Tải bản đầy đủ (.doc) (125 trang)

Thạc sĩ kinh tế-phát triển nông nghiệp hàng hoá ở tỉnh sơn la hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (779.05 KB, 125 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Kinh tế nơng nghiệp là một lĩnh vực sản xuất ra những sản phẩm tất
yếu cho xã hội mà khu vực thành thị không thay thế được, chẳng hạn như
lương thực, thực phẩm, nguyên liệu nông nghiệp…
Phát triển kinh tế nông nghiệp là cần thiết vì nó là nơi vừa cung cấp
ngun liệu, vừa là thị trường cho phát triển công nghiệp thành thị.
Phát triển kinh tế nơng nghiệp cịn nhằm giải quyết việc làm, hạn chế
làn sóng di dân ra các đơ thị, góp phần bảo vệ mơi trường sinh thái…
Vì vậy, chuyển sản xuất hàng hóa là phương hướng phát triển của nơng
nghiệp nước ta. Thành tựu tồn diện về phát triển nông nghiệp trong những
năm đổi mới đã chứng minh tác dụng tích cực phương hướng trên. Nhiều tiềm
năng nơng nghiệp bước đầu khai thác có hiệu quả, sản lượng các loại nơng
sản tăng nhanh, nhiều nơng sản có giá trị xuất khẩu lớn và ổn định, đời sống
nông dân được cải thiện rõ rệt…
Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi, nơng nghiệp nước ta cịn có nhiều
khó khăn. Việc gia nhập WTO và hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới
đặt ra cho nông nghiệp nước ta những thử thách rất gay gắt và trên nhiều mặt.
Nông nghiệp nước ta đang phải chịu áp lực cạnh tranh rất lớn do sản xuất nhỏ,
phân tán, lạc hậu, năng suất, chất lượng sản phẩm thấp, vệ sinh an toàn thực
phẩm chưa đáp ứng được yêu cầu… Mặt khác, tình trạng phân hóa giàu
nghèo, thất nghiệp, mất việc làm ngày càng gia tăng, trình độ văn hóa, tay
nghề, chất lượng nguồn nhân lực còn thấp…
Biểu hiện rõ nét là ở nhiều vùng đất nước, nhất là ở trung du miền núi,
trình độ phát triển hàng hóa rất thấp. Nhiều vấn đề bức thiết của việc chuyển
sang sản xuất hàng hóa trong cơ chế thị trường chưa được giải quyết tốt.
Sơn la là một tỉnh vùng núi cao, biên giới, mặc dù có rất nhiều tiềm
năng để phát triển về nơng, lâm nghiệp, thủy điện và khai thác khoáng sản,



2
nhưng lại là một tỉnh đặc biệt khó khăn, nền kinh tế chưa phát triển, thu nhập
bình quân đầu người thấp, năm 2009 mới đạt 5.980.000 đồng/ người/ năm, kết
cấu hạ tầng kinh tế - xã hội còn thấp kém, kinh tế phát triển không đồng đều
giữa các vùng, công nghiệp và dịch vụ chưa phát triển, lao động hầu như chưa
qua đào tạo, tỷ lệ người thiếu việc làm và thất nghiệp cịn cao.
Bên cạnh đó, Sơn La là một tỉnh có 14 dân tộc sinh sống, trong đó
có nhiều dân tộc thiểu số như: Mông, Xinh Mun, Khơ Mú, La-Ha, Kháng,
Dao, Hoa… cư trú ở những vùng núi cao, biên giới, vùng sâu, vùng xa.
Đại đa số những vùng đó đều là những vùng kinh tế xã hội đặc biệt khó
khăn, kinh tế kém phát triển, sản xuất nông nghiệp nhỏ, lẻ, lạc hậu, tự túc,
tự cấp là chủ yếu nên thu nhập thấp, tỷ lệ đói nghèo cao. Mức sống và
mức hưởng thụ các dịch vụ thấp, khoảng cách chênh lệch khá xa so với
các vùng thuận lợi của tỉnh và cả nước. Một số hộ gia đình đồng bào dân
tộc thiểu số vẫn giữ tập quán du canh, du cư, sản xuất hàng hóa chưa phát
triển. Việc sử dụng đất dưới dạng đa canh hóa vẫn cịn khó khăn, do quy
trình sản xuất và tiêu thụ chưa khép kín. Hệ thống cơng trình thủy lợi
chưa đáp ứng được nhu cầu cho sản xuất nông nghiệp. Sản lượng lương
thực hàng năm tăng không ổn định, phát triển nơng nghiệp tồn diện chưa
được quan tâm đúng mức, nhiều tài nguyên tự nhiên bị lãng phí do khai
thác chưa hợp lý, diện tích cây ăn trái và cây cơng nghiệp chưa phát triển
tương xứng với tiềm năng.
Như vậy, phát triển kinh tế nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Sơn La là một
vấn đề cấp thiết nổi lên hàng đầu nhằm ổn định và phát triển kinh tế - xã hội tỉnh
Sơn La nói riêng và đất nước nói chung trong giai đoạn cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa, khắc phục sự cách biệt giữa thành thị và nơng thơn, góp phần xóa đói
giảm nghèo, thực hiện tốt Nghị quyết 07 của Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành
Trung ương Đảng khóa X về vấn đề phát triển nơng nghiệp, nông dân và nông
thôn trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.



3
Từ những lý do trên, là cán bộ của tỉnh địa phương, học viên chọn đề
tài "Phát triển nông nghiệp hàng hóa ở tỉnh sơn La hiện nay” làm luận văn
thạc sĩ kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Nghiên cứu về vấn đề phát triển kinh tế nông nghiệp ở nước ta, kể từ
khi bước vào thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp,
nông thôn không phải là một vấn đề mới. Cho đến nay, đã có nhiều cơng trình,
nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu với những mức độ khác nhau như:
- GS.TS Nguyễn Đình Phan, GS.TS Trần Minh Đạo và TS Nguyễn văn
Phúc (đồng chủ biên): "Những biện pháp thúc đẩy cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa nơng nghiệp, nơng thơn vùng đồng bằng sơng Hồng”, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2002.
- PGS.TS Ngô Đức Cát, trường Đại học Kinh tế quốc dân: "Ảnh hưởng
của chính sách nơng nghiệp nơng thơn Việt Nam trong q trình cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa”.
- TS Mai Thị Thanh Xn: "Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng
nghiệp, nơng thơn ở Bắc Trung Bộ”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004.
- GS.TS Lê Hữu Nghĩa, năm 2008: “Xây dựng nông thôn mới ở Việt
Nam - những vấn đề đặt ra và giải pháp”.
- GS.TS Nguyễn Tịng Xn: "Nơng nghiệp và nơng dân Việt Nam phải
làm gì để hội nhập kinh tế quốc tế”, năm 2008.
- Đặng Kim Sơn, Viện chính sách và chiến lược phát triển nông nghiệp
nông thôn: “Nông nghiệp, nông dân, nơng thơn Việt Nam hơm nay và mai
sau”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008.
- TS Nguyễn Từ (chủ biên): "Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đối
với phát triển nơng nghiệp Việt Nam”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008.
- Trần Xuân Châu: "Những giải pháp cơ bản nhằm đẩy nhanh sự phát
triển nền nông nghiệp hàng hóa ở Việt Nam", Luận án tiến sĩ khoa học kinh

tế, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, 2000.


4
- Lê Bích Thủy: "Phát triển nơng nghiệp hàng hóa ở tỉnh Lào Cai",
Luận văn thạc sĩ kinh tế, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2009.
- Hµ Tiến Thăng: Chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật
nuôi để phát triển nông nghiệp hàng hoá ở Thái Bình, Luận
văn th¹c sĩ kinh tÕ, Häc viƯn ChÝnh trị - Hành chÝnh Quèc gia
Hå ChÝ Minh, 2006.
- Hà Công nghĩa: “Sử dụng đất nông nghiệp ở tỉnh Sơn La hiện nay”,
Luận văn thạc sĩ kinh tế , Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí
Minh, 2004.
- Trương Đức Quang: “Kinh tế hộ nông dân trên địa bàn huyện Yên
Châu, tỉnh Sơn La”, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Học viện Chính trị - Hành chính
quốc gia Hồ Chí Minh, 2009…
Tuy nhiên, chưa có đề tài nào nghiên cứu về phát triển nơng nghiệp
hàng hóa ở tỉnh Sơn La hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích
Từ sự phân tích đặc điểm địa lý, kinh tế, xã hội của tỉnh Sơn La, đề
xuất những giải pháp cơ bản để phát triển nông nghiệp hàng hóa ở tỉnh Sơn
La hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
- Vận dụng những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mac-Lênin, những
quan điểm của Đảng ta và thực tế của hơn 20 năm đổi mới kinh tế ở nước ta
để chứng minh sự cần thiết và vai trò của sự phát triển nơng nghiệp hàng hóa
của cả nước nói chung và của tỉnh Sơn La nói riêng, trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
- Đánh giá tiềm năng và thực trạng phát triển nơng nghiệp hàng hóa ở

Sơn La và nguyên nhân của thực trạng đó.


5
- Trình bày những phương hướng và những giải pháp chủ yếu để đẩy
mạnh phát triển nơng nghiệp hàng hóa ở Sơn La trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là phát triển nơng nghiệp hàng hóa
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Mốc thời gian nghiên cứu chủ yếu từ năm 2000 đến nay.
- Địa bàn nghiên cứu: Tỉnh Sơn La.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Đề tài vận dụng những nguyên lý của chủ nghĩa Mac-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam về phát triển nơng
nghiệp và tình hình cụ thể của tỉnh Sơn La.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử để nghiên cứu. ngoài ra còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu
cụ thể như: Khảo sát, điều tra nghiên cứu thực tế, phân tích tổng hợp, thống
kê, so sánh…
6. Dự kiến đóng góp của luận văn
Trên cơ sở vận dụng những lý luận chung vào việc phân tích tình hình
cụ thể ở một địa phương, lý giải những nhân tố ảnh hưởng, chi phối q trình
phát triển nơng nghiệp hàng hóa ở Sơn La, để từ đó nhận định, đánh giá và đề
xuất những phương hướng, giải pháp có tính khả thi cho việc phát triển nơng
nghiệp hàng hóa trên địa bàn tỉnh Sơn La trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế.
7. Kết cấu của luận văn



6
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương, 7 tiết.


7
Chương1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN
NƠNG NGHIỆP HÀNG HĨA TRÊN ĐỊA BÀN CÁC TỈNH MIỀN NÚI
1.1.NHẬN THỨC LÝ LUẬN, THỰC TIỄN VỀ NÔNG NGHIỆP HÀNG HĨA

1.1.1. Khái niệm nơng nghiệp và nơng nghiệp hàng hóa
Nơng nghiệp là một trong những ngành kinh tế quan trọng và phức tạp.
Nó khơng chỉ là một ngành kinh tế đơn thuần mà còn là hệ thống sinh học kỹ thuật, bởi vì một mặt cơ sở để phát triển nông nghiệp là việc sử dụng tiềm
năng sinh học cây trồng, vật nuôi, chúng phát triển theo quy luật sinh học nhất
định. Mặt khác quan trọng hơn là phải làm cho người sản xuất có sự quan tâm
thỏa đáng, gắn lợi ích của họ với q trình sử dụng sinh học đó nhằm tạo ra
ngày càng nhiều sản phẩm cuối cùng. Nơng nghiệp nếu hiểu theo nghĩa hẹp
chỉ có ngành trồng trọt, ngành chăn nuôi và ngành dịch vụ trong nơng nghiệp.
Cịn nơng nghiệp hiểu theo nghĩa rộng nó cịn bao gồm cả ngành lâm nghiệp
và ngành thủy sản.
Nơng nghiệp là ngành sản xuất vật chất cơ bản, giữ vai trò to lớn trong
phát triển kinh tế ở hầu hết các nước, nhất là các nước đang phát triển. Ở các
nước này còn nghèo, đại bộ phận dân cư sống bằng nghề nơng. Tuy nhiên
ngay cả những nước có nền kinh tế phát triển, có nền cơng nghiệp phát triển
cao, mặc dù tỷ trọng GDP nông nghiệp không lớn, nhưng khối lượng nông
sản ở các nước này khá lớn và không ngừng tăng lên, đảm bảo cung cấp đủ
cho đời sống của con người những sản phẩm cần thiết đó là lương thực, thực

phẩm. Những sản phẩm này cho dù trình độ khoa học - cơng nghệ như hiện
nay vẫn chưa có ngành nào thay thế được. Lương thực, thực phẩm là yếu tố
đầu tiên, có tính chất quyết định sự tồn tại phát triển của con người và phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Sản xuất nơng nghiệp có những đặc điểm sau:


8
Th nht, ối tợng của sản xuất nông nghiệp bao gồm
nhiều loại cây trồng và gia súc có yêu cầu khác nhau về
môi trờng, điều kiện ngoại cảnh để sinh ra và lớn lên. Vì
vậy, muốn đạt kết quả cao trong sản xuất nông nghiệp,
cần có những hiểu biết tờng tận để hoạt động sản xuất
phù hợp với các quy luật sinh học của mỗi đối tợng sản xuất.
Trong thực tế, ngời sản xuất nông nghiệp không hoàn toàn
làm chủ đợc quá trình sản xuất, mà phải thờng xuyên đối
phó với những diễn biến bất thờng của điều kiện ngoại
cảnh.
Th hai, trong nông nghiệp, đất đai là những t liệu sản
xuất chủ yếu (hoàn toàn khác với công nghiệp, đất đai chỉ
là mặt bằng xây dựng nhà xởng), đất đai là môi trờng sống
không thể thiếu đợc của cây trồng và gia súc. Trong nông
nghiệp, đất đai vừa là đối tợng lao động, vừa là t liệu lao
động. Nó có những biểu hiện khác nhau về chất lợng, nhng
nếu đợc sử dụng hợp lý thì độ phì nhiêu của nó đợc bảo vệ
và tăng lên. Độ phì nhiêu của đất đai là một yếu tố quyết
định năng suất cây trồng và năng suất lao động trong nông
nghiệp. Vì vậy, bảo vệ và không ngừng làm tăng độ phì
nhiêu màu mỡ của đất đai là một trong những nhiệm vụ
quan trọng nhất của ngời lao động trong nông nghiệp.

Th ba, sản xuất nông nghiệp có tính thời vụ nhất định:
trong nông nghiệp, hai quá trình tái sản xuất tự nhiên và tái
sản xuất kinh tế liên hệ mật thiết với nhau. Thời gian lao
động không trùng khớp với thời gian sản xuất, do đó, trong
quá trình sản xuất, có những giai đoạn sản xuất nông


9
nghiệp đợc tái sản xuất tự nhiên không cần sự tác động của
quá trình kinh tế. Hơn nữa, sản xuất có tính thời vụ nên
trong nông nghiệp, lao động, máy móc và các t liệu sản xuất
khác không thể sử dụng liên tục quanh năm (nhất là ngành
trồng trọt). Cho nên việc tìm những biện pháp để giảm bớt
tính thời vụ trong nông nghiệp là một nhiệm vụ của lịch sử,
của các nhà kinh tế và kỹ thuật nông nghiệp. Trong thực tế,
ngời ta đà áp dụng nhiều biện pháp nh: chuyên môn hóa sản
xuất kết hợp với kinh doanh tổng hợp, tăng vụ, xen canh gối
vụ, luân canh, chế tạo những máy móc có tính đa năng
hoặc cố gắng làm giảm tối đa những hao mòn hữu hình
và vô hình của những tài sản cố định...
Th t, sản xuất nông nghiệp đợc phân bố trên một phạm
vi không gian rộng lớn và có tính khu vực. Vì đất đai là t
liệu sản xuất chủ yếu nên sản xuất nông nghiệp đợc phân
bố rộng khắp hầu nh trên các vùng lÃnh thổ của cả nớc. Mặt
khác, do các năng lực tự nhiên của sản xuất lại phân bổ
không đồng đều giữa các vùng, các miền nên điều đó làm
cho sản xuất mang tính khu vực. Điều này đòi hỏi phải xác
định phơng hớng để đạt hiệu quả cao nhất và tạo điều
kiện để phát triển nông nghiệp toàn diện.
Từ đó, ta thấy rằng: nông nghiệp không chỉ là một

ngành kinh tế - kỹ thuật nh những lĩnh vực khác của hoạt
động kinh tế, mà còn là một hệ thống kinh tế - kỹ thuật sinh học rất phức tạp. Nông nghiệp bị phụ thuộc nhiều vào
thiên nhiên (dĩ nhiên, để sản xuất một số rau quả đắt tiền
dùng cho xuất khẩu, ngời ta có thể dùng nhà kính hoặc nhà


10
trồng cây có điều khiển tự động đảm bảo đợc độ ẩm,
nhiệt độ, ánh sáng cần thiết... song khó áp dụng rộng rÃi vì
quá tốn kém, nhất là đối với c¸c níc nghÌo).
Với xuất phát điểm thấp, nền nơng nghiệp Việt Nam đang trong tình
trạng lạc hậu tiến lên xây dựng một nền nơng nghiệp sản xuất hàng hóa.
Trong những năm qua, ngành nơng nghiệp của Việt Nam đã có những bước
phát triển nhất định. Vấn đề an ninh lương thực đã được đảm bảo. Nhiều loại
giống cây trồng, vật ni mới có năng suất và chất lượng cao được đưa vào
sản xuất. Các vùng sản xuất chuyên canh đang từng bước hình thành và phát
triển mạnh mẽ. Cơ cấu ngành và nội bộ ngành đang có bước chuyển mới tuân
theo những quy luật của thị trường. Hoạt động xuất khẩu các sản phẩm nông
nghiệp của Việt Nam ra thị trường thế giới ngày càng được mở rộng. Hoạt
động sản xuất nông nghiệp đã bước đầu tuân theo những nguyên tắc của thị
trường, đáp ứng nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng. Tuy nhiên, bên cạnh
những mặt đã đạt được thì hiện nay trong hoạt động sản xuất nông nghiệp vẫn
là sự đan xen giữa cái cũ và cái mới, cái tiến bộ và cái lạc hậu của nền nông
nghiệp truyền thống với những đặc trưng của nền nơng nghiệp hàng hóa hiện
đại. Điều này cho thấy nơng nghiệp của Việt Nam đang từng bước chuyển từ
một nền nơng nghiệp lạc hậu sang nền nơng nghiệp hàng hóa theo định hướng
xã hội chủ nghĩa. Tính định hướng xã hội chủ nghĩa là điểm làm nên sự khác
biệt giữa q trình phát triển nơng nghiệp của nước ta so với các nước, thể
hiện rõ trong mục tiêu phát triển. Mục tiêu phát triển của nông nghiệp Việt
Nam là mang lại lợi ích cho tồn bộ người dân trong xã hội, trên cơ sở đó

nâng cao mức sống cho người dân, đặc biệt là người nông dân. Thể hiện cho
mục tiêu đó, trong những năm vừa qua Đảng ta ln xác định nông nghiệp là
lĩnh vực quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, muốn xây
dựng thành cơng chủ nghĩa xã hội thì trước hết phải đổi mới nâng cao năng


11
suất, chất lượng của hoạt động sản xuất nông nghiệp, trên cơ sở đó nâng cao
mức sống cho người dân.
Phát triển nơng nghiệp hàng hóa là q trình kinh tế có tính quy luật từ
nền sản xuất nhỏ lên nền sản xuất lớn, hiện đại mà mọi quốc gia có nền kinh
tế nông nghiệp dù sớm hay muộn đều phải trải qua.
Như chúng ta biết rằng, kiểu tổ chức kinh tế đầu tiên của loài người, là
kinh tế tự nhiên, với đặc trưng chủ yếu là tự cung, tự cấp - tức sản phẩm lao
động được sản xuất ra chỉ nhằm thỏa mãn nhu cầu của người sản xuất hoặc
chỉ trong nội bộ đơn vị kinh tế. Nền kinh tế tự nhiên do nhiều đơn vị kinh tế
thuần nhất hợp lại. Kinh tế nông dân kiểu gia trưởng, công xã nông thôn
nguyên thủy, các điền trang thái ấp của địa chủ. Và mỗi đơn vị kinh tế ấy làm
đủ các loại ngành nghề, sản xuất sản phẩm để tự tiêu dùng, sản xuất chủ yếu
hướng vào giá trị sử dụng mang tính tự cung, tự cấp.
Trong nền kinh tế tự nhiên, con người dựa chủ yếu vào tự nhiên và khai
thác tự nhiên, do đó có thể nói rằng trong nền kinh tế này, ruộng đất là tư liệu
sản xuất chủ yếu của người lao động và nông nghiệp là ngành sản xuất chính,
kỹ thuật, cơng cụ lao động, phương thức canh tác lạc hậu và thơ sơ.
Xã hội lồi người "chìm đắm" trong nền kinh tế tự nhiên hàng nghìn
năm rồi mới phát triển lên kinh tế hàng hóa.
Kinh tế hàng hóa là loại hình tổ chức kinh tế - xã hội cao hơn kinh tế tự
nhiên. Có nhiều quan niệm khác nhau về kinh tế hàng hóa do cách tiếp cận và
khái quát không giống nhau. Tham khảo và kế thừa các quan niệm của các tác
giả đi trước về phạm trù kinh tế hàng hóa, có thể nói rằng nói đến kinh tế

hàng hóa thì phải biểu đạt được các đặc trưng bản chất của nó, như: kinh tế
hàng hóa là nền kinh tế sản xuất ra hàng hóa và dịch vụ để trao đổi, mua bán
trên thị trường, tức là sản xuất theo nhu cầu của xã hội thể hiện trên thị
trường; là một hình thức tổ chức kinh tế - xã hội trong đó các mối quan hệ


12
kinh tế cơ bản được thể hiện thông qua quan hệ mua bán trên thị trường; chi
phối các mối quan hệ kinh tế cơ bản ấy là các quy luật của kinh tế hàng hóa:
quy luật giá trị, quan hệ cung - cầu, quan hệ cạnh tranh... Kinh tế hàng hóa có
nhiều ưu thế, như: thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, mở rộng phân công
lao động xã hội, thúc đẩy tăng năng suất lao động xã hội; là hình thức thể hiện
và thực hiện xã hội hóa lao động và sản xuất; kích thích việc nâng cao số
lượng, chất lượng hàng hóa và dịch vụ; kích thích tính năng động sáng tạo của
các chủ thể sản xuất - kinh doanh và có tác dụng là khai thác có hiệu quả các
tiềm năng kinh tế của xã hội...
Nông nghiệp hàng hóa là một bộ phận của nền kinh tế hàng hóa nói
chung, nó sản xuất ra nơng sản phẩm (nông, lâm, ngư nghiệp) không phải để
tự tiêu dùng của người sản xuất, mà là để trao đổi, để bán trên thị trường, nó
là hình thức tổ chức kinh tế - xã hội, trong đó có mối quan hệ kinh tế giữa
người với người, giữa các chủ thể với nhau được thể hiện thông qua trao
đổi, mua bán trên thị trường, quan hệ hàng hóa - tiền tệ, quan hệ thị trường,
quan hệ hạch toán... là những quan hệ kinh tế chủ yếu của loại hình này,
chịu sự chi phối bởi trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, của quan hệ
sản xuất, thiết chế kinh tế - xã hội, phong tục tập quán, văn hóa... trong đó
trực tiếp và khách quan là sự tác động của các quy luật giá trị, quy luật
cung - cầu, quy luật cạnh tranh.
Nền nơng nghiệp hàng hóa ra đời đối lập với nền nơng nghiệp tự cung
tự cấp. Nó có nhiều ưu thế so với nơng nghiệp tự túc tự cấp. Vì vậy, trong lịch
sử phát triển kinh tế của xã hội lồi người thì sự ra đời và phát triển của nơng

nghiệp hàng hóa được coi là một bước tiến bộ của lịch sử, một nấc thang phát
triển của nền văn minh nhân loại.
1.1.2. Những đặc trưng chủ yếu của nền nơng nghiệp hàng hóa


13
Xét theo tiêu thức phạm vi hoạt động thì nền kinh tế
quốc dân mỗi nớc bao gồm các bộ phận hợp thành là kinh tế
thành thị và kinh tế nông thôn. Trong điều kiện kinh tế
hàng hóa, kinh tế nông thôn xét về thực chất là kinh tế hàng
hóa nông thôn. Kinh tế hàng hóa nông thôn bao gồm toàn bộ
hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ diễn ra trên địa bàn
nông thôn, trong đó hoạt động sản xuất nông sản hàng hóa
đợc coi là hoạt động quan trọng nhất, đặc biệt là trong
những nớc đang phát triển nh nớc ta. Vì vậy, sản xuất nông
sản hàng hóa không chỉ là một tất yếu khách quan, mà còn
là một thuộc tính bên trong lâu dài của chính sự phát triển
nền nông nghiệp nớc ta theo định hớng xó hi ch ngha. Tùy
theo các góc độ xem xét khác nhau, nông nghiệp hàng hóa
có những đặc trng chủ yếu sau đây:
- Từ góc độ phân công lao động, nông nghiệp hµng
hãa hiĨu theo nghÜa hĐp bao gåm trång trät vµ chăn nuôi,
hiểu theo nghĩa rộng bao gồm nông nghiệp, lâm nghiệp,
ng nghiệp, diêm nghiệp. Trong kinh tế nông nghiệp hàng
hóa, phân công lao động luôn gắn kết và có mối quan hệ
chặt chẽ với thị trờng, cho nên trên cơ sở hiệu quả kinh tế,
sản xuất kinh doanh trong nông nghiệp hàng hóa đợc xem
xét ở cả ba khâu: sản xuất - chế biến - tiêu thụ. Hay nói
đúng hơn, sản xuất nông sản hàng hóa cũng đợc hiểu theo
nghĩa rộng. Vì vậy, trong sản xuất nông sản hàng hóa,

không chỉ mỗi nhóm ngành, vùng nông nghiệp đợc chia
thành những ngành, vùng nhỏ hơn, mà quá trình phân công
lao động - ngoµi viƯc diƠn ra trong néi bé ngµnh, vïng nông
nghiệp, còn có sự liên quan, hiệp tác, liên kết chỈt chÏ víi


14
công nghiệp và dịch vụ, trong đó đặc biệt là công nghiệp
nông thôn và dịch vụ nông nghiệp, ngoài ra còn có sự tham
gia của các dịch vụ bu điện, giáo dục, y tế, văn hóa, nghệ
thuật v.v...
- Xét về không gian hoạt động thì nền kinh tế nông
nghiệp hàng hãa bao gåm nhiỊu vïng kh¸c nhau (vïng kinh tÕ
tù nhiên, vùng kinh tế nông nghiệp hàng hóa nhỏ chuyên môn
hóa thấp, vùng kinh tế nông nghiệp hàng hóa lớn, chuyên môn
hóa cao). Những vùng kinh tế này hình thành là do phân
công lao động xà hội theo lÃnh thổ trên phạm vi cả nớc, chẳng
hạn vùng chuyên canh cây lúa, vùng cây công nghiệp v.v...,
hoặc hình thành và phát triển trên cơ sở kết hợp các yếu tố
tự nhiên với sự phát triển của hệ thống các lực lợng sản xuất và
sự vận hành của quan hệ sản xuất... nh vùng chuyên canh
mía đờng ở Thanh Hóa, vùng chăn nuôi bò sữa ở Đồng nai,
vùng trồng cây ăn quả ở Hà Bắc, Đông Nam bộ v.v... Sự
chuyên môn hóa sản xuất theo vùng nhằm bố trí các ngành
sản xuất trên các vùng lÃnh thổ sao cho thích hợp để khai
th¸c mäi u thÕ so s¸nh vỊ ngn lùc cđa mỗi vùng, căn cứ vào
điều kiện tự nhiên - kinh tÕ - kü tht cđa tõng vïng. Xu thÕ
ph¸t triĨn cđa kinh tÕ vïng lµ ngµy cµng tËp trung hãa và
chuyên môn hóa, hình thành các vùng trọng điểm sản xuất
hàng hóa có khối lợng lớn, năng suất cao, hiệu quả kinh tế lớn,

để từ đó mở rộng ra các vùng, ngành khác. Trong bản thân
mỗi vùng, lại dựa vào ngành sản xuất chuyên môn hóa mà phát
triển các ngành khác một cách đa dạng và tổng hợp. Sự kết
hợp này nhằm phát triển mạnh mẽ ngành chuyên môn hóa,


15
đồng thời khai thác một cách đầy đủ các nguồn tài nguyên,
cơ sở vật chất kỹ thuật và lao động của từng vùng nông
nghiệp.
- Về mặt kinh tế - xà hội, nông nghiệp hàng hóa bao
gồm nhiều lực lợng tham gia, nhiều thành phần kinh tế. Sự
tồn tại này, trớc hết do trình độ phát triển và trình độ xÃ
hội hóa về lực lợng sản xuất của các lực lợng kinh tế không
đều nhau, dẫn đến quan hệ sản xuất (bao gồm quan hệ sở
hữu t liệu sản xuất và các yếu tố đầu vào khác của sản
xuất, quan hệ tổ chức quản lý, quan hệ phân phối giá trị
các sản phẩm làm ra) cũng mang tính đa dạng và do đó tồn
tại nhiều thành phần kinh tế. Khái niệm thành phần kinh tế
là có tính tơng đối, tuy nhiên, để phân biệt các thành phần
kinh tế trong quá trình sản xuất hàng hóa nông sản có thể
xem xét theo các tiêu chí: là lực lợng kinh tế có vai trò nhất
định trong nền kinh tế, có đóng góp đáng kể vào việc sản
xuất nông sản hàng hóa, gắn với một hình thức sở hữu tơng
ứng, gắn với một trình độ lực lợng sản xuất và tổ chức quản
lý cũng nh phân phối thu nhập thích hợp. Nh vậy, thích ứng
với tính chất và trình độ phát triển của lực lợng sản xuất có
những quan hệ sản xuất và thành phần kinh tế cũng nh
hình thức tổ chức kinh tế tơng ứng. Các thành phần kinh tế
luôn luôn vận động trong tính thống nhất và mâu thuẫn

biện chứng của hoạt động kinh tế sản xuất nông sản hàng
hóa. Vì mỗi thành phần kinh tế có đặc trng, bản chất, lợi
ích và hiệu quả riêng - nhất là tính lợi ích và hiệu quả, trên
cơ sở các quy luật kinh tế khách quan và hiện trạng tổ chức


16
quản lý kinh tế xà hội, sẽ phải thờng xuyên cạnh tranh với nhau,
cả lành mạnh và không lành mạnh, tích cực và tiêu cực. Mặt
khác, chúng không biệt lập nhau, mà ngợc lại, có mối quan hệ
tác động qua lại với nhau vì chúng cùng tham gia vào hệ
thống phân công lao động xà hội, đều chịu sự tác động
khách quan của các quy luật kinh tế, đều chịu sự quản lý và
điều tiết vĩ mô thống nhất của nhà nớc, định hớng lâu dài
lên ch ngha xó hi, cho nên chúng vừa cạnh tranh lại vừa hợp tác
với nhau. Nhận thức đúng đắn sự vận động, sự tồn tại khách
quan, tính đa dạng v các hình thức sở hữu và thành phần
kinh tế cũng nh đặc điểm và mối quan hệ giữa chúng, một
mặt để nhất quán trong quan niệm và chính sách cơ cấu
kinh tế nhiều thành phần, mặt khác để hiểu rõ tính đa
dạng, phức tạp về các hình thức tổ chức kinh tế nông nghiệp
hàng hóa ở nớc ta hiện nay.
Ngoài những nội dung trên, kinh tế nông nghiệp hàng
hóa còn có những đặc trng khác phân biệt với kinh tế hàng
hóa công nghiệp, đó là:
- Phân công lao động xà hội trong nông nghiệp khác với
phân công lao động xà hội trong công nghiệp. Phân công
lao động trong kinh tế công nghiệp có trình độ chuyên môn
hóa cao, còn phân công lao động trong nông nghiệp bao giờ
cũng kết hợp chuyên môn hóa với phát triển tổng hợp, nghĩa

là trong một vùng chẳng hạn, bên cạnh ngành chuyên môn hóa
sản xuất ra mặt hàng chủ lực cung ứng cho thị trờng, còn
phát triển những ngành khác thích ứng với ngành sản xuất
đó, hoặc tận dụng có hiệu quả các điều kiện, các nguồn lực


17
sản xuất nh đất đai, thổ nhỡng, khí hậu, thời tiết, lao động
v.v... Vì vậy, Lênin viết:
Do chính ngay bản chất của ngành nông nghiệp
nên việc nó chuyển biến thành ngành sản xuất hàng
hóa đà diễn ra một cách đặc biệt, không giống với
quá trình chuyển biến đó trong ngành công nghiệp.
Công nghiệp chia thành những ngành riêng biệt,
tuyệt đối độc lập với nhau và chỉ chuyên chế tạo
một thứ sản phẩm hay một bộ phận của sản phẩm mà
thôi. Trái lại, ngành nông nghiệp thì không chia thành
những ngành tách biệt hẳn nhau, mà chỉ chuyên
sản xuất một thứ hàng nào đó cho thị trờng, còn
những mặt hàng khác của nông nghiệp thì đều
thích ứng với mặt hàng chủ yếu đó (nghĩa là với thứ
sản phẩm có tính chất hàng hóa đó) cho nên các
hình thức của nông nghiệp thơng nghiệp thật là hết
sức khác nhau, không những khác từ vùng này đến
vùng kia, mà còn khác từ ngành sản xuất này đến
ngành sản xuất kia nữa [13, tr.272].
- Tỷ suất nông sản hàng hóa trong kinh tế nông nghiệp
thờng thấp hơn trong kinh tế công nghiệp. Vì đặc điểm
của sản phẩm nông nghiệp về mặt tự nhiên là có thể tiêu
dùng trực tiếp và thiết yếu nên nó đợc giữ laị một phần cho

tiêu dùng của ngời sản xuất. Có thể nói, ở đây tính hàng hóa
và tính tự cung tự cấp hòa trộn với nhau. Dĩ nhiên, khi kinh tế
nông nghiệp hàng hóa càng phát triển thì tỷ suất nông sản
hàng hóa sẽ càng tăng lên. Vì vËy, Lªnin viÕt:


18
Ngay quá trình hình thành nền nông nghiệp thơng phẩm, đà diễn ra không hoàn toàn giống nh ở
trong nền công nghiệp nhà máy; trong công nghiệp,
quá trình ấy diễn ra dới hình thức đơn giản và theo
đờng thẳng, còn trong nông nghiệp chúng ta thấy
khác hẳn; ở đây hiện tợng chủ yếu là sự hỗn hợp
giữa nông nghiệp có tính chất thơng nghiệp với nông
nghiệp không có tính chất thơng nghiệp, ở đây
những hình thức khác nhau đà đợc kết hợp lại. ở từng
mỗi địa phơng, chủ yếu mang ra thị trờng là một
thứ sản phẩm nào đó. Một mặt, nền sản xuất của
địa chủ, mà đặc biệt của nông dân, là nền sản
xuất hàng hóa, mặt khác, nền sản xuất đó còn giữ
tính chất tiêu dùng [13, tr.275].
Nông nghiƯp hµng hãa (vµ kinh tÕ hµng hãa nãi chung)
cã những u điểm sau:
Một là, thúc đẩy lực lợng sản xuất phát triển nhanh,
không ngừng tăng năng suất lao động. Nền nông nghiệp tự
nhiên chỉ hớng vào giá trị sử dụng nhằm đáp ứng nhu cầu
tiêu dùng trực tiếp của chính ngời sản xuất, không có trao
đổi sản phẩm, nên thiếu động lực kích thích lực lợng sản
xuất phát triển. Trái lại, trong kinh tế hàng hóa, muốn bán đợc
sản phẩm trên thị trờng ngời sản xuất phải quan tâm đến
nhu cầu và thị hiếu của ngời mua, phải ra sức ứng dụng kỹ

thuật mới để nâng cao chất lợng và hạ giá thành sản phẩm,
nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa của mình nhằm thu
đợc lợi nhuận siêu ngạch và đứng vững trên thị trờng, do đó


19
mà năng suất lao động không ngừng tăng lên, quy mô sản
xuất và lu thông hàng hóa ngày càng mở rộng. So sánh kinh
tế tự nhiên với kinh tế hàng hóa t bản chủ nghĩa V.I.Lênin đÃ
chỉ rõ:
Quy luật của những phơng thức sản xuất trớc chủ nghĩa
t bản là tái diễn quá trình sản xuất theo một quy mô nh cũ,
trên một cơ sở kỹ thuật nh cũ; kinh tế diêu dịch của địa
chủ, kinh tế tự nhiên của nông dân, sản xuất thủ công của
những ngời làm công nghiệp đều nh thế cả. Trái lại, quy luật
của sản xuất t bản chủ nghĩa là không ngừng cải tạo phơng
thức sản xuất và mở rộng vô hạn độ quy mô sản xuất. Với
những phơng thức sản xuất cũ thì các đơn vị kinh tế có
thể tồn tại hàng thế kỷ mà không hề thay đổi tính chất và
phạm vi, không hề vợt ra ngoài giới hạn của lÃnh địa địa chủ,
của xóm làng hay của cái chợ lân cận nhỏ bé dành cho những
thợ thủ công nông thôn và những ngời tiểu chủ (gọi là thợ thủ
công làm ở nhà). Trái lại, xí nghiệp t bản chủ nghĩa thì tất
nhiên là vợt ra ngoài giới hạn của làng xÃ, của cái chợ địa phơng,
của từng vùng rồi vợt ra ngoài cả giới hạn quốc gia nữa [14, tr.6263].
Nông nghiệp hàng hóa phát triển tất yếu sẽ ra đời các
trang trại lớn, các vùng chuyên canh sản xuất những khối lợng
nông sản hàng hóa lớn, không những đáp ứng nhu cầu của
thị trờng trong nớc mà còn tăng xuất khẩu.
Hai là, nông nghiệp hàng hóa đẩy mạnh quá trình xÃ

hội hóa lực lợng sản xuất. Lao động sản xuất hàng hóa mang
tính chất hai mặt: lao động cụ thể và lao động trừu tợng.
Lao động cụ thể mang tính chất t nhân, vì chọn nghề


20
gì, sản xuất mặt hàng gì là quyền của mỗi ngời lao
động, của mỗi đơn vị kinh tế. Nhng mỗi lao động cụ thể,
t nhân đó lại là một bộ phận của lao động xà hội mà sản
phẩm là hàng hóa nhằm đáp ứng nhu cầu của ngời khác,
chứ không phải đáp ứng nhu cầu của bản thân ngời sản
xuất, tức là đáp ứng nhu cầu xà hội. Sản xuất hàng hóa lôi
cuốn những ngời sản xuất riêng lẻ hay những đơn vị sản
xuất tự chủ, độc lập vào một hệ thống phân công xà hội.
Chỉ khi bán đợc hàng hóa thì lao động t nhân, độc lập
mới đợc xà hội thừa nhận, và mâu thuẫn giữa lao động t
nhân với lao động xà hội mới đợc giải quyết, sản xuất và lu
thông hàng hóa mới diễn ra trôi chảy.
Tính chất xà hội hóa lao động trong nông nghiệp hàng
hóa thể hiện ở chỗ: 1) sản xuất cho mình biến thành sản
xuất cho xà hội; 2) thay vào tình trạng phân tán, manh mún
trớc kia, đà hình thành sự tập trung sản xuất cha từng thấy,
cả trong nông nghiệp và trong công nghiệp; 3) Diễn ra tình
trạng lu động dân c, chuyển bớt lao động từ trồng cây lơng
thực sang trồng các cây khác hay sang chăn nuôi, rút bớt lao
động trực tiếp làm nông nghiệp sang làm công nghiệp chế
biến hay dịch vụ; 4) làm thay đổi bộ mặt tinh thần của
dân c nông thôn, thay đổi ngay cả tính chất của những ngời sản xuất.
Ba là, nông nghiệp hàng hóa thúc đẩy quá trình tích
tụ và tập trung sản xuất, thúc đẩy mở rộng thị trờng hàng

tiêu dùng, thị trờng lao động và thị trờng t liệu sản xuất.
Những ngời làm ăn giỏi sẽ thu đợc nhiều lợi nhuËn cho phÐp


21
tÝch tơ vèn, më réng quy m« kinh tÕ hé gia đình thành kinh
tế trang trại chuyên doanh hoặc kinh doanh tổng hợp.
Đồng thời quá trình cạnh tranh dẫn đến tập trung sản
xuất, những đơn vị đạt hiệu quả kinh tế cao sẽ tăng quy mô
ngày càng lớn, loại bỏ những đơn vị yếu kém, những đơn
vị này sẽ bị phá sản, bị những doanh nghiệp thắng cuộc
thôn tính hoặc phải liên hiệp với nhau thành những doanh
nghiệp lớn để tồn tại và đứng vững trên thị trờng. Những
ngời bị phá sản sẽ trở thành ngời làm thuê, thành ngời bán sức
lao động, tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế t bản chủ
nghĩa trong nông nghiệp. Điều quan trọng đối với kinh tế
hàng hóa không phải là mức sinh hoạt của ngời sản xuất mà
là khoản thu nhập bằng tiền của họ. Ngời làm thuê trong
nông nghiệp có thể có mức sống thấp hơn trớc đây nhng lại
phải dùng tiền công mua t liệu sinh hoạt nhiều hơn trớc, nên
lại làm cho thị trờng mở rộng hơn. Mặt khác, những ngời
giàu lên, không những tiêu dùng nhiều hơn mà còn phải thuê
nhiều công nhân và mua nhiều t liệu sản xuất hơn, nên mở
rộng cả thị trờng hàng tiêu dùng, cả thị trờng lao động và
thị trờng t liệu sản xuất.
Khi kinh tế thị trờng phát triển, cạnh tranh gay gắt, thì
những đơn vị kinh tế quy mô nhỏ, canh tác trên những
mảnh đất nhỏ sẽ bị lõm vào tình trạng suy đồi. Các xí
nghiệp chế biến nông sản đòi hỏi khối lợng nguyên liệu lớn với
chất lợng theo những tiêu chuẩn nhất định và gạt ra khỏi thị

trờng những ngời sản xuất nhỏ không đảm bảo đợc những
tiêu chuẩn trên, đồng thời ngời ta quy định giá nông sản
theo chất lợng của nó. Khi nói về các kho chøa ngị cèc thóc


22
đẩy mạnh mẽ việc sản xuất lúa mì hàng hóa và đẩy nhanh
sự phát triển kỹ thuật của nó bằng cách cũng quy định giá cả
theo chất lợng, V.I.Lênin viết:
Những chế độ đó đánh vào ngời sản xuất nhỏ
hai vố một lúc. Một là, những cơ quan đó quy định
tiêu chuẩn, công nhận chất lợng tốt của lúa mì của
những nhà sản xuất lớn và do đó làm cho lúa mì
chất lợng kém của nông dân nghèo hoàn toàn bị giảm
giá. Hai là, bằng cách tổ chức theo kiểu công nghiệp
lớn T bn ch ngha việc phân loại và cất chứa ngũ cốc,
các chế độ đó giảm bớt chi phí của ngời sản xuất lớn
về ngũ cốc, làm cho ngời sản xuất lớn bán lúa mì của
họ đợc dễ dàng và đơn giản, và do đó làm cho ngời
sản xuất nhỏ với lối bán lúa mì từng bao, theo lối gia trởng và thô sơ trên thị trờng, phải hoàn toàn chịu lệ
thuộc vào bọn cụ lắc và bọn cho vay nặng lÃi [14,
tr.330].
Có thể khẳng định rằng, nếu không có mối liên kết
giữa công nghiệp với nông nghiệp thì không có nền nông
nghiệp hàng hóa định hớng xó hi ch ngha. Các chính sách
phát triển công nghiệp (mà trớc hết là công nghiệp nông
thôn), ngành nghề trong nông thôn và liên kết công nghiệp
với nông nghiệp là một trong những nhân tố định hớng xÃ
hội chủ nghĩa đối với nền nông nghiệp hàng hóa trong thời
kỳ quá độ ở nớc ta.

Bảo vệ môi trờng sinh thái và tài nguyên thiên nhiên là
yêu cầu có tính thời đại của một nền nông nghiệp tiên tiến,
một nền nông nghiệp văn minh mà loài ngời đang đặt ra và


23
hớng tới. Nếu phát triển nông nghiệp mà môi trờng và tài
nguyên không đợc bảo vệ, tơng lai của con ngời không đợc
đảm bảo thì không thể nói định hớng xó hi ch ngha đợc. Vì
vậy, phải làm sao khai thác, vận dụng đợc những thành tựu
mới của khoa học và công nghệ sinh học để phát triển một
nền nông nghiƯp sinh th¸i
1.1.3. Điều kiện và các nhân tố hình thành và phát triển của nơng
nghiệp hàng hóa
Kinh tÕ n«ng nghiệp là ngành cơ bản, ngành gốc, là
lĩnh vực bao trùm lÃnh thổ kinh tế nông thôn. Nghĩa là sự
phát triển của kinh tế nông nghiệp giữ vai trò quyết định
trong kinh tế nông thôn. Đây là một quá trình phát triển
phức tạp, đa dạng. Con ngời và xà hội nông thôn đà làm ra
lịch sử của mình trên cơ sở những lực lợng sản xuất và quan
hệ sản xuất nhất định, trên cơ sở những thiết chế kinh tế xà hội và gắn với những phong tục, tập quán, văn hóa nhất
định, trên cơ sở nhận thức và vận dụng những hiểu biết về
những đặc điểm đặc thù của sản xuất nông nghiệp. Theo
đó, các tính quy luật của quá trình hình thành và phát
triển nông nghiệp hàng hóa ®ỵc diƠn ra. Điều đó cũng có nghĩa là,
để nơng nghiệp có thể chuyển từ nền kinh tế tự nhiên, tự cung tự cấp sang nền
nơng nghiệp hàng hóa phải có những điều kiện và nhân tố nhất định.
1.1.3.1. Sự phỏt trin ca phõn cụng lao ng xó hi
Phân công lao động là một phạm trù kinh tế - xà hội gắn
liền với sự phát triển của lực lợng sản xuất. C.Mác đà chia

phân công xà hội làm bốn loại: "phân công chung, phân
công đặc thù, phân công theo lÃnh thổ và phân công cá


24
biệt" [16, tr.152]. Trong bốn nội dung đó của phân công lao
động thì ba loại đầu gắn với phân công lao động xà hội với
t cách là điều kiện cơ bản, cần thiết là cơ sở của sản xuất
và trao đổi hàng hóa.
Trong lịch sử phát triển của nền sản xuất xà hội thì
phân công lao động nói chung và phân công lao động xÃ
hội hình thành và phát triển từ thấp đến cao, nhìn chung,
theo sự vận động biện chøng cđa quy lt Quan hệ sản xuất phï
hỵp víi tính chất và trình độ của lực lợng sản xuất.
Phân công lao động nói chung và trong nông nghiệp,
nông thôn nói riêng là sự phân chia lao động và sản xuất xÃ
hội thành những ngành, nghề khác nhau để sản xuất ra
những hàng hóa khác nhau, nhằm đáp ứng nhu cầu của xÃ
hội. Theo C.Mác, "Phân công lao động, với t cách là toàn bộ
các hình thức hoạt động sản xuất đặc thù là các trạng thái
chung của lao động x· héi, xÐt vỊ mỈt vËt chÊt cđa nã, víi t
cách là lao động sáng tạo ra giá trị sử dụng" [19, tr.52]. Nói
một cách khác, phân công lao động xà hội là sự chuyên môn
hóa lao động và sản xt x· héi theo ngµnh, theo vïng l·nh
thỉ vµ sù hiệp tác, trao đổi lẫn nhau giữa các ngành, các
vùng chuyên môn đó.
Do phõn cụng lao ng xó hi dn đến chun mơn hóa, mỗi người chỉ
sản xuất một hoặc vài sản phẩm hay chi tiết của sản phẩm. Mặt khác, do sự
bất lực của con người về sức khỏe, thời gian, trình độ… nên khơng thể làm ra
được tất cả các sản phẩm để thỏa mãn nhu cầu ngày càng tăng lên của mình,

do đó tất yếu cần có sự trao đổi lẫn nhau giữa những người sản xuất, vì thế
sản phẩm mang hình thái là hàng hóa. Phân công lao động xã hội làm cho


25
những người sản xuất liên hệ và phụ thuộc vào nhau, nó là cơ sở của kinh tế
hàng hóa.
1.1.3.2. Sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế của các chủ thể sản
xuất nơng nghiệp hàng hóa
Theo C.Mác, nếu chỉ có phân cơng lao động xã hội thì sản phẩm
khơng thể trở thành hàng hóa được. Trong cơng xã Ấn Độ thời cổ đại đã có sự
phân cơng lao động giữa các thành viên trong công xã nhưng sản phẩm lao
động của họ làm ra khơng trở thành hàng hóa. Chỉ đến xã hội chiếm hữu nô lệ
và các chế độ xã hội tiếp theo, khi xuất hiện chế độ tư hữu và các hình thức sở
hữu khác nhau về tư liệu sản xuất thì sản phẩm mới mang hình thái hàng hóa.
Nghĩa là chỉ có sản phẩm của những người lao động tư nhân, hay tập thể…
độc lập với nhau mới đối diện với nhau như là những hàng hóa. Hay nói cách
khác, muốn cho những sản phẩm quan hệ với nhau như những hàng hóa thì
giữa những người sản xuất và trao đổi hàng hóa phải cơng nhận lẫn nhau như
những người chủ sở hữu.
Như vậy, sự tách biệt này do các quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu
sản xuất, mà khởi thủy là chế độ tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất, đã xác định
người sở hữu tư liệu sản xuất là người sở hữu sản phẩm lao động. Chính quan hệ
sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất đã làm cho những người sản xuất nông
nghiệp độc lập, đối lập với nhau (họ tự quyết định sản xuất cái gì, sản xuất như
thế nào và sản xuất cho ai), nhưng họ lại nằm trong hệ thống phân công lao động
xã hội nên họ phụ thuộc lẫn nhau về sản xuất và tiêu dùng. Trong điều kiện ấy,
người này muốn tiêu dùng sản phẩm của người khác phải thông qua sự mua bán hàng hóa, tức là phải trao đổi dưới những hình thái hàng hóa.
Ở đây, phân cơng lao động xã hội làm cho những người sản xuất nông
nghiệp phụ thuộc lẫn nhau, cịn tính độc lập tương đối về kinh tế lại chia rẽ

họ, làm cho họ độc lập với nhau. Đây là một mâu thuẫn. Nó chỉ được giải
quyết thơng qua trao đổi, mua bán dưới hình thái hàng hóa.


×