Tải bản đầy đủ (.pdf) (123 trang)

Thơ bút tre nhìn từ góc độ diễn ngôn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.32 MB, 123 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÙNG VƯƠNG

NGUYỄN THÀNH TRUNG

THƠ BÚT TRE NHÌN TỪ GĨC ĐỘ DIỄN NGƠN

LUẬN VĂN THẠC SĨ

Chuyên ngành: Lí luận văn học
Mã số: 8220120

PHÚ THỌ, 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÙNG VƯƠNG

NGUYỄN THÀNH TRUNG

THƠ BÚT TRE NHÌN TỪ GĨC ĐỘ DIỄN NGƠN

LUẬN VĂN THẠC SĨ

Chuyên ngành: Lí luận văn học
Mã số: 8220120
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Ngô Văn Giá

PHÚ THỌ, 2018



LỜI CAM ĐOAN
Tác giả luận văn xin cam đoan:
- Luận văn “Thơ Bút Tre nhìn từ góc độ diễn ngơn” là kết quả nghiên cứu của
cá nhân tôi.
- Những tài liệu trích dẫn trong luận văn là trung thực.
- Kết quả nghiên cứu này không trùng với bất cứ nghiên cứu nào đã được
công bố trước đây.
Tôi chịu trách nhiệm về lời cam đoan của mình.

Phù Ninh, ngày 10.06.2018
Tác giả luận văn

Nguyễn Thành Trung


LỜI CẢM ƠN
Luận văn này là kết quả của nỗ lực tìm tịi, nghiên cứu trong một chặng
đường học thuật của đời tôi.
Trong suốt chặng đường ấy, GS.TS.Ngô Văn Giá là người đã luôn ở
bên giúp đỡ động viên tôi. Nhờ vậy, tơi mới có thể hồn thành luận văn này.
Tôi gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc đến người thầy của tôi, GS.TS.Ngô
Văn Giá.
Tôi xin cảm ơn đến các thầy, cô trường Đại học Hùng Vương; các cán
bộ nhân viên thư viện trường Đại học Hùng Vương; thư viện tỉnh Phú Thọ vì
đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt thời gian qua để tôi hồn thành
nghiên cứu.
Tơi xin cảm ơn sự chia sẻ, động viên của gia đình, bạn bè, đồng nghiệp
đối với tơi trong q trình viết luận văn này.
Tơi cũng xin cảm ơn những người mà thậm chí tơi chưa biết tên, đã
giúp đỡ tơi có được những tập thơ Bút Tre để sử dụng trong luận văn.

Phù Ninh, ngày 10.06.2018
Tác giả luận văn


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ...............................................................................................
LỜI CẢM ƠN .....................................................................................................
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của vấn đề nghiên cứu ........................................................ 1
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu ................................................................ 1
3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................. 5
3.1. Mục tiêu nghiên cứu ............................................................................ 5
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu ........................................................................... 5
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................. 6
5. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................... 6
6. Cấu trúc của luận văn ................................................................................. 7
NỘI DUNG ....................................................................................................... 8
CHƯƠNG I ....................................................................................................... 8
DIỄN NGÔN VÀ NGHIÊN CỨU DIỄN NGƠN THƠ ................................... 8
1.1 Diễn ngơn và diễn ngôn thơ ..................................................................... 8
1.1.1. Diễn ngôn (Discourse) ...................................................................... 8
1.1.2. Diễn ngôn văn học và diễn ngôn thơ .............................................. 23
1.2. Nghiên cứu diễn ngôn thơ ..................................................................... 27
1.2.1. Chiến lược giao tiếp........................................................................ 27
1.2.2. Chủ thể diễn ngôn ........................................................................... 29
1.2.3. Bức tranh thế giới ........................................................................... 40
CHƯƠNG II .................................................................................................... 42
THƠ NHƯ MỘT “PHI THƠ”......................................................................... 42
2.1. Quan niệm về thơ của Bút Tre .............................................................. 42
2.2. Một kiểu vè hiện đại ............................................................................. 44

2.2.1. Vè dân gian ..................................................................................... 44
2.2.2. Vè hiện đại ...................................................................................... 46
2.2.3. Vè Bút Tre ....................................................................................... 48


CHƯƠNG III................................................................................................... 62
THƠ NHƯ MỘT KIẾN TẠO BỨC TRANH THẾ GIỚI .............................. 62
3.1. Thơ như một diễn ngôn tuyên truyền chính trị ..................................... 63
3.1.1. Chủ đề ............................................................................................. 63
3.1.2. Ngơn ngữ ......................................................................................... 80
3.2. Thơ như một diễn ngơn văn hóa trào tiếu dân gian .............................. 84
3.2.1. Chủ đề ............................................................................................. 84
3.2.2. Ngôn ngữ ......................................................................................... 87
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 97
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 104
PHỤ LỤC 1 .........................................................................................................
SƠ LƯỢC TIỂU SỬ NHÀ THƠ ĐẶNG VĂN ĐĂNG .....................................
(BÚT DANH: BÚT TRE) ...................................................................................
PHỤ LỤC 2 .........................................................................................................


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của vấn đề nghiên cứu
Nhà thơ Đặng Văn Đăng, bút danh Bút Tre, với các sáng tác của của
ông đã tạo nên một hiện tượng trong lịch sử văn học hiện đại Việt Nam mang
tên Thơ Bút Tre. Thơ của ông tuy không tạo nên những hình thức thể loại mới
nhưng lại có sức sống mạnh mẽ nhờ sự đào sâu vào ngôn ngữ truyền thống
của dân tộc. Sức sống của thơ Bút Tre thể hiện ở sự xuất hiện của thơ hậu Bút

Tre-những sáng tác khuyết danh-sau khi thơ Bút Tre xuất hiện; ở sự đa dạng,
phổ biến của người sáng tác và người tiếp nhận. Chính sức sống ấy đã địi hỏi
việc nghiên cứu thơ Bút Tre từ nhiều góc độ khác nhau như văn hóa học,
ngơn ngữ học…để có cái nhìn tồn diện về một hiện tượng văn học-văn hóa,
để thấy được vị trí của nó trong lịch sử văn học và trong văn hóa Việt Nam.
Nghiên cứu diễn ngơn thơ Bút Tre là áp dụng các lí thuyết diễn ngơn
của M.Foucault, R.Barthes, M.Bakhtin vào thực tiễn. Từ đó, chúng ta hiểu rõ
hơn về các lí thuyết này, nhất là với lí thuyết diễn ngôn của M.Foucault bởi
diễn ngôn là thuật ngữ chính yếu trong các nghiên cứu rộng lớn của ơng.
Hiện nay, việc sưu tầm, bảo tồn, phát huy các di sản văn học, văn hóa
đang được đặt ra song song với việc nghiên cứu về chúng. Thơ Bút tre được
xem như một di sản về cả phương diện văn học và văn hóa nên nó địi hỏi có
những những nghiên cứu tập trung, chuyên sâu. Dù vậy, chưa có nghiên cứu
nào thực sự sâu sắc về thơ Bút Tre.
Vì những lí do như trên, đề tài nghiên cứu “Thơ Bút Tre từ góc độ diễn
ngơn” mang tính cấp thiết cả về lí luận và thực tiễn.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Thơ Bút Tre là một hiện tượng trong nền văn học tuy nhiên chưa có
một cơng trình nghiên cứu công phu. Hầu hết các nghiên cứu về thơ Bút Tre


2

tồn tại dưới dạng bài viết và xuất hiện rải rác.
Năm 2015 Trường Đại học Hùng Vương tổ chức “Hội thảo di sản Bút
Tre”. Hội thảo có sự tham gia của nhiều nhà nghiên cứu văn học như Đỗ Lai
Thúy, Phạm Văn Tình… Trong “Kỷ yếu hội thảo di sản Bút Tre” tập hợp 39
bài viết của nhiều tác giả về thơ Bút Tre. Đây có thể coi như một cơng trình
tập hợp đầy đủ nhất các nghiên cứu về thơ Bút Tre song là sự tập hợp của
nhiều bài viết có tính độc lập trong nghiên cứu. Tại đây các nhà nghiên cứu đã

nhìn nhận thơ Bút Tre từ nhiều góc độ khác nhau tuy nhiên điểm chung ở một
bộ phận lớn các bài nghiên cứu là đặt thơ Bút Tre trong mối quan hệ với thể
loại vè.
Nhà nghiên cứu Đỗ Lai Thúy nhìn nhận thơ Bút Tre từ chủ thể sáng
tạo. Ơng cho rằng, thơ Bút Tre có thể chia làm hai mảng ứng với chủ thể sáng
tạo là con người cá nhân hoặc chủ thể sáng tạo là con người xã hội. “Khi con
người xã hội thắng thì thơ Bút Tre là thơ tuyên truyền, cổ động tức chỉ là vè.
Mà thơ Bút Tre chủ yếu, nếu nói về số lượng, là thơ vần vè. Cịn khi con
người cá nhân đóng vai trị chủ đạo thì thơ Bút Tre là thơ, có giá trị thẩm mĩ
và sáng tạo” [63; 84]. Trong một nghiên cứu khác, Đỗ Lai Thúy xem thơ Bút
Tre là sự giễu nhại của phong cách thơ vụ chữ của Trần Dần, Lê Đạt: “Điển
hình hơn cả cho dòng thơ giễu nhại là sự trở về với lối thơ-vè. Tiếp nối một
cách có ý thức, có chủ ý dịng thơ-phi thơ ve vẻ vè ve, thơ con cóc, thơ Bút
Tre…thơ vè khơng chỉ là sự đối lập với dòng thơ vụ chữ của Trần Dần, Lê
Đạt, mà, bằng các sáng tác tiêu biểu của nó, đối lập với toàn bộ thơ trước
đây theo quan niệm mĩ học tiền hiện đại, hiện đại” [60; 66]. Sự giễu nhại của
thơ Bút Tre xuất phát từ sự dung nhận mà dung nhận là một đặc điểm của thơ
hậu hiện đại: “Thơ hậu hiện đại nổi bật ở sự dung nhận. Nó có thể chấp nhận
mọi thể loại từ dân gian, cổ điển, Thơ Mới, thơ tự do, thơ văn xi, mọi
phong cách cao/thấp/bình dân/bác học, mọi lĩnh vực đề tài, khơng có vùng


3

đất nào là cấm kị, là không được phép đối với nó” [60; 65]. Thơ Bút Tre là sự
dung nhận thơ và vè-một thể loại văn học dân gian. Quan niệm dung nhận là
một đặc điểm của thơ hậu hiện đại, và sự dung nhận gắn với thái độ giễu nhại,
Đỗ Lai Thúy xem thơ Bút Tre là thơ hậu hiện đại.
Hai nhà nghiên cứu Phạm Dụ và Đặng Thị Bích Hồng xem xét thơ Bút
Tre từ góc độ thể loại và gắn với lí thuyết trị chơi. Lí thuyết này thể hiện ở sự

vi phạm các nguyên tắc thể loại trong thơ Bút Tre. “Trò chơi chủ yếu gắn liền
với các luật lệ buộc người chơi phải tuân thủ. Trong thơ ca đó là những bình
diện thuộc ngun tắc thể loại như thi luật, gieo vần, ngắt nhịp…Tuy nhiên
điểm đặc biệt của trò chơi là phải giải quyết mâu thuẫn giữa một bên là quy
phạm trật tự ngôn từ và một bên là nguồn cảm hứng tự do dào dạt, thậm chí
hỗn độn. Bởi vậy, nhà thơ khơng chỉ sáng tạo trong khuôn khổ những luật lệ
đã định sẵn mà ngược lại, anh có quyền phá vỡ nó, có quyền thua cuộc để
kiến tạo những luật lệ mới” [63; 101]. Theo hai nhà nghiên cứu này, thì kiểu
luật lệ mới do Bút Tre kiến tạo tuy chưa thật sự định hình nhưng đã đặt nền
móng cho một “hội hè” trong thơ rất tưng bừng sau này. Kiểu luật lệ mới do
Bút Tre kiến tạo mang đặc điểm suồng sã dẫn đến đối lập với cái trang trọng.
“Cái mặt nạ suồng sã để đối lập lại tính trịnh trọng của văn học sử thi” [63;
101].
PGS.TS Hà Quang Năng đưa ra hướng nghiên cứu thơ Bút Tre từ góc
độ ngơn ngữ để từ đó lí giải khả năng gây cười của thơ Bút Tre. “Nhà thơ đã
thay đổi thanh điệu ở các âm tiết tham gia hiệp vần để đảm bảo sự hòa âm
giữa các dòng thơ lục bát hoặc song thất lục bát. Chỉ có điều sự thay đổi
thanh điệu ở các âm tiết này không tạo ra những âm tiết biến thể văn chương
mà tạo thành âm tiết mới lạ ít thấy trong Tiếng Việt, cốt sao hiệp vần là được,
khơng cần biết ý tứ ra sao, lại cịn có lúc ghi chú bên cạnh vì câu chưa rõ
nghĩa, nên đọc chúng là gây cười” [63; 114].


4

Trong các cơng trình sưu tầm, nghiên cứu về Thơ Bút Tre thì các sưu
tầm, nghiên cứu của Ngơ Quang Nam là sự tập hợp khá đầy đủ thơ Bút Tre và
các bài viết nhỏ lẻ của ông cùng một số tác giả khác về Thơ Bút Tre. Ngô
Quang Nam xuất bản hai cơng trình sưu tầm, nghiên cứu về Thơ Bút Tre là
“Bút tre thơ và giai thoại” và “Dịng thơ Bút Tre”. Trong hai cơng trình này

Ngơ Quang Nam quan niệm nhà thơ Bút Tre là một nhà văn hóa dân gian
“Bút Tre đã làm được những việc lớn, và mở đầu cho thế hệ sau những vấn
đề văn hóa ở tầm vĩ mơ mà nó khơng chỉ bó hẹp trong phạm vi một tỉnh, một
địa phương mà cịn cho cả nước” [44, 10]. Ngơ Quang Nam cũng đề xuất
một cách gọi cho Thơ Bút Tre “lối thơ Bút Tre”. Thuật ngữ “lối thơ Bút Tre”
không được tác giả lí giải rõ về nội hàm dẫn đến một cách hiểu mơ hồ. Để
làm rõ về “lối thơ Bút Tre” ông đã liệt kê bẩy lối thơ Bút Tre: “Lối vắt dòng
gãy câu”, “lối viết tắt hay còn gọi là chặt từ”, “lối để lửng từ, dùng một từ
cuối của câu 6 trên để người đọc tự gieo vần câu 8 dưới trong thể lục bát”,
“lối hoan hô”, “lối tiếp từ”, “lối lục bát đột ngột chêm thất ngôn”, “lối
cưỡng ép thanh vận”.
Tiếp cận Thơ Bút Tre từ góc nhìn diễn ngơn, có thể nói, là một hướng
đi mới trong nghiên cứu về Bút Tre. Hướng nghiên cứu này, một mặt mở ra
khả năng giải quyết khoảng trống trong nghiên cứu Thơ Bút Tre; mặt khác,
dựa trên lí thuyết diễn ngơn, có thể kiến giải sức sống của Thơ Bút Tre từ đó
giúp bảo tồn và phát huy Thơ Bút Tre như một di sản văn học, văn hóa.
Ngồi ra, diễn ngôn là một khái niệm được tiếp cận từ nhiều lí thuyết
khác nhau mà nghiên cứu khoa học là một nỗ lực tìm tịi nên những khái niệm
có nhiều hướng tiếp cận sở hữu một sức hút mãnh liệt. Chúng tơi khao khát
tìm một khái niệm diễn ngơn để nghiên cứu một đối tượng trong nền văn học
như một mở đầu để nghiên cứu các đối tượng tiếp theo.


5

3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu diễn ngôn thơ Bút Tre là sử dụng lí thuyết diễn ngơn để
khẳng định vị trí của thơ Bút Tre trong lịch sử văn học dân tộc, và trong
khơng gian văn hóa của Phú Thọ nói riêng, của Việt Nam nói chung. Bên

cạnh đó, nghiên cứu diễn ngơn thơ Bút Tre còn khẳng định sự giàu đẹp của
tiếng Việt và khẳng định giá trị của lí thuyết diễn ngôn trong nghiên cứu văn
học.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Với các mục tiêu đã nói trên, chúng tơi xác định một số nhiệm vụ trong
nghiên cứu thơ Bút Tre từ góc độ diễn ngôn như sau:
Trước hết, Thơ Bút Tre từ góc nhìn diễn ngơn là nghiên cứu đầu tiên
đặt vấn đề nghiên cứu Thơ Bút Tre như một diễn ngôn. Đi theo hướng này,
chúng tôi không nghiên cứu thơ Bút Tre như một kết quả ổn định, cho trước,
xét trên phương diện nội dung và nghệ thuật theo tinh thần phản ánh luận; mà
nghiên cứu cái cơ chế kiến tạo khiến cho tác phẩm thơ Bút Tre trở nên như
vậy. Khi đó, luận văn trả lời câu hỏi: những hoạt động được quy chuẩn nào đã
chi phối, quy định chủ thể diễn ngôn-là tác giả-khi sáng tạo văn học trong ý
thức hay vô thức; đã sản sinh các văn bản thơ. Những điều nằm giữa mối
quan hệ quyền lực/ tri thức theo cách gọi của lí thuyết diễn ngơn, và gắn với
nhà thơ Bút Tre.
Thứ hai, phân tích Thơ Bút Tre từ góc nhìn diễn ngơn để làm sáng tỏ
các vấn đề lí thuyết diễn ngơn. Diễn ngơn là một khái niệm được tiếp cận từ
nhiều hướng nên rất cần những nghiên cứu từ thực tiễn văn học.
Thứ ba, đề xuất một hướng nghiên cứu diễn ngôn mới thông qua sự kết
hợp các quan niệm diễn ngôn của các nhà nghiên cứu R.Barthes, M.Bakhtin,


6

M.Foucaul. Nghiên cứu theo một hướng mới là điều không dễ dàng, tuy nhiên
chúng tôi ý thức được sự khả quan trong việc kết hợp quan niệm diễn ngôn
của các nhà nghiên cứu trên trong nghiên cứu thơ Bút Tre.
Thứ tư, nghiên cứu từ góc nhìn diễn ngơn để làm rõ điểm độc đáo, giá
trị của Thơ Bút Tre. Trong Hội thảo di sản Bút Tre do Trường Đại học Hùng

Vương tổ chức năm 2015, thơ Bút Tre được khẳng định là một di sản văn học,
văn hóa vì vậy rất cần có các cơng trình nghiên cứu để góp phần bảo tồn và
phát huy. Nhất là khi sức sống của thơ Bút Tre trong đời sống văn học dân tộc
rất mãnh liệt, biểu hiện ở thơ hậu Bút Tre, thì việc nghiên cứu nó càng cấp
thiết.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là thơ Bút Tre từ góc nhìn diễn
ngơn.
Thơ Bút Tre là toàn bộ những sáng tác của nhà thơ Đặng Văn Đăng.
Theo Vũ Kim Biên trong Kỷ yếu Hội thảo Di sản Bút Tre, Đặng Văn Đăng
bắt đầu sáng tác từ năm 1962 khi đang làm trưởng Ty Văn hóa Phú Thọ. Tự
rút lui khỏi thi đàn sau đó một năm (1963). Từ 1966 lại tiếp tục sáng tác
nhưng không xuất bản. Như vậy, tất cả sáng tác của Đặng Văn Đăng bao gồm
những sáng tác đã được công bố và những sáng tác chưa được cơng bố. Vì lí
do đó, chúng tơi xác định đối tượng khảo sát chính trong nghiên cứu này là
các văn bản Thơ Bút Tre đã được Ngô Quang Nam, Vũ Kim Biên sưu tầm và
công bố.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Nghiên cứu chủ yếu sử dụng những nguyên tắc phương pháp luận của
lí thuyết diễn ngơn. Lí thuyết diễn ngơn giúp mở ra một cách đọc mới cho thơ
Bút Tre, đó là khơng chỉ quan tâm đến nội dung và nghệ thuật của một văn


7

bản cụ thể mà quan tâm đến những hệ thống quy định tạo ra văn bản mang tri
thức.
- Phương pháp tiếp cận thi pháp học: tìm hiểu quan niệm về thơ và các
phương thức, phương tiện mang tính quan niệm của nhà thơ.
- Phương pháp liên ngành: Sử dụng các tri thức về tiểu sử, lịch sử, xã

hội, văn hóa để hỗ trợ tìm hiểu thơ Bút Tre.
- Bên cạnh đó, để nghiên cứu về Thơ Bút Tre chúng tơi sử dụng hỗn
hợp các thao tác sưu tầm, thống kê, phân tích, so sánh…nhằm làm sáng tỏ
diễn ngơn Thơ Bút Tre.
6. Cấu trúc của luận văn
Luận văn được cấu trúc làm năm phần: phần mở đầu, phần nội dung,
phần kết luận, phần tài liệu tham khảo, phần phụ lục.
Trong đó, nội dung chính của luận văn được triển khai thành ba chương
như sau:
Chương 1: Diễn ngôn và nghiên cứu diễn ngôn thơ
Chương 2: Thơ như một “phi thơ”
Chương 3: Thơ như một kiến tạo bức tranh thế giới


8

NỘI DUNG
CHƯƠNG I
DIỄN NGÔN VÀ NGHIÊN CỨU DIỄN NGÔN THƠ
1.1 Diễn ngôn và diễn ngôn thơ
1.1.1. Diễn ngôn (Discourse)
Diễn ngôn là thuật ngữ được sử dụng phổ biến từ đầu thế kỉ XX đến
nay. Nó có thể xuất hiện trong các cơng trình chun khảo văn học nhưng
cũng có thể xuất hiện trong các cơng trình nghiên cứu văn hóa. Đơn cử trường
hợp “Văn hóa và chủ nghĩa bá quyền” của Edward Wadie Said, một cơng
trình về văn hóa ra đời trong thập niên cuối của thế kỉ XX, cũng có nhắc đến
diễn ngơn như sau “những tác phẩm của người châu Âu viết về châu Phi, về
Ấn Độ, về những khu vực của vùng Viễn Đông, về Australia và về vùng
Caribe; những “diễn ngôn”, như một số đã được gọi, diễn ngôn Châu Phi
luận [Africanist discourse] hoặc Ấn Độ luận [Indianist discourse]” [12; 9].

Trước thế kỉ XX, khái niệm diễn ngôn chủ yếu được sử dụng trong lĩnh
vực ngôn ngữ học.
Trong nghiên cứu ngơn ngữ học, có thể kể đến các cơng trình nghiên
cứu về diễn ngơn của các tác giả trong nước đã được xuất bản như: Hệ thống
liên kết văn bản (Trần Ngọc Thêm, 1985); Văn bản và liên kết trong tiếng
Việt (1998), Giao tiếp diễn ngôn và cấu tạo văn bản (2009), Phân tích diễn
ngơn với ngôn ngữ văn chương (2017) của Diệp Quang Ban, Dụng học Việt
ngữ (Nguyễn Thiện Giáp, 2000), Đại cương ngôn ngữ học, tập 2 (Đỗ Hữu
Châu, 2001), Phân tích diễn ngơn-một số vấn đề lí luận và phương pháp
(Nguyễn Hịa, 2003), Từ điển tu từ - phong cách - thi pháp học (Nguyễn Thái
Hịa, 2005)…
Ngồi ra, cũng có thể kể đến một số cơng trình nghiên cứu về diễn


9

ngơn của các tác giả nước ngồi đã được dịch sang tiếng Việt và xuất bản
như: Dụng học, một số dẫn luận nghiên cứu ngôn ngữ của George Yule
(Hồng Nhâm, Trúc Thanh, Ái Nguyên dịch, 1997); Dẫn nhập phân tích diễn
ngôn của David Nunan (Hồ Mỹ Huyền, Trúc Thanh dịch, 1998); Phân tích
diễn ngơn của Gillian Brown, George Yule (Trần Thuần dịch, 2002), Dẫn
luận ngữ pháp chức năng của Mak Halliday (Hoàng Văn Vân dịch, 2004),
Dẫn luận về Foucault của Gary Gutting (Thái An, Trịnh Huy Hóa dịch,
2017)…
Thế kỉ XX, với sự ra đời của hiện tượng học Heidgger1 triết học được
đưa trở về với truyền thống hữu thể học của nó. Đây khơng phải là hữu thể
học cổ điển2 mà là hữu thể học hiện đại. Hữu thể trong quan niệm này, không
tồn tại ở thế giới bên trong hay thế giới bên ngoài mà ở nơi giao thoa của
chúng, tức ở ngôn ngữ. Heidgger đưa ra định đề về hữu thể “ngôn ngữ là ngôi
nhà của hữu thể” tức hữu thể chỉ tồn tại trong cái chứa đựng nó là ngơn ngữ.

Quan niệm về ngơn ngữ của Heidgger khác biệt với những người cho rằng
ngôn ngữ là công cụ của con người mà ngược lại, con người là công cụ của
ngôn ngữ. Điều này là do con người khi sinh ra sẽ sử dụng một ngôn ngữ
không phải do họ sáng tạo ra nên phải thích nghi với nó. Vì vậy, khi con
người nói sẽ là ngơn ngữ nói chứ khơng phải con người nói.
Diễn ngơn nằm trong phạm trù ngơn ngữ nên từ hiện tượng học
Heidgge nó không chỉ là đối tượng nghiên cứu của ngôn ngữ học mà còn là
đối tượng nghiên cứu của của các ngành khoa học xã hội và nhân văn như
triết học, phê bình văn học.
Theo O.F.Rusakova, sự xâm nhập của diễn ngôn vào các ngành khoa
học xã hội và nhân văn đã dẫn tới sự ra đời của hàng loạt lí thuyết diễn ngôn,
1

Heigger (1889-1976).
Hữu thể học cổ điển xuất phát từ Platon (427-348/347 TCN) đã trải qua một quá trình cho đến hữu thể học
hiện đại của Heidgger. Xin xem Đỗ Lai Thúy, Thơ như là mĩ học của cái khác, Nxb Hội nhà văn, 2012, tr.12.
2


10

khác nhau trên các phương diện: quan niệm về thế giới, phương pháp luận
trong giải thích khái niệm diễn ngơn, truyền thống nghiên cứu, phương thức
giải thích và mơ tả các thực tiễn diễn ngôn, cấu trúc và chức năng của các
thực tiễn đó. Bà viết: “Từ cuối những năm 1960, trước tiên, nhờ hệ thống
thuật ngữ và tư tưởng của chủ nghĩa hậu hiện đại và kí hiệu học được quảng
bá rộng rãi trong giới học thuật, “bước ngoặt ngôn ngữ học” biến thành
“bước ngoặt diễn ngôn”.
Sự thâm nhập mạnh mẽ của phân tích – diễn ngơn vào khoa học nhân văn và
chính trị – xã hội học khơng thể không dẫn tới sự bùng nổ dữ dội của các lí

thuyết diễn ngơn khác nhau, nền móng của những lí thuyết này là các quan
niệm về thế giới và phương pháp luận cụ thể trong việc giải thích bản thân
khái niệm diễn ngôn, là những truyền thống nghiên cứu khác nhau, là phương
thức giải thích và mơ tả các thực tiễn diễn ngôn cùng cấu trúc và chức năng
của chúng” [53].
Quan niệm về diễn ngôn trong nghiên cứu văn học xuất hiện trong các
cơng trình của các tác giả trong nước và của các tác giả nước ngoài được dịch
sang tiếng Việt và xuất bản như: Chủ nghĩa cấu trúc và văn học (Trịnh Bá
Đĩnh, 2002), Văn học hậu hiện đại thế giới, những vấn đề lí thuyết (Lại
Nguyên Ân, Đoàn Tử Huyến tổ chức biên soạn, 2003); Các khái niệm và
thuật ngữ của các trường phái nghiên cứu văn học ở Tây Âu và Hoa Kì thế kỉ
XX (Đào Tuấn Ảnh, Trần Hồng Vân, Lại Nguyên Ân dịch, 2003); Sự đỏng
đảnh của phương pháp (Đỗ Lai Thúy, biên soạn và giới thiệu, 2004); Logic
học về các thể loại văn học của Kate Hamburger (Vũ Hoàng Địch, Trần Ngọc
Vương dịch, 2004); Bản mệnh của lí thuyết của Antoine Compagnon (Đặng
Anh Đào, Lê Hồng Sâm dịch, 2006); Nhập môn Foucault của Lydia Alix
Fillingham, Moshe Susser (Nguyễn Tuệ Đan, Nguyễn Tôn Thất Huy dịch,
2006); Tác phẩm như là quá trình (Trương Đăng Dung, 2007); Lý luận-phê


11

bình văn học thế giới thế kỉ XX, tập 1,2 (Lộc Phương Thủy chủ biên, 2007);
Mấy vấn đề phê bình và lí thuyết văn học (Nguyễn Hưng Quốc, 2007); Thi
học và và ngữ học của Jakobson (Trần Duy Châu biên khảo, 2008); Những
huyền thoại của R.Barthes (Phùng Văn Tửu dịch, 2008); Hon cnh hu hin
i ca Jean-Franỗois Lyotard (Ngõn Xuyờn dịch, 2008); Những vấn đề lí
luận văn học phương Tây hiện đại , Tự sự học kinh điển (Trần Huyền Sâm
biên soạn, giới thiệu, 2009), Dẫn luận về văn chương kì ảo của Todorov (Lê
Hồng Sâm, Đặng Anh Đào dịch, 2018), Thi pháp văn xuôi của Todorov

(Đặng Anh Đào, Lê Hồng Sâm dịch, 2018)…
Trên thế giới, rất nhiều định nghĩa về diễn ngôn được đưa ra thể hiện sự
đa nghĩa của thuật ngữ này. Lã Nguyên đã giới thiệu hơn hai mươi định nghĩa
diễn ngôn trong bài viết “22 định nghĩa về diễn ngôn” cho thấy rất rõ sự chưa
thống nhất ý nghĩa của thuật ngữ diễn ngôn.
Trong bối cảnh chuyển biến mạnh mẽ của hệ hình lí thuyết bắt đầu từ
đầu thế kỉ XX, các vấn đề của ngôn ngữ như bản chất, chức năng, vai trò, mối
quan hệ của ngôn ngữ và hiện thực khách quan được quan niệm lại theo cách
hồn tồn khác. Thuật ngữ diễn ngơn cũng được bổ sung thêm những hàm
nghĩa mới, đi vào nghiên cứu văn học và gắn liền với mơ hình nghiên cứu văn
học mới khơng dựa trên lí thuyết phản ánh.
Theo lí thuyết phản ánh, ngơn ngữ có khả năng phản ánh thực tại do đó
trở thành cơng cụ của tư duy và là phương tiện để giao tiếp của con người. Từ
thế kỉ XX, các nhà nghiên cứu không cho rằng ngơn ngữ giống như một tấm
kính phản ánh hiện thực khách quan bởi trong một bối cảnh cụ thể, với những
mối quan hệ xã hội hiện hành con người sẽ tạo ra ngôn ngữ nhằm truyền tải
thông tin và biểu hiện tư tưởng của người phát tin. Do đó, ngơn ngữ ln thể
hiện quan niệm, tư tưởng của người nói. Sự thể hiện ấy, khiến thực tại được
chuyển vào trong nó khơng ngun vẹn.


12

Sự thay đổi nhận thức về mối quan hệ giữa ngôn ngữ, chủ thể và thực
tại khiến người ta cho rằng ngôn ngữ không phản ánh thực tại-tức là không
theo lí thuyết phản ánh vốn cho rằng chỉ có một thực tại và ngơn ngữ sẽ phản
ánh thực tại đó-bởi khơng có thực tại nằm ngồi ngơn ngữ mà chỉ có thực tại
được tạo nên bởi ngơn ngữ. Khái niệm diễn ngôn nằm trong sự thay đổi nhận
thức này. M.Foucault là một trong những nhà nghiên cứu không sử dụng lí
thuyết phản ánh và đã đề xuất định nghĩa diễn ngôn riêng.

Khái niệm diễn ngôn được thường được tiếp cận từ hai hướng khác
nhau là cấu trúc luận và chức năng luận. Có thể thấy sự khác biệt trên thơng
qua quan niệm của các nhà nghiên cứu thuộc hai trường phái. Nhà nghiên cứu
ngôn ngữ theo hướng cấu trúc Chomsky quan niệm ngôn ngữ là hiện tượng
của tư duy. Cơ sở của ngôn ngữ học Chomsky là chủ nghĩa duy lí. Chủ nghĩa
duy lí là một học thuyết triết học lấy cơ sở là triết học Descartes. Trong Ngôn
ngữ học và ý thức, Chomsky nêu lên kết luận của Descartes:
“Trên thực tế, Descartes lập luận rằng biểu hiện chắc chắn duy nhất mà một
vật thể khác sở hữu ý thức của con người, mà không phải chỉ thuần túy là một
cỗ máy tự động hóa, là khả năng sử dụng ngơn ngữ một cách bình thường của
nó; ơng lập luận rằng khả năng này khơng thể tìm ra được trong một con vật
hay một cỗ máy tự động hóa, mà trong những khía cạnh khác, chỉ ra những
dấu hiệu rõ ràng của trí tuệ, vượt xa trí tuệ của con người, thậm chí sinh thể
hay cỗ máy đó có thể được thiên phú một cách đầy đủ như là một con người
với các cơ quan sinh lí cần thiết để sản sinh ra lời nói” [52; 35].
Ngay sau đó, ơng khẳng định“Khơng có gì phi lí trong kết luận này”.
Khác với Chomsky, nhà nghiên cứu ngôn ngữ theo hướng chức năng
như Halliday lại nghiên cứu ngôn ngữ như một hiện tượng xã hội. Halliday
quan niệm, sự phát triển ngôn ngữ cùng với sự trưởng thành của con người là
sự tăng lên của khả năng làm chủ chức năng của ngôn ngữ. “Khi đứa trẻ học


13

tiếng mẹ đẻ là để nắm vững các cấu trúc ngữ pháp. Khi quan sát và phân tích
việc sử dụng tiếng mẹ đẻ Halliday cho rằng ngôn ngữ của trẻ em có bảy chức
năng cơ bản là (1) chức năng công cụ (instrumental), (2) chức năng điều phối
(regulatory), (3) chức năng giao tiếp (interactional), (4) chức năng cá nhân
(personal), (5) chức năng khám phá (heuristic), (6) chức năng tưởng tượng
(imaginative), (7) chức năng thông báo (informative). Đến giai đoạn trưởng

thành khi đứa trẻ đã thành người lớn thì câu nói mang tính đa chức năng, do
vậy chức năng ngơn ngữ của người lớn giảm xuống còn ba: chức năng tạo ý
(ideational), chức năng giao tiếp liên nhân (interpersonal) và chức năng tạo
văn bản (textual). Halliday gọi đây là ba siêu chức năng (metafunctionus) của
ngôn ngữ” [5].
Nghiên cứu diễn ngôn theo hướng cấu trúc sẽ dẫn đến xem xét tổ chức
bên trong của diễn ngôn bởi các nhà cấu trúc chủ trường xác định ý nghĩa của
các thực thể trong mối quan hệ giữa nó với các thực thể khác trong hệ thống.
Khi nghiên cứu tác phẩm văn chương, hướng nghiên cứu này sẽ tìm hiểu ý
nghĩa của các từ, câu, đoạn, khổ, chương…Ý nghĩa của các thực thể này chỉ
có được trong những mối quan hệ trong một hệ thống nhất định. “Các nhà
cấu trúc luận cho rằng, ngôn từ trong tác phẩm văn chương được tổ chức
thành một hệ thống gồm nhiều yếu tố có mối quan hệ chặt chẽ, chi phối qua
lại, quy định giá trị lẫn nhau. Ý nghĩa của một từ ngữ chỉ được xét trong một
hệ thống nhất định, khi chuyển sang hệ thống khác, nó sẽ mang một nghĩa
khác” [18; 47].
Nghiên cứu diễn ngơn theo hướng chức năng, sẽ có thể xem xét chức
năng của diễn ngôn với các chức năng ngôn ngữ của người lớn trong xã hội
như chức năng tạo ý, chức năng giao tiếp liên nhân, chức năng tạo lập văn
bản.
Thuật ngữ diễn ngôn xuất hiện nhiều trong các sáng tác của những nhà


14

nghiên cứu của thế kỉ XX như R.Bathes, M.Bakhtin, M. Foucault. Trong cơng
trình này, chúng tơi xuất phát từ quan niệm về diễn ngôn của các nhà nghiên
cứu trên và cố gắng đưa ra một cách hiểu về diễn ngôn chung nhất, kết hợp
hướng nghiên cứu cấu trúc và hướng nghiên cứu chức năng. Trong đó, chúng
tơi thiên về quan niệm của M.Foucaul-nhà nghiên cứu hậu cấu trúc.

Nói về diễn ngôn theo quan niệm của chủ nghĩa cấu trúc, mà một trong
những đại diện là R.Barthes, thì trước hết phải nói đến quan niệm của ơng về
cái biểu đạt, cái được biểu đạt, kí hiệu, sự biểu đạt và huyền thoại. Các khái
niệm này được đưa ra rải rác trong cơng trình Những huyền thoại của
R.Barthes. Ơng cho rằng, trong “mọi hệ thống kí hiệu học” cần phải đề cập
đến ba yếu tố: cái biểu đạt, cái được biểu đạt và kí hiệu bởi khi tiếp nhận
người ta khơng chỉ nhận thức về cái biểu đạt, cái được biểu đạt mà còn nhận
thức cả mối quan hệ giữa các chúng. Kí hiệu được xem là “tổng liên kết” giữa
cái biểu đạt và cái được biểu đạt, tức là xác định mối quan hệ giữa chúng. Từ
đó có thể khẳng định, theo M.Barthes thì một cái biểu đạt chỉ trở thành kí hiệu
khi được người ta “ủy thác cho nó cái được biểu đạt nhất định”.
R.Barthes không chỉ đưa ra các khái niệm cái biểu đạt, cái được biểu
đạt, kí hiệu trong hệ thống ngơn ngữ mà cịn đưa ra chúng trong phạm trù
huyền thoại. Ông quan niệm: trong huyền thoại “vế thứ ba là mối quan hệ
qua lại giữa hai vế đầu3: trong hệ thống ngơn ngữ (langue), đó là kí hiệu;
nhưng khơng thể nào dùng lại từ ngữ ấy mà tránh mập mờ, bởi vì trong huyền
thoại (và đây chính là nét đặc thù chủ yếu của nó), cái biểu đạt đã được tạo
thành bởi những kí hiệu của ngôn ngữ (langue). Tôi sẽ gọi vế thứ ba của
huyền thoại là sự biểu đạt” [57; 302-303].
Từ những quan niệm về các yếu tố cái biểu đạt, cái được biểu đạt, kí
hiệu, sự biểu đạt thì một mặt R.Barthes khẳng định “văn chương với tư cách
3

Hai vế đầu là cái biểu đạt và cái được biểu đạt.


15

diễn ngôn tạo thành cái biểu đạt” [57; 298]; mặt khác ông khẳng định “Văn
chương tự lộ ra là sự biểu đạt; vứt bỏ bản chất tự nhiên giả dối của ngôn ngữ

văn chương truyền thống, nhà văn đã mãnh liệt tự mình phiêu bạt đến đặc
điểm phản-bản-chất tự nhiên của ngôn ngữ” [57; 333]. Như vậy, R.Barthes
không chỉ xem xét văn chương trong phạm trù kí hiệu mà cịn xem xét trong
phạm trù huyền thoại. Văn chương là một diễn ngôn. Văn chương là sự biểu
đạt trong phạm trù huyền thoại-tương đương với kí hiệu trong hệ thống ngơn
ngữ-và nó biểu đạt cho một cái được biểu đạt nào đó.
R.Barthes cho rằng, “huyền thoại là một ngơn từ” [57; 289] và “cần
phải nêu lên một cách mạnh mẽ ngay từ đầu rằng huyền thoại là một hệ thống
thông báo, đó là một thơng điệp” [57; 289]. Huyền thoại là thông điệp, là
ngôn từ nhưng không phải ngôn từ nào cũng có thể trở thành huyền thoại.
R.Barhes đưa ra một khái niệm ngôn từ riêng đồng thời chỉ ra điều kiện để
ngôn từ trở thành huyền thoại “bất cứ đơn vị hoặc tổng hợp có tính chất biểu
đạt nào, dù được thốt ra lời hay nhìn thấy bằng mắt, ta sẽ đều hiểu là ngơn
ngữ, diễn ngơn, lời nói v.v.: một bức ảnh đối với chúng ta cũng là ngôn từ
chẳng khác nào một bài báo; bản thân các đồ vật cũng sẽ có thể trở thành
ngơn từ nếu chúng biểu đạt điều gì đấy” [57; 291-292]. Ngơn từ trở thành
huyền thoại khi nó biểu đạt một điều gì đó tức là một kí hiệu.
Theo Trịnh Bá Đĩnh trong “Từ kí hiệu đến biểu tượng” thì quan niệm
về huyền thoại của R.Barthes là sự kế thừa quan niệm của F.Saussure và tiếp
thu kết quả ngôn ngữ học L.Hjelmslev. Từ sự kế thừa và tiếp thu trên,
R.Barthes đưa ra một quan niệm mới. Ơng cho rằng tồn bộ hệ thống cái biểu
đạt và cái được biểu đạt như hệ thống thứ nhất, sẽ tạo thành một phần của hệ
thống thứ hai. Bởi vì hệ thống thứ nhất là cái biểu đạt cho hệ thống thứ hai.
Điều này có nghĩa là hệ thống thứ nhất là sự biểu đạt trong huyền thoại.
Diễn ngơn theo R.Barthes, là một kí hiệu trong việc biểu đạt một thông


16

điệp tức cái được biểu đạt hay huyền thoại. Diễn ngơn là một dạng ngơn từ có

thể trở thành huyền thoại và như vậy văn chương cũng là một kí hiệu, là một
dạng ngơn từ huyền thoại.
Kí hiệu học văn chương nghiên cứu văn chương như một kí hiệu.
Ngành khoa học này có nguồn gốc từ Giáo trình ngơn ngữ học đại cương của
F.Saussure và lí thuyết ngơn ngữ học của trường phái Geneve4. Từ việc xem
văn bản văn học là một kí hiệu sẽ dẫn đến xem q trình tiếp nhận văn bản
văn học là quá trình giải mã cấu trúc của kí hiệu để tìm ra cái được biểu đạt.
Người tạo lập văn bản-tác giả-dùng các thủ pháp ngôn từ để tạo ra cái biểu đạt
như một mật mã. Các nhà kí hiệu học giải mã bản mật mã đó thơng qua giải
nghĩa các từ, câu, hình tượng…bằng phân tích, so sánh… “Người gửi (tác
giả) dùng các thủ pháp ngôn từ để tạo ra một bản mật mã mang tính thẩm mĩ.
Người nhận (độc giả) sẽ giải mã để nhận ra ý nghĩa của thông điệp. Thao tác
chung mà các nhà Ký hiệu học thường làm là tìm ra các từ đắt, câu hay,
những hiện tượng bất thường, đáng chú ý. Họ tiến hành so sánh giữa các từ
ngữ, hình tượng để khẳng định sự độc đáo của tác phẩm. Đơi lúc họ cịn
thống kê các hiện tượng các biệt hoặc phổ biến để xác định phong cách nhà
văn. Thao tác quan trọng nhất là phân tích, giải thích các từ ngữ, hình tượng
để tìm ra lớp nghĩa ẩn giấu sau các thơng điệp ngơn ngữ” [18; 44].
Có thể thấy một khái niệm tương đương với khái niệm diễn ngôn
(M.Barhthes) trong quan niệm của M.Bakhtin được thể hiện trong các cơng
trình nghiên cứu Vấn đề thể loại lời nói, Những vấn đề thi pháp Doxtoievski
khi hiểu diễn ngơn (M.Barthes) và phát ngôn (M.Bakhtin) là một văn bản văn
học.
Phát ngơn có thể được xác định thơng qua ranh giới của lời nói.
“Trường phái này cho rằng, “ngơn ngữ là hệ thống kí hiệu dùng để diễn đạt ý tưởng”. Nó bao gồm hai mặt
gắn kết chặt chẽ là cái biểu đạt (hình thức) và cái được biểu đạt (nội dung). Xuất phát từ luận điểm đó, nhà kí
hiệu học S.Langer (Mỹ) chủ trương nghiên cứu hình thức ngơn từ để tìm hiểu các thơng điệp của tác giả”
(Phạm Ngọc Hiền, Thi pháp học, Nxb Văn học, Hà Nội, 2016, tr. 43)
4



17

M.Bakhtin cho rằng “ranh giới của từng phát ngôn cụ thể, như của một đơn
vị giao tiếp lời nói, được xác định bởi sự thay đổi chủ thể lời nói, tức là sự
thay đổi người nói” [48; 24].
Do lời nói được quan niệm như tổng thể văn bản nên sự bắt đầu và kết
thúc của một phần của lời nói của chủ thể nói, tạo thành giới hạn khung cho
một phát ngôn và là đặc điểm khiến phát ngôn trở thành đơn vị giao tiếp lời
nói từ đó tách biệt nó với các đơn vị giao tiếp ngơn ngữ.
Một phát ngơn, theo M.Bakhtin là một chỉnh thể của ba bình diện: nội
dung chủ đề, phong cách và tổ chức kết cấu “ba bình diện ấy-nội dung chủ
đề, phong cách và tổ chức kết cấu-gắn bó chặt chẽ trong một chỉnh thể phát
ngơn” [48; 7]. Giữa phát ngơn có thể có điểm ngắt. Những điểm ngắt này có
tính thực tế hơn là tính ngữ pháp nhất là trong các thể loại lời nói thứ sinh.
“Các điểm ngắt giữa các phát ngơn cố nhiên khơng mang thuộc tính cú pháp,
mà chỉ có tính thực tế” [48; 27]. Điểm ngắt giữa các phát ngơn, trong các thể
loại lời nói thứ sinh là sự tính tốn nghệ thuật của tác giả. “Trong các thể loại
văn học-nghệ thuật thứ sinh, những điểm ngắt như vậy đều gắn bó với ý đồ
nghệ thuật của nghệ sĩ, đạo diễn, diễn viên, có điều các điểm ngắt này về
nguyên tắc, khác xa với cả điểm ngắt cú pháp lẫn điểm ngắt phong cách-ví
như giữa các ngữ đoạn-bên trong phát ngôn” [48; 27]. Phát ngôn được
M.Bakhtin xem như một đơn vị thực tế của giao tiếp lời nói. Giao tiếp lời nói
là một khái niệm được M.Bakhtin phát triển vào những năm 1920 và nằm
trong bốn khái niệm được ông đề xuất “ngôn ngữ”-được xem như một hệ
thống-“lời nói”-là tổng thể các văn bản-“giao tiếp lời nói” và “phát ngơn”-là
đơn vị của giao tiếp lời nói. Với tư cách là một đơn vị của giao tiếp lời nói,
đặc điểm của phát ngơn là có sự thay đổi của chủ thể lời nói và tính hồn kết.
Tính hồn kết của phát ngơn được xác định bởi ba yếu tố: Tính cạn kiệt về ý
nghĩa-sự vật; ý đồ lời nói của người nói; các hình thức kết cấu-thể loại điển



18

hình của sự hồn kết. Tiêu chí quan trọng nhất của tính hồn kết của phát
ngơn là khả năng đáp lại phát ngơn.
Mỗi phát ngơn ln có ý đồ lời nói hay “ý chí lời nói” của người nói. Ý
chí lời nói là cái muốn nói của người nói. Nó quyết định sự lựa chọn đối
tượng trong giao tiếp lời nói, sự cạn kiệt về ý nghĩa-sự vật của phát ngơn đồng
thời quyết định cả hình thức thể loại được sử dụng để kiến tạo phát ngơn. Ý
chí này bị chi phối bởi hoàn cảnh giao tiếp, nhân vật giao tiếp… và trước hết
nó thực hiện sự lựa chọn một thể lời nói nào đó.
Một phát ngơn được tạo nên bởi ý chí lời nói. Ý chí này quyết định
hình thức thể loại mà phát ngôn tồn tại. Chúng ta ln nói bằng những thể loại
lời nói nào đó. Các thể loại này có thể trang nhã nhưng cũng có thể suồng sã.
Do thể loại lời nói là loại hình phát ngơn tương đối bền vững nên có thể
khẳng là hình thức tồn tại của phát ngơn. Nó có thể là các thể thơ, thể truyện.
M.Bakhtin khẳng định “phát ngôn được tổ chức với sự hỗ trợ của các đơn vị
ngơn ngữ-từ, cụm từ, câu; hơn nữa, phát ngơn có thể được kiến tạo bằng một
câu, một từ” nhưng không phải vì thế mà một đơn vị ngơn ngữ có thể trở
thành một đơn vị giao tiếp lời nói.
Sự tồn tại của phát ngôn như một đơn vị giao tiếp lời nói cho thấy
“người ta khơng trao đổi với nhau bằng câu, cũng không trao đổi với nhau
bằng từ (trong ý nghĩa nghiêm nhặt của ngôn ngữ học) và các cụm từ mà trao
đổi bằng tư tưởng”. Trao đổi tư tưởng tức là trao đổi ý chí lời nói đã hình
thành phát ngơn.
Xuất phát từ phát ngơn M.Bakhtin đề xuất khái niệm thể loại lời nói.
Thể loại lời nói theo M.Bakhtin là “những loại hình phát ngơn tương đối bền
vững” [48; 7].
Trong thế kỉ XX, M.Foucault, một nhà nghiên cứu hậu cấu trúc, đã đưa

ra các định nghĩa về diễn ngơn như sau: “lúc thì coi nó như một khu vực


19

chung của tất cả các nhận định, lúc thì coi nó như một nhóm các nhận định
được cá thể hóa, và đơi khi lại xem nó như một hoạt động được quy chuẩn
nhằm tạo nên một tập hợp các nhận định”5 [39; 80]. Sara Mills-một chuyên
gia về M.Foucault-trong Discourse cho rằng với câu nói trên, M.Foucault đã
cùng lúc đưa ra ba định nghĩa về diễn ngôn. Định nghĩa thứ nhất, diễn ngơn là
“tất cả các nhận định nói chung”. Đây là định nghĩa rộng nhất về diễn ngơn.
Nói rõ hơn cho định nghĩa này, Sara Mills khẳng định “tất cả các phát ngơn
hoặc văn bản mang nghĩa và có một hiệu lực nào đó trong thế giới thực, đều
được coi là diễn ngơn”. Như vậy, “nhận định” có thể được hiểu là “phát
ngơn” mang nghĩa và có hiệu lực. Định nghĩa thứ hai, diễn ngơn là “các nhận
định được nhóm lại với nhau bởi một áp lực mang tính thiết chế nào đó, bởi
sự tương tự giữa xuất xứ và bối cảnh hay bởi chúng cùng hành động theo một
cách gần giống nhau”. Định nghĩa thứ ba, diễn ngôn là “một hoạt động được
quy chuẩn nhằm tạo nên một tập hợp các nhận định”. Có thể hiểu những hoạt
động trong định nghĩa trên là “những tư tưởng, quan niệm, khái niệm, cách
thức tư duy và hành xử”. Những hoạt động này chịu sự “quy chuẩn” của
quyền lực và có thể tạo sinh vô số nhận định.
Theo M.Foucault, quyền lực6 là cái xác định cái gì là tri thức: “quyền
lực có một vai trị tích cực đối với tri thức, khơng chỉ ràng buộc hay loại bỏ
tri thức mà còn tạo ra nó” [13; 97]. Cụ thể hơn, quyền lực là những lực xã
hội kiểm soát hành vi cá nhân “những thay đổi trong tư duy khơng phải là do
chính tư duy ấy, mà cho thấy khi ý nghĩ thay đổi, nguyên nhân là những lực
Sử dụng cách dịch của Trần Văn Tồn. Xin xem: Trần Văn Tồn, Dẫn nhập lí thuyết diễn ngôn của
M.Foucault và nghiên cứu văn học, 24/05/2015,
Link: />Nguyên văn “treating it sometimes as the general domain of all statements, sometimes as an individualizable

group of statements, and sometimes as a regulated practice that accounts for a number of statements”.
6
Trong Lịch sử bệnh điên, M.Foucault quan niệm quyền lực tiền hiện đại, tập trung lại ở một trung tâm. Ở
Kỷ luật và trừng phạt ra đời sau đó, M.Foucault lại cho rằng quyền lực hiện đại bị phân tán ra toàn xã hội
nghĩa là “mỗi người trong chúng ta-theo nhều cách khác nhau-là chủ thể của quyền lực hiện đại” (Gary
Gutting, Dẫn luận về Foucault, Nxb Hồng Đức, 2017, tr. 159).
5


×