1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngành cơng nghiệp sản xuất than là ngành kinh tế đặc trưng nhất của
Quảng Ninh, chiếm 60% giá trị sản xuất công nghiệp và 30% số công nhân
lao động trên địa bàn tỉnh. Sản xuất than luôn là ngành nặng nhọc, độc hại so
với các ngành cơng nghiêp nặng khác. Trong q trình hoạt động, các doanh
nghiệp ngành than vẫn còn bộc lộ nhiều mặt hạn chế như: công nghệ lạc hậu,
quy mô nhỏ, hiệu quả kém năng lực cạnh tranh thấp, việc đảm bảo vệ sinh an
tồn lao động, mơi trường làm việc cho công nhân và môi trường sinh thái
chưa được tốt, sản xuất kinh doanh của một số doanh nghiệp cịn trì trệ, kéo
dài, đời sống, lợi ích của cơng nhân lao động đã được cải thiện nhiều nhưng
chưa tương xứng với cơng sức cống hiến. Vì vậy, vấn đề cải cách doanh
nghiệp Nhà nước (DNNN) được đặt ra cấp bách.
Cùng với tiến trình sắp xếp lại các DNNN trong cả nước, thời gian qua
các DNNN trong ngành than cũng được sắp xếp lại. Quyết định 563 ngày
10/10/1994/ của Thủ tướng Chính phủ thí điểm thành lập Tổng cơng ty Than
Việt Nam hoạt động theo mơ hình Tập đồn kinh tế; Quyết định 345 của Thủ
tướng Chính phủ ngày 26/12/2005, thành lập Tập đồn Than - Khống sản
Việt Nam (TKV), trên cơ sở Tổng cơng ty than Việt Nam, có sáp nhập thêm
Tổng Cơng ty Khống sản Việt Nam. Ngành than phát triển kinh doanh đa
ngành, nhưng sản xuất than ở Quảng Ninh là cơ bản. Trong q trình đó,
nhiều DNNN thuộc ngành than đã được cổ phần hóa(CPH).
Sau khi CPH, nhiều doanh nghiệp đã nâng cao được hiệu quả sản xuất
kinh doanh, nhưng việc giải quyết vấn đề lợi ích kinh tế của người lao động
vẫn còn nhiều tồn tại như các vấn đề tiền công, tiền thưởng chưa đáp ứng
được yêu cầu tái sản xuất sức lao động, bảo hộ và an tồn lao động chưa đảm
bảo, cịn xẩy ra nhiều vụ tai nạn lao động nghiêm trọng, giải quyết vấn đề nhà
ở, bệnh nghề nghiệp cho công nhân chưa thỏa đáng… cần được tiếp tục quan
2
tâm giải quyết một cách đúng đắn để trở thành động lực mạnh mẽ thúc đẩy sản
xuất kinh doanh phát triển và xây dựng ngành than trở thành ngành gương mẫu
cho các ngành kinh tế khác noi theo như Bác Hồ đã dạy.
Vì vậy đề tài “Lợi ích kinh tế của người lao động trong các doanh
nghiệp nhà nước sau cổ phần hóa ở ngành than Quảng Ninh” là cần thiết
cả về lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề lợi ích kinh tế đó được Đảng ta quan tâm từ Hội nghị Trung
ương 6 (IV) (9- 1979). Đến Đại hội VI, Đảng ta nhấn mạnh: Lợi ích của người
sản xuất kinh doanh là động lực trực tiếp đối với hoạt động kinh tế, và tạo cơ
sở cho việc đáp ứng các lợi ích khác ở nước ta. Từ năm 1980 đến nay đã có
nhiều cơng trình nghiên cứu viết về lợi ích kinh tế được công bố như:
- Bàn về các lợi ích kinh tế do Đào Duy Tùng chủ biên (1982), Nhà xuất
bản Sự thật, Hà Nội.
- Lợi ích, động lực phát triển xã hội do Nguyễn Linh Khiếu chủ biên
(1999), Nhà xuất bản khoa học xã hội, Hà Nội.
- Hệ thống các lợi ích kinh tế và cơ chế thực hiện các lợi ích kinh tế
trong nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam hiện nay”, Bùi Thu Hà (2000),
Luận án tiến sĩ, Trường Đại học kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh.
- Quan hệ lợi ích giữa người lao động và người sử dụng lao động trong
các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi tại Thành phố Hồ Chí Minh”,
Mai Đức Chính, Luận văn thạc sĩ, Học viện CTQG Hồ Chí Minh, 2005.
- Lợi ích kinh tế của người lao động, vai trị của cơng đồn với việc bảo
vệ lợi ích này trong các doanh nghiệp cơng nghiệp tư nhân”, Nguyễn Lợi,
Luận văn thạc sĩ, Học viện CTQG Hồ Chí Minh, 1995.
- Những vấn đề sau cổ phần hóa các DNNN trong ngành thương mại
của thành phố Đà Nẵng, Lê Thị Phúc, Luận văn thạc sĩ, Học viện CTQG Hồ
Chí Minh, 2006.
3
- Cổ phần hóa DNNN ở Việt Nam hiện nay, mấy vấn đề lý luận và thực
tiễn, Lê Hữu Nghĩa, Tạp chí Cộng sản, số 22/2004.
- “Cổ phần hóa DNNN kết quả, vướng mắc và giải pháp” Hồ Xuân
Hùng, Tạp chí Cộng sản, số 18/2004.
Ngồi ra cịn có một số cuộc hội thảo, hội nghị liên quan đến vấn đề
quan hệ lợi ích trong các doanh nghiệp.
Các cơng trình nghiên cứu nói trên đã đề cập đến vấn đề lợi ích, lợi ích
kinh tế, vai trò của lợi ích kinh tế… dưới nhiều góc độ khác nhau; đề cập đến
mục tiêu, kết quả, những thuận lợi, khó khăn của quá trình CPH DNNN… chưa
có cơng trình nào đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu về lợi ích kinh tế của người lao
động trong các DNNN sau CPH ở ngành than Quảng Ninh dưới góc độ kinh tế
chính trị. Do đó, việc nghiên cứu vấn đề này vẫn còn là một đề tài mới.
3. Đối tượng và phạm vi của luận văn
Luận văn tập trung nghiên cứu tình hình thực hiện lợi ích kinh tế của
người lao động trong các DNNN sau cổ phần hóa ở ngành than Quảng Ninh
trong q trình tiến hành sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước, nhất là từ khi
thực hiện Luật doanh nghiệp năm 2005 đến nay.
4. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
4.1. Mục đích: Phân tích, đánh giá tình hình, tìm ra những vấn đề tồn
tại và nguyên nhân trong việc đảm bảo lợi ích kinh tế của người lao động
trong các DNNN sau CPH ở ngành than Quảng Ninh. Từ đó đề xuất các quan
điểm và giải pháp nhằm góp phần giải quyết một cách hài hịa lợi ích kinh tế
của người lao động trong các DNNN sau CPH ở ngành than Quảng Ninh.
4.2. Nhiệm vụ: Để đạt được mục tiêu trên, luận văn thực hiện các
nhiệm vụ cơ bản sau:
- Hệ thống hóa, làm rõ thêm những vấn đề lý luận cơ bản về lợi ích kinh
tế nói chung, lợi ích kinh tế của người lao động trong các DNNN sau CPH ở
ngành than Quảng Ninh nói riêng.
4
- Hệ thống hóa các quy định của luật pháp và chính sách của Nhà nước
có liên quan đến lợi ích kinh tế của người lao động trong các DNNN nói
chung, lợi ích kinh tế của người lao động trong các DNNN sau CPH ở ngành
than Quảng Ninh nói riêng.
- Đi sâu tìm hiểu, phân tích thực trạng đảm bảo lợi ích kinh tế, tìm ra
những vấn đề tồn tại và nguyên nhân trong việc đảm bảo lợi ích kinh tế của
người lao động trong các DNNN sau CPH ở ngành than Quảng Ninh.
- Trên cơ sở những phân tích lý luận và thực tiễn, luận văn đề xuất các
quan điểm cơ bản, giải pháp chủ yếu nhằm đảm bảo lợi ích kinh tế của người
lao động trong các DNNN sau CPH ở ngành than Quảng Ninh.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp phổ biến của khoa học kinh tế là
phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp trừu tượng hố khoa học,
lơgic kết hợp với lịch sử, phân tích với tổng hợp. Đồng thời kế thừa cú chọn lọc
kết quả nghiên cứu của các cơng trình nghiên cứu đã được công bố trước đây, kết
hợp với khảo sát thực tế, thu thập thông tin, tài liệu phục vụ cho việc nghiên cứu
làm sáng tỏ chủ đề và thực hiện được mục tiêu nhiệm vụ của luận văn.
6. Những đóng góp của luận văn
- Hệ thống hóa, làm rõ thêm những vấn đề lý luận cơ bản về lợi ích kinh
tế nói chung, lợi ích kinh tế của người lao động trong các DNNN sau CPH ở
ngành than Quảng Ninh nói riêng.
- Đánh giá thực trạng việc đảm bảo lợi ích kinh tế của người lao động
trong các DNNN sau CPH ở ngành than Quảng Ninh, trên cơ sở đó đề xuất
giải pháp nhằm giải quyết một cách hài hịa lợi ích kinh tế của người lao động,
tạo động lực thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh của các DNNN sau CPH
ở ngành than Quảng Ninh.
- Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong q trình hoạch
định chính sách kinh tế xã hội nhằm điều chỉnh các quan hệ lợi ích kinh tế trên
5
địa bàn tỉnh Quảng Ninh, tham khảo cho việc soạn thảo các văn bản pháp lý
đối với việc đảm bảo lợi ích cho người lao động.
- Giúp cho các doanh nghiệp ở tỉnh Quảng Ninh nhận thức sâu sắc hơn vai
trị của lợi ích kinh tế đối với người lao động trong hoạt động sản xuất kinh doanh
(SXKD) của doanh nghiệp. Từ đó có những cơ chế, quy định phù hợp, tạo động
lực phát triển sản xuất kinh doanh.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn được kết cấu thành 3 chương, 9 tiết.
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ LỢI ÍCH KINH TẾ CỦA NGƯỜI LAO
ĐỘNG TRONG CÁC DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC SAU CỔ PHẦN HÓA
Chương 2: TÌNH HÌNH THỰC HIỆN LỢI ÍCH KINH TẾ CỦA NGƯỜI
LAO ĐỘNG TRONG CÁC DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC SAU CỔ PHẦN HÓA Ở
NGÀNH THAN QUẢNG NINH
Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NHẰM ĐẢM BẢO LỢI ÍCH
KINH TẾ CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG CÁC DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC
SAU CỔ PHẦN HÓA Ở NGÀNH THAN QUẢNG NINH
6
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ LỢI ÍCH KINH TẾ CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG
TRONG CÁC DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC SAU CỔ PHẦN HÓA
1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ LỢI ÍCH KINH TẾ
1.1.1. Bản chất, đặc trưng của lợi ích kinh tế
1.1.1.1. Bản chất của lợi ích kinh tế
Vấn đề lợi ích kinh tế là một vấn đề phức tạp, đã được nhiều nhà khoa
học ngoài nước và trong nước nghiên cứu.
Các nhà kinh tế học cổ điển Anh cho rằng, lợi ích kinh tế tư nhân là động
lực đầu tiên của sự phát triển xã hội, trong hoạt động kinh tế, sự theo đuổi lợi
ích tư nhân là nguồn gốc, nguyên nhân làm tăng của cải trong xã hội.
Theo A.Smít (1723-1790), trong q trình hoạt động kinh tế, mỗi người
đều theo đuổi lợi ích kinh tế tư nhân, đều nỗ lực cải thiện hồn cảnh của
mình, như thế tất yếu sẽ dẫn đến làm tăng của cải của xã hội. Nhưng xuất phát
từ tính vị kỷ của con người, lợi ích của cá nhân này bị hạn chế bởi lợi ích của
cá nhân khác và trong q trình thực hiện lợi ích kinh tế, tất cả các chủ thể
đều có mối quan hệ với nhau. “Anh cho tơi thứ mà tơi thích, anh sẽ có thứ mà
anh u cầu” [1, tr.65]. Theo A.Smít, đó chính là tồn bộ ý nghĩa của quan hệ
kinh tế và cũng chính bằng cách này mà người ta nhận được phần lớn các dịch
vụ cần thiết. Như vậy, lần đầu tiên A.Smít nghiên cứu các lợi ích kinh tế trong
mối quan hệ lẫn nhau giữa chúng. A.Smít cho rằng, bất cứ lợi ích nào cũng
chỉ được đáp ứng trong trường hợp nó khơng mâu thuẫn với tăng năng suất
của tư bản. Tiền lương cao khơng mâu thuẫn với lợi ích xã hội, vì theo mức
tăng tiền lương thì năng suất lao động cũng sẽ được tăng lên. Mặt tích cực
trong lý luận lợi ích của A.Smít là ở chỗ, lợi ích kinh tế được coi là động lực
cơ bản của sự phát triển sản xuất xã hội. Ông thừa nhận yếu tố khách quan
trong nội dung của lợi ích kinh tế với tư cách là đầu mối trong hoạt động kinh
tế của con người.
7
Trong quan điểm kinh tế của D.Ricardo (1772-1823), lợi ích kinh tế
của các giai cấp khác nhau được xây dựng trên cơ sở lý luận về giá trị. Ông
coi tiền lương và lợi nhuận chỉ là hai bộ phận của giá trị và cùng có một
nguồn gốc là lao động. Cho nên việc tăng hay giảm tiền lương sẽ không ảnh
hưởng đến giá cả của hàng hoá, mà chỉ ảnh hưởng đến việc phân phối giá
trị đã được tạo ra giữa cơng nhân và nhà tư bản, và do đó chỉ ảnh hưởng
đến lợi ích của họ về mặt số lượng. Nói cách khác, trong số giá trị mới
được tạo ra, phần của cơng nhân nhỏ hơn, cịn phần của những người đi
th cơng nhân thì lớn hơn. Ricardo coi điều đó là là do kết quả của các
quy luật tự nhiên trong sự phát triển xã hội, là phù hợp với các nguyên tắc
của kinh tế chính trị [9, tr.10]
Đến giữa thế kỷ XIX, C.Mác (1818-1883) và Ph.Ăngghen (1820-1895)
là những người đã đưa ra phương pháp mới về nguyên tắc trong việc nghiên
cứu lợi ích kinh tế. Hai ơng đã tìm ra điều kiện của lợi ích là các quan hệ kinh
tế, những quan hệ này phù hợp hoặc ít hoặc nhiều với một trình độ nhất định
của lực lượng sản xuất hiện có. Khi nhấn mạnh ý nghĩa xã hội và tính chất bao
quát chung của phạm trù lợi ích, C.Mác đã hình thành nên quan điểm cho
rằng, tất cả những gì con người đấu tranh vì nó, đều gắn với lợi ích của con
người và, khơng chỉ những cá nhân riêng lẻ, mà còn cả các giai cấp khác
nhau, cả xã hội nói chung, trong hoạt động thực tiễn của mình đều bị chi phối
bởi các lợi ích, trong đó lợi ích kinh tế giữ vai trị quyết định. Chủ nghĩa Mác
cho rằng, lợi ích kinh tế không chỉ là biểu hiện cụ thể của quan hệ sản xuất,
mà còn là “nguyên tắc cơ bản chi phối hoạt động của con người” [32, tr.346].
V.I.Lênin (1870-1924) tiếp tục nghiên cứu về lợi ích kinh tế và nhiều
lần chứng minh vai trị to lớn của lợi ích kinh tế trong sự phát triển xã hội. Khi
xem xét lợi ích kinh tế như là nhân tố quan trọng nhất quyết định sự phát triển
sản xuất xã hội, Lênin đã nhấn mạnh mệnh đề của Hêghen: “Lợi ích thúc đẩy
cuộc sống các dân tộc” [23, tr. 82]
8
Các nhà kinh tế học Nga cho rằng:
Lợi ích kinh tế là mối quan hệ khách quan của xã hội hay
của một con người riêng lẻ đối với điều kiện sống của xã hội và
đối với các nhu cầu hiện có của mình, là mối quan hệ kích thích,
tác động đến tập thể hay cá nhân mỗi người nhằm bảo đảm điều
kiện thuận lợi cho đời sống và sự phát triển của cá nhân hay tập
thể, đấu tranh với những điều kiện cản trở sự tồn tại và phát triển
của họ [17, tr.127].
Ở Việt Nam, rất nhiều nhà nghiên cứu khoa học đã quan tâm đến vấn đề
lợi ích kinh tế. Tác giả Đỗ Thế Tùng đưa ra quan niệm:
Lợi ích kinh tế là cái biểu hiện những động cơ, mục đích,
những nhân tố kích thích khách quan thúc đẩy hoạt động lao động
của con người. Lợi ích thỏa mãn kinh tế gắn chặt với nhu cầu kinh
tế, vì có nhu cầu mới có lợi ích. Nhưng sẽ là khơng đóng nếu đồng
nhất nhu cầu với lợi ích kinh tế... Lợi ích kinh tế khơng phải là nhu
cầu nói chung (như nhu cầu về ăn, mặc, ở...) mà là việc thỏa mãn
nhu cầu một cách tốt nhất, bao gồm cả nội dung của nhu cầu và
phương thức thỏa mãn nhu cầu... Theo chúng tơi, lợi ích kinh tế là
một phạm phù kinh tế khách quan, nó phát sinh và tồn tại trên cơ sở
một quan hệ sản xuất nhất định, khơng tùy thuộc vào ý muốn con
người. Vì vậy, về bản chất phải khẳng định, lợi ích kinh tế là tồn tại
khách quan [38, tr. 94-96].
Tác giả Vũ Hữu Ngoạn phân tích quan hệ giữa nhu cầu và lợi ích như sau:
Điều cần nhấn mạnh là không phải bản thân nhu cầu là lợi ích
kinh tế, mà nhu cầu khi được xác định về mặt xã hội mới trở thành
lợi ích kinh tế. Lợi ích kinh tế là một phạm trù kinh tế khách quan, là
hình thức biểu hiện trước hết các quan hệ sản xuất, nó khơng phụ
thuộc vào ý chí, lịng ham muốn của con người [36, tr.61-62 ]
9
Trong cuốn “Về sự kết hợp các lợi ích kinh tế” của đồng tác giả Vũ
Hữu Ngoạn và Khổng Doãn Hợi, có viết:
Nhu cầu hiện thực là nội dung của lợi ích, hoặc nói lợi ích có
tính vật chất. Cần nhấn mạnh rằng, không phải mọi nhu cầu tự nhiên
đều là lợi ích kinh tế, mà những nhu cầu được xác định về mặt xã
hội mới trở thành lợi ích kinh tế. Lợi ích kinh tế có bản chất xã hội,
nó mang quan hệ giữa người và người trong việc thỏa mãn nhu cầu
ở những giai đoạn lịch sử nhất định [37, tr.25-27].
Tác giả Lê Hữu Tầng, lập luận một cách chặt chẽ về nhu cầu và lợi ích
trong cuốn “Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam - Vấn đề nguồn gốc và
động lực”, theo ông:
Nhu cầu nảy sinh do kết quả tác động qua lại của hoàn cảnh bên
ngoài với trạng thái riêng của từng chủ thể, trong đã hồn cảnh bên
ngồi đãng vai trị quan trọng trong phần lớn các trường hợp và quyết
định...Phương tiện thỏa mãn nhu cầu ấy, đối với chủ thể hành động
chính là lợi ích. Vì vậy, lợi ích gắn bó hết sức chặt chẽ với nhu cầu...
Lợi ích theo tơi, là cái đáp ứng lại nhu cầu và vì lẽ đã mà nó chỉ có
nghĩa là lợi ích khi được đặt trong mối quan hệ với nhu cầu... Nhu cầu
quyết định cái đối với chủ thể là lợi ích, do đó nó là cơ sở của lợi ích,
cịn lợi ích ngược lại, xuất phát từ nhu cầu, dựa trên nhu cầu, là sự thể
hiện của nhu cầu [48, tr.40-41].
Từ những quan niệm khác nhau của các nhà nghiên cứu tiếp cận vấn đề
lợi ích kinh tế từ nhiều góc độ, tác giả luận văn này rút ra nhận thức cơ bản về
lợi ích kinh tế, đặt lợi ích kinh tế trong mối quan hệ biện chứng với nhu cầu,
và hiểu lợi ích kinh tế là một phạm trù kinh tế khách quan, được quy định bởi
hệ thống các quan hệ kinh tế nhất định và biểu hiện mối quan hệ lẫn nhau giữa
sản xuất vật chất và nhu cầu vật chất. Lợi ích kinh tế, trong ý nghĩa khách quan
của nó, là những khoản thu nhập được ấn định bởi các quan hệ kinh tế nhằm
đảm bảo cho các chủ thể kinh tế tồn tại, hoạt động và phát triển.
10
Khi khơng thực hiện được lợi ích kinh tế, nghĩa là không nhận được
những những khoản thu nhập nhất định, chủ thể kinh tế không thể tồn tại và phát
triển như là đại biểu độc lập của các quan hệ kinh tế. Như vậy, quan hệ kinh tế
quyết định lợi ích kinh tế thơng qua vai trị, vị trí của các chủ thể lợi ích trong
một hệ thống các quan hệ sản xuất nhất định. Trong đó, người nào nắm giữ phần
lớn tư liệu sản xuất trong tay sẽ có quyền quyết định phân phối của cải vật chất
xã hội. Lợi ích kinh tế thỏa mãn nhu cầu con người, nuôi dưỡng động lực sáng
tạo thúc đẩy xã hội phát triển, vì thế lợi ích kinh tế liên kết người lao động với
nhau, đòi hỏi các điều kiện đảm bảo lợi ích kinh tế của người lao động.
Lợi ích kinh tế không được nhận thức ngay sau khi xuất hiện, mà trước
hết chúng biểu hiện mối quan hệ có tính quy luật giữa sản xuất vật chất và
nhu cầu vật chất của con người. Trong việc hình thành lợi ích, vai trò quyết
định thuộc về sản xuất vật chất, quá trình sản xuất này, đến lượt mình lại được
phát triển dưới tác động của nhu cầu của con người. Đồng thời chính sản xuất
có tác động ngược trở lại đến quá trình hình thành nhu cầu của xã hội. Khi là
tiền đề cho hoạt động của con người, nhu cầu đồng thời là sản phẩm của hoạt
động đó và khi xuất hiện trên cơ sở sản xuất xã hội, nhu cầu đến lượt mình lại
có thể tác động đến sản xuất vật chất, nhưng không phải là trực tiếp, mà là
gián tiếp thơng qua tổng hồ các lợi ích kinh tế.
Mối quan hệ giữa các phạm trù trên có thể được biểu hiện như sau:
SẢN XUẤT – LỢI ÍCH – NHU CẦU – LỢI ÍCH – SẢN XUẤT.
Vì lợi ích kinh tế là khách quan và được quy định trực tiếp bởi phương
thức sản xuất và hệ thống các quan hệ sản xuất, cho nên chúng được thể hiện
ở tất cả các khâu của quá trình sản xuất xã hội: sản xuất, phân phối, trao đổi
và tiêu dùng. Trong nền kinh tế thị trường, hình thành nên một hệ thống các
lợi ích kinh tế với cơ cấu phức tạp, đa dạng trong khơng gian và thời gian, bao
gồm lợi ích kinh tế của xã hội, lợi ích kinh tế của người sản xuất kinh doanh
(doanh nghiệp, doanh nhân), lợi ích của những người tham gia vào quá trình
trao đổi kết quả sản xuất kinh doanh, lợi ích kinh tế tập thể, lợi ích kinh tế của
11
người lao động và lợi ích hinh tế của người tiêu dùng, lợi ích kinh tế của cộng
đồng…Việc xác định chủ thể của các lợi ích là một vấn đề quan trọng và cần
thiết cả về phương diện phương pháp luận và cả về mặt thực tiễn trong quá
trình nghiên cứu lợi ích kinh tế.
1.1.1.2. Đặc trưng của lợi ích kinh tế
Lợi ích có nhiều loại khác nhau, nhưng lợi ích chính trị, lợi ích kinh tế
là cơ bản, có quan hệ chi phối lẫn nhau, trong phạm vi nghiên cứu của đề tài,
tác giả đề cập đến đặc trưng của lợi ích kinh tế.
Lợi ích kinh tế là hình thức biểu hiện của quan hệ kinh tế, trước hết lợi
ích kinh tế là cái có ích, có lợi về mặt kinh tế, lợi ích kinh tế ln gắn với nhu
cầu kinh tế, được thể hiện một cách khách quan trong q trình hoạt động kinh
tế, nó phát sinh trên cơ sở một quan hệ sản xuất nhất định không phụ thuộc
vào ý muốn của con người.
Từ thời cổ đại, Hàn Phi nhà triết học Trung Quốc đã quan niệm lợi ích
vật chất là cơ sở của các mối quan hệ xã hội và chi phối hành vi con người,
theo ông, trong xã hội những điều thiện ác, hỗn loạn, chiến tranh cũng đều do
lợi ích vật chất gây nên.
Đến thời kỳ chủ nghĩa tư bản phát triển, trên cơ sở nghiên cứu lợi ích
kinh tế, C.Mác phát hiện thấy vai trị của nó trong q trình sản xuất xã hội,
ơng đã chỉ ra mâu thuẫn khơng thể điều hịa giữa lợi ích của người lao động
với lợi ích của nhà tư bản, đã cũng là nguyên nhân cốt lõi của cuộc đấu tranh
giai cấp giữa vô sản và tư sản.
Các nhà nghiên cứu kinh tế coi lợi ích kinh tế là một phạm trù kinh tế
của quan hệ sản xuất được phản ánh trong ý thức thành động cơ thúc đẩy hoạt
động sản xuất kinh doanh nhằm thỏa mãn tốt nhất nhu cầu vật chất của người
tham gia hoạt động sản xuất. Lợi ích kinh tế là một phạm trù kinh tế khách
quan, là hình thức biểu hiện của các quan hệ kinh tế, vì thế lợi ích kinh tế cịn
là phạm trù của kinh tế chính trị học.
12
Trước hết, lợi ích kinh tế ln gắn với nhu cầu kinh tế, nhưng nhu cầu
kinh tế phụ thuộc vào tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, vào tính chất
và đặc điểm quan hệ sản xuất xã hội, và những điều kiện lịch sử cụ thể nhất
định. Trong điều kiện ấy, nhu cầu kinh tế trở thành lợi ích thiết thân của con
người, tạo động lực thúc đẩy con người sáng tạo trong mọi hoạt động.
Như vậy, có thể rút ra một số nhận thức sau:
Một là, tính chất và đặc điểm của lợi ích kinh tế phụ thuộc vào tính chất
và đặc điểm của quan hệ sản xuất. Trong điều kiện có mâu thuẫn về lợi ích
kinh tế tất có đối kháng về quyền lợi chính trị.
Hai là, mức lợi ích kinh tế cịn phụ thuộc vào tính chất và trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất, vì đây là nhân tố quy định quan hệ kinh tế, chi
phối việc phân chia lợi ích kinh tế. Xét đến cùng, quyền lợi kinh tế không thể
cao hơn kết quả kinh tế do lực lượng sản xuất đem lại.
Lợi ích kinh tế mang tính giai cấp và tính lịch sử. Nhu cầu của con
người khơng ngừng nảy sinh và địi hỏi thỏa mãn, vì vậy con người khơng
ngừng sáng tạo, tìm kiếm phương thức, cách thức để thỏa mãn nhu cầu. Nhu
cầu càng lớn thì lợi ích của chủ thể càng cao, thúc đẩy con người hành động.
Do đó, lợi ích là nhân tố kích thích, tác động vào hiệu quả hoạt động của con
người, suy cho cùng, tất cả những gì con người đấu tranh giành lấy đều gắn
với lợi ích của họ. Do vậy, lợi ích mang tính giai cấp và lịch sử đậm nét.
Quá trình phát triển của lịch sử cho thấy, tính giai cấp của lợi ích kinh tế
hình thành trong điều kiện xã hội phân chia giai cấp, thể hiện mối quan hệ
giữa người lao động và người sử dụng lao động, cụ thể là giai cấp thống trị
trong xã hội. Mối quan hệ ràng buộc lợi ích kinh tế giữa người lao động và
người sử dụng lao động hình thành một cách tự nhiên trong quá trình hoạt
động sản xuất xã hội. Ban đầu là sự thỏa thuận giữa hai bên, nhưng q trình
phân chia lợi ích thường nảy sinh mâu thuẫn, có khi dẫn đến đối kháng, thể
hiện bằng cuộc đấu tranh giai cấp, dẫn đến thay đổi chế độ xã hội. Như vậy,
mâu thuẫn về lợi ích kinh tế chính là nguyên nhân cuối cùng của các cuộc
13
cách mạng xã hội, xét đến cùng đấu tranh giai cấp nhằm đi đến giải phóng sức
phát triển của lực lượng sản xuất khỏi sự ràng buộc của quan hệ sản xuất cũ,
thúc đẩy sự phát triển.
Nhu cầu của con người đa dạng, phong phú và không ngừng nảy sinh,
xã hội càng phát triển, nhu cầu đòi hỏi càng cao, nhưng chỉ có nhu cầu nào
năng lực sản xuất có khả năng đáp ứng mới trở thành hiện thực, đã chính là lợi
ích kinh tế trong hoạt động sản xuất.
Mặc dù người lao động và người sử dụng lao động có quan hệ ràng
buộc về lợi ích kinh tế, nhưng cũng ln mâu thuẫn về phân chia lợi ích, mà
hình thức biểu hiện là tiền công và phúc lợi xã hội. Về nguyên tắc, lợi ích mà
người lao động hưởng thụ không được vượt quá năng suất lao động mà họ tạo
ra, nên việc định lượng phân chia lợi ích giữa các giai cấp, tầng lớp trong xã
hội là nguyên nhân của cuộc đấu tranh quyết liệt trong lịch sử. Như vậy, lợi
ích kinh tế trở thành động lực phát triển xã hội, nó mang tính lịch sử bởi sau
cuộc cách mạng xã hội là đảo lộn vị trí giai cấp trong xã hội, mà cốt lõi là lợi
ích kinh tế của giai cấp ấy.
1.1.1.3. Hệ thống các chủ thể kinh tế và các lợi ích kinh tế trong nền
kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện nay
Nước ta đang trong giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ, sự tồn tại của các
thành phần kinh tế là một tất yếu khách quan, có thành phần kinh tế mang tính
chất xã hội chủ nghĩa (XHCN), có thành phần kinh tế phi XHCN, chúng tác
động lẫn nhau, như vậy sẽ có sự đan chéo các loại lợi ích kinh tế khác nhau.
Chủ thể Nhà nước và lợi ích kinh tế của nhà nước (xã hội). Đây là
thành phần kinh tế giữ vai trò chủ đạo, phản ánh bản chất nền kinh tế có định
hướng XHCN ở nước ta, nhưng trong thời kỳ quá độ, thành phần kinh tế Nhà
nước chưa thể giành thắng lợi hoàn toàn. Trong khi các thành phần kinh tế dựa
trên chế độ tư hữu đang tồn tại nhưng khơng cịn ngun vẹn, đây là đặc điểm
mang tính đặc thù thể hiện bằng sự đan xen các lợi ích kinh tế, là cơ sở để
14
Đảng và Nhà nước xây dựng chủ trương, đường lối chính sách kinh tế phù
hợp với hồn cảnh cụ thể của đất nước.
Mỗi thành phần kinh tế đều có lợi ích cơ bản, giữa các lợi ích kinh tế có
mối quan hệ với nhau, có sự kết hợp và có sự đối kháng. Lợi ích kinh tế của
Nhà nước được hình thành từ các khoản đãng góp thu nhập của các đơn vị
kinh tế và người dân thuộc các thành phần kinh tế vào ngân sách Nhà nước.
Nhà nước XHCN mang tính chất giai cấp cơng nhân, như vậy lợi ích của giai
cấp công nhân đại biểu cho lợi ích toàn xã hội. Nhân dân lao động làm chủ xã
hội bằng Nhà nước, thơng qua Nhà nước, vì thế lợi ích Nhà nước thống nhất
căn bản với lợi ích toàn xã hội, có mặt ở tất cả các thành phần kinh tế, đồng
thời Nhà nước là người quyết định tổ chức việc kết hợp các lợi ích kinh tế
trong thời kỳ quá độ. Nếu lợi ích kinh tế của các thành phần kinh tế bị xâm
phạm thì sẽ gây tổn thất lớn cho sản xuất và đời sống xã hội, làm cho thời kỳ
quá độ kéo dài thêm.
Trong các đơn vị kinh tế thuộc các thành phần kinh tế khác nhau, ngồi
việc đóng góp để đảm bảo lợi ích kinh tế của Nhà nước (xã hội), còn:
+ Trong các đơn vị kinh tế nhà nước cịn có lợi ích kinh tế của tập thể
có các chủ thể và lợi ích kinh tế theo đặc thù riêng của mình: doanh nghiệp
nhà nước, lợi ích kinh tế cá nhân của người lao động trong DNNN. Đây là
quan hệ lợi ích kinh tế nóng hổi nhất trong thời kỳ quá độ, nếu các chủ trương,
biện pháp kết hợp các lợi ích kinh tế diễn ra khơng hợp lý thì sản xuất vẫn
chậm phát triển, đời sống người lao động vẫn khó khăn.
+ Trong các đơn vị kinh tế tập thể có lợi ích kinh tế của tập thể (hợp tác
xã) và lợi ích kinh tế cá nhân của người lao động (xã viên). Đây là vấn đề
quan trọng hàng đầu trong giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ ở một nước nông
nghiệp lạc hậu. Việc sử dụng những biện pháp, cách thức thực hiện sự kết hợp
lợi ích kinh tế giữa tập thể và người lao động tác động mạnh mẽ và trực tiếp
tới sản xuất.
15
+ Trong các đơn vị kinh tế tư nhân có lợi ích kinh tế của chủ doanh
nghiệp và lợi ích kinh tế của người lao động làm thuê. Trước hết đối với thành
phần kinh tế tư bản tư nhân, phải tính tốn đầy đủ lợi ích của nhà tư bản, cơng
nhân và những tác động tới lợi ích kinh tế Nhà nước. Nếu là một đơn vị kinh
tế tư nhân mà lợi ích của Nhà nước bị xâm hại, đời sống công nhân cực khổ,
nghĩa là không đảm bảo các lợi ích kinh tế, thì sự tồn tại của đơn vị kinh tế ấy
khơng có lợi gì. Ngược lại, nếu lợi ích của chủ đơn vị kinh tế khơng được đảm
bảo sẽ gây hậu quả nặng nề cho Nhà nước và người lao động, thậm chí sẽ
chống đối lại chủ trương của Nhà nước.
Suy cho cùng thì ba loại lợi ích: lợi ích kinh tế xã hội, lợi ích kinh tế tập
thể, lợi ích kinh tế cá nhân (chủ doanh nghiệp tư nhân, người quản lý DNNN,
người lao động, người sản xuất kinh doanh cá thể …) là khái quát nhất, phản
ánh sự tồn tại các thành phần kinh tế khác nhau của thời kỳ quá độ. Các loại
lợi ích kinh tế có tác động qua lại với nhau, điều này địi hỏi Nhà nước phải có
cơ chế kết hợp hài hịa các lợi ích kinh tế, đồng thời kích thích lợi ích kinh tế
cá nhân người lao động, làm cho nó trở thành động lực trực tiếp trong q
trình lao động sản xuất.
1.2. NỘI DUNG VÀ HÌNH THỨC BIỂU HIỆN LỢI ÍCH KINH TẾ CỦA NGƯỜI
LAO ĐỘNG TRONG CÁC DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC SAU CỔ PHẦN HOÁ
1.2.1. Thu nhập bằng tiền của người lao động trong các doanh
nghiệp Nhà nước sau cổ phần hoá
1.2.1.1. Thu nhập của người lao động được thực hiện trực tiếp dưới
hình thức tiền lương và tiền thưởng
Thu nhập là toàn bộ những khoản tiền mà người lao động nhận được từ
doanh nghiệp bao gồm tiền lương, tiền thưởng, tiền làm thêm giờ, các loại phụ
cấp hay được hưởng một phần lợi nhuận của doanh nghiệp.
Tiền lương, tiền công là phần cơ bản nhất trong thu nhập của người lao
động, đảm bảo cho họ và gia đình trang trải các chi tiêu, sinh hoạt, dịch vụ cần
thiết. Trong các DNNN sau CPH, tiền lương, tiền cơng cũng được hình thành
16
trên cơ sở áp dụng mức lương tối thiểu do Nhà nước quy định đồng thời căn
cứ vào kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Cơ sở lý luận của việc quy định tiền lương tối thiểu là học thuyết của
C.Mác về giá trị hàng hóa sức lao động trong kinh tế thị trường.
C.Mác viết:
Giá trị của sức lao động, cũng như của mọi hàng hoá khác,
được quyết định bởi số thời gian lao động cần thiết để tái sản xuất
ra thứ sản phẩm đặc biệt ấy. Vì sức lao động là một giá trị, cho
nên bản thân nó chỉ đại biểu cho một lượng lao động xã hội trung
bình nhất định đã vật hố... Muốn duy trì cuộc sống của bản thân
mình, một con người sống cần có một số lượng tư liệu sinh hoạt
nhất định. Như vậy, thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất
ra sức lao động sẽ quy thành thời gian lao động xã hội cần thiết để
sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt ấy, hay nói cách khác, giá trị
sức lao động là giá trị của những tư liệu sinh hoạt cần thiết để duy
trì của con người có sức lao động ấy [33, tr.255].
Hơn nữa những tư liệu sinh hoạt (TLSH) ấy còn gồm cả những TLSH
cần thiết cho con cái cơng nhân và cả những chi phí đào tạo “cũng gia nhập vào
tổng số những giá trị được chi phí để sản xuất ra sức lao động” [33, tr.256]. ở
đây, Mác còn nhấn mạnh rằng, những TLSH cần thiết cho công nhân bao gồm
các những TLSH cần thiết đảm bảo cả nhu cầu vật chất và tinh thần và phụ thuộc
vào những điều kiện, hoàn cảnh lịch sử nhất định, do đó việc quy định giá trị của
sức lao động bao hàm một yếu tố lịch sử và tinh thần.
Như vậy có thể hiểu, lương tối thiểu là mức lương đảm bảo cuộc sống
cho người lao động ở mức thấp nhất, không chỉ để tái sản xuất giản đơn sức
lao động mà cịn phải đảm bảo ni dưỡng con cái của họ ở mức tối cần thiết.
Ở nước ta, lương tối thiểu được quy định căn cứ vào Bộ Luật lao động và
bằng các Nghị định của Chính phủ, có phân biệt tiền lương tối thiểu ở các
doanh nghiệp trong nước và lương tối thiểu ở các doanh nghiệp có vốn đầu tư
17
nước ngoài và theo các vùng khác nhau, đồng thời thường được điều chỉnh
theo lộ trình phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội ở mỗi thời kỳ.
Hiện nay, ở nước ta, Bộ Luật lao động (2005) đã quy định rõ tiền lương
trong chương VI gồm 13 điều, quy định về tiền lương cho người lao động. Tại
điều 55 đã quy định tiền lương của người lao động không được thấp hơn mức
tối thiểu do Nhà nước quy định. Tại điều 66 Bộ Luật lao động quy định mức
lương tối thiểu:
Mức lương tối thiểu được ấn định theo giá sinh hoạt, bảo đảm
cho người lao động làm việc giản đơn nhất trong điều kiện lao động
bình thường bù đắp sức lao động giản đơn và một phần tích lũy, tái
sản xuất sức lao động mở rộng và được dùng làm căn cứ để tính các
mức lương cho các loại lao động khác [42, tr.37].
Trên cơ sở mức lương tối thiểu, các doanh nghiệp xác định mức lương
thấp nhất trả cho người lao động đã qua học nghề, kể cả lao động do doanh
nghiệp tự dạy nghề, phải cao hơn ít nhất 7% so với mức lương tối thiểu vùng
đã được quy định. Đồng thời Chính phủ cũng khuyến khích các doanh nghiệp
thực hiện mức lương tối thiểu cao hơn mức được quy định.
Đối với DNNN, áp dụng mức thấp nhất bằng tiền lương tối thiểu chung
và cao nhất bằng 3 lần mức lương tối thiểu chung, theo Nghị định 94/ 2006/
NĐ-CP ngày 07/09/2006 của Chính phủ.
Tiền lương là động lực trực tiếp tác động mạnh mẽ, là điều mà người
lao động quan tâm đầu tiên khi thoả thuận hợp đồng làm việc. Người lao động
sẽ thấy phấn khởi, thoả mãn khi sức lao động của họ bỏ ra được thù lao xứng
đáng, kích thích họ tìm tịi sáng tạo để không ngừng nâng cao năng suất lao
động, không ngừng cống hiến để tăng thu nhập, nâng cao đời sống của bản
thân và gia đình.
Cùng với quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường, thì sức lao động
của người lao động trong các DNNN sau CPH cũng được thừa nhận là hàng
hóa. Việc mua bán sức lao động đó được thực hiện thơng qua hợp đồng lao
18
động giữa người lao động và chủ doanh nghiệp sử dụng sức lao động trên cơ
sở pháp luật hiện hành. Một khi sức lao động đã trở thành hàng hóa, thì tiền
lương chẳng qua là hình thức biểu hiện bằng tiền của giá trị hay giá cả sức lao
động của người lao động.
Để cho người lao động thật sự yên tâm, từ đó hăng say và sẵn sàng
mang hết sức sáng tạo của mình trong hoạt động sản xuất kinh doanh, địi hỏi
các doanh nghiệp phải trả cơng cho họ đầy đủ, kịp thời, phù hợp với sức lao
động của họ đã hao phí trong q trình sản xuất. Có như vậy mới đảm bảo tái
sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng sức lao động của họ được.
Mức lương cụ thể của người lao động được hưởng phụ thuộc vào trình
độ chun mơn nghiệp vụ, tay nghề và mức độ phức tạp của cơng việc mà
người đó đang đảm nhận, phụ thuộc vào độ dài ngày lao động và cường độ lao
động... Trong thời đại cách mạng khoa học và công nghệ đang phát triển mạnh
mẽ như hiện nay, những lao động có trình độ chun mơn, tay nghề cao sẽ có
nhiều cơ hội có được việc làm với mức thu nhập cao và ngược lại, những lao
động giản đơn với tay nghề thấp sẽ khó có thể có được thu nhập cao như
mong muốn.
Để đảm bảo công bằng trong trả lương cho người lao động, người sử
dụng lao động phải xây dựng thang, bảng lương và định mức lao động. Số bậc
của thang bảng lương phụ thuộc vào mức độ phức tạp, cấp bậc công việc và
quản lý. Định mức lao động được xây dựng trên cơ sở cấp bậc công việc và
phù hợp với cấp bậc công nhân. Mức lao động quy định là mức lao động trung
bình tiên tiến, đảm bảo số đơng người lao động thực hiện được mà không phải
kéo dài thời gian làm việc tiêu chuẩn.
Tiền lương là giá cả của sức lao động, cho nên nó cũng bị tác động của
quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh. Điều đó đôi khi cũng gây nên những
biến động trong thu nhập của người lao động. Nó có thể lên xuống theo lượng
cung và lượng cầu về lao động. Một mặt, các chủ doanh nghiệp đã lợi dụng
tình hình cung lớn hơn cầu về lao động mà trả tiền công dưới giá trị sức lao
19
động. Điều đó dễ dẫn đến người lao động đình cơng, địi tăng lương, dẫn đến
xung đột xã hội và tác động tiêu cực đến quá trình sản xuất. Mặt khác, nếu
cung nhỏ hơn cầu về lao động thì người lao động dễ gây áp lực địi tiền cơng
cao hơn giá trị sức lao động, điều này sẽ tăng chi phí sản xuất, gây bất lợi cho
chủ doanh nghiệp.
Về bản chất, tiền lương trong các DNNN sau CPH tuy là giá cả sức lao
động, chịu sự tác động của quy luật cung cầu nhưng khơng vì thế mà người
lao động đã bị Nhà nước “bóc lột”. Theo cách nói của Mác, người lao động ở
đây đã “khai thác” lao động của chính mình chứ khơng phải ai khác. Hình
thức “làm thuê” của người lao động cho Nhà nước ở đây không phản ánh quan
hệ giữa các giai cấp khác nhau mà là quan hệ giữa cá nhân người lao động với xã
hội của mình. Lợi nhuận của doanh nghiệp khơng phải do nhà tư bản chiếm đoạt
mà thuộc về Nhà nước đại diện cho toàn dân và của người lao động trong doanh
nghiệp. Tùy theo tình hình kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn mà Nhà nước có
cơ chế chính sách phân phối đảm bảo lợi ích người lao động.
Xuất phát từ quan điểm tiền lương của người lao động trong doanh nghiệp
phụ thuộc vào sự thỏa thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động và
trên cơ sở hình thức cơ bản của tiền lương. Ở nước ta, Chính phủ cơng bố thang
lương, bảng lương riêng đối với các doanh nghiệp để làm cơ sở tính các chế độ
bảo hiểm xã hội , bảo hiểm y tế và chế độ phụ cấp lương, tiền lương ngừng việc,
nghỉ hàng năm và các trường hợp nghỉ việc khác của người lao động. Các chế độ
phụ cấp lương trong DNNN sau CPH cũng có thể được thỏa thuận giữa người sử
dụng lao động và người lao động dựa trên cơ sở Bộ Luật lao động.
Việc xác định hợp lý và chính xác bậc lương và ngạch lương cũng như
các chế độ phụ cấp lương theo từng ngành, từng khu vực có tính đến trình độ
chun mơn và điều kiện lao động có ý nghĩa quan trọng. Nó bảo đảm tính
cơng bằng trong chế độ trả lương, thúc đẩy người lao động khơng ngừng học
tập, nâng cao trình độ tay nghề, quan tâm hồn thành tốt cơng việc và gắn bó
với doanh nghiệp.
20
Ngồi tiền lương, người lao động cịn được hưởng một khoản tiền do
người sử dụng lao động trích thưởng từ lợi nhuận hàng năm để phân phối lại.
Đây cũng là một biện pháp làm cho người lao động gắn bó với doanh nghiệp
tạo động lực mới cho sản xuất, đồng thời là sự thừa nhận đóng góp của người
lao động vào giá trị thặng dư của doanh nghiệp.
Cùng với tiền lương cơ bản, tiền thưởng cũng là một bộ phận thu nhập
quan trọng của người lao động. Vì thực chất tiền thưởng là phần thưởng cho
người lao động khi làm tốt cơng việc của mình hơn mức trung bình, nó kích
thích người lao động hăng say làm việc, cống hiến và sáng tạo, thúc đẩy tăng
năng suất lao động.
Tuy đều gắn với lợi ích kinh tế của người lao động nhưng tiền lương và
tiền thưởng có sự khác nhau. Tiền lương thuộc phạm trù chi phí sản xuất, cịn
tiền thưởng thuộc phạm trù phân phối lợi nhuận.
Việc trích một phần lợi nhuận để thưởng cho người lao động hiện nay
không phải là điều mới ở các nước trên thế giới. ở nước ta, Đảng và Nhà nước
rất coi trọng vấn đề tiền thưởng ngay từ trong cơ chế cũ. Song do quá chú ý
đến động viên tinh thần mà thiếu quan tâm thưởng bằng vật chất nên chưa
phát huy hết động lực của tiền thưởng. V.I Lênin đã chỉ rõ “việc khen thưởng
bằng vật chất là một chế độ có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong công tác xây
dựng Chủ nghĩa xã hội” [19, tr.33]. Chuyển sang cơ chế thị trường, vấn đề tiền
thưởng vẫn được đặc biệt quan tâm và đã được đưa vào luật.
Để nâng cao năng suất, hiệu quả sản xuất kinh doanh, DNNN sau CPH
nhất thiết phải dùng các hình thức tiền thưởng, nhằm động viên, khuyến khích
sự sáng tạo của người lao động. Tiền lương cao dễ thu hút lao động và động
viên được người lao động làm việc nhưng nó chỉ có giới hạn trong khuôn khổ
thực hiện theo hợp đồng lao động. Nếu khơng có hình thức thưởng thêm trên
hợp đồng thì người lao động chỉ cần thực hiện đúng theo hợp đồng: sản xuất
giới hạn bao nhiêu phần trăm phế phẩm, với số lượng sản phẩm quy định thì
tốn bao nhiêu ngun liệu, nhiên liệu. Ngồi ra anh ta khơng cần quan tâm
21
hơn nữa để nâng cao hiệu suất cơng việc vì nếu có đưa ra sáng kiến làm tiết
kiệm nguyên, nhiên liệu cũng chẳng được ích lợi gì. Vì vậy, các hình thức tiền
thưởng ln là nguồn động viên, khuyến khích đem lại hiệu quả nhất. Tuy
nhiên, việc trích lợi nhuận để thưởng cho người lao động cũng phải căn cứ
vào những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể.
1.2.1.2. Thu nhập của người lao động dưới hình thức cổ tức (đối với
người lao động có cổ phần trong doanh nghiệp )
Trong DNNN sau CPH, người lao động với tư cách là người lao động
họ được doanh nghiệp trả lương dưới hình thức tiền lương theo số lượng và
chất lượng lao động. Đồng thời với tư cách là đồng chủ sở hữu vốn, họ nhận
được một khoản lợi tức cổ phần do sở hữu vốn đem lại.
Lợi tức cổ phần là một phần lợi nhuận của doanh nghiệp mà doanh
nghiệp phải trả cho người có vốn cổ phần góp vào doanh nghiệp ứng với số
tiền trong cổ phần. Ở các doanh nghiệp khác nhau, lợi tức có thể khơng giống
nhau do ảnh hưởng của nhiều nhân tố.
Quyền sở hữu một phần tài sản của doanh nghiệp tương đương với số
lượng vốn góp, được thể hiện ở các quyền: được hưởng lợi tức cổ phần
tương đương với cổ phần đã góp, có thể bán cổ phần theo giá thỏa thuận ở
thị trường chứng khoán, có thể cho một phần hoặc tồn phần cổ phần. Trách
nhiệm của cổ đông cũng rất rõ ràng: phải chịu đền bù, chịu mất mát, tổn thất
trong phạm vi số lượng vốn góp, phải chịu góp đủ vốn khi doanh nghiệp đó
chính thức hoạt động, phải thực hiện đầy đủ, nghiêm túc mọi quy định trong
điều lệ của công ty.
Quyền và nghĩa vụ của cổ đơng làm cho vai trị làm chủ của người lao
động có cổ phần trong DNNN sau CPH thể hiện một cách thực chất , tạo ra cơ
chế hoạt động quản lý nhiều mặt năng động trong doanh nghiệp .
Quyền sở hữu một phần tài sản của doanh nghiệp tương đương với số
lượng vốn góp đã làm cho bản thân người lao động trong DNNN sau CPH thu
22
được hưởng lợi ích thiết thực chẳng những từ lao động do mình bỏ ra, mà cịn do
đồng vốn góp của mình, nên việc đó tạo ra cho người lao động trực tiếp một
động lực mạnh mẽ để họ toàn tâm, tồn lực lao động. Điều đó đã làm cho lợi ích
của cá nhân, tập thể và xã hội khơng chỉ được bảo đảm, không ngừng tăng lên về
số lượng, mà còn tạo ra mối quan hệ chặt chẽ gắn bó và làm tiền đề cho nhau
phát triển. Người lao động tự mình kiểm sốt, giám sát, và tìm mọi cách để lao
động đạt hiệu quả cao nhất, không cần phải có sự giám sát, đơn đốc như trước
của cấp trên. Như vậy, vai trị, vị trí của người lao động trong các DNNN sau
CPH đã làm thay đổi căn bản tính chất, đặc điểm hoạt động lao động, kinh doanh
của họ, làm cho sự làm chủ tập thể không chỉ là hình thức. Trong DNNN sau
CPH, mỗi cổ đơng làm việc cho chính họ, cho chính lợi ích của họ, của gia đình
họ và của doanh nghiệp, điều đó cũng có nghĩa là cho tồn xã hội.
1.2.1.3. Thu nhập của người lao động từ quỹ phúc lợi tập thể
Ngoài thu nhập do lao động và thu nhập do quyền sở hữu vốn, người
lao động trong các DNNN sau CPH còn được thu nhập bổ sung bằng các phúc
lợi của tập thể. Hình thức phân phối từ quỹ phúc lợi trong các DNNN sau
CPH ở nước ta là hết sức cần thiết, vì:
Một là, trong điều kiện kinh tế của ta cịn nhiều khó khăn, sự nghiệp
phúc lợi chưa được đảm bảo thống nhất, đầy đủ trong xã hội. Điều đó địi hỏi
mỗi doanh nghiệp phải có quỹ phúc lợi riêng hỗ trợ thêm cho người lao động
trong doanh nghiệp, đảm bảo các sự nghiệp về văn hóa, giáo dục, y tế, đời
sống, nghỉ ngơi và cả những hoạt động từ thiện nhân đạo khác.
Hai là, trong các DNNN sau CPH, việc đảm bảo phúc lợi chung là cần
thiết để cải thiện, tạo điều kiện thuận lợi nâng cao đời sống người lao động, để
người lao động yên tâm, gắn bó với doanh ngiệp. Đây cũng là hình thức để
góp phần phát triển toàn diện cá nhân người lao động trong các doanh nghiệp.
Ba là, trong mỗi doanh nghiệp, thực hiện phân phối theo lao động của
từng người, nhưng do thể trạng năng lực từng người không giống nhau nên
23
thu nhập có sự chênh lệch. Hơn nữa do thực hiện hình thức phân phối theo
quyền sở hữu vốn góp vào sản xuất nên sẽ có người thu nhập cao, có người
thu nhập thấp khác nhau. Bởi vậy, phúc lợi tập thể của doanh nghiệp là điều
kiện để góp phần giảm bớt sự chênh lệch về thu nhập, từng bước thực hiện sự
bình đẳng giữa những người lao động trong doanh nghiệp
Quy mô các quỹ phúc lợi phụ thuộc vào kết quả sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp. Sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp càng phát triển, hiệu
quả kinh tế do nó đưa lại càng cao, thì quy mơ các quỹ phúc lợi càng lớn. Cần
chú ý rằng, quỹ phúc lợi không được quá lớn, dẫn đến làm mất tác dụng của
phân phối theo lao động (theo quy định của Nhà nước, đối với các DNNN,
thường là quỹ phúc lợi không được vượt quá từ 2 đến 3 tháng lương bình quân
của đơn vị, tùy theo từng loại doanh nghiệp).
Các hình thức phân phối từ quỹ phúc lợi của doanh nghiệp được thể
hiện qua các việc: xây dựng nhà ở, nhà ăn, nhà nghỉ mát điều dưỡng, các cơng
trình văn hóa, thể thao, nghệ thuật, nhà trẻ cho con em người lao động, tài trợ
cho các sự kiện trong và ngoài doanh nghiệp, tài trợ các quỹ học bổng, quỹ
khen thưởng học giỏi cho con em công nhân, trợ giúp các đối tượng chính
sách xã hội, người nghèo, thực hiện các công việc từ thiện, nhân đạo, tổ chức
các hoạt động du lịch, tham quan, nghỉ mát, điều dưỡng.
Các hình thức phân phối thực hiện lợi ích do lao động, lợi ích do quyền
sở hữu vốn và phân phối qua quỹ phúc lợi xã hội, phúc lợi doanh nghiệp có
quan hệ gắn bó với nhau. Khơng thể có nhiều phúc lợi xã hội, phúc lợi tập thể
doanh nghiệp khi mà thu nhập từ các hình thức phân phối khác, nhất là thu
nhập do lao động còn ở mức quá thấp. Xã hội càng phát triển thì phần dành
cho quỹ phúc lợi càng nhiều. Theo Mác, “xã hội càng phát triển, phần này sẽ
càng tăng” [32, tr.85].
Bằng hình thức phân phối quỹ phúc lợi, các DNNN sau CPH sẽ đảm
bảo tăng thu nhập thực tế, tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động phát huy
năng lực của mình. Hình thức thu nhập này tạo động lực gián tiếp, giúp người
24
lao động n tâm hơn với cơng việc mình đang làm, gắn bó hơn với doanh
nghiệp, đồng thời tạo được mối quan hệ chặt chẽ giữa người lao động và
người sử dụng lao động, góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển.
1.2.2. Điều kiện làm việc và an toàn vệ sinh lao động của người
lao động
Trong quá trình ký kết hợp đồng lao động đối với người lao động, bên
cạnh việc ký kết đảm bảo về công việc, giờ làm việc, tiền lương, doanh nghiệp
còn phải thực hiện tốt điều kiện môi trường làm việc. Trong điều 97 chương
IX Bộ Luật lao động, quy định về: An toàn lao động, vệ sinh lao động cho
người lao động, chỉ rõ:
Người sử dụng lao động phải đảm bảo nơi làm việc đạt tiêu
chuẩn về khơng gian, độ thống, độ sáng, đạt tiêu chuẩn vệ sinh cho
phép về bụi, hơi, khí dộc, phóng xạ, điện từ trường, nóng, ẩm, ồn,
rung và các yếu tố có hại khác. Các yếu tố đó phải được định kỳ
kiểm tra đo lường [42, tr.184].
Thực tế hiện nay ở nước ta, phần lớn các doanh nghiệp áp dụng quy
trình ISO (International Standard Organization) thì sẽ đảm bảo được mơi
trường làm việc cho người lao động, khi đó lợi ích của người lao động sẽ được
đảm bảo. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn cịn nhiều doanh nghiệp chưa thực hiện
tốt điều kiện làm việc cho người lao động.
An toàn vệ sinh lao động là chủ doanh nghiệp phải đảm bảo mơi trường
an tồn và vệ sinh lao động, đảm bảo sức khỏe, an tồn tính mạng cho người lao
động trong thời gian làm việc tại doanh nghiệp. Vì vậy, nếu doanh nghiệp luôn
quan tâm cải thiện điều kiện lao động, đảm bảo các chế độ trang thiết bị, phương
tiện bảo vệ cá nhân để người lao động được làm việc trong điều kiện an toàn vệ
sinh. Thường xuyên phổ biến và bồi dưỡng kiến thức về an toàn vệ sinh lao động
sẽ tạo điều kiện để người lao động được đảm bảo về sức khỏe, có điều kiện để
hồn thành tốt cơng việc của mình, tăng năng suất lao động, tăng lợi nhuận cho
doanh nghiệp và tăng thu nhập cho bản thân và gia đình.
25
1.2.3. Đào tạo, bồi dưỡng tay nghề, nâng cao trình độ cho người
lao động
Để lợi ích kinh tế cá nhân người lao động luôn luôn trở thành động lực
của sản xuất thì bản thân người lao động khơng chỉ có tinh thần, thái độ lao
động đúng đắn, mà còn phải thường xuyên học tập, nâng cao trình độ kỹ thuật,
kỹ năng tay nghề của mình. Đồng thời về phía doanh nghiệp phải tạo điều
kiện cả về mặt vật chất và thời gian để người lao động được học nghề, được
đào tạo nghề.
Xét về lợi ích kinh tế thì trước hết người lao động được bồi dưỡng,
đào tạo, được hưởng nguồn lợi từ quỹ đào tạo mà chủ doanh nghiệp bỏ ra.
Nhưng cái lợi lớn hơn mà người lao động thu được đó là, qua việc bồi dưỡng,
nâng cao trình độ thì kỹ năng chun mơn, trình độ tay nghề của người lao
động được nâng lên. Trên cơ sở đó người lao động có khả năng nâng cao năng
suất lao động, đáp ứng yêu cầu đổi mới công nghệ của doanh nghiệp, có thể
đảm nhận được những cơng việc ở cấp bậc cao hơn, thu nhập từ lương và các
khoản phụ cấp khác cũng tăng theo.
Đào tạo, bồi dưỡng là hoạt động nhằm trang bị kiến thức căn bản hay
huấn luyện, nâng cao kỹ năng thành thạo nghề cho người lao động, để họ hồn
thành tốt u cầu của cơng việc hiện tại hoặc phù hợp với yêu cầu công việc
mới trong tương lai. Việc nâng cao trình độ học vấn, chun mơn, trình độ lao
động cho người lao động sẽ đem lại lợi ích thiết thực cho người lao động làm
cho họ phát triển năng lực sáng tạo; hình thành phong cách lao động công
nghiệp, đạo đức, lối sống mới, phát triển đời sống tinh thần, tích cực chủ động
trong nghề nghiệp, xã hội và chính trị của người lao động.
Việc bồi dưỡng tay nghề, nâng cao trình độ chuyên mơn cho người lao
động có thể tiến hành bằng nhiều hình thức: kèm cặp, bồi dưỡng tại chỗ, mở
các lớp học tại doanh nghiệp, hoặc gửi công nhân đi học tại các cơ sở đào tạo
(có thể ngắn hạn hoặc dài hạn), tổ chức tham quan các doanh nghiệp khác…
qua đó người lao động có thể học tập, chia sẻ kinh nghiệm với nhau.