1
LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên em xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc đến giảng viên – Thạc
sĩNguyễn Thị Thu Thủy, người đã tận tình chỉ bảo và giúp đỡ chúng em
trong suốt thời gian nghiên cứu và hoàn thành khóa luận tốt nghiệp.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa Giáo dục Tiểu
học Mầm non cùng các thầy cô của trường Đại học Hùng Vương, những
người thầy, người cơ ln nhiệt tình giảng dạy, khơng chỉ truyền thụ những
kiến thức mà thầy cơ cịn cho chúng em những kinh nghiệm sống trong suốt
quá trình học tập và nghiên cứu tại trường.
Em cũng xin gửi lời cảm ơn tới các thầy cô trong thư viện nhà trường
đã tạo điều kiện thuận lợi nhất cho em trong q trình tìm tịi và nghiên cứu
đề tài.
Em xin trân trọng cảm ơn!
Phú Thọ, ngày 10 tháng 5 năm 2018
Người thực hiện
Phạm Ngọc Bích
2
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài ............................................................................... 1
2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn...................................................................... 2
2.1. Ý nghĩa khoa học .......................................................................................... 3
2.2. Ý nghĩa thực tiễn ......................................................................................... 3
3. Mục đích nghiên cứu .................................................................................... 3
4. Nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................... 3
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................ 3
5.1. Đối tượng nghiên cứu .................................................................................. 3
5.2. Phạm vi nghiên cứu ..................................................................................... 4
6. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................. 5
6.1. Phương pháp phân tích tổng hợp.................................................................. 5
6.2. Phương pháp khảo sát thống kê ................................................................... 5
6.3. Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia ............................................................. 5
6.4. Phương pháp hệ thống ................................................................................. 6
7. Giả thiết khoa học ......................................................................................... 6
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1:TRUYỆN ĐỒNG THOẠI VIẾT CHO THIẾU NHI
1.1. Truyện viết cho thiếu nhi .......................................................................... 7
1.1.1. Khái niệm ................................................................................................. 7
3
1.1.2. Đặc điểm thể loại truyện viết cho thiếu nhi ............................................... 8
1.2. Vài nét về truyện đồng thoại ................................................................... 11
1.2.1. Khái niệm truyện đồng thoại ................................................................... 11
1.2.2. Đặc trưng thể loại truyện đồng thoại ....................................................... 13
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 ................................................................................. 21
CHƯƠNG 2: TRUYỆN ĐỒNG THOẠI VŨ TÚ NAM – NHÌN TỪ
PHƯƠNG DIỆN NỘI DUNG
2.1. Truyện đồng thoại viết cho thiếu nhi của Vũ Tú Nam .......................... 22
2.1.1. Tác giả Vũ Tú Nam ................................................................................ 22
2.1.2.Truyện đồng thoại viết cho thiếu nhi của Vũ Tú Nam.............................. 24
2.2. Đặc sắc nội dung truyện đồng thoại Vũ Tú Nam ................................... 26
2.2.1. Thiên nhiên giàu đẹp, tươi mới ............................................................... 27
2.2.2.Thế giới loài vật đa dạng, sinh động ........................................................ 30
2.2.3. Mở rộng nhận thức, giáo dục trẻ những giá trị Chân – Thiện – Mỹ......... 36
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 ................................................................................. 44
CHƯƠNG 3: ĐẶC SẮC NGHỆ THUẬT TRUYỆN ĐỒNG THOẠI CỦA
VŨ TÚ NAM
3.1. Nghệ thuật xây dựng cốt truyện.............................................................. 45
3.1.1. Khái niệm cốt truyện............................................................................... 45
3.1.2. Đặc sắc nghệ thuật xây dựng cốt truyện .................................................. 46
3.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật ................................................................ 49
3.2.1. Khái niệm nhân vật ................................................................................. 49
4
3.2.2. Đặc sắc nghệ thuật xây dựng nhân vật .................................................... 50
3.3.Nghệ thuật nhân cách hóa ........................................................................ 54
3.3.1. Khái niệm nhân cách hóa ........................................................................ 54
3.3.2. Nhân cách hóa tài tình, dí dỏm................................................................ 55
3.4. Sức hấp dẫn ngôn ngữ và giọng điệu ...................................................... 58
3.4.1. Khái quát ................................................................................................ 58
3.4.2. Ngôn ngữ phong phú, giàu có ................................................................. 59
3.4.3. Giọng điệu đa dạng, trong sáng............................................................... 64
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3 ................................................................................. 67
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 68
TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................. 70
5
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong đời sống con người xưa nay, văn học đã trở thành nhu cầu
khơng thể thiếu. Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, một loại hình
nghệ thuật, văn học làm phong phú hơn hiểu biết của con người, góp phần
hình thành nhân cách, đúng như M.Gorki đã từng nói: “Văn học là nhân
học”.
ỞViệt Nam,trong sự phát triển của nền văn học dân tộc, mỗi đối tượng,
mỗi lứa tuổi, cũng có những sáng tác văn học phù hợp. Trong đó, văn học
thiếu nhi là một bộ phận quan trọng góp phần làm nên diện mạo của văn
họcnước nhà. Văn học thiếu nhi đã thực sự phát triển khá toàn diện và phong
phú.Văn học là tấm gương phản ánh cuộc sống. Đó là những bức tranh mn
màu vềcuộc sống, về thế giới tâm hồn đáng yêu, hồn nhiên và trong sáng của
tuổi thơấu.
Viết cho thiếu nhi, các nhà văn, nhà thơ đã tiếp cận với những khía
cạnhkhác nhau của tâm lý, tính cách, những trạng thái cảm xúc ở độ tuổi của
các em để tạo nên những sản phẩm tinh thần tặng cho các bạn nhỏ tuổi. Một
trong những thể loại truyện được nhiều nghệ sĩ yêu thích và thử bút chính là
truyện đồng thoại. Đồng thoại là một mảng truyện mượn hình ảnh của những
lồi vật để khắc họa những diễn biến tâm lý, tình cảm, sự nhận thức,tháiđộ
của thế giới tuổi thơ trước thế giới và cuộc sống xung quanh. Có thể nói,
truyện đồng thoại đã thực sự tạo ra một thế giới rất riêng, sinh động hấp dẫn
nhưng cũng rất gần gũi với tâm lý,với lý tưởng của trẻ thơ. Bởi vậy, trong
dòng văn học thiếu nhi, truyện đồng thoại bao gồm những sáng tác khá phong
phú, với nhiều cây bút tiêu biểu như: Tơ Hồi, Võ Quảng, Xuân Quỳnh,
Phạm Hổ... và một cái tên không thể khơng nhắc tới đó là nhà văn Vũ Tú
Nam với biệt danh là “Văn Ngan tướng cơng”.
Mượn hình ảnh của những nhân vật nhỏ bé, bình dị, ngộ nghĩnh, đáng
yêu, mỗi nghệ sĩ lại gửi gắm những bài học sâu sắc về tình cảm, đạo đức, về
6
cuộc sống, về con người nhằm tác động tới nhận thức, giáo dục tư tưởng, tình
cảm cho lứa tuổi học trị.
Trong chương trình bậc Tiểu học, sách Tiếng Việt cung cấp một số
lượng lớn tri thức vô cùng phong phú, trang bị những kiến thức về tự nhiên
và xã hội, về văn hóa, về đạo đức, về con người. Qua đó hình thành, bồi
dưỡng và giáo dục nhân cách cho học sinh Tiểu học, để các em có thể tiếp
cận với nhiều lĩnh vực toàn diện hơn. Trong cấu trúc chương trình Tiểu học,
người biên soạn đã triển khai hệ thống truyện đồng thoại. Những tác phẩm đó
đem lại, những bài học cụ thể sinh động, có tác dụng to lớn trong việc giáo
dục nhân cách và nhận thức tình cảm của các em đối với môi trường thiên
nhiên.
Vũ Tú Nam là nhà văn tài năng, là một tấm gương sáng về lao động
nghệ thuật. Ông là một nhà văn hiện đại có nhiều đóng góp cho nền văn học
Việt Nam thế kỉ XX. Ông sáng tác nhiều thể loại truyện: truyện dài, truyện
ngắn, bút kí, truyện viết cho thiếu nhi. Ở bất kì thể loại nào Vũ Tú Nam cũng
mang lại cho người đọc những giá trị hay về nội dung và nghệ thuật trong tác
phẩm của mình.
Văn học thiếu nhi là một trong những mảng quang trọng ghi dấu tên
tuổi Vũ Tú Nam trong lòng độc giả yêu văn học Việt. Với những sáng tác
dành riêng cho thiếu nhi, đặc biệt là những truyện đồng thoại, ông coi như
một người ông đang kể chuyện cho các cháu của mình nghe.
Mặtkhác, những truyện đồng thoại của Vũ Tú Nam ln đem lại những
bài học cụ thể sinh động, có tác dụng to lớn trong việc giáo dục nhân cách và
nhận thức tình cảm của các em với mơi trường thiên nhiên. Là một giáo viên
tiểu học trong tương lai cùng với lịng say mê văn chương, tơi mong muốn
những tác phẩm của Vũ Tú Nam sẽ được đưa nhiều hơn vào trong chương
trình tiểu học để qua đó, hình thành, bồi dưỡng và giáo dục nhân cách cho
học sinh tiểu học, để các em có thể tiếp cận với nhiều lĩnh vực toàn diện hơn.
7
Xuất phát từ những lí do trên, chúng tơi mạnh dạn lựa chọn đề
tàiTruyện đồng thoại viết cho thiếu nhi của Vũ Tú Nam(khảo sát qua Tuyển
tập Những truyện hay viết cho thiếu nhi của Vũ Tú Nam doNXB Kim
Đồng ấn hành năm 2003)
2.Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
2.1.Ý nghĩa khoa học
Đề tài “ Truyện đồng thoại viết cho thiếu nhi của Vũ Tú Nam” bổ sung
thêm nguồn tư liệu về nhà văn cũng như tác phẩm, xác định được những đặc
sắc về nội dung và nghệ thuật trong truyện đồng thoại nói chung và truyện
đồng thoại của Vũ Tú Nam nói riêng.
2.2. Ý nghĩa thực tiễn
Đề tài nghiên cứu thành công, hy vọng sẽ giúp giáo viên và học sinh
Tiểu học hiểu sâu sắc hơn về giá trị của truyện đồng thoại của Vũ Tú Nam.
Đặc biệt, việc giảng dạy thơng qua đồng thoại sẽ góp phần quan trọng vào
việc giáo dục nhân cách cho học sinh Tiểu học.
3.Mục đích nghiên cứu.
Với đề tài “Truyện đồng thoại viết cho thiếu nhi của Vũ Tú Nam”
hướngtới giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật trong truyện đồng thoại của Vũ
Tú Nam qua tài liệu khảo sát.
Thông qua giá trị ấy thấy được tác dụng truyện đồng thoại của Vũ Tú
Nam đối với việc giáo dục nhân cách và giá trị thẩm mĩ cho trẻ.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu.
Với đề tài “Truyện đồng thoại viết cho thiếu nhi của Vũ Tú Nam”
chúng tôithực hiện nghiên cứunộidung sau:
- Đôi nét về truyện đồng thoại viết cho thiếu nhi.
- Truyện đồng thoại Vũ Tú Nam- nhìn từ phương diện nội dung.
- Giá trị nghệ thuật truyện đồng thoại của Vũ Tú Nam.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu.
8
Khóa luận nghiên cứu giá trị nội dung và nghệ thuật truyện đồng thoại
viết của Vũ Tú Nam.
5.2. Phạm vi nghiên cứu
Khóa luận khảo sát Tuyển tập Những truyện hay viết cho thiếu nhi của
Vũ Tú Nam (NXB Kim Đồng,2013).
Tập truyện có 45 truyện và 1 truyện mở đầu gồm mấy truyện nhỏ, trong đó
có 25truyện đồng thoại đượcchúng tơi lựa chọn để nghiên cứu gồm những
truyện sau:
- Cuộc phiêu lưu của Văn Ngan tướng công
- Cây gạo
- Đêm hè
- Ong bắt dế
- Cây Chò kể chuyện
- Vịt và Gà tranh cãi
- Cá Chép rỡn trăng
- Chuyện gấu ăn trăng
- Hội mùa xuân
- Con Cà Cuống kể
- Công chúa Ốc Sên
- Gấu Xù muốn có nhiều trăng
- Bác lợn hay cười
- Chuyện con hổ ác
- Măng tre
- Cái trứng bọ ngựa
- Con Thạnh Sùng
- Bồ Nâu và Chim Chích
- Con Thằn Lằn
- Bướm vàng
- Con chó mồ cơi
9
- Tiếng ve ran
- Cái áo hiệp sĩ
- Chuyện con Xin Cơm và con Niềng Niễng
- Chuyện viễn tưởng đêm rằm
6.Phương pháp nghiên cứu
6.1.Phương pháp phân tích – tổng hợp
Phân tích và tổng hợp là hai phương pháp có quan hệ mật thiết với
nhau tạo thành sự thống nhất không thể tách rời: phân tích được tiến hành
theo phương hướng tổng hợp, còn tổng hợp được thực hiện dựa trên kết quả
của phân tích. Trong nghiên cứu lý thuyết, người nghiên cứu vừa phải phân
tích tài liệu, vừa phải tổng hợp tài liệu để nghiên cứu.
Phân tích và làm rõ được nét đẹp ý nghĩa của từng nhân vật trong tác
phẩm. Phân tích yếu tố ngơn ngữ nhân vật để làm rõ góp phần làm rõ đặc
điểm của nhân vật được nói tới. Phương pháp tổng hợp giúp cho người viết
có cái nhìn khái qt, tồn diện hơn.
6.2. Phương pháp khảo sát- thống kê
Phương pháp này giúp chúng tôi khảo sát và thống kê các tài liệu tham
khảo. Từ đó xác định được tầm quan trọng, ý nghĩa của những câu truyện
đồng thoại của Vũ Tú Nam.
6.3.Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia
Là phương pháp sử dụng trí tuệ của đội ngũ chun gia có trình độ cao
của một chun ngành để xem xét, đánh giá một sản phẩm khoa học bằng
cách sử dụng trí tuệ của một đội ngũ chun gia có trình độ cao về một lĩnh
vực nhất định.
Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia sẽ giúp cho người nghiên cứu có
được những đánh giá cụ thể về cơng trình nghiên cứu của mình.Thực hiện
phương pháp lấy ý kiến chuyên gia bằng cách xin ý kiến giảng viên hướng
dẫn, các giảng viên giảng dạy môn Văn ở trường Đại học Hùng Vương và
một số giáo viên dạy giỏi môn Tiếng Việt ở trường tiểu học.
10
6.4.Phương pháp hệ thống
Phương pháp này nhằm xem xét về phương diện nội dung và nghệ
thuật trong truyện đồng thoại của Vũ Tú Nam. Nghiên cứu về nội dung và
nghệ thuật truyện đồng thoại nằm trong hệ thống các tác phẩm văn học dành
7. Giả thiết khoa học
Giúp chúng ta hiểu rõ hơn về nhà văn Vũ Tú Nam cũng như tác
phẩm, những yếu tố đặc sắc về nội dung và nghệ thuật trong truyện đồng
thoại nói chung và truyện đồng thoại của Vũ Tú Nam nói riêng.
Thơng qua giá trị ấy thấy được tác dụng truyện đồng thoại của Vũ Tú
Nam đối với việc giáo dục nhân cách và giá trị thẩm mĩ cho trẻ.
11
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: TRUYỆN ĐỒNG THOẠI VIẾT CHO THIẾU NHI
1.1.Truyện viết cho thiếu nhi
1.1.1.Khái niệm
Trong kho tàng văn học nhân loại đã có những sáng tác dành cho một
lớp đối tượng riêng, đó là thiếu nhi. Tuy nhiên, về khái niệm “Truyện viết
chothiếu nhi”, cho đến nay vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau, chưa thống nhất
trong giới nghiên cứu. Ở Việt Nam dù truyện viết chothiếu nhi không sớm
được nghiên cứu chuyên biệt như những loại hình văn học khác nhưng cũng
đã được các nhà nghiên cứu xác lập cho nó một chỗ đứng nhất định với một
khái niệm cụ thể. Từ điển Thuật ngữ văn học, đã định nghĩa về “Truyện viết
chothiếu nhi” như sau: “Theo nghĩa hẹp, truyện viết chothiếu nhi gồm những
tác phẩm văn học hoặc phổ cập khoa học dành riêng cho thiếu nhi” [2, 45].
Tuy vậy, khái niệm truyện viết cho thiếu nhi cũng thường bao gồm một phạm
vi rộng rãi những tác phẩm văn học thông thường (cho người lớn) đã đi vào
phạm vi đọc của thiếu nhi.
Theo nhiều nhà nghiên cứu, phê bình lý luận văn học, quan niệm về
truyện viết chothiếu nhi tường tận hơn, chi tiết hơn. Khái niệm truyện viết
chothiếu nhi được nhận diện ở nhiều góc độ: chủ thể sáng tác, nhân vật trung
tâm, mục đích sáng tác, đối tượng tiếp nhận. Về cơ bản các tác giả cho rằng:
Mọi tác phẩm được nhà văn sáng tạo ra với mục đích giáo dục, bồi dưỡng
tâm hồn, tính cách cho thiếu nhi. Nhân vật trung tâm của nó là thiếu nhi và
đôi khi cũng là người lớn, hoặc là một cơn gió, một lồi vật, đồ vật, một cái
cây.... Tác giả của truyện viết chothiếu nhi không chỉ là chính các em mà
cũng là các nhà văn thuộc mọi lứa tuổi.
Những tác phẩm mà thiếu nhi thích thú tìm đọc. Bởi các em đã tìm
thấy trong đó cách nghĩ, cách và cách hành động của chính các em, hơn thế,
các em cịn tìm được ở trong đó một lời nhắc nhở, một sự răn dạy, với những
12
nguồn động viên khích lệ, những sự dẫn dắt ý nhị, bổ ích trong q trình
hồn thiện tính cách của mình.
Như vậy, truyện viết chothiếu nhi là những tác phẩm truyện mà nhân
vật trung tâm hoặc là thiếu nhi, hoặc là người lớn, hoặc là con người hay là
thế giới tự nhiên....nhưng được nhìn bằng đơi mắt trẻ thơ, có nội dung gần
gũi, quen thuộc với vốn trải nghiệm của trẻ, được các em thích thú, say mê và
có tác dụng hoàn thiện đạo đức, tâm hồn cho trẻ.
1.1.2. Đặc điểm thể loại truyện viết cho thiếu nhi
Nghệ sỹ khi viết truyện cho lứa tuổi nhỏ phải kể đến một nhân tố quan
trọng làm nên văn học thiếu nhi- đó là chủ thể sáng tạo nghệ thuật cho các
em. Người nghệ sỹ cũng phải lựa chọn sự thể hiện sao cho phù hợp với tâm
sinh lý trẻ thơ. Truyện viết cho thiếu nhi không dễ, nhà văn khi sáng tác phải
thật sự trẻ hóa chính mình, biết đứng ở vị trí các em để hiểu tâm lý các em,
hiểu những nhu cầu của các em...Truyện sẽ thu hút các em hơn khi nội dung
của nó thỏa mãn những vấn đề mà các em đang nghĩ, những giấc mơ mà các
em đang ấp ủ. Lật giở từng trang sách, các em sẽ lưu giữ những hình tượng
nhân vật giúp các em tìm thấy niềm vui, niềm tin bởi vì “Trẻ em ln ln
mang theo những hình ảnh, những ước mơ, những ấn tượng từ những trang
sách mà chúng đã đọc vào tương lai. Sự tác động sâu xa bền vững ấy của tác
phẩm văn học vào cuộc đời của trẻ đòi hỏi người cầm bút cho các em phải
có ý thức trách nhiệm lớn lao”[9,51].Truyện viết cho các em cần có sự tham
gia của các nhà văn yêu nghề, mến trẻ. Đó là những người giàu nhiệt huyết sẽ
góp sức chung tay làm giàu kho tàng văn học dân tộc. “Các tác giả viết cho
trẻ em cũng đồng thời là những nhà văn đã góp phần tạo nên diện mạo
chung của văn học dân tộc. Văn học thiếu nhi cũng được đặt trong nỗ lực đổi
mới chung của văn học, ý thức nghệ thuật trong sự đổi mới chung có ảnh
hưởng đến quan niệm và cách viết cho các em”[9, 55].
Văn học là tiếng dội từ cuộc sống. Trẻ em tìm về văn học là tìm đến
một cuộc sống chúng vốn được biết và có thể chưa biết. Truyện viết cho thiếu
13
nhi phong phú đa dạng về đề tài, chủ đề, bức tranh cuộc sống muôn màu
được tái hiện trong trang sách dành cho trẻ thơ. Những mảng đề tài lớn
thường gặp trong truyện viết cho thiếu nhi khơng nhiều. Đó là những vấn đề
truyền thống lịch sử, đề tài kháng chiến, đề tài lao động, đề tài khoa
học…Tuy nhiên, chủ đề có thể được thể hiện khơng giống nhau tùy theo từng
ý đồ của người cầm bút. Tối và sáng, tốt và xấu, buồn và vui…Những hiện
thực cuộc sống không chỉ tồn một màu hồng, vì vậy văn học viết cho các em
vừa phải phản ánh những điều tốt đẹp, nhưng cũng cần đề cập đến những mặt
trái, giúp các em nhận thức được quy luật cuộc sống. Trong xu thế của xã hội
hiện đại, sự "nhiễu loạn" từ hiện thực cuộc sống và của nhiều phương tiện
truyền thông ảnh hưởng rất sâu sắc đến giới trẻ, sự giáo dục từ những tấm
gương tốt chưa đủ, cần phải có những bài học về cái xấu để lớp trẻ biết phân
biệt rõ ràng, khơng bị méo mó về nhân cách.
Một tác phẩm văn học khơng thể thiếu nhân vật. Đó là hình thức cơ
bản để giúp văn học miêu tả thế giới một cách hình tượng. Nhân vật trong
truyện viết cho thiếu nhi đa dạng và phong phú. Tuy nhiên theo chúng tơi,
nhân vật chính trong các truyện viết cho các em cũng chính là trẻ em. Dù
trong văn bản kể có những nhân vật khác, song đó chỉ là những nhân vật góp
phần làm sáng rõ đời sống tình cảm của nhân vật trẻ thơ. Nếu là những đồng
thoại thì truyện viết cho các em, nhân vật chính là thế giới loài vật. Nhà văn
mượn truyện loài vật để gửi gắm những ý nghĩa nhân sinh tới con
người.Nhân vật là phương tiện khái quát hiện thực, tính cách nhân vật, hoàn
cảnh nhân vật, các mối quan hệ của nhân vật góp phần phản ánh cuộc sống
hiện thực. Trong những truyện viết cho thiếu nhi, các nhân vật luôn gắn liền
với tâm lý, tình cảm của các em, gắn liền với mơi trường quen thuộc của các
em như gia đình, trường học...để các em lý giải, khám phá cuộc sống thông
qua các nhân vật. Viết về cuộc sống mới, văn học thiếu nhi đã xây dựng
nhiều nhân vật có thành tích xuất sắc. Các tác giả đã xây dựng nhân vật phù
hợp với tính cách và hồn cảnh. Khơng thần thánh nhân vật và cường điệu
14
nhân vật quá mức, tác giả giúp các em hiểu về ý nghĩa cao quý của lao động,
giáo dục các em về lý tưởng đạo đức, giáo dục tình cảm thẩm mỹ lành mạnh,
giúp các em thưởng thức cái đẹp thiên nhiên và cuộc sống, cảm nhận giá trị
nhân cách cao đẹp thơng qua nhân vật. Có thể nhận thấy, trẻ em vốn là đối
tượng nhạy cảm, chúng có thể vui cùng với niềm vui của nhân vật và cũng có
thể buồn ngay cùng với nỗi buồn của nhân vật. Những hình tượng nhân vật
mà các em u thích sẽ sống trong trí nhớ của các em suốt cuộc đời.
Nói tới truyện không thể không bàn đến kết cấu cốt truyện. Kết cấu cốt
truyện bao gồm chuỗi các sự kiện hành động của nhân vật được sắp xếp gắn
kết theo một ý tưởng nghệ thuật của người nghệ sỹ. Nhìn chung, truyện viết
cho thiếu nhi có những kiểu kết cấu khác nhau tuỳ thuộc vào dung lượng tác
phẩm dài hay ngắn; phụ thuộc vào kiểu loại truyện khác nhau, phụ thuộc vào
ý đồ nghệ thuật của người cầm bút. Tuy nhiên, trên đại thể, truyện viết cho
thiếu nhi thường có kiểu sắp xếp gắn kết theo trình tự thời gian tuyến tính.
Những sự kiện, tình tiết gắn với cuộc đời nhân vật chính được kể theo trình
tự trước sau khơng đảo lộn. Cách kể này khiến các em dễ theo dõi. Ví dụ
trong tác phẩm Dế Mèn phiêu lưu ký (Tơ Hồi ); cuộc đời của nhân vật “Tơi”
trong truyện Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ của (Nguyễn Nhật Ánh). Truyện
có thể được tổ chức theo dạng thức khơng theo trình tự thời gian tuyến tính, ở
đó có xen kẽ những sự kiện, tình tiết của thời hiện tại, thời gian đã qua.
Tập truyện Những truyện hay viết cho thiếu nhi của Vũ Tú Nam, nội
dung của tác phẩm văn học không chỉ là chỉ những hiện tượng đời sống được
miêu tả phản ánh trong mỗi chữ viết, trang sách thuộc về bản thân, sự việc
khách thể mà còn qua tác phẩm nhà văn muốn bộc lộ tư tưởng, cảm xúc của
mình. Nổi bật trong tập Những truyện hay viết cho thiếu nhi của Vũ Tú Nam
là câu chuyện về những con vật ngộ nghĩnh, con người dễ mến thân thiện,
những đồ vật quanh em… Đây là dạng thức khá phổ biến trong truyện ngắn
viết cho thiếu nhi.
15
Ngoài nhân vật và kết cấu cốt truyện, truyện viết cho thiếu nhi cịn
những yếu tố khác thuộc về hình thức như: Ngôn ngữ, các biện pháp nghệ
thuật: (miêu tả, so sánh, nhân hóa...)Điều đó giúp nhà văn thể hiện tốt những
nội dung muốn chuyển tới độc giả nhỏ tuổi.
Dù vận động với tính chất phong phú, đa sắc màu như vậy nhưng văn
học thiếu nhi Việt Nam cũng rất thống nhất về tư tưởng, phương pháp sáng
tác. Chức năng giáo dục của văn học thiếu nhi luôn được các tác giả đặt lên
hàng đầu. Tơ Hồi khẳng định: “Nội dung một tác phẩm văn học viết cho
thiếu nhi bao giờ cũng quán triệt vấn đề xây dựng đức tính con người. Nói thì
thừa, cần nhắc lại và thật giản dị, một tác phẩm chân chính có giá trị đối với
tuổi thơ là một tác phẩm tham dự mạnh mẽ vào sự nghiệp nên người của
bạn đọc ấy”[22,122]. Tuy nhiên, các nhà văn khơng muốn mình là người
thuyết giáo, đưa ra những bài học giáo huấn khô khan, cứng nhắc cho các em.
Nghệ thuật giáo dục là điều được các tác giả quan tâm thực hiện thường
xuyên. Các tác giả, dù là trẻ em hay nhà văn lớn tuổi, họ đều “nhìn con
người, nhìn cuộc đời bụi bặm của chúng ta bằng con mắt trong veo và ngơ
ngác của con trẻ...”. Vì thế, các tác phẩm của họ đã trở thành những thế giới
nghệ thuật non trẻ, tinh khôi, ngộ nghĩnh, đáng yêu. Điều đó đúng với tinh
thần mà tác giả Quang Huy đã phát biểu: “Thơ cho thiếu nhi bao giờ cũng
phải vui tươi, ngộ nghĩnh. Đằng sau những câu phải giấu những nụ cười. Các
em không phải là những ông cụ non, không chấp nhận những bài thơ khô
khan, nghiêmnghị quá mức. Mỗi bài thơ không thể là lời giáo huấn sống
sượng và lột bỏ hết mọi say đắm, hồn nhiên dí dỏm của đời sống tuổi nhỏ”.
Với tâm huyết dành cho thiếu nhi, các tác giả đã tạo ra những sáng tác phù
hợp với đặc điểm tâm sinh lí của trẻ. Dung lượng tác phẩm ngắn gọn, sự giản
dị trong sáng và giàu tính nhạc, sự có mặt của yếu tố hài hước… Đó là biểu
hiện sự thấu hiểu đối tượng tiếp nhận của các nhà văn.
1.2.Vài nét về truyện đồng thoại
1.2.1.Khái niệm truyện đồng thoại
16
Thuật ngữ truyện đồng thoại trong văn học Việt Nam vốn có nguồn
gốc từ Trung Hoa, được xác lập vào đầu thập niên 60 của thế kỉ XX. Có rất
nhiều ý kiến khác nhau về khái niệm truyện đồng thoại.
Khái niệm là một quy ước chứa đựng cách nhìn, cách nghĩ về đối
tượng của một cộng đồng văn hoá cụ thể. Trong kho tàng từ vựng của người
Việt, vốn từ Hán Việt chiếm tỷ trọng lớn. Những ngành khoa học xã hội cũng
như trong cuộc sống thường nhật, chúng ta sử dụng từ Hán Việt rất nhiều.
Truyện đồng thoại là thuật ngữ nằm trong số đó. Nếu hiểu theo cách “bẻ chữ”
thì đồng thoại là truyện cho trẻ em (đồng là nhi đồng, từ “thoại” được hiểu
như là truyện). Để tìm hiểu khái niệm về truyện đồng thoại ta có thể tham
khảo những ý kiến tiêu biểu của giới học giả:
Theo Từ điển Hán - Việt của tác giả Đào Duy Anh, đồng thoại được
hiểu là “Truyện chép cho trẻ em”[1,306]. Từ điển Tiếng Việt xem đồng thoại
là "Thể truyện cho trẻ em, trong đó lồi vật và các vật vơ tri được nhân cách
hố tạo nên một thế giới thần kỳ thích hợp với trí tưởng tượng của các
em[1,333].
Nhà nghiên cứu Vân Thanh thì cho rằng: “Đồng thoại là một thể loại
đặc biệt của văn học, có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa hiện thực và mơ
tưởng. ở đây các tác giả thường dùng nhân vật chính là động vật thực
vật và những vật vô tri, lồng cho chúng những tình cảm của con
người.Tính chất mơ tưởng và khoa trương đó chính là yếu tố khơng thể
thiếu trong đồng thoại”. [19, 282 - 283 ]. Nhà văn là người trực tiếp sáng
tạo ra tác phẩm, họ khơng làm lí luận văn chương. Tuy nhiên, là người trong
cuộc, họ có những nhìn nhận tinh tế đối với bản chất thể loại. Vì vậy, ý kiến
của họ thực sự là một “kênh thơng tin” quan trọng giúp ích rất nhiều đối với
việc nắm bắt những khái niệm của văn học.
Nói về khái niệm truyện đồng thoại, nhà văn Võ Quảng cho rằng:
“Truyện đồng thoại là thuộc số những thể loại phản ánh cuộc sống không
theo quy luật tả thực, giàu tưởng tượng gần gũi với truyện cổ tích và ngụ
17
ngơn. Về nhân vật có sự tham gia của con người, nhưng chủ yếu vẫn là loài
vật. Nhân vật của thể loại đồng thoại mở ra đa dạng hơn”[14,75].
Nhà văn Trần Hoài Dương lại cho rằng:“Từ đồng thoại vốn là mượn
của Trung Quốc. Theo đúng nghĩa của họ là chỉ những truyện chép cho trẻ
em nhất là với lứa tuổi nhỏ, cho nhi đồng. Nhưng lâu nay ở nước ta truyện
đồng thoại được hiểu là truyện mang tính nhân hóa lồi vật, đồ vật, mang
nhiều ẩn dụ ngụ ngơn”[16, 156].
Tác giả Cao Đức Tiến và Dương Thu Hương đã xem truyện đồng thoại
là một thể loại hiện đại, có đặc trưng nổi bật là hệ thống nhân vật là loài vật
“Truyện đồng thoại là sáng tác của nhà văn hiện đại, sử dụng nghệ thuật nhân
hóa lồi vật để kể chuyện về con người, đặc biệt là trẻ em, vì vậy nhân vật
chủ yếu là loài vật”. Tuy nhiên, trong các cơng trình nghiên cứu lý luận văn
học, các sách như Từ điển, thuật ngữ văn họchay trong những công trình lớn
như Từ điển văn học(Nhà xuất bản văn học 1984), gần đây là tập sách đồ sộ
Từ điển văn học(Bộ mới của nhà xuất bản Thế giới ấn hành 2004)vẫn khơng
có một mục nào dành cho đồng thoại.
Đứng trước thực trạng khó khăn này, những ý kiến của giới nghệ sỹ và
giới nghiên cứu được chúng tôi tiếp cận ở trên đây là định hướng quý báu cho
tác giả luận văn triển khai đề tài này.
Như vậy, dù các nhà nghiên cứu có những ý kiến khác nhau xung
quanh khái niệm truyện đồng thoại nhưng đều thống nhất với quan điểm cho
rằng: Truyện đồng thoại là một thể loại đặc biệt của văn học, có sự kết hợp
nhuần nhuyễn giữa hiện thực và yếu tố tưởng tượng. Nhân vật chính là động
vật thực vật và những vật vơ tri nhưng được mang tính cách người.
1.2.2.Đặc trưng thể loại truyện đồng thoại
Khi nhà văn cầm bút viết một truyện đồng thoại, thì mục đích đầu tiên
của họ khơng gì khác là dành cho trẻ em những bài học giản dị trong gia đình
và ngồi xã hội. Bằng con đường đi qua cảm xúc, qua hệ thống nhân vật vừa
lạ lẫm vừa thân quen, truyện đồng thoại đem lại những nhận thức lý tính một
18
cách nhẹ nhàng trong những bài học cụ thể, sáng rõ chứ không thâm trầm,
sâu xa như thông điệp trong thể loại truyện ngụ ngôn.
Hệ thống nhân vật trong truyện đồng thoại rất phong phú, trong đó có
cả con người nhưng chiếm đa số là loài vật. Khi xây dựng nhân vật, các nhà
văn đồng thoại hướng ngịi bútcủa mình vào cả con người và lồi vật, đem
những đặc tính khác biệt ấy vào trong một thực thể. Gán cho lồi vật những
đường nét tính cách, tình cảm của con người, truyện đồng thoại vẫn tìm cách
bảo lưu những đặc điểm tự nhiên vốn có của chúng. Cách làm như vậy tuân
thủ nguyên tắc “vật ngã đồng nhất” trong tư duy trẻ thơ, vì vậy dễ dàng tác
động đến tâm hồn và tình cảm các em. Miêu tả lồi vật nhưng lại hướng vào
trẻ em như một đối tượng phản ánh, truyện đồng thoại vừa vẽ nên bức tranh
thế giới loài vật sinh động, hấp dẫn đồng thời lại cho các em thấy “có mình”
trong đó. Vì thế, các em được sống trong câu chuyện, sau đó tự liên hệ đến
mình. Truyện có thể viết về con chó, con vịt, bút chì, thước kẻ… nhưng vẫn
đem đến những bài học về cuộc sống xung quanh các em. Theo Lê Nhật Ký
“Nguyên tắc miêu tả kết hợp này có tác dụng nới rộng diện tích nghĩa của
hình tượng, khiến cho nhân vật đồng thoại hiện ra vừa là nó (vật), vừa là
hình tượng ẩn dụ về con người”[7,32].
Tiếp xúc với văn chương đồng thoại, không ai không nhận ra sức
tưởng tưởng, hư cấu kỳ diệu của nó. Có thể nói, khơng có hư cấu, tưởng
tượng, sẽ khơng có thể loại văn chương này. Mọi thành tựu trong cuộc sống
đều bắt đầu bằng tưởng tượng, tưởng tượnggiúp con người hình dung ra cái
chưa có, hoặc cái khơng thể có. Với văn chương nghệ thuật, tưởng tượng, hư
cấu càng quan trọng. Khơng có nó, nhà văn khơng thể xây dựng tác phẩm.
Điều này đặc biệt đúng với thể loại truyện đồng thoại. Về cơ bản, các tác giả
đồng thoại không dựa vào dạng thức vốn có của cuộc sống để xây dựng tác
phẩm, mà tập trung khái quát cao độ bản chất của hiện thực rồi lựa chọn hình
thức đồ vật, lồi vật để phản ánh cái bản chất ấy. Phương pháp tái hiện cuộc
sống đặc biệt này làm cho hiện thực có thêm màu sắc. Ở phương diện đối
19
tượng tiếp nhận, với nhận thức lý tính cịn non yếu, trẻ em chưa thể nhận thức
cuộc sống như người trưởng thành. Vì vậy, tưởng tượng giúp cho các em
thốt khỏi những giới hạn, ràng buộc của cuộc sống hằng ngày để mặc sức
thả mình phiêu lưu trong thế giới tưởng tượng và ước mơ. Điều này hoàn
toàn phù hợp với đặc điểm tâm lý và thiên tính yêu thích tưởng tượng của trẻ
em. Tuy nhiên cũng cần lưu ý là tưởng tưởng hư cấu trong truyện đồng thoại
không được đi quá giới hạn của nó. Tưởng tượng thiếu căn cứ, đồng thoại sẽ
trở thành mộng thoại. Ngược lại, đồng thoại thiếu tưởng tưởng thì trở thành
ngốc thoại. Cả hai đều phương hại đến khả năng biểu đạt của thể loại, tư duy
cũng như tâm hồn trẻ thơ.
Từ trong cách hiểu về truyện đồng thoại đã bộc lộ cho ta khá rõ những
đặc điểm của loại sáng tác nghệ thuật.Truyện đồngthoại thuộc thể loại văn
học tự sự, đồng thoại có những đặc điểm chung so với những tác phẩm được
gọi là truyện viết cho thiếu nhi. Tuy nhiên, kiểu truyện đồng thoại cịn có
những đặc điểm riêng. Sự khác biệt, sự ưu trội trong nghệ thuật tự sự của
đồng thoại theo chúng tôi là khả năng tưởng tượng kỳ diệu biểu hiện trong
xây dựng cốt truyện và nghệ thuật nhân hóa thế giới lồi vật.
Cốt truyện đồng thoại được tưởng tượng phong phú về những mảng đề
tài, chủ đề khác nhau. Truyện đồng thoại bộc lộ khả năng hư cấu cốt truyện
vơ cùng tài tình của người cầm bút. Từ thế giới lồi vật, người nghệ sỹ sáng
tạo ra mn vàn tình huống truyện, mn vàn hồn cảnh khác nhau. Những
sáng tác đồng thoại vẫn nhập hồ vào dịng văn học thiếu nhi không hề “lạc
lõng” đối với cuộc sống con người. Đồng thoại không phải là những truyện
xa lạ, mà chính là những truyện viết về con người, về cuộc sống. Đàn cuốc là
một câu chuyện cảm động về tấm lịng của người mẹ đối với con cái.Bồ nơng
có hiếulại là câu chuyện nói về tấm lịng của ngưịi con đối với cha mẹ, Bê và
Sáo, Cuộc phiêu lưu của Chó con và Mèo conlà những câu chuyện cảm động
về tình bạn, ếch xanh đi học là bài học thấm thía về bệnh lười biếng.Con
mèolười lại là câu chuyện đả kích sâu cay thói ăn bám, Những chiếc áo ấm
20
là bài học dạy các em về cuộc sống, ý thức tập thể. Đồng thoại sẵn sàng “gia
nhập”vào làng văn học thiếu nhi để phản ánh những đề tài, chủ đề chung của
văn học. Tuy nhiên, thế mạnh của đồng thoại tập trung vào ba mảng đề tài
lớn: Ca ngợi cuộc sống mới, vấn đề khoa học, và vấn đề giáo dục đạo đức
học tập. Những mảng đề tài khác đồng thoại khó phát huy ưu thế. Chẳng hạn
ta khơng nên tìm ở đồng thoại vấn đề lịch sử. Tuy rằng đâu đó có thể một vài
cốt truyện đồng thoại lướt qua những vấn đề trên. Truyện đồng thoại có thể
ca ngợi cuộc sống mới, con người mới. Những thành công về thể loại đề tài
này phải kể đến Tô Hồi với Chim chích lạc rừng, Cái Mai của Võ Quảng,
Hải đảo xa xôi của Hải Hồ. Những câu chuyện này khiến cho các em thiếu
nhi có lịng u mến cuộc sống, lòng tự hào về con người mới, về đất nước
tươi đẹp.
Võ Quảng cũng cho rằng, truyện đồng thoại có khả năng phản ánh cuộc sống
mới, con người mới truyện đồng thoại có đầy đủ khả năng phản ánh cuộc
sống mới, con người mới, ở khắp nơi, trong một gia đình, dưới một mái
trường, ở đồng ruộng, hầm mỏ, cơng trường, bất cứ nơi nào trên mặt đất hoặc
cịn bay bổng lên trăng sao, rộng ra khắp vũ trụ, hoặc giữa một thế giới vơ
cùng tinh vi khó thấy, thế giới nội tâm của con người. “Cái Mai” là tác phẩm
đầu tiên của Võ Quảng được viết theo đề tài này. Đó là một tác phẩm đồng
thoại “dài hơi” sử dụng ngôn ngữ kể ở ngôi thứ nhất để tái hiện cuộc đời số
phận cái mai (một dụng cụ lao động) và có thể thấy điều đó được thể hiện
trong đoạn: “Một cái mai đã thành. Tôi ra đời, bác nhúng tôi vào chậu nước.
Tôi cười một tiếng nho nhỏ và bừng mắt. Chung quanh tôi ánh sáng tràn
ngập. Chào ánh sáng “Chào các bạn! Lúc đó mặt trời vừa trịn bóng”.
Truyện đồng thoại có thể được các tác giả dùng để thể hiện một nội
dung khoa học, qua đó nhằm trang bị cho các em những kiến thức khoa học
gần gũi và bổ ích. Nhờ đó các em hiểu thêm các loài vật, sự vật, hiểu thêm về
thế giới xung quanh, như “Ông than đá” của Viết Linh, Lũ bướm đêm của
Thế Lữ,Đỗ Concủa Thùy Dương,Cô Kiến trinh sátcủa Vũ Kim Dung…Với
21
đề tài này, tác giả đồng thoại không những làm phong phú trí tưởng tượng
của các em, mà cịn giúp các em bước đầu làm quen, dần dần đi sâu vào các
lĩnh vực của khoa học. Tùy theo sự kết hợp giữa nội dung khoa học và hình
thức đồng thoại mà thành công của các sáng tác về đề tài trên đạt được với
những mức độ khác nhau.
Không dừng lại ở việc phản ánh cuộc sống lao động, trang bị những
kiến thức về khoa học cho các em, truyện đồng thoại có thể, ca ngợi những
tấm gương anh hùng trong cuộc sống sản xuất và chiến đấu của nhân dân ta.
Với “Cô Bê 20” Văn Biển đã trực tiếp viết về người anh hùng Hồ Giáo. Tác
giả không miêu tả trực tiếp mà miêu tả gián tiếp. Qua lời kể của Cơ Bê 20,
hình ảnh anh hùng Hồ Giáo với đức tính tận tụy qn mình đã hồn thành
xuất sắc mọi công việc của Đảng và nhân dân giao cho. Qua lời tự kể của Cô
Bê 20, tác giả đã viết thật sinh động tình cảm cuốnquýt của chú Bê và con
người.
Hòn đá của Võ Quảng là một tác phẩm gợi lên ký ức đau thương về
chiến tranh. Sự tàn khốc của chiến tranh, ranh giới mong manh giữa cái sống
và cái chết. Tất cả những hiện thực ấy đã được Đá Cuội tái hiện qua những
lời kể ngắn ngủi của các bạn Đồng Hồ Và Lịch Treo. Từ rừng sâu, Đá Cuội
đã trở về trong ngôi nhà nhỏ, trở thành người kể chuyện “cổ tích chiến
tranh”. Tuy vậy kiểu đồng thoại có đề tài này khơng phổ biến.
Tưởng tượng là ưu thế của đồng thoại. Từ thế giới loài vật, nghệ sỹ đã
hư cấu, thêu dệt nên vô vàn thiên truyện hấp dẫn cho trẻ thơ. Những cốt
truyện khai thác nhiều chủ đề khác nhau, nhiều tình huống chứng tỏ khảnăng
tưởng tượng phong phú của nghệ sỹ.
Thế giới loài vật khá phong phú trong các thiên đồng thoại. Những
nhân vật trong đồng thoại thường là con vật, cỏ cây, hoa lá, những vật vô tri.
Trong khi gán cho chúng những tình cảm của con người, tác giả đồng thoại
phải chú ý đến những đặc điểm riêng về sinh hoạt, cũng như đặc điểm của
bản thân chúng. Nói cách khác, trước hết chúng phải có những đặc điểm của
22
con vật sau đó mới gán cho chúng những đặc điểm của người. Cả hai phải hài
hoà với nhau. Nếu con vật chỉ có tính người mà khơng có đặc điểm của vật
thì nó sẽ trở nên một thứ gì kỳ dị, khó ai hình dung nổi. Viết về đặc điểm của
vật, không nên vi phạm quy luật tự nhiên của nó. Ví dụ, hoa đào nở về mùa
xn, khơng nên tả hoa đào nở về mùa hè, con cá sống dưới nước khơng thể
tả nó sống trên khơng...
Truyện đồng thoại có khả năng dẫn trí tưởng tượng của các em bay
cao, bay xa nhưng tất cả đều phải hợp lý. Câu chuyệnChú lính chì dũng cảm
của Anđecxen miêu tả nhân vật được đi khắp nơi, chui cả vào bụng cá, nhảy
cả vào lửa. Đó là những chi tiết lạ, nhưng qua những chi tiết vô lý ấy ta lại
thấy có lý, bởi vì tác giả cho ta biết cuộc chu du của anh vốn không phải do
anh ta muốn, mà là do sự xô đẩy. Nếu anh không bị con người đặt lên cửa sổ
thì anh khơng thể ngã xuống đường, rồi bị ngồi lên thuyền giấy trôi ra sơng;
nếu thuyền khơng chìm thì anh ta khơng thể chui vào bụng cá, và nếu cá
khơng bị làm thịt thì làm sao anh ta có thể trở về với cuộc sống và cuối cùng
anh bị lũ trẻ ném vào lửa.
Ngoài ra, khi viết về đặc điểm của vật, đòi hỏi các tácgiả đồng thoại
chú ý đến các quan niệm, thói quen đánh giá của nhân dân. Ví như con cáo là
hiện thân cho sự xảo quyệt, con sói hiên thân cho sự hung ác, khi miêu tả về
chúng, ta cũng không nên gán cho chúng những đặc điểm như ngoan ngoãn,
hiền lành. Truyện đồng thoại từ xưa đến nay, ở bất cứ nơi nào, đều là kết quả
của sự gắn bó khăng khít với đời sống. Những tác phẩm đồng thoại bao giờ
cũng chú ý phán ánh cuộc sống của thời đại mình, cho dù đó là những truyện
kỳ qi nhất. Ở nước ta, trước Cách mạng tháng Tám, Tô Hoài đã viết Dế
Mèn phiêu lưu ký. Đây là tác phẩm không những thu hút độc giả nhỏ tuổi mà
ngay cả người lớn cũng say mê. Truyện kể về cuộc đời vơ cùng sơi nổi nhưng
cũng đầy sóng gió của chú Dế Mèn trẻ tuổi. Nó cũng chính là hình ảnh sinh
động của một lớp tuổi trẻ lúc bấy giờ. Khát khao cuộc sống tự do, mong ước
thoát khỏi cuộc sống ngột ngạt tối tăm của xã hội đương thời. SauCáchmạng
23
tháng Tám đến nay, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của văn học thiếu nhi,
truyện đồng thoại giai đoạn này cũng có những đóng góp đáng kể, phong phú
về đề tài và đa dạng về thể loại. Nội dung của nó có thể phản ánh mọi mặt
của đời sống hiện thực. Trên thế giới, truyện đồng thoại giai đoạn này cũng
mang dáng nét, những vấn đề của thời đại.
Nhà văn nổi người Đan Mạch Anđecxen đã từng viết khá nhiều truyện
đồng thoại.ỞAnđecxen ln có sự kết hợp kỳ diệu giữa hiện thực và mơ
tưởng. Mỗi truyện của ơng có khả năng đưa sức tưởng tượng của con người
đi rất xa nhưng những tác phẩm của ông bao giờ cũng mang hơi thở của thời
đại. Đồng thoại là thể loại các em rất yêu mến. Nó có khả năng chứa đựng
nội dung giáo dục sâu sắc. Mặt khác, nó có khả năng kích thích mạnh mẽ trí
tưởng tượng của các em. Đối với con người ước mơ và tưởng tượng lại là yếu
tố cần thiết. Sự có mặt của đồng thoại là một tất yếu trong sự phát triển của
nền văn học thiếu nhi. “Các tác giả viết truyện đồng thoại đã nhân hóa các
lồi vật, đồ vật với con mắt trẻ thơ ngộ nghĩnh, từ chị Tằm chăm chỉ đến lão
Chuột gian xảo, từ chú Thỏ nhút nhát đến cậu ếch xanh lười học, từ chú bé
ống nước nghịch ngợm mải chơi.Tất cả những nhân vật đó trở nên có cuộc
sống riêng, có tâm hồn, có số phận”[20,210].
Viết truyện đồng thoại, các tác giả đã sử dụng nghệ thuật nhân hóa lồi
vật. Thế giới lồi vật ấy nhờ vậy cũng biết nói như con người, biết trăn trở
suy nghĩ như con người.
Như vậy, để viết được một thiên đồng thoại hay đòi hỏi người viết khá
nhiều điều kiện, một mặt nó địi hỏi tư tưởng phải cao đẹp trong sáng, chất
thơ dồi dào bay bổng, cốt truyện rõ ràng, hình tượng cụ thể và sinh động. Mặt
khác do biểu hiện cuộc sống thực mà hư, hư mà thực, vân dụng nhân hóa,
mượn thế giới vật mà nói đến thế giới người. Vì vậy đồng thoại trong tay
những người sử dụng không khéo sẽ gây ra những hiểu lầm không có lợi cho
độc giả nhỏ tuổi. Mặt hạn chế của truyện đồng thoại là, nhiều khi khai thác đề
tài còn trùng lặp, nói đến quá nhiều những con vật như chim, cá, gà, mèo.
24
Tóm lại, mảng truyện viết cho thiếu nhi, là những tác phẩm văn học
đã thể hiện được cái nhìn mới mẻ của các nghệ sỹ. Tuổi thơ đi qua đều tìm
thấy trong lời thơ câu văn, những bài học đầu đời. Kí ức về tuổi thơ bao giờ
cũng là khoảng thời gian quý giá. Những tác phẩm văn học, những câu truyện
đồng thoại hay, sẽ là những bài học bổ ích, quý giá, giúp các em tăng thêm
sức mạnh tiến bước trong cuộc hành trình dài phía trước.
25
Tiểukết chương 1:
Để viết được một thiên đồng thoại hay địi hỏi người viết khá nhiều điều
kiện, một mặt nó đòi hỏi tư tưởng phải cao đẹp trong sáng, chất thơ dồi dào
bay bổng, cốt truyện rõ ràng, hình tượng cụ thể và sinh động.Có thể nói,
truyện đồng thoại đóng vai trò quan trọng trong nền văn học Việt Nam nói
chung và văn học thiếu nhi nói riêng. Đặc trưng của truyện là có khả năng thể
hiện cuộc sống phong phú đa dạng hơn thể loại trữ tình. Khác với thơ, chủ
yếu chú ý đến cuộc sống nội tâm của con người, truyện hướng tới thế giới
khách quan để kể chuyện đời. Lứa tuổi các em thiếu nhi thích và hiểu những
gì thật cụ thể. ước mơ của các em ln bay bổng, dí dỏm, ngộ nghĩnh, truyện
trở nên gần gũi và có thể đáp ứng đươc nhu cầu đó của trẻ thơ.
Mặt khác do biểu hiện cuộc sống thực mà hư, hư mà thực, vân dụng
nhân hóa, mượn thế giới vật mà nói đến thế giới người. Vì vậy đồng thoại
trong tay những người sử dụng không khéo sẽ gây ra những hiểu lầm khơng
có lợi cho độc giả nhỏ tuổi. Mặt hạn chế của truyện đồng thoại là, nhiều khi
khai thác đề tài cịn trùng lặp, nói đến quá nhiều những con vật như chim, cá,
gà, mèo.
Tóm lại, mảng truyện viết cho thiếu nhi, là những tác phẩm văn học đã
thể hiện được cái nhìn mới mẻ của các nghệ sỹ. Tuổi thơ đi qua đều tìm thấy
trong lời thơ câu văn, những bài học đầu đời. Kí ức về tuổi thơ bao giờ cũng
là khoảng thời gian quý giá. Những tác phẩm văn học, những câu chuyện
đồng thoại hay, sẽ là những bài học bổ ích, quý giá, giúp các em tăng thêm
sức mạnh tiến bước trong cuộc hành trình dài phía trước.