Tải bản đầy đủ (.doc) (110 trang)

giải quyết việc làm cho nông dân bị thu hồi đất ở bốn quận, huyện phía tây thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (521.69 KB, 110 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nước ta đang trong q trình đẩy mạnh cơng nghiệp hóa (CNH) và hiện
đại hóa (HĐH) đất nước, từng bước hội nhập với nền kinh tế thế giới. Vì vậy,
việc phát triển các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, các khu chế xuất và đơ
thị là tất yếu. Nó tác động đến nhiều mặt trong đời sống kinh tế - xã hội nông
thôn. Sự phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất, cụm công nghiệp, đô
thị dẫn đến sự thay đổi về đất đai, lao động, việc làm, thu nhập và cơ cấu kinh
tế nông nghiệp, nông thôn. Tuy nhiên, sự phát triển các khu công nghiệp, khu
chế xuất và đô thị cũng tạo ra rất nhiều khó khăn cho nơng dân các vùng có
đất thu hồi. Đó là: sự mất dần diện tích đất nơng nghiệp và hậu quả của nó là
hàng ngàn nông hộ không hoặc thiếu đất sản xuất, tăng tỷ lệ thất nghiệp và
tạo ra nhiều vấn đề tiêu cực trong xã hội nông thôn; việc sử dụng tiền đền bù
khơng đúng mục đích, dẫn đến lãng phí không cần thiết, đôi khi dẫn đến
những hậu quả xã hội không lường; sự tăng lên về giá tiêu dùng do sự tập
trung của nhiều lao động; các vấn đề xã hội nảy sinh ở các khu công nghiệp,
khu chế xuất,...
Trong những năm qua, kinh tế của các quận, huyện, thị xã phía tây
Thành phố Hà Nội đã có những bước phát triển mạnh mẽ. Trong đó, tỷ trọng
cơng nghiệp và tiểu thủ công nghiệp chiếm trên 40% tổng sản phẩm và tăng
trung bình trên 20%/năm. Hàng năm diện tích đất nơng nghiệp giảm do
chuyển mục đích sử dụng sang công nghiệp, dịch vụ, giao thông vận tải ngày
càng tăng. Ước tính đến năm 2010, diện tích đất nơng nghiệp phải chuyển
mục đích sử dụng là 10.000 ha, năm 2020 là 30.000 ha. Số lao động thiếu việc
làm đến năm 2010 dự kiến là 8 -10 vạn lao động, năm 2020 con số này sẽ là
30 vạn. Song trong thực tế cho thấy, hàng ngàn lao động nông nghiệp sau khi
thu hồi đất đang có nhu cầu được đào tạo nghề, được bố trí cơng ăn, việc làm


2


ổn định; tình trạng lao động trong vùng thu hồi đất khơng tìm được việc làm,
hoặc tìm được việc làm nhưng khơng ổn định, tình trạng các doanh nghiệp
sau khi tuyển dụng lao động theo cam kết đã sa thải lao động hoặc trả lương
quá thấp khiến người lao động tự bỏ việc không phải là hiện tượng cá biệt,
cùng với đó việc sử dụng đất thu hồi kém hiệu quả đã và đang gây ra sự bất
công trong xã hội, làm cho tình hình chính trị, trật tự, an ninh xã hội ở một số
nơi có nguy cơ bất ổn định.
Vấn đề giải quyết việc làm ổn định, tăng thu nhập cho người lao động
nhất là ở vùng thu hồi đất là vấn đề cấp thiết có tính bức xúc không phải chỉ ở
Thành phố Hà Nội mà là vấn đề có tính thời sự cho tất cả các tỉnh, thành phố
có đất chuyển đổi mục đích sử dụng sang phát triển các khu công nghiệp, khu
chế xuất, cụm công nghiệp và đô thị.
Do vậy, tôi chọn đề tài: “Giải quyết việc làm cho nông dân bị thu hồi
đất ở bốn quận, huyện phía tây Thành phố Hà Nội” để nghiên cứu làm luận
văn thạc sĩ chuyên ngành kinh tế chính trị.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Cho đến nay đã có nhiều cơng trình nghiên cứu liên quan đề cập đến
vấn đề việc làm và thu nhập của người nơng dân có đất bị thu hồi để xây dựng
các khu công nghiệp, khu đô thị và xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội,
trong đó đáng chú ý là một số cơng trình sau đây:
- Thực trạng thu nhập, đời sống, việc làm của người có đất bị thu hồi

để xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xó hội, nhu cầu cụng cộng và lợi ớch quốc gia. (Đề tài độc lập cấp nhà nước
12/2005). Nghiên cứu này được thực hiện tại 7 tỉnh/TP: Hà Nội, TP Hồ Chớ
Minh, Hải Phũng, Đà Nẵng, Bắc Ninh, Cần Thơ và Bỡnh Dương với mục tiêu.
+ Đánh giá thực trạng thu nhập, đời sống, việc làm của người có đất bị thu
hồi để xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh


3

tế, xó hội, nhu cầu cụng cộng và lợi ớch quốc gia hiện nay, chỉ ra những thành
tựu, hạn chế, nguyờn nhõn hạn chế của vấn đề này.
+ Đề xuất các quan điểm, phương hướng, giải pháp và các điều kiện giải
quyết thu nhập, đời sống, việc làm của người có đất bị thu hồi để xây dựng
các khu cơng nghiệp, khu đô thị, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xó hội, nhu
cầu cụng cộng và lợi ớch quốc gia những năm tới.
- Nghiên cứu đề xuất phương án đào tạo và phát triển nguồn nhân lực
nông thôn ngoại thành Hà Nội trong quỏ trỡnh đơ thị hố gắn với cơng
nghiệp hố, hiện đại hố trên địa bàn thành phố Hà Nội. (Đề tài khoa học và
công nghệ cấp thành phố - 2005). Cùng với xu thế khách quan và tất yếu của
đơ thị hố là sự chuyển dịch về cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động ở các vùng
bị thu hồi đất sản xuất nông nghiệp, trong đó vấn đề giải quyết việc làm cho
người lao động thuần nông gặp phải những trở ngại lớn khi họ buộc phải
chuyển đổi từ việc làm nông nghiệp không cần đến trỡnh độ chuyên môn kĩ
thuật sang việc làm phi nông nghiệp đũi hỏi phải cú trỡnh độ chuyên môn kĩ
thuật. Nghiên cứu này hướng đến đề xuất những giải pháp phát triển nguồn
nhân lực nông thôn với phương án khả thi và mô hỡnh phự hợp với xu thế đơ
thị hố nhanh và chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngoại thành Hà Nội.
- Về vấn đề giải quyết việc làm đề tài cấp Bộ (2000) “Những biện pháp
chủ yếu giải quyết lao động thiếu việc làm ở vùng thuần nông” do Trung tâm
Nghiên cứu Dân số và Nguồn lao động - Viện Khoa học Lao động và Xó hội
thực hiện, đó đưa ra nhận định: Khả năng tạo việc làm ở khu vực nông thôn
hiện nay rất phong phú và đa dạng, tạo việc làm phi nông nghiệp ngay tại địa
phương, tăng cường dạy nghề cho lao động nông thôn, ưu tiên các dự án quốc
gia và quốc tế cho việc giải quyết việc làm, dạy nghề và nõng cao dõn trớ.
- TS. Nguyễn Hữu Dũng và cỏc tỏc giả khỏc (1997) trong nghiờn cứu
"Về chớnh sỏch giải quyết việc làm ở Việt Nam” đó đề cập đến chính sách giải


4

quyết việc làm của nước ta trong thời kỳ đẩy mạnh CNH- HĐH đất nước. Về
mặt lý luận nghiên cứu đó nờu khỏ chi tiết về phương pháp luận, cách tiếp cận
về chính sách việc làm, hệ thống khái niệm về lao động - việc làm và phương
pháp tính. Đặc biệt cơng trỡnh nghiờn cứu đó bước đầu đề cập đến khái niệm
thị trường lao động, mối quan hệ giữa cung - cầu lao động và vai trũ đối với
giải quyết sức ép về việc làm. Về mặt thực tiễn các tác giả đó phõn tớch đánh
giá thực trạng vấn đề việc làm ở nước ta nói chung, trong nơng nghiệp, nơng
thơn nói riêng và những ngun nhân chủ yếu; khái quát dũng di chuyển lao
động trên thị trường lao động, nhất là di chuyển từ nông thôn ra thành thị tỡm
việc làm. Trờn cơ sở đó đưa ra hệ thống quan điểm giải quyết việc làm trong
quá trỡnh đẩy mạnh CNH-HĐH ở nước ta. Giải pháp cơ bản cho khu vực
nơng thơn đó là giải quyết nạn thiếu việc làm cũn rất phổ biến và nghiờm
trọng, việc làm kộm hiệu quả và thu nhập thấp thụng qua chuyển dịch cơ bản
cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động theo hướng CNH- HĐH.
- Trường Đại học Kinh tế quốc dân trong đề tài độc lập cấp nhà nước
KX.01 -2005 đó đề cập đến vấn đề “Việc làm và thu nhập cho lao động bị thu
hồi đất trong quá trỡnh CNH-HĐH và đơ thị hố”. Về mặt lý luận nghiờn cứu
đó đề cập đến sự cần thiết phải thu hồi đất, CNH-HĐH và đơ thị hố tất yếu
sẽ dẫn đến thu hồi đất nơng nghiệp và do đó một bộ phân dân sẽ mất việc làm
trong nông nghiệp. Đây vừa là cơ hội, vừa là thách thức đối với nước ta trong
quá trỡnh phỏt triển. Về mặt thực tiễn nghiờn cứu chỉ ra những bất cập về vấn
đề đảm bảo thu nhập, đời sống, việc làm của người có đất bị thu hồi. Việc thu
hồi đất là điều kiện chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng tiến bộ nhưng kế
hoạch thu hồi đất không gắn với kế hoạch đào tạo nghề nên người dân mất đất
khơng có việc làm và thu nhập, đời sống người dân tiềm ẩn sự bất ổn bên
trong. Nghiên cứu dự báo nhu cầu thu hồi đất và đưa ra khung chính sách
đồng bộ bao gồm: Chính sách đền bù, bồi thường thiệt hại; Chính sách tạo


5

việc làm; Chính sách tái định cư; Chính sách về trách nhiệm và nghĩa vụ của
các đơn vị được nhận đất thu hồi sử dụng vào các mục đích phát triển các khu
cơng nghiệp, khu đơ thị và các chính sách xó hội liờn quan để đảm bảo việc
làm và thu nhập cho đối tượng bị thu hồi đất.
- GS, TSKH Lê Du Phong: Thu nhập, đời sống, việc làm của người có
đất bị thu hồi để xây dựng các KCN, KĐT, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội,
các cơng trình cơng cộng, phục vụ lợi ích quốc gia, do Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia xuất bản cuốn sách chủ biên (5/2007). Trong đó, nêu một số vấn đề
lý luận, thực trạng về thu nhập, đời sống, việc làm của người dân có đất bị thu
hồi để xây dựng các KCN, KĐT, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, các cơng
trình cơng cộng, phục vụ lợi ích quốc gia trong thời gian qua ở nước ta, đồng
thời cho thấy những khó khăn tồn tại. Qua đó, các tác giả đã đưa ra những
quan điểm, giải pháp và kiến nghị nhằm giải quyết việc làm, đảm bảo thu
nhập và đời sống của người dân có đất bị thu hồi để xây dựng các KCN, KĐT,
kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, các cơng trình cơng cộng, phục vụ lợi ích
quốc gia trong thời gian tới.
Nhìn chung, các cơng trình và bài viết trên đã có những cách tiếp cận
khác nhau hoặc trực tiếp, hoặc gián tiếp vấn đề việc làm của người có đất bị
thu hồi trong những năm gần đây. Nhưng đến nay, chưa có cơng trình nào
nghiên cứu vấn đề giải quyết việc làm cho người nơng dân có đất bị thu hồi
trên địa bàn phía tây Thành phố Hà Nội dưới góc độ kinh tế chính trị. Đề tài
tác giả lựa chọn để nghiên cứu không trùng lặp với các công trình và bài viết
đã cơng bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Trên cơ sở phân tích thực trạng giải quyết việc làm cho người nơng
dân có đất bị thu hồi ở bốn quận, huyện phía tây Thành phố Hà Nội. Từ đó


6

đề xuất phương hướng và các giải pháp nhằm giải quyết có hiệu quả vấn đề
việc làm cho người nơng dân có đất bị thu hồi trên địa bàn phía tây Thành
phố Hà Nội theo hướng CNH, HĐH.
3.2. Nhiệm vụ
- Hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ bản về lao động, việc làm và
giải quyết việc làm.
- Phân tích thực trạng giải quyết việc làm cho người lao động bị thu hồi
đất trên địa bàn phía tây Thành phố Hà Nội.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm giải quyết có hiệu quả hơn
vấn đề việc làm cho người nơng dân có đất bị thu hồi trên địa bàn phía tây
Thành phố Hà Nội.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là giải quyết việc làm cho nông dân
có đất bị thu hồi. Trong đó hướng nghiên cứu sâu vào những hộ nông dân
bị thu hồi đất thuộc 20 xã trên địa bàn bốn quận, huyện phía tây Thành phố
Hà Nội, bao gồm: Hà Đơng, Thạch Thất, Hồi Đức, Quốc Oai làm đối
tượng nghiên cứu.
4.2. Phạm vi
- Phạm vi nội dung:
Đề tài tập trung nghiên cứu vấn đề giải quyết việc làm cho người nông
dân bị thu hồi đất do chuyển đổi mục đích sử dụng trên địa bàn phía tây
Thành phố Hà Nội.
- Phạm vi khụng gian: Đề tài được tiến hành trên địa bàn bốn quận,
huyện phía tây của Thành phố Hà Nội, đó là: quận Hà Đơng và các huyện
Thạch Thất, Quốc Oai, Hồi Đức.


7
- Phạm vi thời gian: Các số liệu đưa ra sử dụng trong đề tài chủ yếu từ

năm 2003 đến năm 2008.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở những nguyên lý của chủ nghĩa Mác
- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, những quan điểm, đường lối và chính sách
của Đảng và Nhà nước Việt Nam về CNH, HĐH đất nước và giải quyết việc
làm cho người nơng dân có đất bị thu hồi.
Để phục vụ cho mục đích nghiên cứu đề ra, tác giả sử dụng các
phương pháp nghiên cứu: lý luận - thực tiễn, điều tra, khảo sát, so sánh,
phân tích, tổng hợp tình hình thực tiễn diễn ra trong giải quyết việc làm cho
người nơng dân có đất bị thu hồi trên địa bàn phía tây Thành phố Hà Nội.
6. Những đóng góp mới của luận văn
- Phân tích và đánh giá thực trạng giải quyết việc làm, cho người nơng
dân có đất bị thu hồi đất trên địa bàn phía tây Thành phố Hà Nội.
- Đề xuất phương hướng và những giải pháp cơ bản nhằm giải quyết có
hiệu quả vấn đề việc làm cho người nơng dân có đất bị thu hồi trên địa bàn
phía tây Thành phố Hà Nội đến năm 2020.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo
đề tài luận văn kết cấu thành 3 chương, 8 tiết.
Chương 1: Những vấn đề lý luận, thực tiễn về việc làm và giải quyết
việc làm cho nông dân.
Chương 2: Thực trạng việc làm và giải quyết việc làm cho nông dân bị
thu hồi đất ở bốn quận, huyện phía tây Thành phố Hà Nội.
Chương 3: Các giải pháp giải quyết việc làm cho nông dân bị thu hồi
đất ở bốn quận, huyện phía tây Thành phố Hà Nội đến năm 2020.


8

Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN, THỰC TIỄN VỀ VIỆC LÀM
VÀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO NÔNG DÂN
1.1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ LAO ĐỘNG, VIỆC LÀM VÀ GIẢI QUYẾT
VIỆC LÀM

1.1.1. Một số quan niệm về lao động, việc làm và giải quyết việc làm
1.1.1.1. Quan niệm về lao động
Lao động là hoạt động có mục đích của con người nhằm tạo ra của cải vật
chất cho chính mỡnh và cho xó hội. Do đó nó là hoạt động cơ bản nhất của con
người, là tiêu thức để phân biệt hoạt động của con người với hoạt động theo bản
năng của con vật. Lao động không những tạo ra của cải mà còn cải tạo bản thân
con người, phát triển con người cả về mặt thể lực và trí lực. Các Mác khẳng định:
Lao động trước hết là quá trình diễn ra sự tác động giữa con
người với con người và giữa con người với tự nhiên, một q trình
trong đó bằng sự hoạt động của chính mình, con người làm trung
gian điều tiết và kiểm tra sự trao đổi chất giữa họ với tự nhiên.
Trong khi tác động vào tự nhiên ở bên ngồi thơng qua sự vận động
đó và làm thay đổi tự nhiên, con người cũng đồng thời làm thay đổi
căn bản tính của chính nó [32, tr.61].
Với ý nghĩa đó, chúng ta hiểu lao động là quyền lợi và nghĩa vụ của
mỗi người trong mỗi quốc gia. Để thực hiện quyền và nghĩa vụ đó, người lao
động cần có việc làm hợp pháp, do đó việc làm là điều kiện để quá trình lao


9
động được diễn ra và cũng là cơ sở để người lao động có thu nhập, đảm bảo
đời sống của bản thân con người và của toàn xã hội.
1.1.1.2. Quan niệm về việc làm
Việc làm, là một phạm trự tổng hợp, liờn kết cỏc quỏ trỡnh kinh tế, xó
hội và nhõn khẩu, là một trong những vấn đề chủ yếu nhất của toàn bộ đời

sống xã hội. Khái niệm việc làm và khái niệm lao động khơng giống nhau,
nhưng có liên quan chặt chẽ với nhau. Việc làm thể hiện mối quan hệ của con
người với những chỗ làm việc cụ thể, là những giới hạn xã hội cần thiết trong
đó lao động diễn ra, đồng thời nó là điều kiện cần thiết để thỏa mãn nhu cầu
xã hội về lao động, là nội dung chính của hoạt động con người. Về góc độ
kinh tế, việc làm thể hiện mối tương quan giữa sức lao động và tư liệu sản
xuất, giữa yếu tố con người và yếu tố vật chất trong quá trình sản xuất.
Đối với mỗi cá nhân, gia đình và mỗi chính phủ trong từng quốc gia,
việc làm là vấn đề quan trọng được quan tâm hàng đầu. Quan niệm về việc
làm khơng cố định mà nó được xét trên nền tảng của một chế độ chính trị,
gắn với trình độ phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội của mỗi quốc
gia, mỗi thời đại. Khi trình độ phát triển mọi mặt, đặc biệt là định hướng
chính trị của mỗi quốc gia thay đổi, quan niệm về việc làm cũng biến đổi.
John Maynad Keynes (1883-1946) nhà kinh tế học nổi tiếng của nước Anh
đã viết: “Một nền kinh tế tiền tệ, như chúng ta sẽ thấy về thực chất về thực
chất là nền kinh tế trong đó những quan điểm ln thay đổi về tương lai, có
khả năng ảnh hưởng tới số lượng việc làm chứ không chỉ định hướng việc
làm mà thôi”.
Trong thực tiễn của đời sống kinh tế - xã hội, có việc làm được coi là
hợp pháp, chính đáng song cũng có việc làm tạo ra thu nhập nhưng lại được
coi là bất chính. Sự phân biệt này dựa trên cơ sở luật pháp và ý thức hệ của
mỗi quốc gia trong mỗi thời kỳ, giai đoạn của trình độ phát triển. Quan niệm


10
về việc làm hợp pháp phải là việc làm mang lại thu nhập chính đáng cho con
người - nghề hợp pháp - tương ứng với pháp luật của mỗi nước cho phép.
Ở nước ta, sau khi giành được độc lập dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
chỉ rõ: "Chúng ta phải ra sức đấu tranh làm cho nhân dân ai cũng được ăn no,
mặc ấm, có việc làm, có giờ nghỉ, được học tập” và xác định đó là trách nhiệm

của Đảng và Chính phủ. Bác nói: “Bất cứ làm nghề gì có ích cho nước nhà, cho
nhân dân, cho giai cấp đều vẻ vang. Bất cứ nấu bếp, quyét nhà hay làm Chủ
tịch đều phải lao động cả, làm gì có ích nước, lợi dân là vẻ vang [36, tr.59].
Nhưng trong một thời kỳ khá dài, chúng ta đã có quan niệm chưa đúng.
Trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung, người lao động được coi là có việc làm
và được xã hội thừa nhận, trân trọng là người làm việc trong thành phần kinh
tế quốc doanh, kinh tế tập thể, còn làm nội trợ, kinh tế gia đình, kinh doanh,
hành nghề cá thể thì chưa được xem là có việc làm chính đáng. Quan điểm đó
dẫn đến tình trạng mọi người chen chân nhau tìm việc làm trong khu vực kinh
tế quốc doanh và tập thể. Đó là một trong những nguyên nhân làm cho số
người làm việc trong khu vực kinh tế quốc doanh tăng lên quá mức so với
khối lượng sản xuất, công tác đảm nhận; kinh tế tập thể phát triển nhanh về số
lượng nhưng thiếu vững chắc; cịn kinh tế gia đình thì teo đi; kinh tế tư nhân,
cá thể không phát triển được. Tình hình đó gây tác hại khơng nhỏ đến sự phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước, làm mai một khá nhiều nguồn công việc
làm trong xã hội, đưa vấn đề giải quyết việc làm đến chỗ khó khăn, bế tắc.
Từ khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường, quan niệm về
việc làm đã được thay đổi một cách căn bản. Trên cơ sở học tập tư tưởng
Hồ Chí Minh, vận dụng khái niệm việc làm của Tổ chức lao động quốc tế
(ILO) và nghiên cứu điều kiện cụ thể của Việt Nam, chúng ta đã có khái
niệm thống nhất về việc làm và được khẳng định trong Bộ luật Luật lao
động của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được Quốc hội khoá


11
IX thông qua ngày 23/6/1994 ghi rừ: “Mọi hoạt động lao động tạo ra thu
nhập không bị pháp luật ngăn cấm đều được thừa nhận là việc làm” [41,
tr.163].
Từ quan niệm trên cho thấy: Khái niệm về việc làm bao hàm các nội
dung sau:

+ Là hoạt động lao động của con người;
+ Hoạt động lao động nhằm mục đích tạo ra thu nhập;
+ Hoạt động lao động đó khơng bị pháp luật cấm.
Với khái niệm việc làm như trên đã xóa bỏ được quan niệm cứng nhắc
trước đây là chỉ những người “trong biên chế nhà nước” mới là người có việc
làm. Việc làm khơng chỉ có trong biên chế, mà cịn ngồi biên chế, khơng chỉ
ngồi xã hội, mà cịn tại gia đình. Với khái niệm như vậy, tất cả những ai đang
làm việc trong các thành phần kinh tế, trong các cơ quan nhà nước, các tổ
chức xã hội, xí nghiệp, trường học hoặc tại gia đình (kể cả nội trợ) đều được
coi là có việc làm.
Như vậy, khái niệm việc làm được mở rộng về nội hàm và tạo khả năng
to lớn giải phóng tiềm năng lao động, giải quyết việc làm cho nhiều người. Việc
chuẩn hóa và lượng hóa khái niệm việc làm tạo ra cơ sở thống nhất trong lĩnh
vực điều tra, nghiên cứu quy hoạch và hoạch định các chính sách về việc làm.
1.1.1.3. Quan niệm về giải quyết việc làm
Giải quyết việc làm (GQVL), theo nghĩa rộng, là tổng thể những biện
pháp, chính sách kinh tế - xã hội của Nhà nước, cộng đồng và bản thân người
lao động tác động đến mọi mặt của đời sống xã hội để đảm bảo cho mọi
người có khả năng lao động đều được lao động (có việc làm) và có thu nhập.
Theo nghĩa hẹp, GQVL là các biện pháp, chính sách chủ yếu hướng vào đối
tượng thất nghiệp, thiếu việc làm nhằm tạo ra chỗ làm việc cho người lao
động để giảm tỷ lệ thất nghiệp. Theo nghĩa nêu trên, thực chất của GQVL là


12
quá trình tạo ra và kết hợp các yếu tố sản xuất bao gồm sức lao động, tư liệu
sản xuất và các điều kiện kinh tế - xã hội khác để đảm bảo cho người có khả
năng lao động được lao động và duy trì hoạt động lao động đó.
1.1.2. Vai trò giải quyết việc làm
Giải quyết việc làm cho người lao động có ý nghĩa to lớn đối với nền

kinh tế, đó chính là việc khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn lực con
người. Trong tồn bộ sự phát triển của xã hội, con người luôn luôn tồn tại với
hai tư cách; vừa là chủ thể, vừa mục tiêu trong hoạt động của mình. Với tư
cách là chủ thể, con người thực hiện sự phát triển kinh tế - xã hội mà trước hết
là phát triển lực lượng sản xuất. Với tư cách là mục tiêu, con người hưởng thụ
những thành quả của sự phát triển đó. Như chúng ta đã biết, có việc làm đồng
nghĩa với có thu nhập. Vì vậy, tạo việc làm cho người lao động, tức là đảm
bảo đồng thời ba lợi ích: Nhà nước, tập thể và cá nhân người lao động. Ngược
lại, nếu khơng có việc làm thì người lao động không tạo ra thu nhập, không
cống hiến được sức lực của mình dẫn đến giảm nhu cầu hưởng thụ, cản trở sự
phát triển của kinh tế.
- Về mặt kinh tế: GQVL tốt, số nhân lực được sử dụng trong sản xuất,
kinh doanh và dịch vụ nhiều hơn làm gia tăng của cải vật chất cho xã hội, gia
tăng sản lượng hàng hóa và các dịch vụ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước
và xuất khẩu. Thông qua việc làm ổn định và thu nhập của người lao động
ngày càng được cải thiện, nhu cầu tiêu dùng mua sắm và sử dụng các dịch vụ
cũng tăng theo. Đây là yếu tố quan trọng để kích thích và phát triển kinh tế
trong nước.
Kinh tế phát triển làm cho ngân sách quốc gia tăng lên, có tích lũy để
đầu tư xây dựng kết cấu cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh quốc
phịng của đất nước, có điều kiện để nâng cao chất lượng văn hóa - xã hội và
dân trí.


13
Do đó, trong chiến lược phát triển kinh tế của nhiều quốc gia, vấn đề
GQVL cho người lao động nhằm sử dụng hợp lý nguồn lực con người đang
được thừa nhận là quan trọng và quyết định nhất đối với một nền kinh tế. Bất
kỳ một đất nước nào giải quyết tốt vấn đề việc làm cho người lao động thì đất
nước đó nhất định có nền kinh tế phát triển nhanh chóng, ngay cả khi quốc gia

đó có điều kiện tự niện khơng thuận lợi, ít tài ngun, thậm chí hay bị thiên
tai đe dọa. Nhật Bản là một ví dụ, từ một nước bại trận trong chiến tranh thế
giới lần thứ II đã vươn lên thành cường quốc kinh tế đứng thứ hai trên thế
giới chỉ trong vòng 2 thập kỷ, với tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình hằng
năm đạt 9% trong các năm 1955-1960, gần 10% trong các năm 1960-1965 và
11,6% trong các năm 1965-1970. Nhật Bản luôn luôn coi trọng nguồn lực con
người trong việc khôi phục và phát triển kinh tế, giải quyết tốt việc làm cho
người lao động để từ đó tận dụng triệt để cả thể lực và trí lực con người cho
công cuộc phát triển kinh tế.
Đối với Việt Nam có dân số trên 86 triệu người và nền kinh tế vận hành
theo cơ chế thị trường định hướng XHCN. Vấn đề việc làm và nâng cao thu
nhập của đại bộ phận dân cư đã được Đảng, Nhà nước và các địa phương coi
trọng nên trong nhiều năm qua đất nước ta có tốc độ tăng trưởng kinh tế từ 78%, thuộc nhóm các nước có tốc độ tăng trưởng đứng đầu Châu Á và thế giới.
Từ một nước thiếu lương thực, đến nay Việt Nam là nước xuất khẩu gạo đứng
thứ 2 thế giới, nhiều mặt hàng khác như dệt may, thủy hải sản... xuất khẩu đã
là một thế mạnh của đất nước. Do kinh tế phát triển, hệ thống chính trị và xã
hội ổn định Việt Nam đang là địa chỉ hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước
ngoài, nhất là sau khi Việt Nam gia nhập tổ chức Thương mại thế giới ( WTO)
thì chỉ trong 6 tháng đầu năm 2008 đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam
đã đạt con số trên 30 tỷ USD gấp 1,5 lần so với năm 2007. Nhờ kinh tế phát


14
triển và thu hút đầu tư nước ngoài tăng nhanh nên đã tạo cơ hội có việc làm
ổn định cho hàng triệu lao động {8, tr.6}.
- Về mặt xã hội: GQVL càng nhiều tức là đã thu hút và sử dụng
nguồn nhân lực vào các hoạt động sản xuất của cải vật chất và các dịch vụ
phi vật chất của xã hội. Nhiều người lao động có việc làm cũng đồng nghĩa
với việc giảm thất nghiệp cả số lượng tuyệt đối và tỷ lệ, giảm bớt gánh
nặng của Chính phủ trong việc thực hiện các nhiệm vụ an sinh xã hội như

trợ cấp thất nghiệp và các trợ cấp khác cho người thuộc diện đói nghèo.
Người lao động có việc làm sẽ tạo được thu nhập ổn định là sự đảm bảo
về vật chất cho đời sống mỗi gia đình- tế bào cơ bản của xã hội.
Thực tiễn về tình trạng thất nghiệp và đói nghèo càng cao thì các tệ
nạn xã hội ngày càng lớn, xã hội không ổn định. Đồng thời, đây cũng là
nguyên nhân cơ bản làm mất ổn định chính trị của đất nước. Nhiều vụ bạo
loạn, đảo chính lật đổ ở các quốc gia cũng thường được bắt đầu từ những
vấn đề thất nghiệp và đói nghèo. Do đó, để đảm bảo ổn định xã hội, ổn
định chính trị mọi quốc gia đều coi GQVL là nhiệm vụ hàng đầu về an sinh
xã hội của mình.
Tóm lại, vai trị của GQVL có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Kinh tế phát triển, thể chế chính trị và
xã hội ổn định tác động trở lại tạo cơ hội và thu hút nhiều lao động có việc
làm và tăng thu nhập của cộng đồng dân cư. Do đó, GQVL cho người lao
động là một nhiệm vụ xã hội quan trọng hàng đầu của Chính phủ các quốc gia
và vùng lãnh thổ, nhất là đối với các nước đang phát triển, có dân số đơng, tỷ
lệ phát triển dân số cao thì lại càng quan trọng và cấp thiết.
1.2. PHƯƠNG THỨC GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO NÔNG DÂN BỊ THU
HỒI ĐẤT TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

1.2.1. Một số mơ hình lý thuyết về giải quyết việc làm


15
Trong lịch sử phát triển của các học thuyết kinh tế, đến nay đã có một
số lý thuyết về giải quyết việc làm, như lý thuyết các yếu tố cơ bản của quá
trình lao động của Các Mác, lý thuyết tạo việc làm của J.M. Keynes, lý thuyết
tạo việc làm bằng gia tăng đầu tư do các nhà kinh tế thuộc trường phái Chính
hiện đại, lý thuyết tạo việc làm bằng cách di chuyển lao động giữa hai khu
vực công nghiệp và nông nghiệp của Athur Lewis, lý thuyết tạo việc làm của

Harry Toshima... Các lý thuyết này đã quan tâm đến các cách giải quyết khác
nhau về việc làm.
Theo C.Mác, q trình lao động chính là sự kết hợp của ba yếu tố gồm
sức lao động, đối tượng lao động và tư liệu lao động. Thiếu một trong ba yếu
tố này thì khơng thể diễn ra q trình lao động được. Hay nói cách khác,
những khách thể bao gồm đối tượng lao động và tư liệu lao động (gọi chung
là tư liệu sản xuất) là điều kiện thiết yếu để người lao động có được việc làm.
Trong lý thuyết việc làm của J.M.Keynes cho rằng, việc làm có vai trò
rất quan trọng đối với sự ổn định và tăng trưởng của nền kinh tế. Khi việc làm
tăng, thì thu nhập thực tế tăng, cầu tiêu dùng tăng, làm tăng tổng cầu và đây là
nhân tố thúc đẩy tăng trưởng tổng cung cũng như tăng trưởng của nền kinh tế.
Để tăng quy mô việc làm, cần mở rộng đầu tư. Khối lượng đầu tư quyết định
quy mô việc làm. Điều này nghĩa là để tăng khối lượng đầu tư, Nhà nước cần
có những chương trình đầu tư quy mơ lớn, đồng thời cần có những chính sách
kích thích đầu tư của tư nhân (như chính sách tài chính, tín dụng, lưu thơng,
tiền tệ, chính sách thuế...). Việc mở rộng chi tiêu của nhà nước, tăng tiêu dùng
của những người giàu, chính sách ướp lạnh tiền cơng, tín dụng tiêu dùng cũng
được coi là các giải pháp để tăng tổng cầu, mở rộng quy mô việc làm.
Theo lý thuyết tạo việc làm bằng gia tăng đầu tư - tăng trưởng kinh tế,
thì muốn tăng trưởng kinh tế phải có tích lũy, để từ đó có vốn đầu tư mở rộng
tái sản xuất, tạo nhiều việc làm. Đối với các nước đang phát triển do thu nhập


16
thấp, tốc độ tăng trưởng chậm, tỷ lệ tích lũy thấp, dẫn đến thiếu vốn đầu tư.
Để tạo vốn đầu tư cho tăng trưởng, các nước này cần phải dựa vào lợi thế so
sánh của mình là tài nguyên thiên nhiên và nguồn nhân lực dồi dào để thu hút
vốn đầu tư từ bên ngoài (hiểu theo nghĩa rộng, vốn đầu tư bao gồm cả vốn
bằng ngoại tệ, thiết bị, phương tiện kỹ thuật, công nghệ, tri thức quản lý kinh
tế hiện đại...), từ đó sẽ tạo mở được nhiều việc làm. Tốc độ và quy mô của

vốn đầu tư tăng sẽ thúc đẩy trực tiếp tốc độ và quy mô của việc thu hút nguồn
nhân lực vào hoạt động kinh tế (tạo việc làm).
Nhìn chung, qua các lý thuyết, dưới góc độ kinh tế thị trường, có thể
khái quát quy mô việc làm được quyết định bởi:
- Quy mô vốn đầu tư: Khi lực lượng sản xuất càng phát triển, nền sản
xuất càng coi trọng việc sử dụng mỏy múc thỡ lượng vốn đầu tư để có một
chỗ làm việc càng nhiều hơn. Nền sản xuất càng có nhiều hỡnh thức đầu tư,
tức là càng có nhiều ngành nghề thỡ càng cú điều kiện mở rộng quy mô việc
làm. Trong điều kiện trỡnh độ công nghệ không đổi, thỡ quy mụ đầu tư tỷ lệ
thuận với quy mụ việc làm.
- Số lượng và chất lượng lao động: Số lượng người lao động càng
nhiều thỡ càng cú điều kiện tạo thêm việc làm. Tuy nhiên, chất lượng người
lao động có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Chất lượng người lao động được thể
hiện ở trỡnh độ, năng lực lao động, tính kỷ luật và phẩm chất của mỗi người
lao động. Sự sẵn sàng về số lượng và chất lượng lao động để đáp ứng cầu lao
động trên thị trường là một điều kiện rất quan trọng trong việc quyết định quy
mô việc làm.
- Thị trường tiêu thụ sản phẩm: Nếu dung lượng thị trường này càng
lớn, có sức tiêu thụ sản phẩm càng nhiều và càng nhanh, tức là cầu về hàng
hóa và dịch vụ tăng, thỡ cầu về cỏc yếu tố sản xuất núi chung trong đó có cầu
về lao động tăng, quy mô việc làm tăng.


17
Để tạo ra và thúc đẩy tăng trưởng những nhân tố trên đũi hỏi phải cú
một loạt cỏc giải phỏp như mở rộng tích lũy vốn, phát triển khoa học cơng
nghệ, khai thác triệt để và có hiệu quả các nguồn lực về tài nguyên thiên
nhiên; điều tiết gia tăng dân số, mở rộng và nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo, y tế, chăm sóc sức khỏe cộng đồng; sự hỗ trợ của các chính sách của
Nhà nước trong việc khuyến khích đầu tư, phát triển thị trường lao động,
chính sách thu nhập, mở cửa nền kinh tế... Về mặt lý thuyết cũng như thực

tiễn, đây chính là những giải pháp chủ yếu nhằm giải quyết việc làm. Sự phối
hợp đồng bộ và có hiệu quả những giải pháp này là điều kiện thiết yếu làm
tăng quy mô việc làm trong xó hội và chớnh đây cũng là điều kiện tạo sự tăng
trưởng kinh tế.
1.2.2. Các phương thức chủ yếu giải quyết việc làm cho người nơng
dân có đất bị thu hồi ở Việt Nam hiện nay
Là một nước nơng nghiệp, Việt Nam có tới hơn 70% số dân là nơng
dân nhưng diện tích đất dùng cho sản xuất nông nghiệp rất hạn chế. Theo số
liệu thống kờ của Bộ Nụng nghiệp và Phát triển nông thôn, việc thu hồi đất
nông nghiệp trong 5 năm 2003-2008 Việt Nam có khoảng 9,42 triệu ha đất
nơng nghiệp với dân số trên 86 triệu người (số nơng dân ước tính hơn 60 triệu
người). éất giành cho trồng lỳa là 4,1 triệu ha, bỡnh qũn mỗi nụng dân có
khoảng 480 m2 đất canh tác [20, tr.7].
Trong những năm qua, nhiều diện tích đất đó chuyển làm khu cụng
nghiệp. Chỉ tớnh từ năm 2004 đến nay, theo báo cáo của 49 tỉnh, thành phố đó
thu hồi gần 750 nghỡn ha đất để thực hiện 29 nghỡn dự ỏn đầu tư. éiều đáng nói,
trong 750 nghỡn ha đó thỡ cú tới 80% là đất nơng nghiệp. Khoảng 50% diện tích
đất nơng nghiệp bị thu hồi nằm trong vùng kinh tế trọng điểm, đây là những khu
vực đất màu mỡ trồng hai vụ lúa một năm. Các vùng kinh tế trọng điểm có diện
tích đất nông nghiệp thu hồi lớn nhất, chiếm khoảng 50% diện tích đất bị thu hồi
trên tồn quốc. Theo nghiên cứu của Tiến sĩ éinh Văn éóng và Lưu Văn Duy


18
(Trường đại học Nơng nghiệp Hà Nội), chỉ tính riêng năm 2007, diện tích lúa
gieo trồng giảm 125 nghỡn ha. éiều tra của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn tại 16 tỉnh, thành phố trọng điểm cho thấy, diện tích đất nơng nghiệp bị thu
hồi chiếm 89%, hầu hết là đất lúa, thuộc diện "bờ xôi ruộng mật". Với diện tích
này, hằng năm sản lượng lúa cả nước có thể giảm hơn một triệu tấn, số lao động
thất nghiệp do mất đất canh tác cũng tăng lên [8, tr.12].

Việc thu hồi đất làm nảy sinh nhiều vấn đề kinh tế - xó hội liờn quan
đến ba đối tượng: xó hội, mà đại diện là Nhà nước; các doanh nghiệp cần đất
để sử dụng và người dân có đất bị thu hồi. Điều này có nghĩa là vấn đề GQVL
cho người dân có đất bị thu hồi khơng chỉ đơn giản là công việc thiết thân của
người bị thu hồi, mà có liên quan đến Nhà nước và các doanh nghiệp sử dụng
đất do Nhà nước giao sau khi thu hồi. Do vậy, giải quyết việc làm cho người
nông dân có đất bị thu hồi, phải là cơng việc được cả ba đối tượng nêu trên
quan tâm. Phương thức của nó bao gồm:
Một là, mở rộng lượng cầu về lao động.
Cầu về lao động là nhu cầu về sức lao động của một quốc gia, một địa
phương, một ngành hay một doanh nghiệp trong một khoảng thời gian xác
định. Nhu cầu này thể hiện qua khả năng thuê mướn lao động trên thị trường
lao động. Xét từ giác độ số lượng, trong điều kiện năng suất lao động không
biến đổi, cầu về lao động xã hội tỷ lệ thuận với quy mô và tốc độ sản xuất.
Nếu quy mô sản xuất không đổi, cầu về lao động tỷ lệ nghịch với năng suất
lao động. Còn xét từ giác độ chất lượng, việc nâng cao năng suất lao động,
mở rộng quy mô, tiền vốn, tri thức... của doanh nghiệp càng ngày càng đòi
hỏi nâng cao cầu về chất lượng lao động. Trong đó, các chỉ số quan trọng nhất
thể hiện chất lượng lao động là: trình độ tinh thơng nghề nghiệp, mức độ phù
hợp của nghề nghiệp được đào tạo với công việc được giao, kỷ luật lao động,
vv...


19
Lượng cầu về lao động là số lượng lao động mà các tổ chức kinh tế xã hội có nhu cầu sử dụng và có khả năng chi trả tiền công hoặc tiền lương
để được quyền sử dụng số lao động đó trong một thời gian nhất định.
Do người lao động bị thu hồi đất chủ yếu là nông dân sống bằng sản
xuất nông nghiệp, nên giải pháp đơn giản nhất là giao quyền sử dụng đất nông
nghiệp ở nơi khác để họ tiếp tục làm việc theo nghề vốn đã có. Thế nhưng, do
diện tích đất nơng nghiệp bị thu hẹp, nên giải pháp chủ yếu không phải như

vậy, mà là phải chuyển đổi nghề để họ sang làm việc ở các cơ sở sản xuất CN
và dịch vụ. Nghĩa là, để mở rộng lượng cầu về việc làm trong điều kiện
chuyển một phần diện tích đất nơng nghiệp để CNH, HĐH, cần coi trọng các
cơ sở CN tuyển dụng lao động tại chỗ, thu hút những người bị mất đất vào
làm việc tại các cơ sở của mình. Đồng thời, khuyến khích phát triển tiểu thủ
cơng nghiệp, làng nghề, phát triển các ngành dịch vụ, thúc đẩy sản xuất nơng
nghiệp theo hướng hàng hóa, phát triển hình thức trang trại, mở rộng việc làm
ở khu vực nông thôn như, tăng cường xuất khẩu lao động. Cần tạo cơ hội để
người lao động tự tạo việc làm. Nhà nước tạo ra những thuận lợi nhất để nơng
dân có thể tiếp cận với các nguồn tài chính. Đẩy nhanh việc cổ phần hoá,
hỡnh thành thị trường vốn và vận hành tốt loại thị trường này nhằm nhanh
chóng huy động vốn và di chuyển vốn dễ dàng giữa các khu vực, các ngành
kinh tế từ đó tạo vốn cho khu vực nơng thơn. Có chính sách và biện pháp để
các cơ sở CN khi nhận quyền sử dụng đất phải có kế hoạch ưu tiên tuyển
dụng, thu hút lao động bị mất việc do bị thu hồi đất. Đây là biện pháp giải
quyết việc làm cần thiết để tạo được sự đồng thuận giữa các đối tượng liên
quan đến đất bị thu hồi.
Hai là, nâng cao chất lượng cung lao động.
Người dân bị thu hồi đất nên bị mất việc làm, có nghĩa là dư cung về
lao động trong nơng nghiệp. Muốn có việc làm, họ phải chuyển nghề, tìm việc


20
làm mới. Và muốn vậy, họ phải đi học để có được một nghề chun mơn nhất
định. Phải mở nhiều hình thức đào tạo phù hợp với từng lứa tuổi và sở thích của
người lao động, trong đó dạy nghề cho nông dân là một giải pháp thiết thực nhất,
đáp ứng nhu cầu trước mắt của họ. Do người bị mất đất ở các lứa tuổi khác
nhau, nên việc dạy nghề phù hợp với từng lứa tuổi phải được coi trọng.
Chất lượng lao động khơng chỉ là trình độ học vấn, trình độ tay nghề,
mà cịn bao hàm cả ý thức kỷ luật, tính trách nhiệm, độ nhạy cảm của người lao

động với những diễn biến của thị trường. Do vậy, bên cạnh việc mở rộng quy mơ
và loại hình đào tạo nghề, việc coi trọng nâng cao chất lượng các cơ sở đào tạo là
rất cần thiết để nâng cao chất lượng cung về lao động trên thị trường.
Chất lượng cung về lao động còn phụ thuộc vào sức khỏe của người lao
động. Nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố như điều kiện ăn, ở, đi lại, rèn luyện sức
khỏe, y tế, hệ thống an sinh xã hội. Việc bố trí tái định cư cho người có đất bị
thu hồi, việc đảm bảo đời sống của họ khi nhà nước thu hồi đất phải được đặt
ra. Điều này không chỉ có ý nghĩa làm tăng chất lượng cung lao động, mà còn
thể hiện đạo lý của cách mạng XHCN, mục tiêu của công cuộc xây dựng
CNXH ở nước ta.
Thực tế cho thấy, vấn đề nâng cao chất lượng cung lao động nhằm giải
quyết việc làm cho người dân có đất bị thu hồi không chỉ đơn giản là một cơ
hội để họ có thể có khoản thu nhập cao hơn, mà cịn là một áp lực đối với họ.
Đó là tình trạng khi người dân có đất bị thu hồi, họ khơng những phải chuyển
đổi nơi ở, mà cịn phải chuyển đổi nghề nghiệp. Đây là một vấn đề lớn, vì họ
đang sinh sống ổn định trong ngơi nhà của mình, với cơng việc sản xuất hằng
ngày gắn bó với đồng ruộng với trình độ sản xuất thấp. Sau khi bị Nhà nước
thu hồi đất, họ không dễ dàng chuyển đổi nhanh sang một việc làm mới thích
ứng với tác phong CN hay kinh doanh dịch vụ được. Do quá trình CNH,
HĐH diễn ra ngày càng nhanh, việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất từ nơng


21
nghiệp sang đất công nghiệp và dịch vụ ngày càng tăng, nên sẽ diễn ra tình
trạng một bộ phận ngày càng lớn nông dân bị mất việc làm. Số liệu báo cáo
của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho biết, trong 5 năm (từ 2003
đến 2008) tổng diện tích đất nơng nghiệp đó thu hồi là 600.000 ha (chiếm 7%
tổng diện tớch đất nông nghiệp của cả nước). Khoảng 50% diện tích đất nơng
nghiệp bị thu hồi nằm trong vùng kinh tế trọng điểm, đây là những khu vực
đất màu mỡ trồng hai vụ lúa một năm. Việc thu hồi đất nơng nghiệp trong 5

năm (2003-2008) đó tỏc động đến đời sống của hơn 627 nghỡn hộ gia
đỡnh, với khoảng 2,5 triệu người. Mặc dù quá trỡnh thu hồi đất, các địa
phương đó ban hành nhiều chớnh sỏch cụ thể đối với người nông dân như
bồi thường, hỗ trợ giải quyết việc làm, đào tạo chuyển đổi nghề, hỗ trợ tái
định cư... tuy nhiên trên thực tế có tới 67% số lao động nông nghiệp vẫn
giữ nguyên nghề cũ sau khi bị thu hồi đất, 13% chuyển sang nghề mới và
có tới 25 đến 30% số lao động khơng có việc làm hoặc có việc làm nhưng
khơng ổn định. Thực trạng này cũng là nguyên nhân dẫn đến kết quả 53%
số hộ nông dân bị thu hồi đất có thu nhập giảm so với trước kia, chỉ có
13% số hộ có thu nhập tăng hơn trước. Trung bỡnh mỗi hộ bị thu hồi đất có
1,5 lao động rơi vào tỡnh trạng khụng cú việc làm và mỗi ha đất bị thu hồi
sẽ làm mất việc 13 lao động [8, tr.12].
Khu vực nơng thơn hiện có khoảng 24 triệu lao động và họ chỉ mới sử
dụng khoảng 80% thời gian làm việc, 20% thời gian cũn lại tương đương với
4,8 triệu lao động thiếu việc làm. Trong 5 năm tới, số lao động tăng thêm là 5
triệu người, số lao động thiếu việc làm 4,8 triệu người và 2,5 triệu lao động
mất việc do đất nông nghiệp bị thu hồi, tổng cộng riêng nông thôn là 12,3
triệu người. Như vậy, vấn đề việc làm và thu nhập của những người có đất bị
thu hồi 5 năm tới vẫn là vấn đề nóng bỏng tác động sâu sắc đến sự phát triển
bền vững của đất nước. Để giải quyết việc làm cho số người người này, về cơ


22
bản, lâu dài vẫn phải nâng cao chất lượng cung về lao động cho họ. Điều này
cũng rất cần có sự hỗ trợ của Nhà nước.
Ba là, phát triển các dịch vụ môi giới việc làm
Thị trường lao động là nơi diễn ra quan hệ mua và bán sức lao động,
nơi để người lao động tìm kiếm việc làm và để người sử dụng lao động tìm
được người làm những công việc phù hợp. Thị trường lao động là một cơ chế
quan trọng để khai thông quan hệ cung - cầu về lao động trong xã hội. Tiền

công thị trường là tín hiệu để người lao động lựa chọn việc cung ứng sức lao
động, lựa chọn sẵn sàng làm việc cho một tổ chức cần thuê mướn lao động;
đồng thời tiền cơng cũng là tín hiệu để người mua sức lao động có quyết định
đúng đắn thuê số lượng bao nhiêu, ở thời điểm nào.
Do sức lao động là một loại hàng hóa được lưu thơng trên thị trường,
nên cơ chế vận hành thị trường lao động trước hết chịu sự chi phối của các
quy luật khách quan, chịu tác động của quan hệ cạnh tranh và quan hệ cung
cầu. Nhưng để giải quyết việc làm cho người dân có đất bị thu hồi, Nhà nước
cần quan tâm tác động vào thị trường này, thúc đẩy quá trình phát triển của
nó.
Thơng qua các Trung tâm mơi giới, giới thiệu việc làm và thông tin
thị trường lao động, Nhà nước cần có sự hỗ trợ để người lao động có đất bị
thu hồi có sự chuẩn bị về nghề nghiệp trước khi tham gia thị trường lao
động, được ưu tiên tuyển chọn vào làm việc tại các tổ chức kinh tế, xã hội
nơi họ cư trú. Đồng thời, giới thiệu cho họ di chuyển việc làm đến các cơ
sở sản xuất kinh doanh trong Thành phố hoặc ngoại tỉnh, mở rộng hình
thức đưa người lao động ra làm việc ở nước ngoài để giảm bớt căng thẳng
cung về lao động trong nước.
Thông qua thị trường lao động, các cơ sở đào tạo, dạy nghề có thể điều
chỉnh quy mơ và cơ cấu đào tạo cho thích hợp, sát với thị trường.


23
Bốn là, có sự phối hợp chặt chẽ giữa Nhà nước với người sử dụng
lao động và người lao động trong giải quyết việc làm.
Thu hồi đất để phát triển CN, mở rộng ra là để đẩy nhanh sự nghiệp
CNH, HĐH đất nước, có nghĩa đây là việc làm cần thiết để nền sản xuất có
được năng suất lao động cao hơn, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh hơn,
qua đó nâng cao mức hưởng thụ vật chất và tinh thần cho người dân và toàn
xã hội. Việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất như vậy chính là vì lợi ích

chung. Để phát triển nền kinh tế theo định hướng XHCN, để đảm bảo lợi ích
chung, trong giải quyết việc làm của người dân có đất bị thu hồi cần có sự
phối hợp chặt chẽ giữa Nhà nước với người sử dụng lao động và người lao
động. Đây không chỉ đơn thuần chỉ là trách nhiệm tự thân của người dân có
đất bị thu hồi, mà cịn có trách nhiệm của Nhà nước và các cơ sở CN được
nhận quyền sử dụng đất thu hồi. Không chỉ nhận thức đơn giản rằng khi thu
hồi đất, Nhà nước đền bù cho người dân một số tiền về đất, hoa màu, tài sản
trên đất và bố trí tái định cư cho họ là hết trách nhiệm. Vấn đề đặt ra và cần
được tính đến khi thu hồi đất là phải đảm bảo cuộc sống lâu dài cho người dân
có đất bị thu hồi, phải tạo ra và đảm bảo việc làm cho họ.
Trên thực tế, đã khơng ít người dân có đất bị thu hồi sau khi nhận
được tiền đền bù với một khoản lớn đã khơng biết sử dụng có hiệu quả, đưa
vào tiêu dùng, mua sắm đồ dùng đắt tiền vì hưởng thụ trước mắt, thậm chí
có một số người do khơng có việc làm nên dùng số tiền đó đánh bạc,
nghiện hút và các tệ nạn xã hội khác. Khi hết tiền, đã khơng có việc làm,
khơng có thu nhập mà lại có thói quen tiêu dùng. Nếu khơng có sự phối
hợp chặt chẽ giữa Nhà nước với người sử dụng lao động và người có đất bị
thu hồi trong giải quyết việc làm cho đối tượng này thì khó có thể tránh
khỏi những bất ổn trong xã hội và do đó những mục tiêu chuyển đổi đất
cũng không được thực hiện.


24
1.3. KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ ĐỊA PHƯƠNG TRONG NƯỚC VÀ
QUỐC TẾ VỀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO NÔNG DÂN

1.3.1. Kinh nghiệm giải quyết việc làm của một số quốc gia
1.3.1.1. Kinh nghiệm của Trung Quốc
Là nước đông dân nhất thế giới với 1,3 tỷ dân nhưng 70% dân số ở khu
vực nơng thơn. Hàng năm, Trung quốc có 10 triệu lao động đến tuổi tham gia

lực lượng lao động nên yêu cầu giải quyết việc làm trở nên gay gắt. Trước đũi
hỏi cấp bỏch của thực tế, ngay từ năm 1978 sau khi cải cách mở cửa nền kinh
tế, Trung Quốc thực hiện phương trâm “ly nông bất ly hương, nhập xưởng bất
nhập thành” thụng qua chớnh sỏch khuyến khớch phỏt triển mạnh mẽ công
nghiệp Hưng Trấn nhằm phát triển và đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế và
phân công lại lao động ở nông thôn, rút ngắn khoảng cách nông thôn và thành
thị; coi việc phát triển công nghiệp nông thôn là con đường giải quyết việc
làm.
Từ năm 1978 đến 1991, Trung Quốc có 19 xí nghiệp Hưng Trấn thu hút
96 triệu lao động ở nông thôn, tạo ra giá trị tổng sản lượng 1.162 tỷ Nhõn dõn
tệ, chiếm 50% GDP của cả nước. Nhờ phát triển công nghiệp nông thôn mà tỷ
trọng lao động nông nghiệp đó giảm từ 70% năm 1978 xuống cũn 50% năm
1991. Bỡnh quõn trong 10 năm, từ 1980 đến 1990, mỗi năm các xí nghiệp
Hưng Trấn của Trung Quốc thu hút khoảng 12 triệu lao động dư thừa từ nông
nghiệp. Từ thực tiễn phỏt triển cụng nghiệp nụng thụn, giải quyết việc làm ở
nụng thụn cú thể rỳt ra bài học kinh nghiệm:
Một là: Trung Quốc đó thực hiện chớnh sỏch đa dạng hố và chun
mơn hố sản xuất kinh doanh, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nơng thơn, khuyến
khích nơng dân đầu tư dài hạn phát triển sản xuất công nghiệp và mở mang
các hoạt động phi nông nghiệp. Đây là nhân tố quan trọng nhất tạo nên tốc độ
tăng trưởng kinh tế thu hút lao động và các hoạt động phi nông nghiệp khác ở
nông thôn.


25
Hai là: Nhà nước tăng giá thu mua nông sản một cách hợp lý, giảm giỏ
cỏnh kộo giữa hàng nụng nghiệp và hàng cụng nghiệp, khuyến khớch phỏt
triển sản xuất, đa dạng hóa theo hướng sản xuất những sản phẩm có giá trị
kinh tế cao, phù hợp với yêu cầu thị trường, điều đó tác động đến thu nhập
trong khu vực nông thôn.

Ba là: tạo môi trường thuận lợi để công nghiệp phát triển vào giai đoạn
đầu của quá trỡnh CNH, HĐH nông thôn, Nhà nước thực hiện bảo hộ sản xuất
hàng hố trong nước, hạn chế ưu đói đối với các doanh nghiệp cơng nghiệp
Nhà nước, qua đó tạo sân chơi bỡnh đẳng cho các doanh nghiệp nông thôn.
Bốn là: thiết lập một hệ thống cung cấp tài chính có hiệu quả cho doanh
nghiệp nơng thơn, giảm chi phí giao dịch để huy động vốn cho công nghiệp
nông thôn.
Năm là: duy trỡ và mở rộng quan hệ hai chiều giữa doanh nghiệp Nhà
nước và doanh nghiệp nông thôn.
Như vậy, Trung Quốc đó thành cụng trong việc giải quyết việc làm cho
người lao động ở nông thôn bằng việc mở hàng loạt các xí nghiệp Hưng Trấn
sử dụng lao động nơng thơn kết hợp với các chính sách vĩ mơ của Nhà nước.
Đây là một trong những kinh nghiệm quý bỏu cú thể áp được ở Việt Nam,
nhằm giải quyết việc làm cho một bộ phận lao động nông thôn, tăng thu nhập.
1.3.1.2. Kinh nghiệm của Nhật Bản
Ở Nhật Bản vấn đề cung cầu lao động được giải quyết hài hũa. Năm
1995, mỗi chỗ làm việc ngành cụng nghiệp cú 3,6 người xin vào làm, thỡ đến
năm 2000, mỗi người xin việc có 3 nơi cần tuyển. Tỡnh trạng thất nghiệp ở
một nước có tới 100 triệu dân về cơ bản đó được giải quyết từ những năm
1960. Xét trên góc độ kinh tế, nhiều tài liệu phương Tây cho biết: Nhật Bản
đó duy trỡ được cơ cấu kinh tế “nhiều tầng”, tầng trên là các cơng ty lớn, các
xí nghiệp lớn, các tập đồn tài chính,…có từ 300 đến 1000 công nhân, cũn


×