Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

Ôn tập "Vợ chồng A Phủ" chi tiết nhất

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (156.86 KB, 30 trang )

ĐỀ ƠN LUYỆN VỢ CHỒNG A PHỦ (TƠ HỒI)
LƯU Ý
1.Giá trị nội dung
a.Giá trị hiện thực
- Phản ánh chân thực cuộc đời tăm tối, tủi nhục của những người lao động nghèo miền núi trước
cách mạng.
-Vạch trần tội ác của bọn phong kiến thống trị ở vùng cao.
-Phản ánh con đường đấu tranh đến với cách mạng của người lao động
b.Giá trị nhân đạo
- Cảm thơng, xót thương cho số phận bất hạnh của người lao động nghèo miền núi những năm
trước cách mạng.
- Lên án, tố cáo bọn phong kiến chúa đất miền núi đẩy người lao động nghèo vào cảnh nơ lệ, tơi
địi.
-Trân trọng vẻ đẹp của người lao động, thể hiện niềm tin ở sức sống tiềm tàng, khả năng phản
kháng và hướng tới ánh sáng tự do của những con người bị đọa đày, vùi dập.
2. Giá trị nghệ thuật
- Nghệ thuật tả cảnh đặc sắc: bức tranh mùa xuân Tây Bắc nên thơ, cảnh phạt vạ bất cơng , vơ
lí.
-Nghệ thuật khắc họa nhân vật: kết hợp các yếu tố ngoại hiện và miêu tả nội tâm, sử dụng nhiều
chi tiết nghệ thuật giàu ý nghĩa.
-Nghệ thuật trần thuật sáng tạo, linh hoạt.

1


-Ngơn ngữ giàu chất thơ, cá thể hóa nhân vật, sử dụng thành cơng hình thức ngơn ngữ nửa trực
tiếp.
MỘT SỐ ĐỀ THAM KHẢO
ĐỀ 1
Ai ở xa về, có việc vào nhà thống lí Pá Tra thường trơng thấy có một cô con gái ngồi
quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ


ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười
rượi. Người ta thường nói: nhà Pá Tra làm thống lí, ăn của dân nhiều, đồn Tây lại cho muối về
bán, giàu lắm, nhà có nhiều nương, nhiều bạc, nhiều thuốc phiện nhất làng. Thế thì con gái nó
cịn bao giờ phải xem cái khổ mà biết khổ, mà buồn. Nhưng rồi hỏi ra mới rõ cô ấy không phải
con gái nhà Pá Tra: cô ấy là vợ A Sử, con trai thống lí Pá Tra.
Cơ Mị về làm dâu nhà Pá Tra đã mấy năm. Từ năm nào, cô không nhớ, cũng không ai
nhớ. Những người nghèo ở Hồng Ngài thì vẫn cịn kể lại câu chuyện Mị về làm người nhà quan
thống lí. Ngày xưa, bố Mị lấy mẹ Mị khơng có đủ tiền cưới, phải đến vay nhà thống lí, bố của
thống lí Pá Tra bây giờ. Mỗi năm đem nộp lãi cho chủ nợ một nương ngô. Đến tận khi hai vợ
chồng về già rồi mà cũng chưa trả được nợ. Người vợ chết, cũng chưa trả hết nợ.
Cho tới năm ấy Mị đã lớn, Mị là con gái đầu lịng. Thống lí Pá Tra đến bảo bố Mị:
-Cho tao đứa con gái này về làm dâu thì tao xố hết nợ cho.
Ơng lão nghĩ năm nào cũng phải trả một nương ngô cho người ta, thì tiếc ngơ, nhưng
cũng lại thương con q. Ơng chưa biết nói thế nào thì Mị bảo bố rằng:
-Con nay đã biết cuốc nương làm ngô, con phải làm nương ngô giả nợ thay cho bố. Bố
đừng bán con cho nhà giàu.
Đến Tết năm ấy, Tết thì vui chơi, trai gái đánh pao, đánh quay rồi đêm đêm rủ nhau đi
chơi. Những nhà có con gái thì bố mẹ khơng thể ngủ được vì tiếng chó sủa. Suốt đêm, con trai
đến nhà người mình yêu, đứng thổi sáo xung quanh vách. Trai đến đứng nhẵn cả chân vách đầu
2


buồng Mị. Một đêm khuya, Mị nghe tiếng gõ vách. Tiếng gõ vách hò hẹn của người yêu. Mị hồi
hộp lặng lẽ quơ tay lên thì gặp hai ngón tay lách vào khe gỗ, sờ một ngón thấy có đeo nhẫn.
Người yêu của Mị thường đeo nhẫn ngón tay ấy. Mị bèn nhấc tấm vách gỗ. Một bàn tay dắt Mị
bước ra. Mị vừa bước ra lập tức có mấy người choàng đến, nhét áo vào miệng Mị rồi bịt
mắt,cõng Mị đi.
(Trích Vợ chồng A Phủ, Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam 2020, tr. 4 – 5)
Phân tích số phận và vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật Mị được thể hiện trong đoạn trích trên. Từ
đó nhận xét cách nhìn mới mẻ về người nơng dân trong văn xi Tơ Hồi.

GỢI Ý
1.MB:
MB1: Trong hành trình sáng tạo nghệ thuật, mỗi người nghệ sĩ đều có một khơng gian nghệ
thuật của riêng mình. Nếu nhà thơ Hồng Cầm, cả một đời đắm đuối trong khơng gian Kinh
Bắc đầy thơ và mộng, nếu Ngọc Nguyễn Trung Thành ln trải lịng cùng bạn đọc qua khơng
gian Tây Ngun đậm chất sử thi, Hoàng Phủ Ngọc Tường chọn Huế và viết về Huế bằng tất cả
tình cảm, tình yêu của mình thì Tơ Hồi – nhà văn một thời của trẻ thơ lại chọn cho mình khơng
gian nơi rẻo cao Tây Bắc để đến, để sáng tác. Một trong những truyện ngắn đặc sắc nhất của Tơ
Hồi nằm trong không gian nghệ thuật này không thể không kể tới đó là “Vợ chồng A Phủ”.
Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” gây ấn tượng với người đọc ngay từ đoạn văn đầu tiên “ Ai ở
xa về…cõng Mị đi”. Qua đoạn văn này, người đọc không chỉ thấy được số phận và vẻ đẹp tâm
hồn nhân vật Mị mà còn thấy được cách nhìn mới mẻ về người nơng dân trong văn xi Tơ
Hồi.
MB2: Tơ Hồi từng tâm sự: “Đất nước và con người miền Tây đã để thương để nhớ cho tôi
nhiều quá, tôi không thể nào quên, tôi không thể bao giờ quên được...” Người đọc vẫn thường
tự hỏi tại sao Tơ Hồi lại có những khoảng nhớ thương nhiều như vậy dành cho mảnh đất và
con người Tây Bắc, để rồi trong những tác phẩm của mình, ông viết về Tây Bắc về những con
người nơi đây bằng những câu chuyện thật cảm động. Một trong số những truyện ngắn tiêu biểu
đưa Tơ Hồi trở về cùng niềm thương nỗi nhớ mang tên Tây Bắc không thể khơng kể tới đó
chính là truyện ngắn:“Vợ chồng A Phủ”….
3


2. TB
a. Giới thiệu chung
-Tơ Hồi là một trong những cây bút văn xuôi hàng đầu của nền văn học hiện đại Việt Nam.
Nếu chỉ dừng lại ở TP “ Dế mèn phiêu lưu kí”, nhà văn Tơ Hồi đã rất nổi tiếng, đã làm được
cái việc mà như nhà văn Nam Cao nói là “ để đời” đối với sự nghiệp của bất cứ người cầm bút
nào. Thế nhưng, nhà văn Tơ Hồi khơng dừng lại ở chú dế mèn mà còn đi xa hơn nữa.
- “ Vợ chồng A Phủ” được in trong tập “ Truyện Tây Bắc” (1953) , là kết quả của chuyến đi

thực tế 8 tháng của Tơ Hồi cùng bộ đội vài giải phóng Tây Bắc. Nhà văn Tơ Hồi đã từng tha
thiết “Hình ảnh TB đau thương và dũng cảm lúc nào cũng thành nét, thành người, thành việc
trong tâm trí tơi”.
-Đoạn trích ở đầu truyện: Ai ở xa về, có việc vào nhà thống lí Pá Tra …cõng Mị đi thể hiện
thành công số phận và vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật Mị của nhà văn Tơ Hồi.
b. Phân tích số phận và vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật Mị qua đoạn trích:
*Số phận: Mị là hiện thân của nỗi khốn khổ, tủi cực nhất của người dân lao động; là nạn nhân
của chế độ cho vay nặng lãi dưới ách thống trị của thực dân và lãnh chúa phong kiến miền núi
Tây Bắc.
- Cách giới thiệu nhân vật độc đáo, gây ấn tượng mạnh mẽ:
+ Với giọng văn trầm buồn, Tơ Hồi đã khắc họa khung nền để nhân vật Mị xuất hiện “ Ai ở
xa về có việc vào nhà thống lí Pá Tra cũng trơng thấy một cô gái ngồi quay sợi bên tảng đá
trước cửa, cạnh tàu ngựa”. Mị lại xuất hiện cạnh những vật vô tri, vơ giác. Những chi tiết đắt
giá làm nổi hình sắc nhân vật. Con người lẫn vào với những vật vô tri, thân phận trâu ngựa.
+Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải hay chẻ củi, cõng nước thì mặt cơ cũng
buồn rười rượi. Gấp trang sách lại rồi mà chúng ta vẫn không quên được gương mặt “buồn rười
4


rượi” của Mị. Đó là gương mặt mang nỗi đau của một kiếp người khơng bằng ngựa trâu .Đó là
gương mặt tưởng như cam chịu, mất hết sức sống.
+ Mâu thuẫn nảy sinh để ai cũng phải băn khoăn một câu hỏi: vì sao con gái một nhà giàu như
nhà thống lí Pá Tra thì bao giờ biết đến cái khổ mà biết khổ, mà buồn. Chính vì vậy người đọc
muốn đi tìm căn nguyên nỗi buồn khổ ấy của nhân vật, và nhà văn cũng có cái cớ để kể lại cuộc
đời, số phận của nhân vật Mị.
+Kết cấu đồng tâm, đi từ điểm nhấn trong cuộc đời nhân vật mà ra chứ khơng dựng theo trình
tự thời gian. Cũng như Nam Cao lựa chọn giới thiệu nhân vật Chí Phèo khi nhân vật đã bị tha
hóa, lưu manh hóa thì Mị cũng đến với bạn đọc khi cơ về làm dâu nhà thống lí, khi sức sống của
cơ đã bị vùi dập. Từ đó tác giả bắt đầu làm một cuộc hành trình xuyên suốt cuộc đời nhân vật để
làm sáng tỏ dụng ý nghệ thuật của mình. Người đọc ngược dịng thời gian tìm hiểu cuộc đời của

Mị để thấy những mảng tối, sáng và những bước thăng trầm trong cuộc đời cô Mị. Đây là một
cách mở truyện khá thành cơng, hấp dẫn của Tơ Hồi.
-Mị là con dâu gạt nợ: vì món nợ “truyền kiếp”, bị bắt làm “con dâu gạt nợ” nhà thống lí Pá Tra,
bị đối xử tàn tệ, mất ý thức về cuộc sống, thời gian và không gian.
+Thời gian: "Đã mấy năm", nhưng "từ năm nào cô không nhớ …" . Mị khơng cịn ý thức về thời
gian, khơng cịn ý thức về cuộc đời làm dâu gạt nợ.
+ Không gian: tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa…Đó là khơng gian hẹp, cố định, quen thuộc,
tăm tối, gợi cuộc đời tù hãm, bế tắc, luẩn quẩn…
+Hành động, dáng vẻ bên ngoài: Cúi mặt, buồn rười rượi, …
-> Tiêu biểu cho số phận của những người nông dân nghèo ở Tây Bắc khi chưa có ánh sáng của
cách mạng.
*Vẻ đẹp tâm hồn: Mị có nhiều phẩm chất tốt đẹp
- Cơ gái xinh đẹp, tài hoa, có tài thổi sáo: Có lẽ yêu Tây Bắc bao nhiêu thì Tơ Hồi gửi gắm tình
u vào Mị bấy nhiêu, ông đã mang bao yêu thương phủ lên đời Mị những ánh hào quang rực
5


rỡ nhất của một người con gái. Mị như bông hoa rừng ngát hương của núi rừng Tây Bắc. Chỉ
qua một chi tiết đậm màu sắc phong tục “ trai đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị”, đủ để
người đọc hình dung Mị là cơ gái vơ cùng xinh đẹp, tài hoa, yêu đời. Mị thổi sáo rất hay. Tiếng
sáo chính là tiếng hát của tâm hồn Mị- một tâm hồn đệp, trong sáng, tràn đầy tình yêu cuộc
sống.
-Mị cịn là người con gái có ý thức rất đúng đắn về cuộc sống, biết coi trọng danh dự, nhân
phẩm: Khi thống lí Pá Tra đến bảo bố Mị: “Cho tao đứa con gái này về làm dâu thì tao xoá hết
nợ cho”. Mị đã phản ứng quyết liệt, Mị nói với cha: “Con nay đã biết cuốc nương làm ngô, con
phải làm nương ngô giả nợ thay cho bố. Bố đừng bán con cho nhà giàu”. Như vậy, lời nói đầu
tiên của Mị trong tác phẩm chính là lời nói từ chối hơn nhân. Khơng cần phải là người từng trải
lắm cũng có thể dễ dàng nhận thấy mong muốn của Mị là không thể thực hiện. Bố mẹ Mị làm
quần quật cả đời, mẹ Mị đã chết, Mị đã lớn mà cịn khơng thể trả hết nợ cho nhà thống lí Pá Tra.
Thế nhưng, lời nói của Mị đã thể hiện mong muốn tự quyết định số phận của mình, khơng chấp

nhận biến mình thành thứ hàng hóa gả bán cho nhà giàu. Mị sẵn sàng lao động bằng sức lực của
mình, sẵn sàng chịu đựng khó khăn, vất vả để trả món nợ chứ khơng muốn mình trở thành con
dâu gạt nợ. Nói cách khác, Mị thà chịu nhọc nhằn còn hơn phải chịu nhục nhằn.
-> Qua một số chi tiết nhà văn khắc họa, người đọc có thể hình dung cuộc sống của Mị khi cịn
tự do. Người con gái ấy có nhiều điều kiện tốt, xứng đáng được hưởng hạnh phúc, xứng đáng
được trân trọng. Thế nhưng, sống trong hồn cảnh xã hội bất cơng, dưới sự áp bức của bọn
thống trị phong kiến miền núi, cuộc đời Mị thực sự rất nhiều, đau buồn, nước mắt. Mị vẫn bị bắt
về làm dâu gạt nợ, sống kiếp đời nơ lệ ở nhà thống lí Pá Tra.
c. Nghệ thuật
- Miêu tả sinh động, cách giới thiệu khéo léo, hấp dẫn gây ấn tượng tác giả đã tạo ra những đối
nghịch giữa hình ảnh người con gái bất hạnh với cảnh nhà Pá Tra giàu có, tạo tình huống ″có
vấn đề″ trong lối kể chuyện truyền thống, giúp tác giả mở lối người đọc cùng tham gia hành
trình tìm hiểu những bí ẩn của số phận nhân vật…
6


- Khắc họa nội tâm nhân vật ấn tượng
- Ngôn ngữ kể giàu chất thơ, thể hiện tài năng quan sát và am hiểu phong tục tập quán của
người dân miền núi Tây Bắc.
d. Nhận xét cách nhìn mới mẻ về người nơng dân trong văn xi Tơ Hồi.
- Người nông dân Tây Bắc trong tác phẩm “ Vợ chồng A Phủ” của Tơ Hồi dưới ách thống trị
của bọn chúa đất miền núi bị chà đạp tàn nhẫn từ thể xác đến tinh thần. Nhưng trong chiều sâu
tâm hồn của họ vẫn tỏa sáng nhiều vẻ đẹp đáng quý: ý thức được tài năng, hiếu thảo, lòng tự
trọng, tinh thần phản kháng.
- Tơ Hồi cịn thể hiện cái nhìn lạc quan, tin tưởng vào sức mạnh của người nông dân, họ khơng
phải là nạn nhân đau khổ của hồn cảnh sống mà ở họ tiềm tàng một sức sống mãnh liệt. Như
Tơ Hồi đã khẳng định “ Nhưng điều kì diệu là dẫu trong cùng cực đến thế mọi thế lực của tội
ác cũng không giết được sức sống của con người”. Trước những thế lực của tội ác: cường
quyền và áp chế của thần quyền, con người ta vẫn sẵn sàng bước qua, hướng tới sự tự do, giải
phóng cho chính cuộc đời mình.

- Các nhìn mới mẻ, tin yêu về người nông dân cho thấy vốn hiểu biết phong phú, tình yêu
thương con người sâu nặng, phong cách văn xi đậm chất tạo hình và chất thơ của nhà văn.
3.KB
Nếu như nhà soạn nhạc đặt cái tâm của mình , trao gửi nỗi niềm thầm kín trong giai điệu,
nốt nhạc thì nhà văn lại thể hiện niềm băn khoăn, trăn trở, những buồn vui của con tim vào
trong trang viết như chứa chất máu và nước mắt của chính mình. Đọc “ Vợ chồng A Phủ” của
Tơ Hoài, thêm một lần nữa ta thấu hiểu, trân trọng tài năng và tấm lòng của người nghệ sĩ. Khắc
họa cảm động số phận và vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật Mị, Tơ Hồi đã hát thật lịng mình khúc
ca đẹp về đất trời và con người Tây Bắc, đã nâng niu khát vọng sống vĩnh cửu của con người.

7


ĐỀ 2
…Lần lần, mấy năm qua, mấy năm sau, bố Mị chết. Nhưng Mị cũng khơng cịn tưởng đến
Mị có thể ăn lá ngón tự tử nữa. Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi. Bây giờ thì Mị tưởng
mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa, là con ngựa phải đổi ở cái tàu ngựa nhà này
đến ở cái tàu ngựa nhà khác, ngựa chỉ biết việc ăn cỏ, biết đi làm mà thôi. Mị cúi mặt, không
nghĩ ngợi nữa, mà lúc nào cũng chỉ nhớ đi nhớ lại những việc giống nhau, tiếp nhau vẽ ra
trước mặt, mỗi năm mỗi mùa, mỗi tháng lại làm đi làm lại: Tết xong thì lên núi hái thuốc phiện,
giữa năm thì giặt đay, xe đay, đến mùa thì đi nương bẻ bắp, và dù lúc đi hái củi, lúc bung ngơ,
lúc nào cũng gài một bó đay trong cánh tay để tước thành sợi. Bao giờ cũng thế, suốt năm suốt
đời như thế. Con ngựa, con trâu làm cịn có lúc, đêm nó cịn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ,
đàn bà con gái nhà này thì vùi vào việc làm cả đêm cả ngày.
Mỗi ngày Mị càng khơng nói, lùi lũi như con rùa ni trong xó cửa. Ở cái buồng Mị
nằm, kín mít, có một chiếc cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy
trăng trắng, không biết là sương hay là nắng. Mị nghĩ rằng mình cứ chỉ ngồi trong cái lỗ vuông
ấy mà trông ra, đến bao giờ chết thì thơi.
(Trích Vợ chồng A Phủ, Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam2020, tr.6)
Cảm nhận của anh/chị về hình tượng nhân vật Mị trong đoạn trích trên. Từ đó, nhận xét

giá trị hiện thực của tác phẩm “ Vợ chồng A Phủ”.
Lập dàn ý
1.MB.
Tơ Hồi là một trong những cây bút văn xuôi hàng đầu của nền văn học hiện đại Việt
Nam. Sáng tác của ông thể hiện vốn hiểu biết phong phú về nhiều lĩnh vực đời sống, đặc biệt là
phong tục và sinh hoạt đời thường. “ Vợ chồng A Phủ” xứng đáng là một trong những tác phẩm
xuất sắc nhất của Tơ Hồi. Đến với tác phẩm này, người đọc không thể quên được nhân vật Mị,
đặc biệt là đoạn văn “ Lần lần mấy năm qua….đến bao giờ chết thì thơi”. Qua đoạn văn, người
đọc cũng nhận thấy tình cảm nhân đạo mà Tơ Hồi gửi gắm.
8


2. TB
a. Giới thiệu chung
- Tác giả:
- Tác phẩm:
- Đoạn trích: ở phần đầu truyện: Lần lần, mấy năm qua, mấy năm sau…bao giờ chết thì thơi thể
hiện thành cơng giá trị hiện thực cuộc đời người dân miền núi Tây Bắc, đồng thời gửi gắm cái
nhìn trĩu nặng yêu thương của Tơ Hồi về người dân miền núi Tây Bắc.
b. Phân tích
*Nội dung
- Ý thức về nhân phẩm và tình u tự do của Mị đã khơng chống lại được sức mạnh của cường
quyền và thần quyền. Thống lí Pá Tra cho người lừa bắt Mị rồi đem về nhà hắn cúng trình ma.
Suốt mấy tháng trời, đêm nào Mị cũng khóc- những giọt nước mắt đau buồn, tuyệt vọng. Mị
khóc vì nhận ra tuổi trẻ, tình u, khát vọng tự do của mình đã bị tước đoạt, chà đạp phũ phàng.
Mị còn trở về chào lạy cha rồi ăn lá ngón tự tử. Vì thương cha mà Mị tiếp tục sống.
- Cuộc sống sau khi trở lại nhà thống lí Pá Tra:
+ Chân dung: được phác họa bằng vài nét gây ám ảnh (lúc nào cũng cúi mặt, khơng nói, lùi lũi
như con rùa ni trong xó cửa, cứ ngồi mà trông ra cái lỗ vuông bằng bàn tay mờ mờ, trăng
trắng).

+Hành động: khắc họa bằng những hành động liên tiếp nhau, lặp đi lặp lại (lên núi hái thuốc
phiện, giặt đay, xe đay, bẻ bắp, hái củi, bung ngô, tước đay).
/Liệt kê các công việc mà Mị phải làm: hái thuốc phiện, giặt đay, xe đay, bẻ bắp, hái củi, bung
ngô, tước đay;
/Liệt kê thời gian: mỗi năm mỗi mùa, mỗi tháng, giữa năm,đến mùa, lúc đi hái củi, lúc bung
ngô.
9


->Mị thực sự đã trở thành công cụ lao động trong nhà thống lí Pá Tra, làm việc triền miên “
“con trâu con ngựa cịn có lúc đứng gãi chân, nhai cỏ”, còn Mị và những người đàn bà khác
trong nhà thống lí Pá tra thì “vùi mặt vào việc cả đêm, cả ngày”.Cách khắc họa nhân vật của Tơ
Hồi gây ấn tượng về một con người bị tê liệt về xúc cảm, hành động như một cỗ máy đã được
lập trình sẵn, chỉ như đang tồn tại một cách vơ thức mà khơng hề sống với bất kì một trạng thái
cảm xúc sống động nào.
+ Mị sống cô đơn, thầm lặng: căn buồng Mị ở “kín mít, chỉ có một cửa sổ lỗ vng bằng bàn
tay, lúc nào nhìn ra cũng chỉ thấy mờ mờ trăng trắng không biết là sương hay là nắng” là biểu
tượng ám gợi về địa ngục trần gian, tù túng, ngột ngạt, nơi cầm tù tuổi thanh xuân của con
người, biến Mị từ một cô gái trẻ trung phơi phới thành một con người vơ cảm, cam chịu. Đó
khơng gian phi nhân tính. Khơng gian nhỏ bé, trơ trọi đối lập với cái mênh mông rộng lớn của
đất trời Tây Bắc. Cái ngột ngạt, tù túng trong căn buồng Mị ở đối lập với thế giới bên ngồi
lồng lộng của mây trời, gió núi, của hương hoa rừng Tây Bắc, đối lập với cuộc sống giàu có, tấp
nập nhà thống lí Pá Tra. Nó không phải là căn buồng của cô con dâu nhà giàu có nhiều tiền,
nhiều bạc, nhiều thuốc phiện nhất vùng mà đó là chỗ ở của con ở. Căn buồng ấy giống như
miền đời bị quên lãng. Chân dung số phận khổ đau của Mị được khắc họa rõ nét: Mị sống câm
lặng như đá núi “ khơng nói, lầm lụi”. Nếu ở trên có lúc Mị tưởng mình là con trâu, con ngựanhững hình ảnh gợi sự vất vả khổ cực trong lao động thì hình ảnh con rùa có sức ám ảnh mang
ý nghĩa về thân phận bị đè nén, bỏ quên. Mị mất hết ý niệm về không gian, thời gian. Cuộc sống
không sắc màu, không âm thanh, khơng có cả dài ngắn thời gian, khơng chia biệt đêm ngày.
+Khơng có ý thức về sự sống:Tận cùng của sự cam chịu “Mị nghĩ rằng mình cứ chỉ ngồi trong
cái lỗ vuông ấy mà trông ra, đến bao giờ chết thì thơi.”. Mị phải chịu đựng cả nỗi đau về thể

xác và tinh thần. Mị sống như loài thảo mộc, cỏ cây không hương, không sắc, lay lắt, dật dờ, vơ
hồn, vơ cảm. Khơng cịn nữa một cơ Mị đẹp như đóa ban trắng của núi rừng Tây Bắc thắm sắc,
đượm hương, một cô Mị khao khát tự do, có ý thức sâu sắc về quyền sống, từng xin cha “Con
nay đã biết cuốc nương làm ngô, con phải làm nương ngô giả nợ thay cho bố. Bố đừng bán con
cho nhà giàu”, từng có ý định ăn lá ngón để kết thúc chuỗi ngày sống mà như chết. Như vậy,
10


vượt lên ý nghĩa thực về không gian sống của Mị, căn buồng ấy là biểu tượng cho ngục thất tinh
thần, địa ngục trần gian, giam cầm khát vọng sống, khát vọng tự do của đời Mị.
-> Tơ Hồi đã tái hiện chân thực cuộc sống của người nông dân lao động nghèo vùng cao
Tây Bắc với ánh nhìn xót xa, cảm thông sâu sắc. Họ bị chà đạp, hành hạ cả về thể xác lẫn tinh
thần. Những trang văn của Tơ Hồi khiến người đọc nhớ đến hình tượng nhân vật trong văn học
hiện thực trước cách mạng: Chí Phèo, chị Dậu, anh Pha…. Đó đều là những hình tượng được cơ
đúc từ hiện thực đời sống. Có thể khẳng định “ Vợ chồng A Phủ” là bản cáo trạng hùng hồn về
nỗi đau, sự bất hạnh của người dân lao động miền núi. Tất cả là do bọn chúa đất phong kiến tàn
bạo gây ra.
*Nghệ thuật
- Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật đặc sắc, lựa chọn chi tiết đặc sắc.
- Nghệ thuật liệt kê, so sánh theo thủ pháp “vật hóa”.
- Có sự kết hợp giữa giọng trần thuật của nhà văn với dòng tâm tư của nhân vật, giúp người đọc
nhập sâu vào trong dòng ý nghĩ, tâm tư của nhân vật.
- Vốn từ vựng giàu có. Hiểu biết phong phú về cuộc sống người dân TB.
- Lời văn Tơ Hồi lạnh lùng mà chất chứa xót xa thương cảm.
c. Nhận xét về giá trị hiện thực trong TP
-Nói đến giá trị hiện thực là nói đến giá trị nội dung, tư tưởng của một tác phẩm văn học. Một
tác phẩm có giá trị hiện thực sâu sắc là tác phẩm phản ánh chân thực cuộc sống .Cho người đọc
nhìn thấy rõ bản chất đời sống, giúp người đọc khám phá những quy luật xã hội. Khi nghiên
cứu giá trị hiện thực, người ta thường đặt ra các câu hỏi : hiện thực được phản ánh trong tác
phẩm có chân thực sâu sắc? Người đọc biết gì về hiện thực đời sống qua tác phẩm? Tuy nhiên,

không phải lúc nào hiện thực trong tác phẩm cũng đồng nhất với hiện thực đời sống. Người
nghệ sĩ khơng sao chép hiện thực một cách máy móc cứng nhắc. Người nghệ sĩ có quyền sáng
tạo, hư cấu. Điều quan trọng là cuối cùng qua nhân vật, nhà văn cũng đem đến cho người đọc
11


một cái nhìn chân thực về hiện thực đời sống.
-Từ những tiêu chí trên có thể khẳng định “ Vợ chồng A Phủ” là tác phẩm có giá trị hiện thực
sâu sắc.
+ Tơ Hồi đã tái hiện chân thực cuộc đời tăm tối, tủi nhục của những người lao động nghèo
miền núi trước cách mạng.
+Vạch trần tội ác của bọn phong kiến thống trị ở vùng cao. Chúng lợi dụng cường quyền và thần
quyền để áp bức, bóc lột người dân miền núi. Mị là nạn nhân của chế độ cho vay nặng lãi do chúng đặt
ra.Chúng biến trần gian thành địa ngục, chà đạp lên hạnh phúc, tình yêu của con người. Không những
đày đọa thể xác của Mị, chúng còn làm tê liệt ý thức phản kháng, sống trong sự cam chịu, chấp nhận
kiếp đời làm dâu gạt nợ, nô lệ đầy tủi nhục .

+ Phát hiện và khẳng định con đường đi đến với cách mạng của những người lao động nghèo
khổ.
3.KB:
Ai đó đã từng khẳng định: Có những mảnh đất chỉ một lần đặt chân đến trong đời nhưng
để thương, để nhớ. Những kí ức, kỉ niệm như một vùng sáng đã hằn in trong tâm khảm để mỗi
khi nhớ lại lòng chợt dâng trào bao xúc cảm. Và có lẽ nhà văn Tơ Hồi cũng có ấn tượng như
vậy về mảnh đất Tây Bắc. Và hơn một cánh thư, là cả một tấm lòng gửi về Tây Bắc “Vợ chồng
A Phủ” đã trả lại cho Tơ Hồi niềm thương, nỗi nhớ đầy vơi với cảnh và người nơi đây. Đọc “
Vợ chồng A Phủ”, đọc đoạn văn kể về cuộc sống của Mị sau khi về làm dâu nhà thống lí Pá
Tra, người đọc có thêm hiểu biết về cuộc sống của người lao động Tây Bắc khi chưa có ánh
sáng cách mạng, thêm trân trọng tài năng và tấm lòng của người nghệ sĩ.

12



ĐỀ 3

Hồng Ngài năm ấy ăn tết giữa lúc gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng, gió và rét rất dữ dội.
Nhưng trong các làng Mèo Ðỏ, những chiếc váy hoa đã được phơi ra mỏm đá, xoè như con
bướm sặc sỡ. Ðám trẻ đợi tết, chơi quay, cười ầm trên sân chơi trước nhà. Ngồi đầu núi, đã có
tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi. Mỵ nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha bồi hồi. Mị ngồi nhẩm
thầm bài hát của người đang thổi:
Mày có con trai con gái rồi
Mày đi nương
Ta khơng có con trai con gái
Ta đi tìm người u.
Tiếng chó sủa xa xa. Những đêm tình mùa xn đã tới.
Ở mỗi đầu làng đều có một mỏm đất phẳng làm sân chơi chung ngày tết. Trai gái, trẻ con
ra sân ấy tụ tập đánh pao, dánh quay, thổi sáo, thổi khèn và nhảy.
Cả nhà thống lý ăn xong bữa cơm tết cúng ma. Xung quanh chiêng đánh ầm ỹ, người ốp
đồng vẫn nhảy lên xuống, rung bần bật. Vừa hết bữa cơm tiếp ngay cuộc rượu bên bếp lửa.
Ngày tết, Mị cũng uống rượu. Mị lén lấy hũ rượu, uống ực từng bát. Rồi say, Mị lịm mặt
đấy nhìn người nhảy đồng, người hát. Nhưng lòng Mị đang sống về ngày trước, tai văng vẳng
tiếng sáo gọi bạn đầu làng. Ngày trước Mị thổi sáo giỏi. Mùa xuân đến, Mị uống rượu bên bếp
và thổi sáo. Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người
mê, cứ ngày đêm thổi sáo đi theo Mỵ hết núi này sang núi khác.
Rượu đã tan lúc nào. Người về, người đi chơi đã vãn cả, Mị không biết. Mị vẫn ngồi trơ
một mình giữa nhà. Mãi sau Mị mới đứng dậy. Nhưng Mị không bước ra đường. Mỵ từ từ vào
buồng. Chẳng năm nào A Sử cho Mị đi chơi Tết. Mị cũng chẳng buồn đi. Bấy giờ Mị ngồi
xuống giường, trông ra cửa sổ lỗ vuông mờ mờ trăng trắng. Đã từ nãy, Mị thấy phơi phới trở
lại, trong lòng đột nhiên vui như những đêm Tết ngày trước. Mị trẻ lắm, Mị vẫn còn trẻ. Mị
muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi Tết. Huống chi A Sử với Mị khơng có
13



lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau! Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết
ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa. Nhớ lại, chỉ thấy nước mắt ứa ra. Mà tiếng sáo gọi bạn vẫn
lửng lơ bay ngoài đường.
Anh ném pao, em không bắt
Em không yêu, quả pao rơi rồi...
Lúc ấy, A Sử vừa ở đâu về, lại sửa soạn đi chơi. A Sử thay áo mới, khốc thêm vịng bạc
vào cổ rồi bịt cái khăn trằng lên đầu. Có khi nó đi mấy ngày mấy đêm. Nó cịn đương rình bắt
nhiều người con gái nữa về làm vợ. Cũng chẳng bao giờ Mị nói gì.
Bây giờ Mị cũng khơng nói. Mị đến góc nhà, lấy ơng mỡ, sắn một miếng, bỏ thêm voà đĩa
đèn cho sáng. Trong đầu Mị đang rập rờn tiếng sáo. Mị muốn đi chơi. Mị cũng sắp đi chơi. Mị
quấn lại tóc. Mị với tay lấy cái váy hoa vắt phía trong vách. A Sử sắp bước ra, bỗng quay lại,
lấy làm lạ. A Sử nhìn quanh thấy Mị rút thêm cái áo.
A Sử hỏi:
- Mày muốn đi chơi à?
Mỵ khơng nói. A Sử cũng khơng hỏi thêm. A Sử bước lại, nắm Mị, lấy thắt lưng trói tay
Mị. Nó xách cả một thúng sợi đay ra trới đứng Mị vào cột nhà. Tóc Mị xỗ xuống. A Sử quấn
ln tóc lên cột. Mị khơng cúi, khơng nghiêng được đầu nữa. Trói xong. A Sử thắt cái thắt lưng
xanh ra ngoài áo rồi phẩy tay tắt đèn, đi ra khép cửa buồng lại.
Trong bóng tối, Mị đứng im lặng như khơng biết mình đang bị trói. Hơi rượu còn nồng
nàn. Mị vẫn nghe thấy tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi. “Em không
yêu, quả pao rơi rồi. Em yêu người nào, em bắt pao nào!".”Mị vùng bước đi. Nhưng chân tay
đau không cựa được. Mị khơng nghe tiếng sáo nữa. Chỉ cịn nghe tiếng chân ngựa đạp vào
vách. Ngựa vẫn đứng yên, gãi chân, nhai cỏ. Mị thổn thức nghĩ mình khơng bằng con ngựa.
(Trích, Vợ chồng A Phủ - Tơ Hồi)
Phân tích diễn biến tâm lí và hành động của nhân vật Mị trong đoạn văn trên. Từ đó, nhận
xét về những đặc sắc nghệ thuật trong tác phẩm.
Lập dàn ý
14



1.MB
- Tơ Hồi là một trong những cây bút văn xuôi hàng đầu của nền văn học Việt Nam hiện đại.
Ông là nhà văn viết theo xu hướng hiện thực từ khi bắt đầu cầm bút. Tác phẩm của Tô Hồi hấp
dẫn người đọc bởi ở lối trần thuật hóm hỉnh, sinh động, vốn từ vựng giàu có và vốn sống đa
dạng, vốn hiểu biết phong phú và sâu sắc về nhiều lĩnh vực đời sống, những phong tục, tập quán
ở nhiều vùng khác nhau. Truyện ngắn Vợ chồng A Phủ xứng đáng là một trong những tác
phẩm xuất sắc nhất của Tơ Hồi. Trong tác phẩm những trang viết về nhân vật Mị là những
trang xúc động nhất. Nhân vật đã hiện lên thật ấn tượng qua lăng kính của sự thấu hiểu, cảm
thương , trân trọng và qua tài năng nghệ thuật của Tơ Hồi. Một trong những đoạn trích hay
nhất, thể hiện thành cơng diễn biến tâm lí, hành động của nhân vật Mị đồng thời thể hiện
những nét đặc sắc nghệ thuật trong tác phẩm là đoạn trích “ Hồng Ngài năm ấy...Mị thổn thức
nghĩ mình không bằng con ngựa”.
2.TB
a. Giới thiệu chung
- Tác giả Tô Hoài:
- “ Vợ chồng A Phủ” được in trong tập “ Truyện Tây Bắc” (1953) , là kết quả của chuyến đi
thực tế 8 tháng của Tơ Hồi cùng bộ đội vài giải phóng Tây Bắc. Tám tháng gắn bó đã giúp
nhà văn có những hiểu biết sâu sắc về cuộc sống con người miền núi, có những kỷ niệm thân
thiết với con người nơi đây. Tơ Hồi khẳng định : “ Miền Tây đã để thương để nhớ cho tôi
nhiều quá . tôi không thể nào quên”. Tập “Truyện Tây Bắc” ra đời là hành động trả nghĩa với
người miền Tây.
- Đoạn trích, thể hiện vẻ đẹp sức sống tiềm tàng, khát vọng tình yêu, hạnh phúc của nhân vật
Mị, đồng thời nổi bật sự tinh tế khi diễn tả sự hồi sinh trong tâm hồn nhân vật của nhà văn Tơ
Hồi.
b. Phân tích
15



*Nội dung
Khung cảnh mùa xuân ở vùng cao:
- Mùa đông năm ấy “gió và rét dữ dội”. Nhưng mùa xuân vẫn cứ đến ở Hồng Ngài: “Trẻ con đi
hái bí đỏ, cỏ gianh vàng ửng, những chiếc váy hoa được đem ra phơi…”. Như một niềm mong
đợi, vui sướng khi ngày tết người nghèo cơ cực mấy ai cũng được đi chơi. Khơng phải ngẫu
nhiên mà Tơ Hồi miêu tả sự chuyển mình của đất trời Tây Bắc say sưa đến thế:mùa vụ đã
xong, ngô lúa đã xếp đầy trong các kho, mọi người chuẩn bị đón Tết….
- Ở mỗi đầu làng, trai gái, trẻ con tụ tập đánh pao, đánh quay, thổi sáo, thổi khèn và nhảy.
Những đêm tình mùa xuân đang tới, vang trong đêm là tiếng sáo vọng lại, tiếng sáo rủ bạn đi
chơi.
→ Sự hồi sinh của đất trời Tây Bắc, vẻ đẹp gợi cảm của khơng khí ngày xn cùng với lẽ sống
phóng khống , tự do của người Mông đã tác động không nhỏ đến tâm hồn Mị tạo nên sự hồi
sinh đầy ý nghĩa cho một tâm hồn đang khô héo.
→Tuy nhiên, yếu tố quan trọng tạo nên sự thức tỉnh tâm hồn vẫn là sức sống tiềm tàng, âm ỉ
bấy lâu nay. Mùa xuân năm ấy, sức sống trong lòng Mị trỗi dậy, đem đến cho Mị những cảm
xúc vừa mới lạ, vừa thân quen.
Mị dần tỉnh lại, thoát khỏi trạng thái vô cảm bấy lâu:
Nghe tiếng sáo:
-Sau bao nhiêu năm, Mị lại nghe thấy tiếng sáo. Mị lắng nghe tiếng sáo bằng tâm trạng “thiết
tha, bổi hổi”. Cảm giác nhớ nhung da diết về kỉ niệm của quá khứ và cảm giác rạo rực, xao
xuyến của hiện tại. Đây là biểu hiện đầu tiên của sự hồi sinh tâm hồn. Cũng giống như Chí Phèo
( Chí Phèo- Nam Cao), sau bao nhiêu năm mới thức tỉnh để nghe thấy âm thanh bình dị của
cuộc sống. Tơ Hồi đã rất dụng cơng khi xây dựng chi tiết tiếng sáo. Ban đầu, tiếng sáo là âm
thanh của ngoại cảnh, sauu đó tiếng sáo nhập hẳn vào tâm hồn Mị, khiến Mị nhớ lại những đêm
vui ngày trước, nhớ lại một thời thiếu nữ tự do và kiêu hãnh. Tiếng sáo đã trở thành một ẩn dụ
nghệ thuật, trở thành biểu tượng cho sức sống, ước mơ sau này của Mị.
16


Nhẩm thầm bài hát:

- Mị nhẩm thầm bài hát của người đang thổi sáo:
“Mày có con trai con gái rồi
Mày đi làm nương
Ta khơng có con trai con gái
Ta đi tìm người u”.
Hóa ra trong sâu thẳm lịng Mị vẫn có một tiếng hát, hơm nay tiếng hát đang cựa mình thức dậy.
Khát vọng tìm đến tình yêu, hạnh phúc của lời bài hát như đánh thức niềm khát khao cuộc sống
tự do, hạnh phúc bị chôn vùi đã lâu trong tiềm thức Mị.
Hành động uống rượu
- Phụ nữ vùng cao ngày Tết đều uống rượu. Nhưng cách uống của Mị rất lạ. Mị lén lấy hũ rượu
“cứ uống ực từng bát”. Uống rượu mà cứ như uống hận, nuốt hận vào lòng. Mị uống như thể
nuốt những đắng cay của phần đời đã qua và đang uống cho cả những khát khao cho phần đời
sắp tới. Men rượu khiến người đàn bà khơng cịn liên hệ gì với cuộc sống, khơng cịn liên hệ gì
với q khứ nay bỗng “lịm mặt ngồi đấy... nhưng lòng Mị đang sống về ngày trước”.
Mị nhớ lại quá khứ
- Mị nhớ lại quá khứ. Ngày đó, Mị “uốn chiếc lá trên mơi, thổi lá cũng hay như thổi sáo”, có
biết bao nhiêu người mê, đi theo Mị. Mị lại đang sống trong tình u, hạnh phúc.
-Tơ Hồi đã rất tinh tế khi đặt nhân vật Mị vào sự giao tranh giữa một bên là sức sống tiềm
tàng, một bên là ý thức về thân phận. Ngịi bút của nhà văn như hóa thân vào nhân vật, để nâng
niu, để trân trọng những giấc mơ tình tứ của con người, đồng thời lại rất tỉnh táo, khách quan
khi phân tích, mổ xẻ những ngóc ngách sâu kín của tâm linh con người. Cho nên, bên cạnh khát
khao, náo nức về sự tái sinh thì ở Mị vẫn còn lo lắng, day dứt, tủi hờn về thân phận: lịng phơi
phới mà vẫn theo qn tính, Mị bước vào buồng, ngồi xuống giường, trông ra cửa sổ lỗ vng
mờ mờ trắng trắng. Hình ảnh cái buồng kín chỉ có một cửa sổ, một lỗ vng bằng bàn tay cứ
trở đi trở lại trong tác phẩm. Nó trở thành một nỗi ám ảnh, day dứt người đọc.
17


- Những tia hồi quang của quá khứ đã làm “ Mị thấy phơi phới trở lại”, trong lòng đột nhiên
vui sướng. Mị ý thức mình cịn rất trẻ. Mị muốn được đi chơi. “Bao nhiêu người có chồng cũng

đi chơi ngày Tết”. Những câu văn của Tơ Hồi như cùng phập phồng, náo nức cùng tâm trạng
người thiếu nữ.
- Nhưng lúc này, Mị thấy nuối tiếc quá khứ ghê gớm. “Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này,
Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa” Sau bao nhiêu năm ở lâu trong cái khổ,
Mị đã quen khổ rồi. Nay Mị đã thoát ra khỏi tình trạng lầm lũi, vơ cảm để cảm nhận nỗi đau
đớn, tủi cực của mình. Nhận thức ấy chua xót đến mức Mị không thể tiếp tục kiếp sống đau
đớn, nơ lệ, thậm chí cơ lại muốn chết để thốt khỏi cuộc sống đầy đọa, đau khổ ở nhà thống lí
Pá Tra.Ý nghĩ về cái chết chứng tỏ sức sống tiềm tàng đang trỗi dậy. Đây chính là biểu hiện của
một tâm hồn đang sống lại, tỉnh táo để nhận ra và thấm thía nỗi đau bị tước đoạt quyền được
sống. Mị nhận thức rõ được tình cảnh đen tối, bi kịch của mình.
-Ý thức về cái chết lại xuất hiện, nhưng lần này nó có ý nghĩa khác. Uất ức, nước mắt Mị ứa ra
khi tiếng sáo gọi bạn tình vẫn lửng lơ bay ngồi đường. Tiếng sáo của tình u tuổi trẻ lại thơi
thúc Mị, dìu hồn Mị theo những đám chơi. Khát vọng sống mãnh liệt được đẩy lên đến cao độ
bởi sự trỗi dậy của sức sống tiềm tàng.Tâm hồn Mị diễn biến rất phức tạp trong quá trình thức
tỉnh, nổi loạn. Mị đang sống trong nghịch lí giữa thân phận con dâu gạt nợ và niềm vui phơi
phới muốn đi chơi Tết. Tiếng sáo đã nâng đỡ tâm hồn Mị, kéo Mị thoát khỏi ý nghĩ về cái
chết.
Mị chuẩn bị đi chơi:
- Mị chuẩn bị đi chơi: “sắn một miếng mỡ bỏ vào đĩa đèn cho sáng “ , “quấn lại tóc, “Mị với
cái váy hoa”. Những hành động khi đó đều chịu sự tác động của quá khứ, của sức sống tiềm
tàng đang trỗi dậy. Đối với người phụ nữ, ý thức về sự sống gắn liền với ý thức về cái đẹp,
chất nữa tình. Khi cuộc sống khơng cịn ý nghĩa họ mất luôn ý thức về bản thân, về nhu cầu
làm đẹp cho bản thân. Khi ý thức về cuộc sống trở lại thì dấu hiệu đầu tiên là nhu cầu làm đẹp.
Tơ Hồi rất tinh tế khi nhận ra sự thay đổi đó ở Mị . Ta như gặp lại người phụ nữ xinh đẹp tràn
đầy khát vọng tự do ngày trước.
18


Bị A Sử trói đứng vào cột nhà
- Tuy nhiên, sự hồi sinh tâm hồn Mị đã không đi đến kết quả cuối cùng. Nhà văn đã đặt sự hồi

sinh của Mị vào một tình huống bi kịch: A Sử đột ngột xuất hiện, vơ cảm, thản nhiên trói
đứng Mị vào cột khi biết Mị muốn đi chơi. Nếu A Sử tức giận, gào thét trong lúc trói Mị thì đó
cịn là biểu hiện của tính người đằng này A Sử trói vợ một cách thản nhiên. Với hắn, việc trói
vợ cũng bình thường như việc “thắt lưng. mặc áo, đóng cửa đi ra”. Đoạn văn miêu tả cảnh A
Sử trói Mị là đoạn văn đậm chất hiện thực và lột tả bản chất của giai cấp thống trị phong kiến.
Bị trói đứng vào cột nước mắt chảy ra mà Mị khơng lau đi được, tóc Mị cũng bị quấn vào cột
làm cho Mị không cúi, không nghiêng đầu được.
-Ngay cả trong lúc ấy, Mị vẫn đang sống với ước mơ. “Trong đầu Mị vẫn rập rờn tiếng sáo đưa
Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi”. Xây dựng nên trạng thái tâm hồn ấy, Tơ Hồi
nói lên rất rõ, rất sâu sắc sức sống mãnh liệt đang trào dâng trong lòng Mị.
-Giữa đoạn văn là một câu rất ngắn, chỉ có bốn chữ “ Mị vùng bước đi. Trên là âm thanh của
tiếng sáo, dưới là tiếng chân ngựa. Hành động ấy như bản lề khép mở hai thế giới, hai tâm
trạng: thế giới của ước mơ với tiếng sáo rập rờn trong đầu và thế giới của hiện thực với tiếng
chân ngựa đạp vào vách; tâm trạng của một cô Mị đang mê man chập chờn theo tiếng sáo gọi
bạn tình và tâm trạng một cơ Mị đã tỉnh “đang thổn thức nghĩ mình khơng bằng con ngựa”. Mị
vùng bước đi. Câu văn ngỡ không đúng mà lại rất đúng, rất tinh tế, sâu sắc. Làm sao Mị có thể
vùng bước đi khi chân tay đã bị trói đứng cả bằng một thúng sợi đay? Nhưng Mị đã vùng bước
như một kẻ mộng du, như không biết mình đang bị trói. Mị vùng bước đi.Nhưng chân tay đau
không cựa được. Tiếng sáo tắt ngay, ước mơ tan biến và hiện thực trần trụi, phũ phàng hiện ra:
chỉ còn nghe tiếng chân ngựa đạp vào vách. Mị đã tỉnh hẳn khi thấy dây trói thít chặt lại, cay
đắng nhận ra thân phận mình khơng bằng một con ngựa. Cái dây trói kia chỉ làm đau thể xác,
nhưng cái tiếng chân ngựa kia mới thực sự xoáy sâu vào nối đau tinh thần của Mị khi nó gợi lên
một sự so sánh thật nghiệt ngã, xót xa. Tiếng chân ngựa đã trở thành một biểu trưng đầy ý nghĩa
cho hiện thực và số phận của Mị.
*Nghệ thuật:
19


- Diễn biến tâm lí và hành động của Mị trong đêm tình mùa xuân được nhà văn khéo léo thể
hiện bằng nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn, tự nhiên.

-Bút pháp miêu tả tâm lí sắc sảo, tinh tế
-Cách dẫn dắt tình tiết khéo léo, tự nhiên
-Giọng trần thuật của tác giả hòa vào những độc thoại nội tâm của nhân vật tạo nên ngôn ngữ
nửa trực tiếp đặc sắc.
-Ngôn ngữ kể truyện tinh tế, mang đậm màu sắc miền núi.
c. Nhận xét về những đặc sắc nghệ thuật trong tác phẩm
*Đặc sắc nghệ thuật là những tìm tịi sáng tạo thành công nổi bật ở phương diện nghệ thuật.
Những thành cơng ở phương diện nghệ thuật ấy góp phần to lớn trong việc truyền tải nội dung
tư tưởng tác phẩm và tô đậm dấu ấn phong cách nhà văn. Đối với một truyện ngắn, các nhà văn
thường tập trung sáng tạo và gặt hái được thành công trong nghệ thuật xây dựng tình huống,
nghệ thuật xây dựng cốt truyện, hấp dẫn nghệ thuật xây dựng nhân vật nghệ thuật sử dụng chi
tiết nghệ thuật trần thuật
* Ở truyện ngắn “ Vợ chồng A Phủ”, Tơ Hồi đã thể hiện biệt tài trong việc miêu tả tâm lý
nhân vật, thể hiện tài năng trong nghệ thuật tả cảnh và nghệ thuật trần thuật hấp dẫn sinh động.
- Biệt tài trong việc miêu tả tâm lý nhân vật: ( Đêm tình mùa xn, đêm đơng cởi trói cứu A
Phủ). Những mâu thuẫn nghịch lí, những mặt đối lập trong tính cách con người Mị được khám
phá sâu sắc, được miêu tả tái hiện một cách biện chứng đầy thuyết phục. Vì vậy hồn tồn khác
biệt với nhiều nhà văn khi đó chỉ mang tính chất minh họa, nhân vật Mị đã hiện lên rất chân
thực có sức thuyết phục cao và trang văn của Tơ Hồi là trang đời cho người đọc cái nhìn sâu
sắc về hiện thực cuộc sống và hiện thực trong tâm hồn của nhà văn .
-Tài năng miêu tả cảnh sinh động: Tái hiện sống động vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên và
phong tục, tập quán của người dân miền núi Tây Bắc.( Tài năng trong nghệ thuật tả cảnh của Tơ
Hồi được thể hiện rất rõ ở hai cảnh: bức tranh Tây Bắc vào xuân và phạt vạ A Phủ, một bức
tranh thiên nhiên một bức tranh đời sống con người.)
20


-Nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn sinh động:
+Bố cục hai phần sáng rõ đồng thời thể hiện rõ nét tư tưởng của tác phẩm. Phần một kể về cuộc
đời của Mị và A phủ ở Hồng Ngài, trong nhà thống lý Pá Tra. Phần hai là cuộc đời Mị và A phủ

ở khu du kích Phiềng Sa. Phần một là nỗi khổ đau, phần hai là hạnh phúc. Phần một là bóng tối
phần hai là ánh sáng. Cách triển khai câu chuyện thành hai phần mang tính đối lập đã góp phần
tạo nên ấn tượng truyện ngắn “ Vợ chồng A Phủ “ là một câu chuyện cổ tích thời hiện đại, cổ
tích thời đại cách mạng.
+Nhà văn ln có ý thức kết hợp vừa kể chuyện, vừa miêu tả hay tự sự và trữ tình đan xen
+Lời trần thuật ở ngơi thứ ba, cũng có lúc người kể chuyện nhập vào dòng ý thức của nhân vật.
Nhiều đoạn văn sử dụng ngơn ngữ nửa trực tiếp. Vì vậy, người đọc có những cảm nhận sâu sắc
về thế giới nội tâm của nhân vật. Giọng điệu kể chuyện trầm lắng , xót thương phù hợp với việc
thể hiện tính cách và số phận của các nhân vật
3.KB
ĐỀ 4
[…]Những đêm mùa đơng trên núi cao dài và buồn, nếu khơng có bếp lửa sưởi kia thì Mi cũng
đến chết héo. Mỗi đêm, Mị đã dậy ra thổi lửa hơ tay, hơ lưng, không biết bao nhiêu lần.
Thường khi đến gà gáy sáng Mị ngồi dậy ra bếp sưởi một lúc thật lâu thì các chị em trong nhà
mới bắt đầu dậy ra dóm lị bung ngơ, nấu cháo lợn. Chỉ chợp mắt được từng lúc, Mị lại thức
sưởi lửa suốt đêm. Mỗi đêm, khi nghe tiếng phù phù thổi bếp, A Phủ lại mở mắt. Ngọn lửa sưởi
bùng lên, cùng lúc ấy thì Mị cũng nhìn sang, thấy mắt A Phủ trừng trừng, mới biết A Phủ còn
sống. Mấy đêm nay như thế. Nhưng Mị vẫn thản nhiên thổi lửa, hơ tay. Nếu A Phủ là cái xác
chết đứng đấy, cũng thế thôi. Mị vẫn trở dậy, vẫn sưởi, chỉ biết chỉ cịn ở với ngọn lửa. Có đêm
A Sử chợt về, thấy Mị ngồi đấy, A Sử đánh Mị ngã ngay xuống cửa bếp. Nhưng đêm sau Mị vẫn
ra sưởi như đêm trước. Lúc ấy đã khuya. Trong nhà đã ngủ yên, thì Mị trở dậy thổi lửa. Ngọn
lửa bập bùng sáng lên, Mị lé mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước
mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại. Nhìn thấy tình cảnh như thế, Mị chợt nhớ
21


lại đêm năm trước A Sử trói Mị, Mị cũng phải trói đứng thế kia. Nhiều lần khóc, nước mắt chảy
xuống miệng, xuống cổ, không biết lau đi được. Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta đến chết, nó
bắt mình chết cũng thơi, nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở cái nhà này.
Chúng nó thật độc ác. Cơ chừng này chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét,

phải chết. Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ cịn biết đợi ngày rũ
xương ở đây thơi… Người kia việc gì mà phải chết thế. A Phủ… Mị phảng phất nghĩ như vậy.
Đám than đã vạc hẳn lửa. Mị không thổi, cũng khơng đứng lên. Mị nhớ lại đời mình, Mị lại
tưởng tượng như có thể một lúc nào, biết đâu A Phủ chẳng đã trốn được rồi, lúc ấy bố con Pá
Tra sẽ bảo là Mị đã cởi trói cho nó, Mị liền phải trói thay vào đấy, Mị phải chết trên cái cọc ấy.
Nghĩ thế, trong tình cảnh này, làm sao Mị cũng không thấy sợ… Lúc ấy, trong nhà đã tối bưng.
Mị rón rén bước lại, A Phủ vẫn nhắm mắt, nhưng Mị tưởng như A Phủ đương biết có người
bước lại… Mị rút con dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây mây. A Phủ cứ thở phè từng hơi, không biết
mê hay tỉnh. Lần lần, đến lúc gỡ được hết dây trói ở người A Phủ thì Mị cũng hốt hoảng. Mị chỉ
thì thào được một tiếng “Đi ngay…”, rồi Mị nghẹn lại. A Phủ bỗng khuỵu xuống, khơng bước
nổi. Nhưng trước cái chết có thể đến nơi ngay, A Phủ lại quật sức vùng lên, chạy. Mị đứng lặng
trong bóng tối. Rồi Mị cũng vụt chạy ra. Trời tối lắm. Nhưng Mị vẫn băng đi. Mị đuổi kịp A
Phủ, đã lăn, chạy, chạy xuống tới lưng dốc, Mị nói, thở trong hơi gió thốc lạnh buốt: - A Phủ
cho tơi đi. A Phủ chưa kịp nói, Mị lại nói: - Ở đây thì chết mất. A Phủ chợt hiểu. Người đàn bà
chê chồng đó vừa cứu sống mình. A Phủ nói: “Đi với tơi”. Và hai người lẳng lặng đỡ nhau lao
chạy xuống dốc núi.
(Trích Vợ chồng A Phủ, Tơ Hồi, Ngữ văn 12, tập hai, NXBGD Việt Nam, 2019, tr.13-14)
Phân tích diễn biến tâm trạng và hành động của nhân vật Mị trong đoạn trích trên. Từ đó,
nhận xét về sự thay đổi ở Mị và nêu những điểm mới trong giá trị nhân đạo của tác phẩm.
Gợi ý lập dàn ý
1.MB

22


Tơ Hồi là một nhà văn lớn của nền văn học hiện đại Việt Nam với số lượng tác phẩm đồ sộ.
Văn của ông hấp dẫn bởi lối trần thuật hóm hỉnh, sinh động, có vốn hiểu biết phong phú về
phong tục tập quán của nhiều vùng miền. Truyện ngắn “ Vợ chồng A Phủ” là một trong những
tác phẩm xuất sắc nhất của Tơ Hồi. Thơng qua cuộc đời và số phận của Mị và A Phủ, tác phẩm
phản ánh cuộc sống lầm than tủi nhục, khát vọng tự do và sự phản kháng mạnh mẽ của người

dân nghèo miền núi dưới ách thống trị tàn bạo của chế độ phong kiến. Sức sống tiềm tàng, sự
phản kháng mạnh mẽ của Mị được thể hiện rõ nét trong đêm đơng cởi trói cứu A Phủ. Qua đoạn
văn này, người đọc còn thấy được điểm mới trong giá trị nhân đạo của tác phẩm.
2.TB
a.Giới thiệu chung
- Tác giả Tơ Hồi
- Tác phẩm “ Vợ chồng A Phủ”
- Đoạn trích: Nằm ở cuối phần 1, thể hiện sự trỗi dậy của Mị thốt khỏi cường quyền và thần
quyền.
b. Phân tích
*Nội dung
- Hoàn cảnh:
+Từ khi bị bắt về làm dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Tra, Mị bị đày đọa về thể xác, áp chế về tinh
thần, dần trở nên vô cảm, chai sạn, chấp nhận cuộc sống đau khổ, tủi nhục lùi lũi như con rùa
ni trong xó cửa, ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi.
+ Nhưng trong Mị vẫn tiềm tàng sức sống mãnh liệt, trong đêm tình mùa xuân năm trước, sức
sống ấy đã từng trỗi dậy nhưng bị A Sử dập tắt khi trói đứng Mị vào cột nhà, không cho đi
chơi.
- Diễn biến tâm trạng và hành động trong đêm đông:
23


+ A Phủ đánh A Sử nên phải làm nô lệ trả nợ cho thống lí Pá Tra. Do sơ ý để hổ bắt mất một con
bò nên A Phủ bị thống lí Pá Tra trói đứng, bỏ mặc cho đói rét suốt mấy đêm liền giữa kì sương
muối khắc nghiệt ở Hồng Ngài.
+ Lúc đầu, Mị vô cảm thản nhiên thổi lửa, hơ tay. Mị vẫn trở dậy, vẫn sưởi, chỉ biết chỉ còn ở
với ngọn lửa. Đêm đau khổ nhất trong đời A Phủ, Mị lại trong trạng thái hồn tồn vơ cảm.
Niềm an ủi, bạn bầu duy nhất của Mị chỉ cịn là ngọn lửa. Có bị A Sử đánh ngã ngay xuống cửa
bếp thì hơm sau lặng lẽ và dai dẳng, Mị lại ra thổi lửa hơ tay. Ngọn lửa sưởi bùng lên, thấy mắt
A Phủ mở trừng trừng, Mị mới biết A Phủ còn sống. Thậm chí, Mị cịn nghĩ “Nếu A Phủ là cái

xác chết đứng đấy, cũng thế thơi”. Mị hồn tồn vơ cảm, thản nhiên trước cảnh ngang trái trong
nhà Pá Tra, thản nhiên trước nổi khổ của người khác. Vậy là, mất mát lớn nhất chính là mất mát
tình thương.
+ Sau đó, nhìn thấy dịng nước mắt lấp lánh bị xuống hai hõm má đã xám đen lại của A Phủdòng nước mắt khổ đau, tuyệt vọng của người con trai Mèo gan góc, khỏe mạnh đã giúp Mị nhớ
ra nhiều điều. Mị đồng cảm với nỗi đơn độc và tuyệt vọng A Phủ. Mị nhớ lại tình cảnh của mình
năm trước khi bị trói đứng nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không biết
lau đi được. Sự đồng cảm bắt nguồn từ sự thương cảm bởi có thương mình thì mới thương
người thương người như thể thương thân. Mị nhận ra nỗi đau đớn của mình năm trước trong nỗi
đau của A Phủ. Tơ Hồi miêu tả diễn biến tâm lí rất tự nhiên, phù hợp.
+ Mị tỉnh táo nhận ra sự độc ác của cha con nhà thống lí, của bọn chúa đất phong kiến chúng nó
thật độc ác, thấy lo A Phủ sẽ chết chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Mị nhớ ra thân phận
mình và nhận ra nỗi khổ của người khác. Nhận ra cái chết của A Phủ thật oan ức, bất cơng, vơ
lí. Nhận ra bộ mặt tàn ác của giai cấp thống trị. Hóa ra cái mất mát cuối cùng của Mị là tình
thương, cái trở về đầu tiên cũng là tình thương. Tình thương chưa bộc lộ thành hành động mà
qua những suy nghĩ. Tình thương đã cất lên trong Mị một lời độc thoại, một lời chất vấn “
Người kia việc gì mà phải chết thế”. Mị tưởng tưởng biết đâu A Phủ sẽ trốn thoát được. Mị sẽ bị
trói thay vào cái cọc ấy, sẽ chết thay trên cái cọc ấy “Nghĩ thế, trong tình cảnh này, làm sao Mị
cũng không thấy sợ”.
24


+ Tình thương sống dậy đã lấn át đi mọi nỗi sợ hãi. Ý nghĩ cắt dây cởi trói cứu A Phủ đến với
Mị vào lúc đó. Tình thương đã biến thành hành động, Mị rón rén bước lại, rút con dao nhỏ cắt
lúa, cắt nút dây mây. Mị giục A Phủ chạy trốn.
+ Nhưng bước chân tự do của A Phủ đã đánh thức niềm khát khao và hi vọng sống trong Mị. Mị
chạy theo A Phủ. Lúc trước nghĩ đến cái chết Mị không thấy sợ mà giờ đây Mị lại sợ chết.
Chính nỗi sợ chết này là tiếng nói hồn nhiên nhất của niềm thiết tha với cuộc sống.
-> Những hành động tưởng như mâu thuẫn, nghịch lí đã được nhà văn lí giải rất rõ ràng, thuyết
phục. Hành động của Mị không phải là tự phát mà là tự giác.Mị cứu A Phủ vì thương người
cùng cảnh ngộ với mình, cắt dây trói cứu A Phủ cũng chính là cắt đứt sợi dây trói đời mình với

nhà thống lí Pá Tra. Mị cũng tự cứu đời mình vì khát vọng sống, khát vọng tự do, hạnh phúc.
Cô Mị từ đây đã sống lại chứ không lụi tàn như những người đàn bà khác trong nhà thống lí Pá
Tra. Với hành động này, Mị đã chiến thắng cả hai thế lực thần quyền và cường quyền để hướng
tới cuộc sống tự do.
*Nghệ thuật
- Đặt nhân vật vào hồn cảnh đặc biệt, đầy kịch tính để nhân vật bộc lộ tính cách.
- Miêu tả diễn biến tâm kí logic, tinh tế, chân thực.
-Nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn, giọng kể biến đổi linh hoạt.
-Ngôn ngữ kể truyện tinh tế, mang đậm màu sắc miền núi.
c. Nhận xét về sự thay đổi ở Mị và nêu điểm mới trong giá trị nhân đạo của tác phẩm
*Sự thay đổi ở Mị
- Lúc đầu: Mị ở trong trạng thái vô cảm với nỗi bất hạnh của người khác và của chính mình.
Sau đó, Mị có sự thay đổi từ trạng thái vơ cảm đến đồng cảm, thức dậy lịng thương người, cứu
người và tự cứu chính mình.
- Sự vận động trong tâm trạng, hành động của Mị diễn ra đột ngột, bất ngờ nhưng hợp lí. Đó
cũng chính là sự phát triển trong tư tưởng, nhận thức: từ một con người cam chịu đã trở thành
con người phản kháng, từ thân phận nô lệ đã trở thành người tự do, làm chủ hoàn cảnh.
25


×