng, chính sách
của nhà nước về khu công nghiệp, về vốn đầu tư vào các khu cơng nghiệp.
- Phân tích, đánh giá kết quả thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước
vào các khu công nghiệp Đà Nẵng trong những năm qua.
- Đề xuất giải pháp nhằm thu hút vốn đầu tư vào các khu công nghiệp
Đà Nẵng thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu vấn đề thu hút vốn đầu tư vào các khu
công nghiệp Đà Nẵng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về thời gian nghiên cứu chủ yếu từ thời gian triển khai xây dựng và
phát triển các khu công nghiệp Đà Nẵng đến nay (1993- 9/2010).
- Phạm vi nghiên cứu: tập trung nghiên cứu vấn đề thu hút vốn đầu tư
trong và ngoài nước vào các khu công nghiệp ở Đà Nẵng hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1 Cơ sở lý luận
Dựa trên lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
những quan điểm chỉ đạo, chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước về
phát triển các khu công nghiệp, về thu hút vốn đầu tư.
5.2 Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu của kinh tế chính trị học,
trong đó coi trọng phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê từ tư
liệu thực tiễn. Đồng thời đề tài có kế thừa và sử dụng có chọn lọc những đề
xuất và các số liệu trong một số cơng trình nghiên cứu các tác giả khác.
6. Những đóng góp của luận văn
- Trình bày hệ thống các vấn đề lý luận cơ bản về khu công nghiệp và
vốn đầu tư vào khu công nghiệp.
6
- Đánh giá thực trạng thu hút vốn đầu tư vào các khu công nghiệp Đà Nẵng.
- Đề xuất những giải pháp nhằm đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư vào các
khu công nghiệp Đà Nẵng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn gồm 3 chương, 8 tiết.
7
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VÀ THỰC TIỄN VỀ THU HÚT VỐN
ĐẦU TƯ VÀO CÁC KHU CÔNG NGHIỆP ĐÀ NẴNG
1.1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ VÀO CÁC KHU CÔNG
NGHIỆP ĐÀ NẴNG
1.1.1. Khái niệm và vai trị của các khu cơng nghiệp
1.1.1.1. Khái niệm về khu cơng nghiệp
Khu cơng nghiệp đã được hình thành từ những năm cuối thế kỉ XIX ở
các nước tư bản phát triển. Năm 1089, xuất hiện khu công nghiệp (KCN) đầu
tiên ở Traffort Park thành phố Manchester nước Anh, và kể từ những năm 50
thế kỷ XX thì KCN thực sự phát triển mạnh mẽ và trở thành phổ biến ở các
nước trên thế giới. Các nước xem KCN như công cụ để nhằm đẩy mạnh q
trình cơng nghiệp hố, hiện đại hoá, phát triển kinh tế đất nước.
Thuật ngữ KCN được sử dụng khá phổ biến nhưng bản thân nó lại bao
hàm nhiều hình thức tổ chức và tính chất hoạt động khác nhau. Theo nghĩa
thông thường, KCN là khu vực có tính chất độc lập tập trung nhiều doanh
nghiệp sản xuất công nghiệp.
Ở một số nước Đông Nam Á như Thái Lan, Philipphin, KCN được quan
niệm như một thành phố cơng nghiệp và thực tế nó là một cộng đồng tự túc và
độc lập. Ngoài việc cung cấp kết cấu hạ tầng, các tiện nghi, tiện ích cơng cộng
hồn chỉnh và xử lý chất thải, KCN cũng bao gồm khu thương mại, dịch vụ
ngân hàng, trường học, bệnh viện, các khu vui chơi giải trí, khu nhà ở cho
cơng nhân,… Các KCN thường có 3 bộ phận chủ yếu: khu sản xuất hàng tiêu
thụ nội địa, khu sản xuất hàng xuất khẩu và khu thương mại dịch vụ.
Theo quan điểm của Tổ chức phát triển công nghiệp Liên hợp quốc
(UNIDO) thì KCN là khu vực tương đối nhỏ, phân cách về mặt địa lý trong
một quốc gia nhằm mục tiêu thu hút đầu tư vào các ngành công nghiệp hướng
8
về xuất khẩu bằng cách cung cấp cho các ngành công nghiệp này những điều
kiện về đầu tư mậu dịch thuận lợi đặt biệt so với phần lãnh thổ còn lại của
nước chủ nhà. Trong đó, đặc biệt là khu chế xuất (KCX) cho phép nhập khẩu
hàng hoá dùng cho sản xuất để xuất khẩu miễn thuế [48, tr.18].
Theo quan điểm của Hiệp hội thế giới về KCX (World Expot Processing
Zone Association - WEPZA) thì KCX là tất cả các khu vực được chính phủ
các nước cho phép thành lập và hoạt động như Cảng tự do, Khu mậu dịch tự
do, KCN tự do hay bất kỳ khu vực ngoại thương hoặc khu vực khác được tổ
chức này công nhận.
Mặc dù thuật ngữ KCN được sử dụng khá phổ biến nhưng bản thân nó lại
bao hàm nhiều loại hình, nhiều mơ hình tổ chức và tính chất hoạt động khác
nhau. Một số nước trên thế giới quan niệm KCN được hiểu là các cơng viên
cơng nghiệp (Industrial Parks). Có những KCN được gọi là cụm công nghiệp
(Industrial Clusters). Những KCN hoạt động chuyên về sản xuất hàng xuất khẩu
với quy chế miễn thuế nhập khẩu được gọi là khu chế xuất (KCX) (Export
Processing Zones). KCN cũng có thể là khu công nghệ cao (Hight - Tech Parks).
Đối với Việt Nam, khái niệm về KCN trong Nghị định 192/CP ngày
28/12/1994 của Chính phủ về Quy chế KCN đã đưa ra khái niệm: "KCN quy
định trong quy chế này là KCN tập trung do Chính phủ quyết định thành lập,
có ranh giới địa lý xác định, chuyên sản xuất công nghiệp và thực hiện các
dịch vụ hỗ trợ sản xuất công nghiệp, khơng có dân cư sống”.
Theo điều 2, Nghị định 36/CP ngày 24/4/1997 của Chính phủ ban hành
về “Quy chế hoạt động của các KCN, KCX, KCNC” thì khái niệm về KCN
được giải thích như sau: KCN là khu tập trung các doanh nghiệp công nghiệp
chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất hàng
công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, khơng có dân cư sinh sống, do
Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập. Trong KCN có
thể có doanh nghiệp chế xuất.
9
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam, Tập 2, Hà Nội, 2002: “Khu công nghiệp
là khu chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất
cơng nghiệp, do chính phủ thành lập hay cho phép thành lập” [53, tr.535].
Từ những khái niệm trên, KCN có những đặc trưng cơ bản:
Một là, KCN là nơi hội tụ và thích ứng với nhau về mặt lợi ích và mục
tiêu xác định giữa chủ đầu tư và nước chủ nhà. KCN là nơi có mơi trường
kinh doanh đặc biệt phù hợp, được hưởng những quy chế tự do, các chính sách
ưu đãi kinh tế (đặc biệt là thuế quan) so với các vùng khác ở nội địa. Chúng là
nơi có vị trí thuận lợi cho việc phát triển sản xuất, thương mại, dịch vụ đầu tư
trên cơ sở chính sách ưu đãi về kết cấu hạ tầng, cơ chế pháp lý, thủ tục hải quan,
thủ tục hành chính, chính sách tài chính tiền tệ, mơi trường đầu tư…
Hai là, KCN là bộ phận không thể thiếu và không thể tách rời trong sự
phát triển kinh tế của một quốc gia. Nó thường là những khu vực có vị trí địa
lý riêng biệt thích hợp, có hàng rào xung quanh, giới hạn với các vùng lãnh
thổ còn lại của nước sở tại và được chính phủ nước đó cho phép hoặc rút phép
xây dựng và phát triển.
Ba là, KCN là nơi thực hiện mục tiêu hàng đầu về ưu tiên chính sách
hướng ngoại, thu hút chủ yếu vốn đầu tư nước ngồi vào phát triển các loại
hình sản xuất kinh doanh phục vụ xuất khẩu. Đây là mơ hình thu nhỏ về chính
sách KT - XH mở cửa của một nước.
1.1.1.2. Vai trị của khu cơng nghiệp đối với q trình cơng nghiệp
hố, hiện đại hố và hội nhập kinh tế quốc tế
Qua gần 20 năm xây dựng và phát triển các KCN nước ta đã từng bước
khẳng định vị trí, tầm quan trọng, trở thành một động lực to lớn trong tiến
trình CNH, HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế.
Thứ nhất, phát triển các KCN là điều kiện để thu hút vốn đầu tư trong và
ngoài nước
KCN ra đời và hoạt động trước hết nhằm thực hiện mục tiêu huy động
vốn đầu tư nước ngoài và thực hiện các chính sách khuyến khích đầu tư nước
10
ngoài theo quy định tại Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987, được
sửa đổi, bổ sung năm 1990 và 1992 và Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
năm 1996 được sửa đổi, bổ sung năm 2000 và năm 2005 Việt Nam ra Luật
đầu tư chung.
Các KCN với các chính sách ưu đãi và những điều kiện thuận lợi về hạ
tầng kinh tế - kỹ thuật ngày càng là điểm hấp dẫn các nhà đầu tư. Tính đến hết
năm 2009, cả nước đã có 249 KCN được thành lập với tổng diện tích đất tự
nhiên 63.173 ha, diện tích đất cơng nghiệp có thể cho th đạt khoảng 38.858 ha,
chiếm 61,5% tổng diện tích đất tự nhiên. Trong đó, 162 KCN đã đi vào hoạt
động với tổng diện tích đất tự nhiên 38.804 ha và 74 KCN đang trong giai đoạn
đền bù giải phóng mặt bằng và xây dựng cơ bản với tổng diện tích đất tự nhiên
14.792 ha. Các KCN phân bố ở 61 tỉnh, thành phố trên cả nước; tỷ lệ lấp đầy
diện tích đất công nghiệp các KCN đã vận hành đạt tỷ lệ lấp đầy khoảng 48%.
Các KCN đã thu hút được trên 3.600 dự án đầu tư nước ngoài với tổng
vốn đầu tư đăng ký đạt 46,9 tỷ USD (chiếm 30% về số dự án và 25% về vốn
đầu tư so với cả nước) và 3.200 dự án đầu tư trong nước với tổng vốn đầu tư
đăng ký 254.000 tỷ đồng; giải quyết việc làm cho hơn 1,34 triệu lao động.
Nhiều nhà đầu tư lớn, có uy tín trên thế giới đã đến và đầu tư vào các KCN tại
Việt Nam như Cannon, Sam Sung, Formosa… Trình độ cơng nghệ của các dự
án đầu tư vào KCN cũng ngày càng nâng lên, chuyển dần từ công nghệ thấp
sử dụng nhiều lao động đơn giản sang sử dụng công nghệ tiên tiến, công nghệ
sạch với lao động chất lượng cao, phức tạp, đòi hỏi nhiều kỹ năng.
Về kết quả hoạt động sản xuất, tính riêng trong năm 2009, các doanh
nghiệp KCN đã tạo ra 12,2 tỷ USD và 67,9 nghìn tỷ đồng doanh thu; xuất
khẩu đạt 12,3 tỷ USD và 2,6 nghìn tỷ đồng; nộp ngân sách đạt 689 triệu USD
và 4,0 nghìn tỷ đồng [56, tr.10].
Sự gia tăng vốn đầu tư vào các KCN góp phần quan trọng vào việc tăng
tổng vốn đầu tư của tồn xã hội, đóng góp trực tiếp vào việc tăng trưởng và
11
chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế. Việc huy động vốn đầu tư nước ngồi, thơng
qua vay thương mại, đầu tư gián tiếp và hoạt động FDI. Với các nước nghèo
và đang phát triển, vốn là một yếu tố đặc biệt quan trọng đối với phát triển
kinh tế. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là sự di chuyển vốn quốc tế dưới
hình thức vốn sản xuất thơng qua việc nhà đầu tư ở một nước đưa vốn vào
một nước khác để đầu tư, đồng thời trực tiếp tham gia quản lý, điều hành, tổ
chức sản xuất, tận dụng ưu thế về vốn, trình độ cơng nghệ, kinh nghiệm quản
lý... nhằm mục đích thu lợi nhuận.
Các dự án đầu tư trong nước và nước ngoài trong KCN, đa dạng về hình
thức đầu tư. Các dự án có vốn đầu tư nước ngồi chủ yếu đầu tư dưới hình
thức doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngồi, cịn lại là hình thức doanh
nghiệp cổ phần và hợp đồng hợp tác kinh doanh. Các dự án trong nước cũng
bao gồm đa dạng các loại hình doanh nghiệp, trong đó chủ yếu là Công ty
TNHH (trên 80% số dự án và gần 60% vốn đầu tư) [7, tr.12].
Tuy nhiên, khơng chỉ có các nước đang phát triển và chậm phát triển
quan tâm đến yếu tố chuyển giao công nghệ của FDI, mà các nước cơng
nghiệp phát triển cũng đang tìm cách tận dụng ưu điểm này của FDI nhằm
hợp lý hoá sản xuất, tận dụng lợi thế so sánh để nâng cao sức cạnh tranh, năng
suất và hiệu quả tổng thể của nền kinh tế. Những ngành có khả năng cạnh
tranh cao thì mở rộng đầu tư ra nước ngoài, những ngành trong nước kém sức
cạnh tranh thì có thể cho doanh nghiệp nước ngồi vào đầu tư, thậm chí thơn
tính hoặc xố bỏ những doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả trong nước. Đây
cũng là q trình phân cơng lao động quốc tế, chun mơn hố và hợp lý hố
sự phân bổ các nguồn lực thông qua FDI.
Đối với nước ta, hoạt động FDI những năm qua đã góp phần quan trọng
trong nâng cao năng lực công nghệ cho các doanh nghiệp FDI và các doanh
nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Trở ngại lớn nhất của các nước nghèo,
kém phát triển là vốn đầu tư ít, kỹ thuật cơng nghệ lạc hậu. Việc huy động vốn
12
từ nước ngoài để phát triển là tận dụng điều kiện khách quan mà thế giới đã
tạo ra giữa các nước tận dụng những lợi thế so sánh và tiềm năng của từng
nước. Song, vốn không tự chảy vào các nước lạc hậu, nên các quốc gia cần có
chiến lược đúng đắn trong việc huy động nguồn vốn từ bên ngoài, tạo sự hấp
dẫn để các nhà đầu tư nước ngoài vào đầu tư hoạt động sản xuất kinh doanh.
Phát triển KCN là một giải pháp hữu hiệu nhằm thu hút vốn đầu tư trong nước
và nước ngoài vào phát triển đất nước.
Thứ hai, KCN góp phần đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh
tế theo hướng cơng nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Phát triển các KCN là thực hiện chính sách mở cửa của Đảng và nhà
nước ta, tạo ra một cửa ngõ tốt nhất để thu hút các nguồn lực từ bên ngồi cho
tiến trình CNH, HĐH đất nước và đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế quốc
tế, tham gia vào q trình phân cơng lao động quốc tế ngày càng sâu, rộng và
có hiệu quả. Một trong những mục tiêu nhằm thực hiện thành công sự nghiệp
CNH, HĐH là chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng cơng nghiệp hố trong
phạm vi địa phương và trên cả nước. Trong những năm qua, các KCN đã là
một công cụ hữu hiệu thu hút các doanh nghiệp công nghiệp và dịch vụ công
nghiệp để thực hiện mục tiêu này.
KCN phát triển kéo theo sự phát triển mạnh của các ngành công
nghiệp, quy hoạch chuyển những vùng đất sản xuất nơng nghiệp hiệu quả thấp,
những vùng đất hoang hố, đồi núi không sử dụng sang xây dựng các KCN để
sản xuất cơng nghiệp có hiệu quả kinh tế cao hơn. Sự phát triển của các KCN
góp phần to lớn vào sự hình thành các khu đơ thị mới với hàng loạt các ngành
dịch vụ phát triển như ngân hàng, thơng tin liên lạc, bảo hiểm, vận tải, giải trí,
thương mại… Từ đó có sự chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng giá trị
ngành công nghiệp và dịch vụ trong GDP, giảm dần tỷ trọng ngành nông nghiệp,
làm cơ cấu ngành nghề và lao động nông thôn cũng thay đổi. Đây là xu hướng
phù hợp với quá trình CNH, HĐH đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế.
13
Thực tiễn xây dựng và phát triển cho thấy, các KCN đã có những đóng
góp ngày càng lớn vào việc nâng cao tỷ trọng công nghiệp trong GDP của cả
nước. Gía trị sản xuất cơng nghiệp của các KCN đều tăng dần qua các năm.
Trong thời kỳ 2001-2005: tổng giá trị sản xuất công nghiệp của các doanh
nghiệp KCN đạt khoảng 44,4 tỷ USD, gấp gần 5 lần so với kế hoạch 5 năm
trước và tăng bình quân khoảng 32%/năm, trong khi đó tốc độ tăng trưởng
cơng nghiệp bình qn cả nước chỉ đạt 16%. Giá trị xuất khẩu của các doanh
nghiệp KCN đạt trên 22,3 tỷ USD, tăng bình quân khoảng 24%/năm cao hơn
tốc độ tăng trưởng bình quân giá trị xuất khẩu cơng nghiệp của cả nước (đạt
bình quân khoảng 17%/năm). Cùng với việc tăng tỷ trọng công nghiệp chế
biến trong cơ cấu xuất khẩu, các doanh nghiệp trong KCN cũng giúp phần tạo
nguồn hàng để cung cấp cho nhu cầu trong nước, giảm bớt việc nhập khẩu
hàng hố từ bên ngồi. Tốc độ tăng trưởng đều đặn ở mức cao của giá trị sản
xuất trong KCN thời gian qua là một trong những yếu tố làm tăng tỷ trọng của
KCN trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp cả nước cũng như góp phần gia
tăng tỷ trọng công nghiệp trong GDP từ 28,8% năm 1995 lên gần 40% năm
2008 [7, tr.15].
Xây dựng các KCN góp phần mở rộng quan hệ kinh tế, thương mại với
các nước trên thế giới. Trong q trình tồn cầu hố hiện nay, dù các doanh
nghiệp trong nước có khả năng sản xuất với mức chi phí thấp cũng vẫn gặp
khó khăn trong việc thâm nhập thị trường thế giới. Các dự án đầu tư nước
ngoài vào hoạt động phải liên kết, hợp tác với doanh nghiệp trong nước tạo
điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước tiếp cận quan hệ quốc tế, thương
mại với các nước trên thế giới được thuận lợi.
Thứ ba, KCN góp phần trong giải quyết việc làm, đào tạo nguồn nhân
lực và thực hiện các chính sách xã hội
Phát triển KCN, mở ra một không gian kinh tế rộng lớn, một kênh mới
rất có tiềm năng để thu hút lao động, giải quyết việc làm cho lao động xã hội.
14
Lực lượng lao động trong KCN gia tăng cùng với sự gia tăng các KCN thành
lập mới và mở rộng, các dự án hoạt động trong KCN. Trong thời kỳ 2001 2005, các KCN đã thu hút thêm được 656.000 lao động trực tiếp, gấp 4 lần so
với thời kỳ trước (1991- 2000), tính đến tháng 8 năm 2008, các KCN đã thu
hút được khoảng 1.064.000 lao động trực tiếp và lao động gián tiếp khoảng
1,5- 1,8 triệu người [7, tr.15].
Tính đến năm 2009 cả nước đã xây dựng trên 219 KCN, KCX, trong đó
118 KCN đã đi vào hoạt động, thu hút khoảng 1,5 triệu lao động trực tiếp.
Nhu cầu lao động trong các KCN rất lớn, việc cung ứng và sử dụng lao động
trong các KCN ở mỗi vùng có sự khác nhau.
Phát triển KCN vừa tạo nhiều việc làm cho người lao động, đồng thời
lực lượng lao động này được tiếp cận khoa học - công nghệ tiên tiến, nâng cao
trình độ tay nghề, kỹ năng cho người công nhân và được rèn luyện tác phong
công nghiệp, thích ứng với nền cơng nghiệp hiện đại.Chất lượng lao động
trong các KCN từng bước được nâng lên.
KCN là nơi sử dụng lao động có chun mơn kỹ thuật phù hợp với
công nghệ mới áp dụng vào sản xuất đạt trình độ khu vực và quốc tế. Do đó,
KCN đóng góp rất lớn vào đào tạo nguồn nhân lực cho Việt Nam để hình
thành đội ngũ lao động của nền công nghiệp hiện đại.
Các KCN đã tạo được nhiều việc làm cho người lao động, góp phần làm
giảm áp lực thất nghiệp hiện nay. KCN là nơi doanh nghiệp được thử thách
trong môi trường cạnh tranh sôi động không chỉ trong nước, mà cịn thử thách
trong mơi trường cạnh tranh quốc tế. Cạnh tranh và quan hệ cung - cầu lao
động diễn ra ở khu vực này cũng rất gay gắt, tạo động lực để lao động không
ngừng phấn đấu, nâng cao tay nghề.
KCN phát triển sẽ thu hút nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước vào các
KCN đầu tư sản xuất kinh doanh, thu hút lượng lớn công nhân, chuyên gia
đến làm việc trong các KCN tập trung. Họ là những người có cơng ăn việc
15
làm, có thu nhập ổn định, có nhu cầu đi lại, nghỉ ngơi, giải trí, học tập nâng
cao trình độ cho phù hợp với yêu cầu làm việc trong các KCN và sinh hoạt
của gia đình của cơng nhân, chun gia. Do đó, vấn đề quy hoạch phát triển
KCN khơng thể tách rời quy hoạch phát triển đô thị, phát triển kinh tế - xã hội
của địa phương, của khu vực đó. Kinh nghiệm của một số địa phương trong
nước việc phát triển KCN trong thời gian qua cho thấy, việc hình thành các
khu đơ thị mới chỉ trở thành hiện thực khi có sự phát triển đồng bộ giữa khu
cơng nghiệp, khu dân cư, các cơng trình hạ tầng kỹ thuật và xã hội trong và
ngoài hàng rào KCN. Từ đó, KCN sẽ là hạt nhân để xây dựng và phát triển
các khu đơ thị mới, văn minh, góp phần cải thiện đời sống kinh tế, văn hoá, xã
hội cho khu vực rộng lớn được đơ thị hố.
Thứ tư, KCN tạo điều kiện tiếp thu được công nghệ cao, kỹ năng quản lý
tiên tiến của các nước phát triển
Trong các KCN hoạt động hiện nay thu hút nhiều dự án đầu tư nước
ngồi, trong đó có những dự án lớn cơng nghệ cao. Thu hút các doanh nghiệp
có vốn nước ngoài vào các KCN được coi là con đường quan trọng để chuyển
giao công nghệ tiên tiến vào nước ta. Qua con đường này, nước ta tiếp nhận
được những thành tựu khoa học công nghệ hiện đại nhất của các nước phát
triển để vận dụng vào hoạt động sản xuất kinh doanh.
Q trình chuyển giao cơng nghệ được diễn ra dưới nhiều hình thức
khác nhau, như đưa máy móc hiện đại sang để tiến hành sản xuất nhằm mục
đích tạo năng suất lao động cao hơn, mới nâng cao được khả năng cạnh tranh
trên thị trường quốc tế và đạt hiệu quả kinh doanh cao nhất, hay đào tạo công
nhân nước chủ nhà để vận hành, sử dụng các cơng nghệ, máy móc hiện đại
đó. Các doanh nghiệp trong các KCN, nhất là các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngồi cịn thu hút một lượng lớn lao động trong nước vào các vị trí quản
lý điều hành doanh nghiệp và được tiếp xúc, làm việc với môi trường phương
thức quản lý tiên tiến, quản lý tài chính, quản lý nhân sự. Để người lao động
16
được làm việc lâu dài và có thu nhập cao các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngồi thì người lao động buộc phải khơng ngừng học tập, tích luỹ kiến
thức, nâng cao trình độ chun mơn, kỹ thuật, trình độ tổ chức quản lý đáp
ứng yêu cầu của doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp trong nước muốn đứng vững thì phải đổi mới công
nghệ phù hợp và áp dụng phương pháp quản lý tiên tiến có hiệu quả để tồn tại
và phát triển. Chính vì sự tồn tại và phát triển doanh nghiệp mà các doanh
nghiệp phải thường xuyên đổi mới công nghệ hiện đại, tiếp thu quản lý tiên
tiến để sản xuất, kinh doanh hiệu quả cao nhất.
KCN có mơ hình tổ chức và quản lý rất tiên tiến, đạt trình độ quốc tế và
đa dạng, phụ thuộc vào nguồn xuất xứ của FDI. Đây là môi trường rất tốt để đào
tạo, chuyển giao khoa học quản lý cho đội ngũ cán bộ quản lý doanh nghiệp của
Việt Nam để có thể thay thế dần lao động quản lý người nước ngoài.
Các dự án đầu tư vào KCN tập trung chủ yếu vào các ngành công
nghiệp nhẹ như dệt may, da giầy, công nghiệp chế biến thực phẩm (chiếm
50% tổng số dự án), đây là các dự án thu hút nhiều lao động, có tỷ lệ xuất
khẩu cao và đã góp phần nâng cấp các ngành này về dây chuyền công nghệ,
chất lượng sản phẩm… Tuy nhiên, các KCN cũng đã thu hút được một số
dự án có quy mơ và yêu cầu vốn lớn, công nghệ cao, như dầu khí, sản xuất
ơ tơ, xe máy, cơ khí chính xác, vật liệu xây dựng (chiếm khoảng 5-10% số
dự án).
Các dự án đầu tư nước ngồi vào KCN khơng những góp phần nâng cao
hàm lượng công nghệ trong sản phẩm của các doanh nghiệp KCN, mà còn
qua mối quan hệ hợp tác đầu tư với nước ngoài, vị thế và sức hấp dẫn đầu tư
của Việt Nam trên trường quốc tế được cải thiện và góp phần đẩy mạnh mối
quan hệ hợp tác quốc tế và khu vực. Từ đó người lao động sẽ có cơ hội được
đào tạo nghề, tiếp thu khoa học công nghệ mới, khoa học quản lý tiên tiến đã
góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp.
17
Năm là, phát triển KCN tạo ra một hệ thống kết cấu hạ tầng công
nghiệp theo hướng hiện đại
Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng là điều kiện hết sức quan trọng và
cấp thiết của nền kinh tế quốc dân. Để thu hút đầu tư vào KCN tạo điều kiện
thuận lợi cho nhà đầu tư trong việc triển khai nhanh dự án, ngồi chính sách
ưu đãi về tài chính và cơ chế quản lý thuận lợi, cơ sở hạ tầng kỹ thuật trong và
ngoài hàng rào các KCN, với hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế - kỹ thuật khá
hoàn chỉnh, một số đạt tiêu chuẩn quốc tế, nhất là đường xá, kho bãi, điện,
nước, giao thông, thông tin liên lạc và các cơ sở dịch vụ tài chính, ngân hàng,
bảo hiểm. Các KCN chính là những điểm đột phá, những mơ hình tốt về xây
dựng cơ sở hạ tầng, nên có tác dụng thúc đẩy q trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế và lao động theo hướng cơng nghiệp hố, hiện đại hố.
Tại các địa phương đã hoàn thành việc xây dựng KCN, kết cấu hạ tầng
được đầu tư đồng bộ và hồn thiện thực sự góp phần thay đổi diện mạo của
địa phương, đã góp phần chủ yếu hiện đại hoá hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tếxã hội, tạo điều kiện thuận lợi cho việc đẩy mạnh thu hút đầu tư vào KCN.
Phát triển KCN không thể tách rời quy hoạch phát triển đô thị theo
hướng hiện đại, văn minh và bảo vệ môi trường. KCN góp phần thực hiện
mục tiêu di dời các cơ sở sản xuất trong, nội thành vào các KCN tập trung, từ
đó góp phần giải quyết tình trạng ơ nhiễm môi trường đô thị. KCN tạo điều
kiện thuận lợi hơn cho các cơ quan quản lý nhà nước về mơi trường trong
việc kiểm sốt ơ nhiễm và có biện pháp xử lý kịp thời đối với hành vi gây ô
nhiễm của doanh nghiệp so với các doanh nghiệp ngoài KCN.
Thứ sáu, phát triển KCN sẽ góp phần tăng thu ngân sách nhà nước.
Phát triển các KCN tập trung từ đó thu hút các nhà đầu tư trong và ngồi
nước vào thuê đất các KCN để sản xuất, kinh doanh, qua đó thu vào ngân sách
nhà nước từ các nguồn về thuế, tiền thuê đất, phí kết cấu hạ tầng. Các doanh
nghiệp trong các KCN đã đóng góp nhất định vào nguồn ngân sách nhà nước.
18
1.1.2. Khái niệm và phương thức thu hút vốn đầu tư
1.1.2.1. Khái niệm vốn đầu tư
Khái niệm đầu tư:
Thuật ngữ “đầu tư” (investment) có thể được hiểu đồng nghĩa với “sự bỏ
ra”, “sự hy sinh”. Từ đó có thể coi đầu tư là sự bỏ ra, sự hy sinh những cái gì
đó ở hiện tại (tiền, sức lao động, của cải vật chất, trí tuệ) nhằm đạt được
những kết quả có lợi cho người đầu tư trong tương lai.Tất cả những hành
động nhằm mục đích thu được lợi ích nào đó (về tài chính, về cơ sở vật chất,
về nâng cao trình độ, về bổ sung kiến thức,..) trong tương lai lớn hơn những
chi phí đã bỏ ra nếu xét trên giác độ từng cá nhân hoặc đơn vị thì các hành
động này đều được gọi là đầu tư.
Luật Đầu tư được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
khố XI, kỳ họp thứ 8 thơng qua ngày 29/11/2005 có hiệu lực từ ngày 01/7/2006
giải thích: “Đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ vốn bằng các loại tài sản hữu hình hoặc
vơ hình để hình thành tài sản tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy định của
Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan” [42, tr.96].
Đồng thời, đầu tư là quá trình kể từ khi nhà đầu tư ra quyết định đầu tư
cho tới khi thu được kết quả của quá trình đầu tư. Theo quan điểm tái sản xuất
mở rộng: đầu tư là q trình chuyển hố vốn thành các yếu tố cần thiết cho
việc tạo ra năng lực sản xuất, tạo ra những yếu tố cơ bản, tiên quyết cho quá
trình phát triển sản xuất.
Vì vậy, theo nghĩa rộng, đầu tư là sự chuyển đổi trạng thái các nguồn lực
ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm đem lại cho nhà đầu tư các
kết quả nhất định trong tương lai mà kết quả này thường phải lớn hơn các chi
phí về các nguồn lực bỏ ra. Nguồn lực bỏ ra cớ thể là tiền, là tài nguyên thiên
nhiên, là tài sản vật chất khác hoặc sức lao động. Các kết quả đã đạt được của
đầu tư đem lại góp phần tăng thêm năng lực sản xuất của xã hội.
Theo nghĩa hẹp, đầu tư chỉ bao gồm những hoạt động sử dụng các nguồn
lực ở hiện tại dưới dạng tiềm năng, biến chúng thành các yếu tố trực tiếp của
19
quá trình sản xuất nhằm đem lại cho nhà đầu tư hoặc xã hội kết quả trong
tương lai lớn hơn các nguồn lực đã sử dụng để đạt được kết quả đó.
Đầu tư là những hoạt động sử dụng các nguồn lực hiện có để làm tăng
thêm các tài sản vật chất, nguồn nhân lực và trí tuệ để cải thiện mức sống của
dân cư hoặc để duy trì khả năng hoạt động của các tài sản và nguồn lực sẵn
có. Đầu tư là khái niệm gắn liền với hoạt động đầu tư, sản xuất kinh doanh;
đầu tư có vai trò chuẩn bị những yếu tố vật chất cần thiết để tổ chức quá trình
sản xuất kinh doanh.
Điều kiện tiên quyết để thực hiện hoạt động đầu tư là phải có vốn đầu tư.
Ở giới hạn, phạm vi và đối tượng nghiên cứu của luận văn cao học chỉ nghiên
cứu vốn tiền tệ đầu tư vào xây dựng kết cấu hạ tầng, sản xuất công nghiệp và
dịch vụ cho sản xuất công nghiệp trong các KCN hiện nay.
Khái niệm vốn đầu tư:
Luật Đầu tư được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
khoá XI, kỳ họp thứ 8 thơng qua ngày 29/11/2005 có hiệu lực từ ngày 01/7/2006
giải thích: “Vốn đầu tư là tiền và các tài sản hợp pháp khác để thực hiện các hoạt
động đầu tư theo hình thức đầu tư trực tiếp hay gián tiếp” [42, tr.97].
Định nghĩa vốn đầu tư trong kinh tế vĩ mô và tài khoản quốc gia: Vốn
đầu tư là khoản chi tiêu để làm tăng hoặc duy trì tài sản vật chất trong một
thời kỳ nhất định. Vốn đầu tư thường thực hiện qua các dự án đầu tư và một
số chương trình mục tiêu quốc gia với mục đích bổ sung tài sản cố định, tài
sản lưu động của toàn bộ nền kinh tế.
Vốn đầu tư là một trong những nhân tố cơ bản thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế-xã hội.Vốn đầu tư có bản chất kinh tế - xã hội, vì cùng dựa trên sản xuất và
trao đổi hàng hoá, nhưng trong các chế độ xã hội với những sở hữu đặc trưng
khác nhau về các điều kiện sản xuất thì có những quan hệ phân phối khác
nhau, thể hiện thông qua mục tiêu cuối cùng mà việc sử dụng lượng vốn đó
hướng tới.
20
Vốn đầu tư là toàn bộ giá trị của tất cả các yếu tố (tiền tệ, máy móc, thiết
bị, nhà xưởng, vị trí kinh doanh, bằng phát minh, sáng chế…) được bỏ vào
đầu tư nhằm đạt được mục tiêu đã dự định.
Đối với các quốc gia, nhất là các quốc gia đang phát triển, vốn là yếu tố
không thể thiếu được để phát triển kinh tế. Nguồn vốn đầu tư ban đầu rất cần
thiết để cho các doanh nghiệp có đủ điện kiện hoạt động sản xuất kinh doanh,
trước hết vốn đầu tư ban đầu vào chi phí thuê đất đai, xây dựng nhà xưởng, đầu
tư trang thiết bị công nghệ, thuê nhân công và tiếp tục mở rộng quy mô đầu tư,
nhằm phát triển sản xuất trong điều kiện cạnh tranh của các doanh nghiệp.
Ngồi ra, vốn cịn tồn tại dưới dạng các tài sản tài chính (tiền, các loại cổ
phiếu, trái phiếu, các loại công nợ khác). Tiền là tài sản chính, cần thiết đảm bảo
cho các hoạt động kinh tế diễn ra một cách bình thường, liên tục. Cịn các loại cổ
phiếu, trái phiếu, các cơng nợ khác là phương thức để chuyển tiết kiệm thành
đầu tư. Tuy nhiên, loại vốn này chỉ được xem xét dưới giác độ doanh nghiệp.
Trong nền kinh tế thị trường, vốn đầu tư có những đặc điểm chủ yếu:
Thứ nhất, bên cạnh hình thái hiện vật, vốn ln được biểu hiện dưới hình
thái giá trị thành những lượng tiền nhất định.
Thứ hai, vốn được biểu hiện bằng tiền nhưng chỉ bao gồm những lượng
tiền cho đầu tư hoặc kinh doanh để có thu nhập trong tương lai.
Thứ ba, vốn là hàng hố đặc biệt: quyền sử dụng có thể tách khỏi quyền
sở hữu; giá trị sử dụng và giá trị không mất đi trong sử dụng mà ngược lại
được bảo tồn và thậm chí cịn tăng thêm; giá cả của vốn không phải được
quyết định bởi giá trị, mà là bởi giá trị sử dụng của nó.Vốn được lưu thơng
trên loại thị trường đặc thù là thị trường vốn.
Vốn đầu tư thường tồn tại dưới nhiều dạng khác nhau. Có thể phân biệt vốn
theo các tiêu chí như hình thái tồn tại, nguồn hình thành, hình thức sử dụng:
-Theo hình thái tồn tại, có thể phân biệt vốn tài chính (tồn tại dưới hình
thái tiền tệ), vốn tài nguyên với những hình thái hiện vật khác nhau, vốn vơ
21
hình (các sản phẩm khoa học cơng nghệ, vị trí địa lý thuận lợi, thương hiệu có
uy tín), vốn nhân lực (số lượng, chất lượng nguồn nhân lực)…
- Theo nguồn gốc hình thành có thể phân biệt vốn trong nước và ngoài nước:
+ Nguồn vốn đầu tư trong nước: được hình thành từ tiết kiệm trong nước
bao gồm tiết kiệm từ ngân sách nhà nước, tiết kiệm của các doanh nghiệp và
tiết kiệm của dân cư. Tiết kiệm của ngân sách nhà nước là phần được dành để
chi cho đầu tư phát triển, khơng tính đến các khoản viện trợ khơng hồn lại
của chính phủ các nước, các tổ chức, cá nhân ở nước ngoài, các khoảng vay
trong nước, vay nước ngồi của chính phủ để bù đắp bội chi ngân sách nhà
nước. Tiết kiệm của doanh nghiệp là phần lãi sau thuế được các doanh nghiệp
trích lại cho đầu tư phát triển. Nguồn vốn dành cho hoạt động đầu tư của
doanh nghiệp còn bao gồm cả nguồn vốn thu được từ khấu hao tài sản cố
định. Tiết kiệm của dân cư là phần thu nhập để dành chưa tiêu dùng của các
hộ gia đình.
+ Nguồn vốn đầu tư ngồi nước: bao gồm viện trợ phát triển chính thức
(Offcial Development Ossistance-ODA), vốn viện trợ của các tổ chức phi
chính phủ (Non Goverment Organization- NGO), vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài (Foreign Direct Investment- FDI), vốn đầu tư gián tiếp nước ngồi.
-Theo hình thức sử dụng vốn, vốn đầu tư bao gồm vốn đầu tư trực tiếp
và vốn đầu tư gián tiếp:
+ Vốn đầu tư trực tiếp: là loại vốn được đầu tư vào hoạt động kinh tế do nhà
đầu tư bỏ ra và tham gia quản lý hoạt động đầu tư. Hoạt động đầu tư này có thể
dưới nhiều hình thức khác nhau như hợp đồng, liên doanh, lập công ty cổ phần.
+ Vốn đầu tư gián tiếp: là loại vốn được đầu tư vào hoạt động kinh tế
nhằm đem lại hiệu quả cho bản thân người có vốn cũng như cho xã hội,
nhưng người có vốn khơng trực tiếp tham gia quản lý hoạt động đầu tư. Hoạt
động đầu tư gián tiếp được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như:
mua cổ phiếu, tín phiếu, tín dụng…
22
Ngoài ra, vốn đầu tư được phân loại theo thời gian sử dụng, vốn đầu tư
được phân thành 3 loại:
+ Vốn ngắn hạn: là lượng tiền được sử dụng để đầu tư trong thời hạn 1 năm.
+ Vốn trung hạn: là lượng tiền được sử dụng để đầu tư có kỳ hạn từ 1
năm đến 5 năm.
+ Vốn dài hạn: là lượng tiền được sử dụng để đầu tư có kỳ hạn từ năm
trở lên.
1.1.2.2. Các phương thức thu hút vốn đầu tư
Phương thức huy động vốn được hiểu là những cách thức, phương pháp
sử dụng những cơng cụ thích hợp để huy động, thu hút các nguồn vốn từ các
chủ sở hữu vốn hoạt động đầu tư nhằm thực hiện các mục tiêu đề ra. Do vậy,
việc thu hút vốn đầu tư có nhiều phương thức thu hút nguồn vốn đầu tư để
phát triển kinh tế-xã hội nói chung, phát triển các KCN nói riêng. Trong đó,
chủ yếu sử dụng các phương thức thu hút vốn đầu tư sau:
* Phương thức thu hút vốn cho đầu tư, phát triển kinh tế - xã hội thông
qua NSNN.
- Vốn ngân sách Nhà nước (bao gồm vốn ngân sách Trung ương, ngân
sách địa phương) đầu tư cho dự án, cơng trình.
- Vốn vay: bao gồm vốn tín dụng đầu tư của nhà nước, vay ngân hàng
thương mại và vay từ các nguồn khác:
+ Vốn tín dụng đầu tư của nhà nước: là nguồn vốn chủ đầu tư có thể
được hưởng lãi suất ưu đãi hoặc khơng có lãi để đầu tư vào những ngành, lĩnh
vực, chương trình kinh tế lớn của đất nước.
+ Vốn vay từ ngân hàng thương mại và các nguồn khác: là số tiền mà
chủ đầu tư đi vay từ các tổ chức tín dụng trong nước, vay các ngân hàng nước
ngoài, vay các tổ chức quốc tế và vay các tổ chức cá nhân dân cư khác.
* Phương thức thu hút vốn từ các doanh nghiệp.
Nguồn vốn từ các doanh nghiệp, trước hết là do tích luỹ, tích tụ từ nội bộ
doanh nghiệp thông qua phát hành cổ phiếu xây dựng mạng lưới cổ đông
23
nhằm thu hút vốn. Các doanh nghiệp còn chủ động thơng qua quan hệ tín
dụng, liên kết, liên doanh với các đối tác trong và ngoài nước để thu hút vốn
đầu tư. Và thơng qua tín dụng ngân hàng, phát hành trái phiếu, cổ phiếu...
* Phương thức thu hút vốn từ dân cư
Đây cũng là một phương thức được Nhà nước, các doanh nghiệp và các
nhà đầu tư đặc biệt quan tâm, sử dụng nhiều. Bởi nguồn vốn ở trong dân cư là
khá lớn, do vậy cần sử dụng nhiều phương thức đa dạng, phong phú, hấp dẫn
dựa trên nguyên tắc tự nguyện, cùng có lợi để động viên, khuyến khích dân
cư bỏ vốn đầu tư phát triển quê hương, đất nước.
* Phương thức thu hút vốn đầu tư nước ngồi.
Nguồn vốn đầu tư nước ngồi có tầm quan trọng trong sự phát triển kinh
tế - xã hội. Nó bao gồm:
- Nguồn vốn ODA là nguồn vốn do các nước và các tổ chức quốc tế viện
trợ khơng hồn lại hoặc do vay với lãi suất thấp, hoặc khơng có lãi suất.
Nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội các nước nhận viện trợ.
- Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là những khoản đầu tư do các tổ
chức kinh doanh và cá nhân từ nước ngoài đưa vốn vào một nước để trực tiếp
sản xuất kinh doanh hoặc góp vốn liên doanh với các tổ chức và cá nhân trong
nước theo các quy định của luật đầu tư nước ngoài và nước sở tại.
1.2. SỰ CẦN THIẾT VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN THU HÚT VỐN
ĐẦU TƯ VÀO CÁC KHU CÔNG NGHIỆP
1.2.1. Sự cần thiết thu hút vốn đầu tư vào các khu công nghiệp
Trước yêu cầu đẩy nhanh quá trình sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Việc
xây dựng và phát triển các KCN là nhằm thu hút các nhà đầu tư trong và
ngoài nước vào hoạt động sản xuất, kinh doanh góp phần phát triển kinh tế xã hội địa phương. Yêu cầu đặt ra trước hết phải thu hút vốn đầu tư ban đầu
để đẩy mạnh cơng tác giải phóng mặt bằng, xây dựng các khu tái định cư; đầu
tư xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật - xã hội trong và ngoài các KCN; phát
24
triển các cơ sở sản xuất kinh doanh, dịch vụ. Như vậy, vốn đầu tư có vai trị
rất quan trọng cho sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung, cũng như đối với
sự phát triển các KCN nói riêng.
-Do u cầu đẩy mạnh q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hoá
Từ Đại hội VIII, đất nước ta đã chuyển sang chặng đường mới đẩy mạnh
CNH, HĐH, phấn đấu đến năm 2020 cơ bản trở thành một nước công nghiệp.
Đại hội IX, Đại hội X nói rõ thêm: đến năm 2020 cơ bản trở thành một nước
công nghiệp theo hướng hiện đại.
Tiếp đến, Đại hội IX, Đại hội X của Đảng chỉ rõ: con đường CNH, HĐH
của nước ta, vừa có những bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt. CNH, HĐH
đất nước phải bảo đảm xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ. Thực hiện CNH
theo mô hình kinh tế mở. Gắn CNH, HĐH với phát triển kinh tế tri thức, hội
nhập kinh tế quốc tế và sự phát triển của nền kinh tế thị trường, tranh thủ cơ
hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và phát huy tiềm năng, lợi thế của
nước ta để rút ngắn quá trình CNH, HĐH đất nước.
CNH, HĐH đòi hỏi nguồn vốn rất lớn cho đầu tư phát triển kinh tế. Nên
cần có chính sách thu hút nguồn vốn trong và ngồi nước để đẩy mạnh q trình
CNH, HĐH đất nước.Yêu cầu cơ bản của CNH, HĐH là chuyển lao động thủ
công thành lao động sử dụng máy móc, ứng dụng những thành tựu của khoa học
cơng nghệ, nâng cao hàm lượng tri thức trong các yếu tố sản xuất, từng bước
phát triển kinh tế tri thức để xây dựng cơ sở vật chất của CNXH.
Đầu tư các nguồn vốn vào KCN sẽ thúc đẩy nhanh quá trình xây dựng và
phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật- xã hội, tăng quy mô các đơn vị kinh tế
hoạt động trên lĩnh vực sản xuất kinh doanh, phát triển thêm nhiều ngành
nghề mới địi hỏi kỹ thuật và cơng nghệ cao cần nhiều vốn. Đồng thời khi
tăng cường vốn đầu tư vào các KCN sẽ tạo động lực thúc đẩy phát triển sản
xuất công nghiệp, hoạt động việc chuyển giao công nghệ và các ngành dịch
vụ phục vụ trực tiếp cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp
25
trong các KCN; góp phần chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu kinh tế tức là tăng tỷ
trọng công nghiệp, dịch vụ và giảm tỷ trọng nông nghiệp trong GDP.
Trong xu thế hiện nay, CNH, HĐH tất yếu phải gắn với phát triển kinh tế
tri thức. Đây là cách thức để nền kinh tế nhanh chóng thốt khỏi tình trạng lạc
hậu. Chỉ có mạnh dạn đi ngay vào phát triển kinh tế tri thức mới có khả năng
thay đổi phương thức sản xuất và đẩy nhanh tốc độ CNH,HĐH, thực hiện các
mục tiêu kinh tế - xã hội.
- Do yêu cầu giải quyết trình trạng thiếu vốn cho đầu tư phát triển kinh
tế - xã hội.
Đất nước ta sau hơn 20 năm đổi đã đạt được những thành tựu to lớn,
nhưng nền kinh tế nước ta đang ở trình độ phát triển thấp, quy mơ nhỏ, sức
cạnh tranh yếu, cịn tụt hậu khá xa so với nhiều nước trong khu vực, chưa
vượt ra khỏi nhóm các nước đang phát triển có thu nhập thấp; trong khi yêu
cầu về phát triển nhanh và bền vững rất cấp bách, yêu cầu hội nhập với nền
kinh tế khu vực và thế giới ngày càng khẩn trương và sâu rộng hơn.
Đại hội X của Đảng xác định:
Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, chú trọng cải cách hành
chính, đào tạo nguồn nhân lực, tạo lập những điều kiện thuận lợi
hơn nữa để thu hút mạnh các nguồn vốn quốc tế, như vốn ODA, vốn
đầu tư trực tiếp, gián tiếp dưới nhiều hình thức, tín dụng thương mại
và các nguồn vốn quốc tế khác. Tăng cường thu hút vốn đầu tư nước
ngoài, phấn đấu đạt trên 1/3 tổng nguồn vốn đầu tư phát triển toàn
xã hội trong 5 năm. Mở rộng lĩnh vực, địa bàn và hình thức thu hút
FDI, hướng vào những thị trường giàu tiềm năng và các tập đoàn
kinh tế hàng đầu thế giới, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về số lượng
và chất lượng, hiệu quả nguồn FDI. Tiếp tục tranh thủ nguồn vốn
ODA, đẩy nhanh tốc độ giải ngân, nâng cao hiệu quả sử dụng và có
kế hoạch đảm bảo trả nợ. Từng bước mở rộng đầu tư gián tiếp của