Tải bản đầy đủ (.doc) (98 trang)

hoạt động của Ngân hàng chính sách xã hội tỉnh Hà Giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.57 MB, 98 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nghèo, đói là vấn đề bức xúc của toàn nhân loại. Việt Nam đi lên Chủ
nghĩa xã hội từ trình độ phát triển thấp của lực lượng sản xuất lại chịu ảnh
hưởng nặng nề của nhiều năm chiến tranh, nên nghèo đói là một trong những
thách thức tất yếu phải giải quyết. Việc sử dụng cơ chế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa trong những năm đổi mới đã mang lại những thành tựu vô
cùng to lớn về kinh tế và xã hội cho đất nước, nhưng hoạt động của các quy
luật thị trường cũng tác động làm phân hóa giàu nghèo, làm cho đói nghèo ở
nước ta trở thành vấn đề nóng bỏng, đe dọa sự ổn định kinh tế, xã hội và cả
chính trị.
Trên cơ sở nhận thức sâu sắc về vấn đề nghèo đói ở nước ta, tại Hội
nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ V (khoá VII), Đảng ta đã đề ra chủ
trương về xố đói giảm nghèo: “…phải hỗ trợ giúp người nghèo bằng cách
cho vay vốn, hướng dẫn cách làm ăn, tranh thủ các nguồn tài trợ nhân đạo
trong và ngoài nước, phấn đấu tăng hộ giàu đi đơi với xóa đói giảm
nghèo…”[10].
Thực hiện chủ trương xố đói giảm nghèo của Đảng, trong nhiều năm
qua Chính phủ đã triển khai thực hiện nhiều biện pháp chính sách, đặc biệt là
chính sách tín dụng đối với người nghèo, như giao cho các Ngân hàng thương
mại Nhà nước cho vay lãi suất ưu đãi đối với các tổ chức kinh tế và dân cư
thuộc vùng núi cao, hải đảo, vùng đồng bào sống không tập trung; thành lập
Quỹ cho vay ưu đãi hộ nghèo (năm 1993 – 1994); tổ chức thành lập Ngân
hàng phục vụ người nghèo nằm trong Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn (1995 – 2002)… Từ kinh nghiệm thực tế và trên cơ sở xem xét Đề
án của Ngân hàng Nhà nước về hoàn thiện và tổ chức hoạt động của Ngân
hàng chính sách, tách tín dụng chính sách ra khỏi ngân hàng thương mại,
ngày 04/10/2002 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 78/NĐ-CP về tín dụng



2
đối với người nghèo và các đối tượng chính sách khác; đồng thời Thủ tướng
Chính phủ ký quyết định số 131/2002/QĐ-TTg ngày 04/10/2002 thành lập
Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH).
Trong quá trình hoạt động, NHCSXH đã đạt được những kết quả đáng
ghi nhận, tạo ra thế và lực bước đầu rất quan trọng, đặt nền móng vững chắc
cho những bước đi tiếp theo, thực sự là một công cụ tài chính của Nhà nước,
góp phần tích cực thực hiện mục tiêu xố đói giảm nghèo, ổn định xã hội. Tại
Hội nghị tổng kết 3 năm thành lập Ngân hàng Chính sách xã hội, Thủ tướng
Chính phủ Phan Văn Khải đã chỉ ra: “…Sau 20 năm đổi mới, đất nước ta đã
đạt được những thành tựu to lớn về phát triển kinh tế – xã hội. Bộ mặt của
nước ta đã có những thay đổi rõ nét, lực lượng sản xuất và kết cấu hạ tầng
kinh tế – xã hội phát triển nhanh; đời sống nhân dân không ngừng được cải
thiện; thế và lực của đất nước được nâng lên rõ rệt. Nhưng sự phát triển theo
định hướng XHCN đòi hỏi tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với tiến bộ và cơng
bằng xã hội. Trong q trình chuyển tự nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung,
bao cấp sang nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, chúng ta chủ
trương khuyến khích mọi người làm giàu theo pháp luật, đồng thời hết sức
quan tâm xóa đói giảm nghèo, khắc phục tình trạng phân hố giàu nghèo q
nhanh dễ dẫn tới mất ổn định xã hội, không đảm bảo phát triển bền vững.
Trong việc thực hiện chủ trương đó, Ngân hàng Chính sách xã hội là một
cơng cụ quan trọng và hữu hiệu để góp sức xố đói, giảm nghèo… Ngân hàng
chính sách xã hội ra đời là một giải pháp có ý nghĩa chiến lược để góp phần
giải quyết vấn đề đói nghèo ở nước ta; mục tiêu và nhiệm vụ của Ngân hàng
chính sách xã hội cùng là lý tưởng, mục tiêu, nhiệm vụ của Đảng và Nhà
nước ta…”.
Nhân dịp kỷ niệm 5 năm thành lập Ngân hàng Chính sách xã hội (2003
– 2008), Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng gửi thư chúc mừng Ban
lãnh đạo, tập thể cán bộ, nhân viên NHCSXH, trong đó đã có viết: “… Trong



3
5 năm qua, Ngân hàng chính sách xã hội đã có nhiều số gắng vượt qua khó
khăn, hồn thành tốt nhiệm vụ được giao; bước đầu đã đóng góp cùng với các
Bộ, ngành xây dựng và từng bước hoàn thiện hệ thống, các cơ chế, chính sách
có liên quan; cùng với các cấp chính quyền và các tổ chức chính trị – xã hội
nhận uỷ thác vận hành mơ hình tổ chức đặc thù của Ngân hàng chính sách xã
hội một cách hiệu quả và triển khai thực hiện có kết quả các chính sách tín
dụng ưu đãi đối với người nghèo và các đối tượng chính sách khác. Với việc
thực hiện tốt 14 chương trình tín dụng ưu đãi của Nhà nước, đến nay Ngân
hàng Chính sách xã hội đã giúp trên 4 triệu hộ nghèo và 1,7 triệu người có
hồn cảnh khó khăn được vay trên 34.994 tỷ đồng, góp phần giảm tỷ lệ hộ
nghèo của cả nước xuống cịn 14,7% năm 2007. Thay mặt Chính phủ tơi nhiệt
liệt biểu dương và đánh giá cao sự cố gắng của các đồng chí.
Nhiệm vụ xố đói giảm nghèo là sự nghiệp cách mạng vẻ vang, gian
khổ, dài lâu của Đảng và Nhà nước ta mà Ngân hàng Chính sách xã hội là
một trong những tổ chức được giao nhiệm vụ trực tiếp thực hiện ….”
Hà Giang là một tỉnh miền núi, dân tộc vùng cao biên giới cực bắc của
Tổ quốc với 10 huyện và 1 thị xã, địa hình phức tạp, bị chia cắt, độ dốc lớn,
miền núi cao khí hậu khắc nghiệt. Dân số trên 70 vạn người, gồm 22 dân tộc
anh em, tỷ lệ hộ dân tộc thiểu số chiếm 89% số hộ trong toàn tỉnh, trình độ
dân chí thấp, kinh tế chậm phát triển (thu nhập bình quân bằng 33% bình quân
cả nước) với 181/194 xã thuộc vùng khó khăn, có 6 huyện trong 62 huyện
nghèo theo Nghị quyết 30a của Chính phủ, 115 xã thuộc vùng đặc biệt khó
khăn, tỷ lệ hộ nghèo cịn cao. NHCSXH xét về phương diện xã hội của kinh
tế, càng trở thành là cơng cụ đắc lực của Chính phủ, chuyên thực hiện chính
sách xã hội theo đuổi mục đích XĐGN và trực tiếp giúp đỡ các đối tượng
chính sách góp phần cụ thể hố định hướng XHCN, kinh tế thị trường.
Trong những năm qua, thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, Hà
Giang đã từng bước vượt qua khó khăn, phát huy thế mạnh, tạo thế ổn định và



4
phát triển. Kinh tế duy trì được tốc độ tăng trưởng khá cao. Cơ cấu kinh tế
chuyển dịch tích cực, việc thực hiện các chính sách xã hội, XĐGN đạt
nhiều kết quả; đời sống nhân dân từng bước được cải thiện, quốc phịng an
ninh được củng cố, bộ mặt nơng thôn vùng sâu, vùng cao, vùng đồng bào
dân tộc thiểu số có nhiều thay đổi tích cực, tỷ lệ hộ nghèo năm 2006 là
43,63% giảm đến nay chỉ còn 27,64%. Trong đó góp phần tích cực của
NHCSXH tỉnh Hà Giang. Tuy nhiên Hà Giang vẫn là tỉnh nghèo, tỷ lệ hộ
nghèo tồn tỉnh cịn cao; cơng cuộc XĐGN cịn nhiều khó khăn, thách thức.
Đảng bộ tỉnh Hà Giang coi XĐGN là một quyết tâm chính trị trọng tâm, từ
đó huy động trí tuệ, sức lực của tồn Đảng, tồn qn và nhân dân các dân
tộc trong tỉnh thực hiện XĐGN có hiệu quả. Xác định NHCSXH là cơng
cụ, giải pháp, động lực quan trọng lâu dài để thực hiện mục tiêu đó. Vì vậy
tác giả chọn đề tài: “Hoạt động của Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh
Hà Giang” để làm luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Xung quanh vấn đề nghèo đói và XĐGN là chủ đề được nhiều cơ quan
trong nước, các tổ chức quốc tế, các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu ở các
khía cạnh khác nhau. Đáng chú ý là một số cơng trình của các tác giả sau:
- Trần Thị Hằng “Vấn đề giảm nghèo trong nền kinh tế thị trường ở
Việt Nam hiện nay” Nxb Thống kê, Hà Nội, năm 2001.
- Lê Xuân Bá, Chu Tiến Quang “Nghèo đói và XĐGN ở Việt Nam”
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2001.
- Ngân hàng Thế giới “Đói nghèo và bất bình đẳng ở Việt Nam” năm 2004.
Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu đã đề cập đến nhiều khía cạnh
của vấn đề nghèo đói và XĐGN. Song hiện chưa có cơng trình nào nghiên
cứu đầy đủ những biện pháp, mơ hình hoạt động đặc thù của hệ thống
NHCSXH và tác động của nó trong cơng cuộc XĐGN trên địa bàn tỉnh Hà

Giang. Kết quả nghiên cứu của các cơng trình trên, đặc biệt là những vấn đề


5
lý luận là những tư liệu kho học quý sẽ được tiếp thu có chọn lọc trong q
trình viết luận văn này.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích: Trên cơ sở làm rõ cơ sở những vấn đề lý luận về ngân
hàng chính sách xã hội Việt Nam, phân tích đánh giá thực trạng hoạt động của
chi nhánh Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh Hà Giang và đề xuất các giải
pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của chi nhánh Ngân hàng Chính sách xã
hội tỉnh Hà Giang với tư cách là cơng cụ quan trọng góp phần thực hiện
nhiệm vụ xố đói giảm nghèo và phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh
trong thời gian tới.
Để thực hiện mục đích trên luận văn đề ra các nhiệm vụ sau:
3.2. Nhiệm vụ
- Khái quát một số vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động và vai trò của
Ngân hàng chính sách xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
ở nước ta.
- Nghiên cứu kinh nghiệm hoạt động của chi nhánh ngân hàng chính
sách xã hội tại một số địa phương trong nước và rút ra bài học cho Chi nhánh
Ngân hàng chính sách xã hội tỉnh Hà Giang
- Tập trung phân tích thực trạng hoạt động Ngân hàng Chính sách xã
hội tỉnh Hà Giang và tác động của hoạt động đó tới xóa đói, giảm nghèo trên
địa bàn tỉnh, chỉ ra những thanh công, hạn chế chủ yếu và nguyên nhân.
- Đề xuất định hướng và các giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả
hoạt động của Ngân hàng chính sách xã hội ở tỉnh tỉnh Hà Giang trong thời
gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hoạt động của ngân hàng chính

sách xã hội trên địa bàn tỉnh Hà Giang.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là hoạt động của Chi nhánh Ngân
hàng chính sách xã hội ở tỉnh Hà Giang. Về thời gian, luận văn tập trung phân


6
tích thực trạng hoạt động của Chi nhánh Ngân hàng chính sách xã hội tỉnh Hà
Giang từ năm 2003 đến nay và đề xuất định hướng và giải pháp nâng cao hiệu
quả hoạt động của Chi nhánh đến năm 2020.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận kinh tế chính trị Mác – Lê Nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm, chủ trương, đường lối, chính sách về
tín dụng ưu đãi đối với người nghèo và các đối tượng chính sách khác trong
phát triển kinh tế, xố đói giảm nghèo của Đảng, Nhà nước và của Đảng bộ
tỉnh Hà Giang.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận khoa học kinh tế chính trị và kết
hợp với các phương pháp nghiên cứu khác để nghiên cứu như: phân tích, tổng
hợp, so sánh, thống kê, hệ thống,…
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
- Hệ thống hoá vấn đề lý luận về ngân hàng chính sách trong nền kinh
tế thị trường, định hướng XHCN ở Việt Nam.
- Phân tích đánh giá thực trạng hoạt động của Chi nhánh Ngân hàng chính
sách xã hội tỉnh Hà Giang trong xóa đói giảm nghèo từ năm 2003 đến nay.
- Luận văn góp phần cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc hoàn thiện
và phát triển bền vững hệ thống Ngân hàng chính sách xã hội, thực sự là công cụ
quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội và xố đói giảm nghèo ở Hà Giang.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu về hoạt
động của Ngân hàng chính sách xã hội trên địa bàn các tỉnh miền núi tương tự

như Hà Giang.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương, 8 tiết.


7
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ HOẠT ĐỘNG
CỦA NGÂN HÀNG CHÍNH SÁCH XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGÂN HÀNG CHÍNH SÁCH XÃ
HỘI

1.1.1. Khái niệm, đặc điểm Ngân hàng Chính sách xã hội
1.1.1.1. Khái niệm Ngân hàng chính sách xã hội
Trong nền kinh tế thị trường, quá trình tái sản xuất về mặt giá trị trở
thành tiền đề tất yếu của quá trình tái sản xuất về mặt hiện vật đối với
hoạt động sản xuất kinh doanh của các chủ thể. Sự không ăn khớp giữa
mặt giá trị và mặt hiện vật trong quá trình tái sản xuất đã tạo cơ sở khách
quan cho sự hình thành và hoạt động của tư bản cho vay dưới các hình
thức tín dụng. Sự phát triển của tín dụng với tư cách là quan hệ kinh tế
giữa chủ sở hữu và chủ sử dụng tư bản cho vay tất yếu địi hỏi sự hình
thành và phát triển của loại hình chủ thể mới trong nền kinh tế là ngân
hàng với vai trò chủ yếu là người trung gian, cầu nối giữa các chủ thể sở
hữu và sử dụng tư bản cho vay.
Như vậy, ngân hàng là tổ chức kinh tế chuyên doanh trong lĩnh vực tiền
tệ, được hình thành và phát triển cùng với sự phát triển của kinh tế hàng hóa,
kinh tế thị trường nhằm phục vụ quá trình tái sản xuất của các chủ thể sản
xuất kinh doanh. Cũng như các chủ thể kinh doanh khác, ngân hàng có động
cơ hoạt động là hiệu quả kinh tế dưới hình thái lợi nhuận. Do đó, các chủ thể

được ngân hàng phục vụ thông qua các loại hình dịch vụ phải mang lại lợi ích
kinh tế cho ngân hàng.
Trong quá trình hình thành và phát triển của kinh tế thị trường, dưới tác
động của các quy luật thị trường mà đặc biệt là quy luật giá trị, quy luật cạnh
tranh, sự phân hóa giữa những chủ thể sản xuất kinh doanh ngày càng diễn ra


8
mạnh mẽ và sâu sắc. Những chủ thể sản xuất kinh doanh quy mơ nhỏ thường
xun nằm trong tình trạng thiếu vốn để sản xuất kinh doanh, song do năng
lực tài chính hạn hẹp, hoạt động lại chứa nhiều rủi ro, nên rất khó tiếp cận tới
các nguồn vốn tín dụng ngân hàng.
Ở nước ta, trong quá trình hình thành và phát triển của nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng và Nhà nước đã chủ trương đẩy
mạnh phát triển kinh tế, không ngừng nâng cao đời sống nhân dân. Trên cơ sở
nhận thức rõ những khó khăn của đại bộ phận nhân dân, đặc biệt là nông dân,
đồng bào các dân tộc thiểu số ở các vùng sâu, vùng xa, lực lượng chủ yếu của
cách mạng qua các thời kỳ, Đảng và Nhà nước đã khơng ngừng nghiên cứu
tìm tịi các biện pháp và cơng cụ phù hợp nhằm tạo thuận lợi cho họ trong sản
xuất kinh doanh và đời sống. Nhằm giảm bớt những khó khăn về vốn của
người nghèo trong điều kiện các ngân hàng thương mại khó có thể cung cấp
tín dụng cho họ, Nhà nước ta đã quyết định thành lập Ngân hàng Chính sách
xã hội.
Từ đó, có thể hiểu Ngân hàng Chính sách xã hội là hình thức tổ chức
tín dụng đặc biệt trong nền kinh tế thị trường, do Nhà nước thành lập, có mục
tiêu hoạt động chủ yếu không phải là lợi nhuận, mà là tạo ra những điều kiện
thuận lợi cho người nghèo phát huy năng lực sản xuất kinh doanh, nâng cao
đời sống, góp phần xóa đói, giảm nghèo thơng qua thực hiện chính sách tín
dụng đối với người nghèo và các đối tượng chính sách.
1.1.1.2. Bản chất và đặc điểm của Ngân hàng Chính sách xã hội

Xét về bản chất kinh tế - xã hội: Ngân hàng Chính sách xã hội là cơng
cụ được Đảng và Nhà nước sử dụng để thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế,
xố đói giảm nghèo, thực hiện an sinh xã hội; củng cố quan hệ gắn bó giữa
Đảng và Nhà nước với dân, củng cố niềm tin của nhân dân vào con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. NHCSXH về thực chất
là một tổ chức tài chính của Nhà nước, là cơng cụ thực hiện vai trị điều tiết


9
của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, sử
dụng phương pháp tín dụng trong hoạt động hỗ trợ tài chính cho hộ nghèo và
các đối tượng chính sách khác để thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về
xóa đói giảm nghèo và việc làm. Bản chất của NHCSXH được thể hiện cụ thể
thông qua các đặc điểm chủ yếu của NHCSXH:
Thứ nhất, đặc điểm của Ngân hàng Chính sách xã hội
về quan hệ sở hữu:
- Ngân hàng chính sách xã hội là tổ chức kinh tế thuộc sở hữu nhà
nước. Theo Quyết định số: 131/2002/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày
04 tháng 10 năm 2002 “Về việc thành lập Ngân hàng Chính sách xã hội”;
Quyết định số: 180/2002/QĐ-TTg ngày 19 tháng 12 năm 200 “Về việc ban
hành Quy chế quản lý tài chính đối với Ngân hàng Chính sách xã hội”; “Quy
chế quản lý tài chính đối với Ngân hàng Chính sách xã hội” ban hành kèm
theo Quyết định số 180/2002/QĐ-TTg ngày 19 tháng 12 năm 2002 của Thủ
tướng Chính phủ, Ngân hàng Chính sách xã hội được Nhà nước đảm bảo khả
năng thanh toán, tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng không phần trăm, không phải
tham gia bảo hiểm tiền gửi, được miễn thuế và các khoản phải nộp ngân sách
nhà nước.
- Nguồn vốn hoạt động chủ yếu của NHCSXH được hình thành chủ
yếu từ nguồn vốn Ngân sách nhà nước với vốn điều lệ ban đầu là 5 nghìn tỷ
đồng và được cấp bổ sung cho phù hợp với yêu cầu từng thời kỳ. Nguồn vốn

từ ngân sách nhà nước là cơ sở bảo đảm cho NHCSXH hoạt động bình
thường vì mục tiêu xã hội.
- Bên cạnh đó với tư cách là một ngân hàng, NHCSXH có thể huy động
vốn từ xã hội bằng các hình thức: phát hành chứng chỉ có giá, huy động tiền
gửi có kỳ hạn và khơng kỳ hạn (và qua đó mà cung ứng các dịch vụ thanh
toán cho khách hàng). Phần lãi suất chênh lệch giữa huy động và cho vay sẽ
được cấp bù bởi ngân sách nhà nước.


10
- Ngồi ra NHCSXH có thể tiếp nhận các dự án tài trợ khơng hồn lại
hay vay nợ của Chính phủ và các tổ chức phi Chính phủ của các nước.
Thứ hai, đặc điểm của Ngân hàng Chính sách xã hội về quan hệ tổ
chức quản lý:
Theo Quyết định số: 16/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày
22 tháng 01 năm 2003 “Về việc phê duyệt Điều lệ về tổ chức và hoạt động
của Ngân hàng Chính sách xã hội” và “Điều lệ về tổ chức và hoạt động của
Ngân hàng Chính sách xã hội” do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, Ngân
hàng Chính sách xã hội có bộ máy quản lý và điều hành thống nhất trong
phạm vi cả nước, là một pháp nhân, có vốn điều lệ, có con dấu, có tài sản và
hệ thống giao dịch từ trung ương đến địa phương. Trụ sở chính đặt tại thủ đơ
Hà Nội.
Hệ thống tổ chức của Ngân hàng Chính sách xã hội là cơ cấu tổ chức ba
cấp, từ trung ương tới địa phương, bao gồm:
1. Hội sở chính đặt tại Thủ đô Hà Nội;
2. Sở Giao dịch, Trung tâm đào tạo, Chi nhánh Ngân hàng Chính sách
xã hội cấp tỉnh;
3. Chi nhánh Ngân hàng Chính sách xã hội cấp huyện, Phịng giao dịch
thuộc Chi nhánh Ngân hàng Chính sách xã hội cấp tỉnh.
Nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Hội sở chính, Sở Giao

dịch, Trung tâm đào tạo, Chi nhánh và Phòng giao dịch thực hiện theo quy
định của Hội đồng quản trị.
Cơ cấu tổ chức bộ máy quản trị và điều hành của Hội sở chính:
1. Hội đồng quản trị và bộ máy giúp việc;
2. Ban Kiểm soát;
3. Tổng Giám đốc và bộ máy giúp việc;
4. Hệ thống kiểm tra, kiểm toán nội bộ.
Tổ chức bộ máy điều hành của Sở Giao dịch, Trung tâm đào tạo và các


11
Chi nhánh bao gồm:
1. Giám đốc, các Phó giám đốc;
2. Các phịng chun mơn nghiệp vụ;
3. Phịng Kiểm tra, kiểm tốn nội bộ.
Phịng giao dịch đặt tại các huyện, quận, thành phố thuộc Chi nhánh
Ngân hàng Chính sách xã hội cấp tỉnh nơi khơng có Chi nhánh Ngân hàng
Chính sách xã hội. Phịng giao dịch có con dấu. Điều hành Phòng giao dịch là
Giám đốc.
Thứ ba, đặc điểm của Ngân hàng Chính sách xã hội về hoạt động:
Hoạt động của NHCSXH đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Đảng, chính
phủ, cấp uỷ chính quyền các cấp. NHCSXH thực hiện cho vay theo chỉ định
của Chính phủ để thực hiện các chính sách kinh tế - xã hội như: cho vay các
hộ gia đình nghèo để phát triển sản xuất, cho vay giải quyết việc làm, cho vay
học sinh sinh viên có hồn cảnh khó khăn, cho vay hộ sản xuất kinh doanh tại
vùng khó khăn… Khi thực hiện các khoản cho vay theo chỉ định, vấn đề lợi
nhuận không phải là mục tiêu mà ngân hàng nhắm đến, mà là thực thi chính
sách tín dụng của Chính phủ. Thời hạn hoạt động của NHCSXH là 99 năm.
NHCSXH có hệ thống thanh toán nội bộ và tham gia hệ thống liên ngân
hàng trong nước; thực hiện các dịch vụ ngân hàng về thanh toán ngân quỹ,

nghiệp vụ ngoại hối, phù hợp khả năng và điều kiện thực tế. NHCSXH được
ngân sách nhà nước cấp bù chênh lệch lãi suất và phí quản lý đối với các khoản cho
vay theo Nghị định số 78/2002/NĐ-CP ngày 04/10/2002 của Thủ tướng Chính phủ
về tín dụng đối với người nghèo và các đối tượng chính sách khác gồm:
- Hộ nghèo;
- Học sinh sinh viên có hồn cảnh khó khăn đang học đại học, cao
đẳng, trung học chuyên nghiệp và học nghề;
- Các đối tượng cần vay vốn để giải quyết việc làm theo Nghị quyết
120/HĐBT ngày 11/04/1992 của Hội đồng bộ trưởng (nay là Chính phủ);
- Các đối tượng chính sách đi lao động có thời hạn ở nước ngồi;


12
- Các tổ chức kinh tế và hộ sản xuất, kinh doanh thuộc hải đảo; thuộc khu
vực II, III miền núi và thuộc Chương trình phát triển kinh tế – xã hội các xã đặc
biệt khó khăn miền núi, vùng sâu, vùng xa (chương trình 135);
- Các đối tượng khác khi có quyết định của Chính phủ.
Các chương trình tín dụng ưu đãi phải đảm bảo nguyên tắc cho vay có
thu hồi nợ đúng hạn (cả gốc và lãi), vốn đầu tư phải mang lại hiệu quả kinh tế
xã hội thiết thực, vốn phải đến đúng địa chỉ người thụ hưởng. Chính sách tín
dụng thể hiện trên một số ưu đãi về lãi suất và các điều kiện vay vốn, cụ thể
như sau:
+ Lãi suất cho vay các chương trình tín dụng chính sách thấp hơn lãi
suất các NHTM. Mức lãi suất do Thủ tướng Chính phủ quyết định cho từng
thời kỳ theo đề nghị của Hội đồng quản trị NHCSXH, thống nhất một mức
trong phạm vi cả nước (trừ các tổ chức kinh tế và hộ sản xuất, kinh doanh
thuộc hải đảo; thuộc khu vực II, III miền núi và thuộc chương trình phát triển
kinh tế – xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền núi, vùng sâu, vùng xa (gọi tắt
là cho vay vùng II,III, xã 135). Đối với cho vay HSSV có hồn cảnh khó khăn
từ Quỹ tín dụng đào tạo, trong thời gian theo học tại trường, ngân hàng chưa

thực hiện tính và thu lãi. Việc thu lãi được thực hiện ngay sau khi kết thúc
khóa học cho đến khi trả hết nợ gốc và nếu HSSV trả hết nợ gốc trước thời
điểm trả nợ cuối cùng ghi trên hợp đồng tín dụng thì được Ngân hàng giảm lãi
tiền vay cịn phải trả tính đến thời điểm trả hết nợ.
+ Người vay vốn không cần phải có người bảo lãnh hoặc tài sản thế
chấp (trừ các khoản cho vay vùng II,III, xã 135 và cơ sở sản xuất kinh doanh
vay từ Quỹ cho vay giải quyết việc làm).
+ Thủ tục cho vay các chương trình rất đơn giản để tạo điều kiện cho
các đối tượng được thụ hưởng dễ tiếp cận với tín dụng chính sách.
+ Chính sách về mức vốn cho vay và thời hạn hoàn trả vốn vay.


13
+ Người vay không phải trả bất cứ khoản chi phí nào cho ngân hàng
ngồi nợ gốc và lãi tiền vay theo hợp đồng tín dụng hoặc khế ước nhận nợ.
+ Chính sách về xử lý nợ bị rủi ro: NHCSXH được trích lập quỹ dự
phịng rủi ro tín dụng vào chi phí nghiệp vụ để bù đắp những khoản rủi ro do
nguyên nhân khách quan thuộc diện đơn lẻ, cục bộ. Mức trích được tính bằng
0,02% trên số dư nợ bình quân năm và được tiến hành vào ngày 31/12 hàng
năm tại Hội sở chính NHCSXH. Số dư nợ bình qn năm được tính như sau:
Dư nợ cho vay

=

Dư nợ cuối tháng 1 +…+ Dư nợ cuối tháng 12 bình

qn năm

12


Trường hợp người vay khơng trả được nợ do nguyên nhân khách quan
gây ra như: thiên tai, hỏa hoạn, dịch bệnh, chính sách nhà nước thay đổi, biến
động giá cả thị trường, nếu xảy ra trên diện rộng thì thực hiện theo quyết định
của Thủ tướng Chính phủ; trường hợp xảy ra ở diện đơn lẻ, cục bộ được cho
gia hạn nợ hoặc xử lý từ quỹ dự phòng rủi ro của NHCSXH do Hội đồng
quản trị quyết định.
Hàng năm các chi nhánh được Trung ương giao kế hoạch khốn tài
chính, với tinh thần tăng thu giảm chi. Qua các năm chi nhánh đều thực hiện
hoàn thành kế hoạch thu chi tài chính với số lãi thu cao hơn và chi phí thấp
hơn kế hoạch giao.
1.1.2. Sự cần thiết và vai trị của Ngân hàng Chính sách xã hội
1.1.2.1. Sự cần thiết thành lập Ngân hàng Chính sách
xã hội ở Việt Nam
Thứ nhất, nghèo đói hiện đang là vấn đề xã hội bức xúc ở nước ta đòi
hỏi phải được toàn xã hội quan tâm giải quyết. Ở Việt Nam, tình hình đói
nghèo là nghiêm trọng, đặc biệt có xu hướng gia tăng trong quá trình hình
thành và phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vì
vậy xóa đói, giảm nghèo (XĐGN) là vấn đề luôn được Đảng và Nhà nước ta
quan tâm giải quyết, đặc biệt kể từ sau đổi mới.


14
Có nhiều ngun nhân gây ra tình trạng đói nghèo ở nước ta, bao gồm
những nguyên nhân khách quan như xuất phát điểm của nền kinh tế nước ta
thấp: từ nền nông nghiệp lạc hậu, lại phải trải qua hơn 30 năm chiến tranh, bị
tàn phá nặng nề; người nghèo ở nước ta bị hạn chế về nguồn lực và các yếu tố
của sản xuất, hạn chế trong việc tiếp cận với các dịch vụ xã hội cơ bản, chưa
được bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp tập quán, dễ bị tổn thương khi phải
chịu ảnh hưởng của thiên tai, bão lũ và các rủi ro khác; và các nguyên nhân
chủ quan như: nhận thức của người nghèo về vấn đề nghèo cịn hạn chế, trình

độ học vấn thấp, khơng có nghề, ít có cơ hội tìm được việc làm tốt, ổn định,
thói quen canh tác, sản xuất của người nghèo ở nhiều vùng còn rất lạc hậu,
được truyền từ đời này sang đời khác và khó thay đổi, quy mơ tương đối lớn
của hộ gia đình ở nơng thơn, tình trạng bất bình đẳng giới lười lao động, mắc
phải tệ nạn xã hội, nghiện ma tuý...
Theo số liệu điều tra hộ nghèo năm 2004 của Bộ Lao động – Thương
binh và Xã hội, nguyên nhân nghèo đói là do: Thiếu vốn sản xuất: 79%; Thiếu
kiến thức sản xuất: 70%; Thiếu thông tin về thị trường: 35%; Thiếu đất và
khơng có đất sản xuất: 29%; ốm đau, bệnh tật: 32%; Đơng con: 24%; Khơng
tìm được việc làm: 24%; Rủi ro: 5,9%.
Từ đó, để xóa đói giảm nghèo cần có nhiều chính sách biện pháp, trong
đó chính sách tín dụng ưu đãi đối với người nghèo có vai trị đặc biệt quan
trọng và để phát huy có hiệu quả của chính sách này cần cỏ tổ chức chuyên
trách của Nhà nước đảm nhận thực hiện.
Thứ hai, thực tiễn thực hiện chính sách tín dụng ưu đãi đối với người
nghèo ở nước ta kể từ sau đổi mới cho thấy để thực hiện có hiệu quả chính
sách này tách bạch tín dụng chính sách và tín dụng có tính thương mại. Sau
khi Liên hiệp quốc phát động cuộc chiến chống đói nghèo trên phạm vi tồn
thế giới, năm 1992 Bộ Nông nghiệp và Công nghiệp thực phẩm (nay là Bộ
No&PTNT) đã tổ chức điều tra về tình hình hộ nghèo làm cơ sở cho việc triển


15
khai thực hiện chương trình quốc gia XĐGN của Chính phủ. Việc cung cấp
tín dụng ưu đãi cho hộ nghèo, được thực hiện từ năm 1995. Lúc đầu NHNo &
PTNT đã phải thành lập “Quỹ cho vay ưu đãi hộ nghèo” do 3 ngân hàng tham
gia đóng góp: NHNN, Ngân hàng ngoại thương Việt Nam, NHNo&PTNT
Việt Nam với tổng nguồn vốn ban đầu là 432 tỷ đồng. Đây là nguồn vốn huy
động theo lãi suất thị trường nhưng để cho hộ nghèo vay thì phải theo lãi suất
ưu đãi. Trong lịch sử hoạt động tiền tệ tín dụng ngân hàng, lần đầu tiên một số

ngân hàng thương mại quốc doanh dùng vốn huy động thị trường với lãi suất
cao (2,1%/tháng) để cho vay hộ nghèo với lãi suất thấp (1,2%/tháng) chỉ vì
mục đích phục vụ người nghèo, góp phần ổn định nền kinh tế - xã hội.
Quỹ cho vay ưu đãi hoạt động được một thời gian từ tháng 3/1995 đến
cuối năm 1995 mới đủ khả năng đáp ứng được 432 ngàn hộ nghèo vay, nhưng
trên thực tế NHNo&PTNT không có tư cách pháp nhân và khả năng tạo lập
nguồn vốn để tiếp tục mở rộng tín dụng đối với người nghèo, càng không thể
tiếp tục huy động vốn theo lãi suất cao để cho vay theo lãi suất thấp. Đã đến
lúc phải có một tổ chức tín dụng được Nhà nươc hỗ trợ về vốn hoạt động như
một ngân hàng thương mại quốc doanh mới có thể đảm đương được nhiệm
vụ. Vì vậy, Ngân hàng phục vụ người nghèo (NHNg) thuộc NHNo&PTNT đã
được thành lập theo Quyết định 525 ngày 31/08/1995 của Thủ tướng Chính
phủ, khai trương hoạt động ngày 01/01/1996.
Đến năm 2002, tức là sau 7 năm tồn tại và phát triển, NHNg đã đạt được
những thành quả to lớn, là người bạn đồng hành của cộng đồng người nghèo,
được dư luận trong nước hoan nghênh, cộng đồng quốc tế đánh giá cao và quan
tâm giúp đỡ. Qua 7 năm hoạt động NHNg đã cho vay được trên 2.755 ngàn hộ,
ít nhất mỗi hộ một lần. Vốn tín dụng của NHNg đã lồng ghép vào các chương
trình dự án của địa phương, giải ngân kịp thời vụ, đúng cơ hội. Các hộ nghèo sử
dụng đúng mục đích có tác dụng phát triển sản xuất, đưa lại hiệu quả kinh tế - xã
hội thiết thực. Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới thì “XĐGN là một trong


16
những thành công nhất của Việt Nam trong phát triển kinh tế. Thập kỷ trước đây,
tỷ lệ dân số thiếu thốn, đói nghèo chiếm 58%. Song chỉ trong vịng 5 năm, tỷ lệ
này đã giảm xuống còn 37%, rồi 29% vào năm 2002".
Thứ ba, kết quả hoạt động Ngân hàng Chính sách xã hội đã đạt kể từ
khi thành lập đến nay đã khẳng định vai trị vơ cùng to lớn của lại hình ngân
hàng này trong xóa đói giảm nghèo. Từ kinh nghiệm thực tế và trên cơ sở

xem xét đề án của Ngân hàng Nhà nước hoàn thiện và tổ chức hoạt động của
Ngân hàng chính sách, tách tín dụng chính sách ra khỏi Ngân hàng thương
mại, ngày 04/10/2002 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 78/2002/NĐ-CP
về tín dụng đối với người nghèo và các đối tượng chính sách khác; đồng thời
Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 131/2002/QĐ-TTg ngày 04/10/2002
thành lập Ngân hàng chính sách xã hội, Quyết định số 180/2002/ /QĐ-TTg ban
hành Quy chế quản lý tài chính đối với NHCSXH và Quyết định số 16/2003/QĐTTg ngày 22/01/2003 ban hành Điều lệ về tổ chức hoạt động của NHCSXH.
Ngày 11/3/2003 Ngân hàng chính sách xã hội bắt đầu đi vào hoạt động.
Ngân hàng Chính sách xã hội được thành lập để thực hiện nhiệm vụ tín
dụng chính sách theo quy định tại Nghị định 78/2002/NĐ-CP ngày
04/10/2002 của Thủ tướng Chính phủ về tín dụng đối với người nghèo và các
đối tượng chính sách khác. Theo Nghị định trên, tín dụng đối với người nghèo
và các đối tượng chính sách khác là việc sử dụng các nguồn lực tài chính do
Nhà nước huy động để cho người nghèo và các đối tượng chính sách khác vay
ưu đãi để sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm, cải thiện đời sống; góp phần thực
hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xóa đói giảm nghèo, ổn định xã hội.
Sau 8 năm thành lập và hoạt động, có thể nói NHCSXH đã có bước
phát triển mạnh mạnh mẽ, bước đầu tạo được các điều kiện cần và đủ để mở
rộng đối tượng và nâng mức cho vay so với các thời kỳ trước. Tính đến cuối
năm 2009 nguồn vốn huy động và đi vay trong nước và nước ngoài để cho
vay hộ nghèo đạt 74.458 tỷ đồng, tổng dư nợ trên 72.660 tỷ đồng với 6.953


17
ngàn hộ có quan hệ tín dụng với NHCSXH. Nhờ những đóng góp của
NHCSXH, tỷ lệ nghèo chung của cả nước giảm dần từ 28,9% năm 2002;
xuống còn 19,5% năm 2004; 16% năm 2006; 14,8% - 2007; 13.4% - 2008;
12.3% - 2009 [39].
Tuy thời gian hoạt động của NHCSXH theo mơ hình mới chưa dài,
song kết quả cho vay đã phản ánh sự đổi mới trong việc vận dụng chủ trương

chính sách của Nhà nước và cơ chế tín dụng phù hợp với sự phát triển kinh tế
trong giai đoạn hiện nay. Như vậy, NHCSXH ra đời là một hệ quả mang tính
tất yếu của cơng cuộc cải cách ngành ngân hàng phù hợp với tiến trình phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong điều
kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Sự ra đời của NHCSXH đã góp phần tích cực
khắc phục những tồn tại về mơ hình tổ chức và cơ chế hoạt động của NHNg,
tách tín dụng chính sách ra khỏi tín dụng thương mại, thúc đẩy q trình
hiện đại và lành mạnh hóa hoạt động Ngân hàng trong giai đoạn mới; đồng
thời tập trung quản lý thống nhất các chương trình tín dụng ưu đãi. Đây là
một trong những cơng cụ chính sách quan trọng bảo đảm tăng trưởng kinh tế
đi đôi với thực hiện công bằng xã hội trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước.
1.1.2.2. Vai trị của Ngân hàng Chính sách xã hội
Sự hình thành và phát triển của Ngân hàng Chính sách xã hội đã tạo ra
nhiều điều kiện thuận lợi cho người nghèo vươn lên thốt nghèo, từ đó góp
phần ổn định chính trị xã hội, thúc đẩy phát triển kinh tế. Những vai trò chủ
yếu của NHCSXH đã thể hiện trong những năm qua kể từ khi được thành lập
bao gồm:
Thứ nhất, là “bà đỡ” cho người nghèo vươn lên thoát nghèo và làm
giàu, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số. Trước năm 2003 là thời điểm bàn
giao từ Ngân hàng Nhà nước sang Ngân hàng CSXH, một bộ phận lớn hộ
nghèo và các đối tượng chính sách ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó


18
khăn chưa được tiếp cận với kênh tín dụng chính sách của cả nước. Đến nay
Ngân hàng CSXH đã thiết kế được “đường dây tín dụng” đến với 100% xã,
phường trên mọi miền đất nước, cung ứng vốn tín dụng ưu đãi đến các tỉnh
miền núi với dư nợ 9.683 tỷ đồng cho khoảng 2.548 ngàn hộ nghèo vay, bằng
205,5% dư nợ và 135,17%, đưa mức cho vay bình quân từ 2,5 triệu đồng/hộ

lên 3,8 triệu đồng/hộ, trong đó dư nợ cho vay hộ nghèo thuộc Chương trình
135 là 2.601 tỷ đồng cho 654 ngàn hộ vay. Vốn cho vay được lồng ghép vào
các chương trình dự án kinh tế địa phương, vừa được ưu đãi về lãi suất, thời
hạn cho vay, không phải thế chấp tài sản, đã giúp các hộ nghèo miền núi có
đủ số vốn cần thiết mua sắm vật tư, kỹ thuật phục vụ sản xuất, trồng trọt, chăn
nuôi, chuyển đổi cơ cấu cây trồng[16].
Thứ hai, hoạt động của NHCSXH đã có tác động tích cực tới phát huy
năng lực sản xuất kinh doanh của người nghèo do gây được ý thức trách
nhiệm trong quan hệ giữa ngươig nghèo với ngân hàng thông qua hoạt động
“vay, trả”. Tín dụng chính sách có hiệu quả hơn so với phương thức cấp phát
vốn bởi vì việc hỗ trợ vốn được thực hiện theo phương thức hoàn trả nên
nguồn vốn được sử dụng nhiều lần, giúp nhiều người hưởng lợi. Nguồn vốn
chính sách tạo các tác động tích cực đến người vay. Người vay vốn tìm cách
sử dụng vốn sao cho có hiệu quả nhất, tạo ra thu nhập để cải thiện đời sống và
trả được nợ. Hiệu quả đạt được từ sử dụng nguồn vốn tín dụng của NHCSXH
giúp người nghèo cảm thấy tự tin hơn khi nhận vốn vay, tin tưởng vào khả
năng sử dụng vốn để sản xuất kinh doanh, xóa bỏ tư tưởng ỷ lại, có ý thưc
vươn lên thốt nghèo và làm giàu.
Thứ ba, phát huy vai trị của cấp ủy, chính quyền địa phương, đặc
biệt là cấp xã trong xóa đói giảm nghèo, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã
hội địa phương.
Hoạt động cho vay của Ngân hàng chính sách xã hội rất cần có sự hỗ
trợ từ phía cấp ủy, chính quyền, đặc biệt là tại cấp huyện, cấp xã. Theo quy


19
định, việc xác nhận đối tượng tín dụng của NHCSXH được thực hiện trực tiếp
bởi chính quyền địa phương. Chính quyền địa phương có trách nhiệm chỉ đạo
thực hiện tín dụng chính sách theo đúng quy định của pháp luật. Việc xác định
các hộ gia đình có con em đi học, xác định gia đình có hồn cảnh khó khăn,

các hộ nghèo là vấn đề tưởng chừng khơng khó, nhưng trên thực tế lại phát
sinh rất nhiều vướng mắc, có thể dẫn đến các hiện tượng làm hồ sơ giả mạo
nhằm chiếm đoạt tiền vay tại ngân hàng. Để xác định đúng đối tượng được
hưởng thụ tín dụng chính sách của NHCSXH, đưa chủ trương giúp đỡ người
nghèo vươn lên của Đảng và Nhà nước vào cuộc sống và phát huy tác động
tích cực của tín dụng chính sách tới xóa đói giảm nghèo, thúc đẩy phát triển
kinh tế - xã hội của địa phương, cấp ủy, chính quyền cấp huyện, cấp xã buộc
phải nỗ lực hơn trong công tác lãnh đạo, điều hành và phối hợp hoạt động với
NHCSXH tại địa phương. Bằng những nỗ lực của mình Chính quyền địa
phương các cấp có vai trị rất lớn trong việc xúc tiến các hoạt động cho vay
của ngân hàng, hạn chế rủi ro cho hoạt động này, đồng thời góp phần tăng
cường tác động tích cực của NHCSXH tới phát triển kinh tế - xã hội của địa
phương.
Thứ tư, hoạt động của NHCSXH góp phần phát huy vai trị của các tổ
chức chính trị xã hội trong cơng cuộc XĐGN và giải quyết việc làm.
Trong điều kiện số vốn và lực lượng cán bộ còn hạn hẹp, NHCSXH đã
và đang thực hiện mơ hình quản lý vốn tín dụng đặc thù trên cơ sở liên kết
giữa ngân hàng với các tổ chức chính trị - xã hội, Tổ TK&VV của cộng đồng
người nghèo. Chung tay thực hiện mục tiêu “xã hội hố kênh tín dụng chính
sách” với phương thức điều hành: Ủy thác từng phần - Dân chủ công khai Giao dịch tại xã, nhằm tăng cường năng lực hoạt động cho NHCSXH, thông
qua giải pháp khai thác sức mạnh tổng hợp trong xã hội để phục vụ tối đa nhu
cầu chuyển tải nguồn vốn tín dụng cho người nghèo và các đối tượng chính
sách. Chủ trương này đã được nhiều ngành, nhiều cấp, các hội, đoàn thể đồng


20
tình ủng hộ, qua đó cùng góp cơng, góp của, tạo điều kiện ban đầu cho
NHCSXH lớn mạnh cả về chiều rộng và chiều sâu.
Cho vay uỷ thác được người dân đồng tình ủng hộ bởi cách làm cơng
khai, dân chủ hố kênh tín dụng chính sách của Nhà nước. Thơng qua hoạt

động bình xét người vay tại các Tổ TK&VV do Hội ND thành lập, vốn tín
dụng ưu đãi đến đối tượng được thụ hưởng một cách thuận lợi, nhanh chóng
và chính xác. Việc ngân hàng tiến hành giao dịch tại xã đã tiết giảm được thời
gian, thủ tục và chi phí đi lại cho người vay. Với việc uỷ thác từng phần công
việc cho Hội ND các cấp trong quy trình cho vay vốn, NHCSXH tiết giảm
được chi phí quản lý; khơng làm tăng thêm biên chế trong ngành, đảm bảo
công tác quản lý nợ, thu lãi, thu nợ gốc và giám sát, hướng dẫn hộ vay sử
dụng vốn đúng mục đích.
Đến nay, Hiện Hội NDVN đang quản lý 68.800 Tổ TK&VV ở 9.600 xã,
phường, thị trấn với trên 2,5 triệu thành viên là hộ nghèo và các đối tượng
chính sách khác. Qua đánh giá, số tổ xếp loại tốt chiếm 70%, tổ xếp loại khá
chiếm 18,5%. Từ khi thành lập đến nay, NHCSXH đã tạo việc làm cho
2.061.250 người; giúp 1.903.850 hộ gia đình thốt nghèo; 1.671.000 học sinh,
sinh viên có tiền đi học; 3.182 hộ gia đình sản xuất kinh doanh vùng khó khăn
được vay vốn phát triển ngành nghề; đầu tư xây dựng và cải tạo mới 328.000
cơng trình nước sạch, 360.000 cơng trình vệ sinh, cho vay xây dựng 59.731
ngôi nhà ở 62 huyện nghèo... [9].
1.2. NỘI DUNG HOẠT ĐỘNG VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG
TỚI HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG CHÍNH SÁCH XÃ HỘI

1.2.1. Nội dung hoạt động của ngân hàng chính sách xã hội
Hoạt động của NHCSXH gồm nhiều nội dung từ huy động vốn tới cung
cấp tín dụng và các dịch vụ ngân hàng cho các chủ thể trong nền kinh tế đến
tổ chức bộ máy, mạng lưới và phát triển nguồn nhân lực… Những nội dung
chủ yếu thể hiện đặc thù trong hoạt động của NHCSXH bao gồm:
1.2.1.1. Huy động vốn:


21
Để có vốn hoạt động NHCSXH phải thực hiện huy động vốn từ nhiều

nguồn. Nguồn vốn hoạt động chủ yếu của NHCSXH là từ Ngân sách Nhà nước.
Bên cạnh đó NHCSXH có thể huy động vốn thơng qua các hoạt động như:
- Tổ chức huy động vốn trong và ngoài nước có trả lãi của mọi tổ chức
và tầng lớp dân cư bao gồm tiền gửi có kỳ hạn, khơng kỳ hạn; tổ chức huy
động tiết kiệm trong cộng đồng người nghèo.
- Phát hành trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh, chứng chỉ tiền gửi và
các giấy tờ có giá khác; vay các tổ chức tài chính, tín dụng trong và ngoài
nước; vay tiết kiệm Bưu điện, Bảo hiểm xã hội Việt Nam; vay Ngân hàng
Nhà nước.
- Được nhận các nguồn vốn đóng góp tự nguyện khơng có lãi hoặc
khơng hoàn trả gốc của các cá nhân, các tổ chức kinh tế, tổ chức tài chính, tín
dụng và các tổ chức chính trị - xã hội, các hiệp hội, các tổ chức phi Chính
phủ trong nước và nước ngồi.
- Mở tài khoản tiền gửi thanh toán cho tất cả các khách hàng trong và
ngồi nước.
Tính đến hết năm 2009, tổng nguồn vốn đạt 74.458 tỷ đồng, tăng
19.767 tỷ đồng so với năm 2008, trong đó vốn điều lệ đạt 9.488 tỷ đồng,
tăng 1.500 tỷ đồng so với năm trước; vốn nhận uỷ thác đầu tư đạt 7.644 tỷ
đồng, tăng 2.003 tỷ đồng; vốn vay lãi suất thấp 30.476 tỷ đồng, tăng 9.212
tỷ đồng, nguồn vốn huy động theo lãi suất thoả thuận 22.982 tỷ đồng, tăng
5.392 tỷ đồng; các quỹ và vốn khác 3.868 tỷ đồng, tăng 1.660 tỷ đồng so
với năm 2008 [21].
1.2.1.2. Cho vay ưu đãi theo các chương trình Chính phủ giao
Hiện nay, NHCSXH được Chính phủ giao thực hiện 14 chương trình
cho vay ưu đãi như: cho vay hộ nghèo, cho vay các đối tượng chính sách đi
lao động có thời hạn nước ngồi (cho vay xuất khẩu lao động), cho vay học
sinh sinh viên có hồn cảnh khó khăn, cho vay chương trình nước sạch và vệ


22

sinh môi trường nông thôn, cho vay Quỹ quốc gia về việc làm, cho vay hộ
đồng bào dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn, cho vay hỗ trợ hộ nghèo về nhà
ở, cho vay thương nhân tại vùng khó khăn, cho vay hộ sản xuất kinh doanh tại
vùng khó khăn, cho vay sau cai nghiện, cho vay làm nhà trả chậm tại các tỉnh
Tây nguyên, cho vay làm nhà vượt lũ ở đồng bằng sơng Cửu Long; 2 chương
trình cho vay bằng nguồn vốn nước ngoài: cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ,
cho vay dự án trồng rừng tại 4 tỉnh Miền trung và một số dự án cho vay khác.
Cụ thể:
- Chương trình cho vay hộ nghèo nhằm giúp các hộ nghèo vay vốn với
lãi suất ưu đãi 0,65%/tháng, mức vay tối đa là 30 triệu đồng để phục vụ sản
xuất kinh doanh, tạo việc làm, cải thiện đời sống, vươn lên thoát nghèo.
- Cho vay học sinh sinh viên có hồn cảnh khó khăn để hỗ trợ cho học
sinh, sinh viên, góp phần trang trải chi phí cho việc học tập, sinh hoạt của học
sinh, sinh viên trong thời gian theo học tại các trường đại học, cao đẳng, trung
cấp chuyên nghiệp, cơ sở đào tạo nghề. Mức vay tối đa là 860.000 đồng/
tháng/ học sinh, sinh viên với lãi suất 0,5%/tháng.
- Cho vay các đối tượng cần vay vốn để giải quyết việc làm nhằm tạo
công ăn việc làm cho những đối tượng khơng có hoặc thiếu công ăn việc làm,
phát triển sản xuất, kinh doanh với mức lãi suất cho vay 0,65%/tháng, mức
vay tối đa 20.000.000 đồng/lao động.
- Cho vay các đối tượng chính sách đi lao động có thời hạn ở nước
ngồi. Mục tiêu vừa giải quyết công ăn việc làm, tạo thu nhập cho các đối
tượng đi lao động và gia đình họ, đồng thời nâng cao kiến thức, tay nghề
người lao động sau khi về nước. Mức lãi suất cho vay 0,65%/tháng, mức tối
đa tuỳ thuộc từng thị trường lao động theo quy định.
- Cho vay nước sạch và vệ sinh môi trường nơng thơn nhằm giúp các hộ
gia đình nhất là vùng nông thôn được sử dụng nước sạch, xây dựng khu vệ
sinh xa nhà, đảm bảo vệ sinh môi trường, góp phần thực hiện nếp sống văn



23
hóa mới ở nơng thơn. Mức lãi suất cho vay là 0,9%/tháng, mức vay tối đa là 8
triệu (nước sạch 4 triệu, cơng trình vệ sinh 4 triệu).
- Cho vay hộ gia đình sản xuất kinh doanh vùng khó khăn theo quyết
định 31 của Thủ tướng chính phủ nhằm giúp các hộ sản xuất kinh doanh ở
vùng khó khăn theo Quyết định 30/2007/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ
để phát triển sản xuất hàng hoá. Mức lãi suất cho vay là 0,9%/tháng, mức vay
tối đa là 100 triệu/hộ.
- Cho vay hộ dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn theo Quyết định 32 của
Thủ tướng Chính phủ đối nhằm giúp các hộ đồng bào, dân tộc thiểu số đặc biệt
khó khăn để phát triển sản xuất, ổn định đời sống, sớm vượt qua đói nghèo. Mức
lãi suất 0%. Thời hạn cho vay 5 năm, mức vay là 5 triệu đồng/ hộ.
- Cho vay hỗ trợ hộ nghèo làm nhà ở theo Quyết định 167 năm 2008
của Thủ tướng chính phủ cùng với các nguồn hỗ trợ khác nhằm giúp các hộ
nghèo chưa có nhà ở hoặc đã có nhà ở nhưng dột nát, có nguy cơ sụp đổ
nhưng khơng có khả năng tự cải thiện nhà ở. Mức cho vay tối đa 8triệu/hộ, lãi
suất cho vay 3%/năm, thời hạn cho vay 10 năm.
- Cho vay hộ thương nhân hoạt động thương mại tại vùng khó khăn theo
Quyết định 92 Thủ tướng chính phủ. Đối tượng cho vay là cá nhân mức cho
vay tối đa là 100 triệu đồng, đối tượng là các tổ chức kinh tế, mức cho vay tối
đa là 500 triệu đồng, với lãi suất cho vay 0,9%/tháng.
- Cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ (KFW), đây là một dự án của nước
ngoài (Đức) nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển. Mức vay tối
đa 500 triệu/dự án/doanh nghiệp, mức lãi suất 9%/năm.
Ngồi ra cịn thực hiện các chương trình tín dụng ưu đãi khác như cho
vay làm nhà ở Đồng bằng sông Cửu Long; cho vay các tổ chức, doanh nghiệp
sử dụng lao động sau cai nghiện ma tuý; cho vay theo Nghị quyết 30a Chính
phủ đối với 62 huyện nghèo với mức cho vay đối với hộ nghèo là 5 triệu, lãi
suất cho vay 0%, thời hạn cho vay 2 năm.



24
1.2.1.3. Tổ chức bộ máy, mạng lưới và phát triển nguồn nhân lực
Về tổ chức bộ máy và mạng lưới hoạt động: Bộ máy quản trị gồm Hội
đồng quản trị ở Trung ương và Ban đại diện HĐQT cấp tỉnh, huyện do lãnh
đạo các cơ quan quản lý Nhà nước, các tổ chức chính trị – xã hội (TC CT-XH)
cử trên 8.000 cán bộ lãnh đạo tham gia hoạt động kiêm nhiệm, thực hiện chức
năng quản trị NHCSXH, có nhiệm vụ tham mưu hoạch định chính sách,
nguồn vốn, chính sách đầu tư và chỉ đạo, giám sát việc thực thi chính sách tín
dụng của Nhà nước. Cụ thể là tham gia Hội đồng quản trị và Ban đại diện Hội
đồng quản trị các cấp, nhằm hoạch định chính sách tạo lập nguồn vốn, chính
sách đầu tư; xác định đối tượng thụ hưởng chính sách tín dụng trong từng thời
kỳ. Hội đồng quản trị NHCSXH có 12 thành viên, trong đó có 3 thành viên
chuyên trách, 9 thành viên làm việc theo chế độ kiêm nhiệm là Thứ trưởng
hoặc cấp tương đương của các Bộ, Ngành có liên quan gồm: Bộ Tài chính, Bộ
Kế hoạch và Đầu tư, Ngân hàng nhà nước, Bộ Lao động – Thương binh và Xã
hội, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ủy ban Dân tộc, Văn phịng
Chính phủ, Hội Nơng dân Việt Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam. Tại các
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; quận, huyện, thị xã, thành phố trực
thuộc tỉnh có Ban đại diện Hội đồng quản trị do Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch
UBND cùng cấp làm trưởng ban, các thành viên khác là lãnh đạo các Sở, Ban
ngành và tổ chức CT-XH trên địa bàn (cơ cấu và chế độ làm việc tương tự
như thành viên Hội đồng quản trị tại trung ương).
Bộ máy điều hành tác nghiệp: làm nhiệm vụ thường trực, tổ chức điều
hành quản lý vốn thống nhất từ Trung ương đến địa phương. Đến
31/12/20009 NHCSXH đã có bộ máy với 63 chi nhánh ấp tỉnh và Sở giao
dịch; 614 Phòng giao dịch NHCSXH cấp huyện; hơn 8.998 điểm giao dịch
lưu động tại xã, phường.
Hoạt động của NHCSXH đang từng bước được xã hội hố, ngồi số
cán bộ trong biên chế đang thực hiện nhiệm vụ trong hệ thống NHCSXH từ



25
Trung ương đến tỉnh, huyện cịn có sự phối hợp chặt chẽ với các hội, đoàn thể
(Hội Phụ nữ, Hội Nơng dân, Hội Cựu chiến binh và Đồn Thanh niên), thực
hiện nhiệm vụ uỷ thác cho vay vốn thông qua trên 200 ngàn Tổ Tiết kiệm và
vay vốn tại khắp thôn, bản trong cả nước, với hàng trăm ngàn cán bộ không
biên chế đang sát cánh cùng ngân hàng trong cơng cuộc “xóa đói giảm
nghèo”. Chính sách tín dụng ưu đãi đối với người nghèo và các đối tượng
chính sách khác đã đến với 100% số xã trong cả nước. Tính đến hết năm 2009
tồn hệ thống có 8.379 cán bộ, trong đó: 7.533 hợp đồng lao động có thời hạn
và không xác định thời hạn, 846 lao động hợp đồng ngắn hạn.
Về công tác đào tạo phát triển nguồn nhân lực: để thực hiện có hiệu
quả các chương trình tín dụng ưu đãi của Chính phủ và đảm bảo cho sự phát
triển bền vững của NHCSXH cần phải chú trọng công tác đào tạo nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực. Trong công tác đào tạo phải xây dựng và áp dụng
những nội dung, phương pháp, giáo trình giảng dạy, phù hợp với từng đối
tượng từ cán bộ lãnh đạo quản lý các cấp đến cán bộ mới được tuyển dụng và
cán bộ hội, đoàn thể, Ban quản lý Tổ TK&VV và cán bộ Ban XĐGN cấp xã.
Về nội dung đào tạo: Công tác đào tạo trước hết tập trung vào đào tạo
kỹ năng làm việc của đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý các cấp (Từ Hội sở
chính đến chi nhánh cấp tỉnh và Phịng giao dịch cấp huyện) đào tạo kiến thức
về chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng giao tiếp cơ bản cho cán bộ mới được
tuyển dụng và tiếp nhận vào NHCSXH, đảm bảo cho các học viên có thể thực
hiện tốt các cơng việc ngay sau khi tuyển dụng. Nội dung đào tạo nâng cao kỹ
năng làm việc cho cán bộ lãnh đạo quản lý các cấp gồm Kỹ năng lãnh đạo
quản lý, Kỹ năng giảng dạy và Kỹ năng giao tiếp ứng xử.
Đối với cán bộ mới tuyển dụng và tiếp nhận, nội dung đào tạo phải
cập nhật đầy đủ, kịp thời các văn bản quy định hiện hành của NHCSXH,
bám sát yêu cầu của công tác chuyên môn và những kỹ năng cần thiết nhất

đối với một cán bộ NHCSXH. Trong quá trình đào tạo, các học viên cần


×