UBND TỈNH PHÚ THỌ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÙNG VƯƠNG
NGUYỄN THỊ HẢI YẾN
SẮC THÁI NỮ QUYỀN TRONG MỘT SỐ
TRUYỆN NGẮN CỦA Y BAN VÀ ĐỖ HỒNG DIỆU
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGƠN NGỮ, VĂN HỌC
VÀ VĂN HĨA VIỆT NAM
Chun ngành: Lí luận văn học
Mã số: 8220120
Người hướng dẫn khoa học: TS. Hoàng Tố Mai
PHÚ THỌ, 2018
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn thạc sỹ Sắc thái nữ quyền trong một số
truyện ngắn của Y Ban và Đỗ Hồng Diệu là cơng trình nghiên cứu khoa học
của tôi và chƣa từng đƣợc công bố. Những tài liệu đƣợc trích dẫn trong luận
văn là chính xác và trung thực.
Tác giả
Nguyễn Thị Hải Yến
ii
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình viết luận văn này, em đã nhận đƣợc nhiều sự giúp đỡ
quý báu.
Em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành, sâu sắc tới TS. Hồng Tố Mai
(Viện văn học), ngƣời thầy đã tận tình chỉ bảo, hƣớng dẫn, giúp đỡ em hoàn
thành luận văn.
Em xin trân trọng cảm ơn:
- Phòng Sau đại học Trƣờng Đại học Hùng Vƣơng.
- Ban Chủ nhiệm khoa Khoa học xã hội và Nhân văn Trƣờng Đại học
Hùng Vƣơng.
- Cô giáo chủ nhiệm TS. Nguyễn Thị Thúy Hằng.
- Các thầy cô giáo khoa Khoa học xã hội và Nhân văn Trƣờng Đại học
Hùng Vƣơng.
- Ban giám hiệu Trƣờng THPT Long Châu Sa.
Em xin chân thành cảm ơn gia đình, ngƣời thân, bạn bè, đồng nghiệp đã
động viên và tạo điều kiện giúp đỡ tơi trong suốt q trình học tập và thực
hiện đề tài.
Phú Thọ, tháng 06 năm 2018
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Hải Yến
iii
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ................................................................................ 1
2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu ....................................................................... 2
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................. 8
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 9
5. Phƣơng pháp tiến hành nghiên cứu ............................................................. 10
6. Cấu trúc luận văn ........................................................................................ 11
CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 12
1.1. Truyện ngắn.............................................................................................. 12
1.1.1. Khái niệm truyện ngắn. ......................................................................... 12
1.1.2. Đặc trƣng của thể loại truyện ngắn ....................................................... 13
1.2. Vấn đề nữ quyền và một số khái niệm liên quan ..................................... 15
1.3. Nữ quyền trong văn học ........................................................................... 16
1.3.1. Văn học nữ quyền thế giới .................................................................... 16
1.3.2. Vấn đề nữ quyền trong văn học Việt Nam đƣơng đại .......................... 18
Tiểu kết chƣơng 1............................................................................................ 22
CHƢƠNG 2. SẮC THÁI NỮ QUYỀN TRONG MỘT SỐ TRUYỆN NGẮN
CỦA Y BAN VÀ ĐỖ HỒNG DIỆU NHÌN TỪ PHƢƠNG DIỆN NỘI
DUNG ............................................................................................................. 24
2.1. Cách tiếp cận mới về hình tƣợng ngƣời phụ nữ....................................... 24
2.2. Đề cao vẻ đẹp ngƣời phụ nữ .................................................................... 26
2.2.1. Vẻ đẹp thân thể nữ - báu vật của cuộc đời ............................................ 26
2.2.2. Vẻ đẹp tâm hồn, tính cách – thiên chức của ngƣời phụ nữ................... 30
2.3. Tích cực đấu tranh “chống lại thế giới nam quyền” đồng thời “xác lập
quyền lực phái nữ” .......................................................................................... 36
iv
2.3.1. Xu hƣớng phán xét trật tự nam quyền và từng bƣớc xóa bỏ tính “tịng
thuộc” .............................................................................................................. 36
2.3.2. Sự thức tỉnh đời sống riêng tƣ ............................................................... 40
2.3.3. Xác lập quyền lực phái nữ .................................................................... 45
2.4. Phản ánh những “góc khuất đàn bà” ........................................................ 47
2.5. Sự trỗi dậy của tính dục - một cách để giải phóng bản ngã ..................... 49
Tiểu kết chƣơng 2............................................................................................ 53
CHƢƠNG 3. SẮC THÁI NỮ QUYỀN TRONG MỘT SỐ TRUYỆN NGẮN
CỦA Y BAN VÀ ĐỖ HOÀNG DIỆU NHÌN TỪ PHƢƠNG DIỆN NGHỆ
THUẬT ........................................................................................................... 54
3.1. Nhân vật nữ trong mối tƣơng quan với nhân vật nam ............................. 54
3.2. Ngôn ngữ nhân vật thể hiện sắc thái nữ quyền ........................................ 60
3.2.1. Ngôn ngữ tinh nhạy, sắc cạnh ............................................................... 60
3.3. Giọng điệu mang tính chất đối thoại ........................................................ 67
3.3.1. Giọng mỉa mai, cay đắng ...................................................................... 68
3.3.2. Giọng chiêm nghiệm, triết lí ................................................................. 71
3.4. Điểm nhìn trần thuật................................................................................. 75
Tiểu kết chƣơng 3.......................................................................................... 788
KẾT LUẬN ................................................................................................... 799
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 822
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ bao đời nay, tƣ tƣởng “trọng nam khinh nữ” đã “thâm căn cố đế”
trong “nếp sống”, “nếp ngh ” của con ngƣời bao thế hệ. Khi trình độ dân trí
ngày càng đƣợc nâng cao, phụ nữ đƣợc đi học, đƣợc tham gia các hoạt động
xã hội thì vấn đề bình đẳng giới đã đƣợc quan tâm hơn. Nhƣng nhìn vào thực
tế hiện nay, nữ giới vẫn là đối tƣợng phải chịu đựng nhiều bất cơng trong gia
đình và ngồi xã hội. Vì thế, ngọn l a đấu tranh cho quyền bình đẳng của phụ
nữ đã âm ỉ và không ngừng bùng cháy dữ dội ở các nƣớc phƣơng Tây và ngày
càng lan rộng ra các châu lục khác, và đây chính là khởi nguồn cho sự ra đời
của “Nữ quyền luận” (Feminism). Phong trào đấu tranh cho quyền lợi của
phái nữ ngày càng mạnh mẽ trên tất cả các l nh vực, trong đó có văn học nghệ
thuật. Nghiên cứu vấn đề nữ quyền biểu hiện trong các tác phẩm văn học trở
thành một cách tiếp cận chủ yếu từ n a cuối thế kỷ XX. Cho đến nay, hƣớng
nghiên cứu này đã đem lại những thành quả đáng ghi nhận. Tuy nhiên, ở các
nƣớc Á Đơng thì vấn đề nữ quyền vẫn chƣa thực sự trở thành một phong trào,
một làn sóng mạnh mẽ trên nhiều bình diện.
Ở Việt Nam, “vấn đề nữ quyền” đã đƣợc đề cập đến trong một số năm
gần đây nhƣng nghiên cứu về “vấn đề nữ quyền” trong văn chƣơng thì khơng
nhiều bởi đây cịn là một hƣớng đi mới, ít đƣợc chú ý. Giới nghiên cứu
thƣờng quan tâm tới việc giới thiệu về một số tác phẩm của các tác giả nữ mà
chƣa soi chiếu các tác phẩm này dƣới góc nhìn của chủ ngh a nữ quyền.
Trong số những nhà văn nữ đáng chú ý cuối thế kỷ XX, Y Ban là một
cây bút dũng cảm và táo bạo khi nói về phụ nữ. Phái nữ trong truyện ngắn
của chị đâu chỉ là những con ngƣời “bé mọn”, yếu đuối, thụ động, hơn hết,
họ là “những ngƣời đàn bà mạnh mẽ, luôn luôn ƣớc mơ và khát khao đi đến
2
tận cùng bản thể”. Bƣớc sang thế kỷ XXI, Đỗ Hoàng Diệu - cây bút trẻ trung,
hiện đại và cá tính đã thám hiểm và khai phá nhiều vùng đất từng bị che lấp
hay cấm kị trong văn học để tạo ra những tác phẩm “độc”, “lạ” và “đầy sức
ám ảnh”. Hai nữ nhà văn có hai phong cách khác nhau nhƣng đều là những
cây bút có duyên với truyện ngắn. Sáng tác của họ có sắc thái nữ quyền rõ
nét. Tìm hiểu sắc thái nữ quyền trong một số truyện ngắn của Y Ban và Đỗ
Hoàng Diệu là một hƣớng tiếp cận để chúng ta lý giải đƣợc vì sao họ lại đƣợc
xem là những “hiện tƣợng văn học” độc đáo của nƣớc nhà.
Xuất phát từ những yêu cầu nêu trên, tôi quyết định nghiên cứu đề tài:
Sắc thái nữ quyền trong một số truyện ngắn của Y Ban và Đỗ Hoàng Diệu.
Mong rằng đây sẽ là cách tiếp cận mới để thấy đƣợc những điểm tƣơng đồng
và khác biệt trong việc thể hiện sắc thái nữ quyền của hai nhà văn, từ đó đánh
giá, khẳng định ý thức lao động, sáng tạo nghệ thuật của hai tác giả đƣợc bạn
đọc yêu quý.
2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
2.1. Vấn đề nữ quyền trên báo chí, văn chương, phê bình văn học
Phong trào nữ quyền thế giới đã hình thành từ cuối thế kỷ XVIII và
phát triển cho đến nay. Tuy nhiên, chủ ngh a nữ quyền thế giới chỉ thực sự tác
động đến Việt Nam từ những năm đầu thế kỷ XX khi mà nƣớc ta bắt đầu giai
đoạn hội nhập với văn hóa phƣơng Tây.
Ngay từ đầu thế kỷ XX, ở nƣớc ta, vấn đề quyền của phụ nữ đã trở
thành “trung tâm điểm mà các cuộc thảo luận khác thƣờng xoay quanh nó”.
Các bài viết về những tấm gƣơng phụ nữ thế giới liên tục đƣợc giới thiệu rộng
rãi trên các báo: Đơng Dƣơng tạp chí, Đăng cổ tùng báo, Nam Phong…Các tờ
báo đại diện cho phái nữ ra đời nhƣ: Phụ nữ tân văn, Nữ giới chung …đƣợc
xem nhƣ là cơ quan ngôn luận đại diện cho quyền của phái nữ.
3
David Marr (một học giả ngƣời Pháp) trong cuốn sách Vietnammese
Traddition on Trial 1920 – 1945 đã có nhiều sự quan tâm đến vấn đề nữ
quyền trong xã hội Việt Nam những thập niên đầu thế kỷ XX. Cuốn sách này
đã giúp ngƣời đọc có cái nhìn khá rõ về vấn đề quyền của phụ nữ ở Việt Nam
trong những năm từ 1920 - 1945.
Bài viết của Shawn McHale trong: Printing and power: Vietnamese
debates over women’s place in society, 1918 - 1934 đã phân tích những ảnh
hƣởng của sách báo đã góp phần nâng cao tầm hiểu biết của giới nữ về vấn đề
bình đẳng nam/nữ.
Ở Việt Nam, Phan Khơi đƣợc xem là nhà lập thuyết đầu tiên cho ý thức
nữ quyền ở nƣớc ta những năm đầu thế kỷ XX. Các bài viết của ông in trên
báo Phụ nữ tân văn (số 2, 9/5/1929…) đều “cổ súy mạnh mẽ việc đào tạo học
vấn cho ngƣời phụ nữ để họ thốt khỏi sự đói nghèo thi ca và tri thức, ngh a là
giải quyết đến triệt để cội rễ sinh ra sự bất bình đẳng của phụ nữ trong đời
sống nói chung và trong l nh vực văn hóa nói riêng” [3].
Trong số những cây bút đánh giá cao vấn đề nữ quyền đầu thế kỷ XX,
Phan Bội Châu đƣợc coi là một cột mốc quan trọng đem đến những đánh giá
đúng đắn về vai trò của phái nữ đối với cơng cuộc giải phóng đất nƣớc.
Nghiên cứu một số sáng tác của Phan Bội Châu, tác giả Nguyễn Huệ Chi cho
rằng: “Ơng cịn cực lực đề cao vai trị của phụ nữ, dám liệt nữ giới vào các vị
trí quan trọng bậc nhất trong mặt trận thống nhất chống xâm lƣợc… Ông
đúng là con ngƣời mang một sự suy ngh vƣợt lên tất cả, đứng ở tầm dân tộc
mà suy ngh ” [17].
Qua việc khảo sát các bài báo viết về phụ nữ nƣớc ta trƣớc năm 1945,
Đặng Thị Vân Chi trong luận án tiến s Vấn đề phụ nữ trên báo chí tiếng Việt
trước năm 1945 cho rằng: “Đó là trong thời kỳ cận đại, ảnh hƣởng của tiếp
4
xúc văn hóa Đơng – Tây, nhận thức về vai trị và địa vị của phụ nữ trong gia
đình và xã hội, vấn đề nữ quyền và giải phóng phụ nữ là những vấn đề cần
đƣợc thảo luận nhiều trên báo chí. Và rõ ràng vấn đề phụ nữ đang trở thành
vấn đề thu hút sự quan tâm của toàn xã hội” [16].
Kế thừa thành tựu của giai đoạn trƣớc, sang những năm 30, 40 của thế
kỷ XX, các nhà văn Tự lực văn đồn đã tạo nên những hình tƣợng nghệ thuật
đặc sắc mang sắc thái nữ quyền (tiêu biểu là Đoạn tuyệt - Nhất Linh). Có một
số những cơng trình nghiên cứu đề cao đóng góp này của Tự lực văn đồn
nhƣ: Dưới mắt tơi của Trƣơng Chính, Việt Nam văn học sử yếu của Dƣơng
Quảng Hàm, Nhà văn Việt Nam hiện đại của Vũ Ngọc Phan…
Từ năm 1945 đến 1975, do hồn cảnh đất nƣớc có chiến tranh, văn
chƣơng thời kỳ này chủ yếu tập trung vào nhiệm vụ tun truyền cách mạng.
Vì thế, văn chƣơng ít có điều kiện nghiên cứu về nữ quyền. Tiêu biểu hơn cả
là bài viết: Hồ Xuân Hương với các giới phụ nữ và văn học (1957) của Văn
Tân. Trong đó, ngƣời viết có đề cập đến một số nội dung liên quan đến “ý
thức nữ quyền trong thơ Hồ Xuân Hƣơng”.
Sau khi hịa bình lập lại, nhất là sau năm 1986, khi đất nƣớc đi vào
công cuộc đổi mới và hội nhập, tƣ tƣởng nam nữ bình quyền của thế giới đã
ùa vào xã hội Việt Nam. Các nhà văn, đặc biệt là những nhà văn nữ đã có
nhiều tác phẩm có giá trị thể hiện ý thức nữ quyền. Trong bài viết Sức bật mới
của các cây bút nữ (2006), nhà báo Lê Viết Thọ nhận định: “Những năm đầu
của thế kỷ XX này, văn đàn thêm một lần khởi sắc bởi những cây bút nữ. Nhờ
họ, văn học ngày càng mang them diện mạo mới, một đời sống nhiều giằng
co, trắc ẩn và đa đoan” [36]. Tác giả đặt niềm tin vào các cây bút nữ: “Những
cây bút nữ đã và đang âm thầm tỏa sáng, bày tỏ cách thể hiện diện trong cuộc
sống bằng văn chƣơng, tạo nên những nhịp mạch mới cho đời sống văn học”
5
[36]. Nếu nhƣ trƣớc đây, vấn đề tình dục chỉ bó hẹp trong sáng tác của các
nhà văn nam và nếu có nhà văn nữ có nói đến thì thƣờng bị cho là q táo
bạo, thậm chí cịn bị coi là phản cảm. Tuy nhiên, trong những năm gần đây
“viết về tình dục” lại trở thành một khuynh hƣớng sáng tác mới của các cây
bút nữ đƣơng đại. Trong bài viết Nhục cảm trong văn chương (2007), tác giả
Phạm Thị Ngọc Liên nhận định: “Bằng cách viết động chạm đến chuyện cấm
kỵ, họ đã tự cởi trói, tự chứng tỏ rằng trong sáng tác, không nên phân biệt
nam hay nữ. Bằng nội tâm phong phú và nhạy cảm, họ cho rằng họ viết về
giới của họ trung thực hơn những gì ngƣời khác giới áp đặt” [23].
Trên đây là tổng quan những nghiên cứu về vấn đề nữ quyền trên báo
chí và trong văn học. Có thể nói, trong những năm gần đây, nữ quyền là vấn
đề trung tâm của đời sống văn hóa. Tuy nhiên, nhìn chung các nghiên cứu về
vấn đề nữ quyền trong sáng tác của các nhà văn nữ cịn ít ỏi và chủ yếu mang
tính chất giới thiệu hoặc chú tâm vào một khía cạnh nào đó. Cịn dấu ấn riêng
của từng nhà văn về vấn đề nữ quyền có đóng góp gì cho nền văn học nƣớc
nhà vẫn còn là một khoảng trống, nhiều bỏ ngỏ.
2.2. Vấn đề nữ quyền trong các tác phẩm của Y Ban và Đỗ Hoàng Diệu
Là một nhà văn nữ có sức viết dồi dào của văn học Việt Nam đƣơng
đại, Y Ban và những tác phẩm của chị đƣợc nhiều ngƣời quan tâm. Tác giả
Bùi Việt Thắng cho rằng: “Y Ban có lối viết riêng của mình, chị chú ý khai
thác nhiều tâm trạng điển hình của nhân vật trong những tình huống tiêu
biểu…Truyện của Y Ban có thể đƣợc xếp vào dạng truyện tâm tình – khơng
đặc sắc về cốt truyện và tình tiết song lại có khả năng lắng đọng trong ngƣời
đọc bởi chiều sâu tâm lí của tính cách da diết tình đời, tình ngƣời” [34].
Tác giả Đào Trung Đạo trong bài Đọc sách I am đàn bà đã viết: “Ta tự
hỏi: Đàn bà, đàn ơng là hai giới tính, vốn đã có từ khi có con ngƣời, chuyện
6
cũ k hiển nhiên nhƣ vậy tại sao lại phải kêu lên tơi là đàn bà? Chắc chắn lời
nói này khơng phải là một lời tán thán. Mà đó có lẽ là một lời xác định, một
minh xác. Và phải minh xác vì cho đến nay xem ra xã hội, văn hóa Việt Nam,
nhất là phía nam giới, hoặc cố tình, hoặc mặc nhiên, đã khơng nhìn nhận cái
cốt tính của phái nữ chiếm hơn một n a dân số trên mặt đất này. Thế nên Y
Ban đã cho một nhân vật nữ (hoặc toàn thể các nhân vật nữ) nói với chúng ta:
tơi là đàn bà” [19].
Nói về những sáng tác của Y Ban, tác giả Dƣơng Cầm đã nhận xét: “I
am đàn bà” tức là “Tôi là đàn bà”- “cái tên n a Tây, n a ta này mở đầu tập
sách đã phần nào giới thiệu cái ý tƣởng nói về phận đàn bà, thế giới đàn bà
với những bi hài, đớn đau của nó…Nhiều nhân vật nữ của Y Ban khắc khoải,
vô vọng trên con đƣờng đi tìm một cuộc sống ấm no, một tình u hồn thiện
trong một thế giới n a đàn ông là đàn bà còn biết bao bất trắc” [29].
Khi đọc I am đàn bà, nhà văn Dạ Ngân chia sẻ: Đọc “I am đàn bà”,
“cảm động đến ứa nƣớc mắt, một thân phận phụ nữ nơng dân điển hình trong
thời đại chúng ta. Qua truyện ngắn ấy, Y Ban đã vƣợt lên chính mình, đã
thốt khỏi truyện tình cảm đàn ơng, đàn bà để hƣớng vào thân phận đàn bà
chung hơn, lớn lao hơn” [29].
Trong khóa luận tốt nghiệp Phái tính trong truyện ngắn Y Ban tác giả
Nguyễn Thị Thắm viết: “Hƣớng ngòi bút đến những ngƣời đàn bà trong xã
hội hiện đại với bao ẩn ức về giới và những khát khao khẳng định, Y Ban để
họ lên tiếng Tôi là đàn bà qua sự khẳng định vẻ đẹp của thiên tính nữ, sự giải
thiêng những chức năng, bổn phận xã hội của ngƣời phụ nữ và sự từ chối vai
trò tha nhân” [33].
Đỗ Hoàng Diệu - một cây bút nữ trẻ táo bạo và độc lạ đã tạo nên “một
hiện tƣợng văn học đặc biệt”. Ngay sau khi truyện Bóng đè của chị đƣợc phát
7
hành trong nƣớc, nó đã tạo ra một dƣ luận hết sức sơi động, thậm chí là những
cuộc tranh luận gay gắt với nhiều những quan điểm trái ngƣợc nhau. Hàng
loạt các cuộc phỏng vấn nữ nhà văn đƣợc diễn ra nhƣ: Đối thoại xung quanh
tác phẩm Bóng đè của Đỗ Hồng Diệu (Vietnamnet.vn), Bóng đè – tập truyện
ngắn đang gây xơn xao dư luận (VnExpress.com), Đỗ Hồng Diệu thích đẹp
hơn giỏi (Theo Thể thao văn hóa), Đỗ Hồng Diệu – sex chỉ là vỏ bọc (Theo
Ngƣời đẹp)…Mỗi ngƣời, mỗi bài viết có những đánh giá khác nhau nhƣng
tựu trung lại, các bài viết đều thừa nhận Đỗ Hoàng Diệu đã có những thành
cơng nhất định. Về vấn đề này, nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên
nhận định: “Những phản ứng nhiều chiều cho thấy Bóng đè quả thực là một
hiện tƣợng văn học thách thức cảm nhận và đánh giá của giới trong nghề, và
giới độc giả rộng rãi. Vì tƣ tƣởng tác phẩm, vì cách viết của tác giả. Truyện
ngắn Đỗ Hoàng Diệu chủ yếu viết về phụ nữ và dục tính, nhƣng quan trọng
hơn, phụ nữ và dục tính trong quan hệ xã hội và lịch s . Ở đây có phần nào
mầu sắc nữ quyền. Tuy nhiên, chị dùng ngƣời nữ và chuyện dục tính nhƣ một
bộ mã để g i đi thông điệp cho cuộc sống này”.
Nhà văn Nguyên Ngọc cho rằng: “Trong những truyện ngắn của Đỗ
Hoàng Diệu là nhân vật ngƣời phụ nữ, tất cả đều còn trẻ, khao khát sống,
mãnh liệt sống, tràn đầy dục tính. Song chắc chắn vấn đề của chị lớn hơn rất
nhiều số phận đàn bà. Những ngƣời phụ nữ của Đỗ Hoàng Diệu phải gánh
chịu cả một quá khứ phi phàm, bị đeo đuổi bởi một cái tội tổ tông, những
ngƣời phụ nữ quá thông minh nhƣng quá cả tin”.
Tác giả Nguyễn Thị Thu Hằng trong báo cáo khoa học Những cách tân
của Đỗ Hoàng Diệu trong truyện ngắn Bóng đè cũng đã có những đánh giá
bƣớc đầu về những đổi mới của nhà văn Đỗ Hoàng Diệu trên cả hai phƣơng
diện nội dung và nghệ thuật qua việc tìm hiểu tập truyện Bóng đè.
8
Tiếp cận những bài viết trên, ta thấy: Dù có khá nhiều các tác giả
nghiên cứu về truyện ngắn của Y Ban và Đỗ Hoàng Diệu nhƣng các bài viết
của họ chủ yếu là phân tích, cảm nhận về từng tác phẩm. Chỉ có một số ít tác
giả đã đề cập đến “vấn đề nữ quyền” trong một số truyện ngắn của hai nhà
văn nhƣng chƣa bao quát và tƣơng xứng với thực tiễn sáng tác. Việc nghiên
cứu sắc thái nữ quyền trong một số truyện ngắn của Y Ban và Đỗ Hoàng Diệu
sẽ giúp chúng ta thấy đƣợc những đóng góp của hai nhà văn nữ về vấn đề
“nam nữ bình quyền” nói riêng và đối với diện mạo văn học đƣơng đại nói
chung.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu một số vấn đề có tính chất lí luận về văn học nữ
quyền, sắc thái nữ quyên trong một số truyện ngắn của Y Ban và Đỗ Hoàng
Diệu xét trên cả nội dung lẫn hình thức thể hiện, từ đó khẳng định đóng góp
riêng của mỗi tác giả.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn hƣớng đên các nhiệm vụ trọng tâm:
Thứ nhât, nghiên cứu một số vấn đề có tính chất lí luận về văn học nữ
quyền để làm cơ sở cho việc xác định những biểu hiện của sắc thái nữ quyên
trong một số truyện ngắn của Y Ban và Đỗ Hồng Diệu.
Thứ hai, phân tích để làm rõ những nội dung cơ bản của sắc thái nữ
quyền trong một số truyện ngắn của Y Ban và Đỗ Hoàng Diệu.
Thứ ba, khám phá một số phƣơng thức nghệ thuật thể hiện sắc thái
nữ quyên trong sáng tác của Y Ban và Đỗ Hoàng Diệu.
9
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đôi tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu sắc thái nữ quyên trong một số truyện ngắn của Y
Ban và Đỗ Hoàng Diệu.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn khảo sát một số truyện ngắn của Y Ban:
1. Người đàn bà có ma lực (1993)
2. Đàn bà sinh ra từ bóng đêm (1995)
3. Vùng sáng kí ức (1996)
4. Miếu hoang (2000)
5. Cẩm cù (2001)
6. Cưới chợ (2002)
7. I am đàn bà (2007)
8. Hành trình của tờ tiền giả (2009)
9. Tự (2015)
10. Hai bảy bước chân là lên thiên đường (2015)
11. Bức thư gửi mẹ Âu Cơ (2015)
12. Gái góa là gái góa ơi (2015)
13. Người đàn bà đứng trước gương (2007)
14. Cuối cùng thì đàn bà muốn gì (2015)
15. Gà ấp bóng (2007)
16. Người đàn bà và những giấc mơ (2014)
Một số truyện ngắn của nhà văn Đỗ Hoàng Diệu:
10
1. Bóng đè (2004)
2. Vu quy (2005)
3. Hoa máu (2000)
4. Linh thiêng (1999)
5. Dịng sơng hủi (2004)
6. Bốn người đàn bà và một đám tang (2004)
7. Huyền thoại về lời hứa (1994)
8. Căn bệnh (2000)
Đồng thời có liên hệ với các tác phẩm khác của hai nhà văn để hỗ trợ,
bổ sung, làm rõ vấn đề đang nghiên cứu.
5. Phƣơng pháp tiến hành nghiên cứu
Thực hiện đề tài luận văn, ngƣời viết dùng những phƣơng pháp chính là:
- Phƣơng pháp câu trúc - hệ thống: để nghiên cứu sắc thái nữ qun một
cách tồn diện, trong mơi quan hệ khách quan và chủ quan, trong sự thông
nhât giữa nội dung và hình thức thể hiện sắc thái nữ quyên.
- Phƣơng pháp xã hội - lịch s : nhằm đánh giá quá trình phát triển của
vấn đề nữ quyên trong văn hóa, văn học dân tộc ở từng hồn cảnh lịch s , xã
hội cụ thể.
- Phƣơng pháp phân tích - tổng hợp: phân tích những biểu hiện của sắc
thái nữ quyên trong truyện ngắn của hai tác giả Y Ban và Đỗ Hoàng Diệu
nhằm khái quát thành những điểm chung và điểm riêng trong việc thể hiện sắc
thái nữ quyên.
- Phƣơng pháp tiêp cận theo hƣớng thi pháp học: để thấy đƣợc sắc thái nữ
quyên thể hiện ở cả nội dung lân hình thức nghệ thuật. Từ đó, khẳng định
những đóng góp riêng của hai nhà văn nữ trong văn xuôi Việt Nam đƣơng đại.
11
- Phƣơng pháp so sánh, đôi chiêu: nhằm làm rõ sự tƣơng đông và khác
biệt về sắc thái nữ quyên trong sáng tác của hai nà văn nữ.
- Phƣơng pháp liên ngành: s dụng kiên thức của Văn hóa học, Ngơn ngữ
học, Lịch s , Tâm lý học để tìm hiểu những biểu hiện của sắc thái nữ quyên
trong tác phẩm.
- Bên cạnh đó, ngƣời viết vận dụng một số thao tác cơ bản khi nghiên
cứu văn học nhƣ phân tích, so sánh, bình luận,... và đặt vấn đề trong tính hệ
thống.
6. Cấu trúc luận văn
Ngồi phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung chính
của luận văn gồm ba chƣơng:
Chƣơng 1. Những vấn đề chung có liên quan đến đề tài.
Chƣơng 2. Sắc thái nữ quyền trong một số truyện ngắn của Y Ban và
Đỗ Hoàng Diệu nhìn từ phƣơng diện nội dung.
Chƣơng 3. Sắc thái nữ quyền trong một số truyện ngắn của Y Ban và
Đỗ Hồng Diệu nhìn từ phƣơng diện nghệ thuật.
12
CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Truyện ngắn
1.1.1. Khái niệm truyện ngắn.
Về truyện ngắn, có rất nhiều định ngh a khác nhau. Trong 150 thuật
ngữ văn học, truyện ngắn đƣợc xác định là “tác phẩm tự sự cỡ nhỏ, thƣờng
đƣợc viết bằng văn xuôi, đề cập đến hầu hết các phƣơng diện đời sống con
ngƣời và xã hội. Nét nổi bật của truyện ngắn là sự giới hạn về dung lƣợng; tác
phẩm truyện ngắn thích hợp với ngƣời tiếp nhận (độc giả) đọc nó liền một
mạch không nghỉ” [2]. Theo tiến s Chu Văn Sơn: “truyện ngắn là tác phẩm tự
sự cỡ nhỏ mà nội dung thƣờng chỉ xoay quanh một tình huống truyện chủ
chốt nào đó”.
Với hình thức ngắn gọn, truyện ngắn là “một lát cắt của đời sống”, nhƣ
“giọt nƣớc nhỏ” để thấy “cả đại dƣơng” bao la. Thể loại này đòi hỏi nhà văn
phải biết chọn lọc những chi tiết thật đắt và điển hình, có khả năng thể hiện
vấn đề một cách tập trung và cô đọng nhất thông qua lăng kính chủ quan của
ngƣời nghệ sỹ. Nói về vấn đề này, Maugham cho rằng: “truyện ngắn cần
phải viết sao cho ngƣời ta khơng thể bổ sung thêm vào đó chút gì cũng khơng
thể rút bớt ra chút gì”.
Hiện nay, ở nƣớc ta, có những ý kiến khác nhau về sự ra đời của truyện
ngắn. Nhƣng điều khơng ai có thể phủ nhận đƣợc đó là thể loại này thực sự
nở rộ từ đầu thế kỉ XX với các tác giả nổi tiếng nhƣ: Nguyễn Công Hoan,
Ngô Tất Tố, Thạch Lam, Nam Cao.v.v… Sau 1945 đó là: Nguyễn Minh
Châu, Nguyễn Khải, Nguyễn Huy Thiệp, … Đến cuối thế kỷ XX và đầu thế kỉ
XXI là sự xuất hiện của nhiều cây bút trẻ đầy tiềm năng nhƣ: Nguyễn Ngọc
Tƣ, Y Ban, Đỗ Hoàng Diệu.v.v… Các nhà văn đƣơng đại đã mang đến cho
thể loại này những hình thức vừa cũ, vừa mới, vừa quen, vừa lạ, thể hiện rõ
13
nét sự đổi mới trong phong cách, thể loại. Trải qua lịch s hơn một thế kỷ với
những thành tựu nhất định, truyện ngắn Việt Nam đã trở thành món ăn tinh
thần khơng thể thiếu trong đời sống văn hóa, tinh thần con ngƣời Việt Nam từ
xƣa đến nay.
1.1.2. Đặc trưng của thể loại truyện ngắn
Nhìn một cách khái quát, đặc trƣng của thể loại truyện ngắn tập trung
vào những khía cạnh cơ bản sau:
Dung lƣợng: Trong sách “Truyện ngắn – những vấn đề lí thuyết và thực
tiễn thể loại” do Bùi Việt Thắng chủ biên có đề cập đến: “Dung lƣợng (đƣợc
hiểu là kích cỡ, sức chứa, lớn nhỏ) là khả năng ôm trùm bao quát hiện thực, là
sức chứa chất liệu đời sống, dung lƣợng đƣợc hiểu theo khả năng của nội
dung phản ánh hiện thực của thể loại” [35;71]. Xét về dung lƣợng: “truyện
ngắn đƣợc xem là tác phẩm tự sự cỡ nhỏ”. “Ngh a là ngắn, thậm chí cực
ngắn” (truyện mini). “Đặc trƣng của truyện ngắn khơng phải chỉ vì nó ngắn”
mà quan trọng hơn là “cách nắm bắt và thể hiện hiện thực cuộc sống. Nhà
văn thƣờng hƣớng tới khắc họa một hiện tƣợng, phát hiện một nét bản
chất”, tập trung về chủ đề nào đó trong quan hệ nhân sinh hay đời sống tâm
hồn con ngƣời.
Nhân vật: “Truyện ngắn sống bằng nhân vật” (Vũ Thị Thƣờng). Bởi
“văn học là nhân học” (M.Gor-ki), văn học là sự hiểu biết, khám phá, sáng tạo
về con ngƣời. “Qua nhân vật, nhà văn miêu tả thế giới một cách hình tƣợng”.
Từ đó “kí thác cách nhìn của mình đối với con ngƣời và cuộc đời”. Do hạn
chế về dung lƣợng nên truyện ngắn thƣờng rất ít nhân vật, tình tiết và chi tiết
đời sống cũng khơng nhiều. “Cuộc đời của nhân vật thƣờng đƣợc miêu tả nhƣ
một khoảnh khắc”, một tính cách, tâm trạng hay một bƣớc ngoặt chứ không
thể chứa hết cuộc đời của nhân vật phát triển qua từng chi tiết nhƣ tiểu thuyết.
14
Ngôn từ nghệ thuật: Nghệ thuật văn chƣơng là nghệ thuật ngôn từ.
“Ngôn từ văn học là ngôn từ của một tác phẩm văn học, của thế giới nghệ
thuật, kết quả sáng tạo của nhà văn. Đó là ngơn từ giàu tính hình tƣợng và
giàu sức biểu hiện nhất, đƣợc tổ chức đặc biệt để phản ánh đời sống, thể hiện
tƣ tƣởng, tình cảm và tác động thẩm mỹ tới ngƣời đọc” (Phƣơng Lựu) [24].
Bằng ngôn từ, nhà văn “đƣa ngƣời đọc vào thế giới nghệ thuật của tác phẩm”.
Ngƣời đọc, qua ngôn từ, phân biệt đƣợc nhà văn này với nhà văn kia, phong
cách này với phong cách khác. Ở truyện ngắn, do dung lƣợng ngắn nên “ngôn
từ thƣờng mang tính tổ chức cao nhằm tạo nên hiệu quả nghệ thuật đem đến
cho ngƣời đọc những khoái cảm thẩm m . Ngôn từ trong truyện ngắn đƣợc tổ
chức một cách đặc biệt cho nên, mỗi từ, mỗi câu đều đóng vai trị khơi gợi
một cái gì lớn hơn nó, tràn ra ngồi nó để tạo dựng một ý lớn ở ngồi lời đồng
thời hình thành một chỉnh thể hình tƣợng mới” [35].
Tình huống truyện ngắn: Là “lát cắt của thân cây mà qua đó thấy đƣợc
cả trăm năm của đời thảo mộc” (Nguyễn Minh Châu). Là “một khoảnh khắc
mà trong đó sự sống hiện ra rất đậm đặc”, “khoảnh khắc chứa đựng cả một
đời ngƣời thậm chí cả một đời nhân loại”. Tình huống truyện xét đến cùng “là
một sự kiện đặc biệt của đời sống đƣợc nhà văn sáng tạo trong tác phẩm theo
lối lạ hóa” (TS. Chu Văn Sơn). “Tình huống là hạt nhân của cấu trúc thể loại
truyện ngắn. Nó là nhân tố tổ chức của thiên truyện”. Ngh a là nó chi phối các
thành tố khác nhƣ: cốt truyện, lời trần thuật, ngôn ngữ, nhân vật,…Tức là tình
huống có ý ngh a quyết định đến sự sống còn của một truyện ngắn. Nhà văn
tạo đƣợc một tình huống truyện đặc sắc là cơ sở khá vững chắc cho thành
cơng của tác phẩm văn học.
Có thể nói, Y Ban và Đỗ Hồng Diệu đã phát huy đƣợc những ƣu thế
của thể loại truyện ngắn (nhƣ tình huống truyện, những chi tiết cô đúc, dung
lƣợng nhỏ, lối hành văn mang nhiều ẩn ý tạo chiều sâu chƣa nói hết…) để thể
15
hiện vấn đề nữ quyền với tất cả sự bề bộn, phức tạp, những xung đột gay gắt,
dữ dội và cả những phần khuất lấp khó cắt ngh a ngọn ngành. Hơn nữa, ƣu
điểm của truyện ngắn là phản ánh những vấn đề thời sự nóng hổi, nhức nhối,
mang hơi thở cuộc sống. Vì vậy, khi vấn đề nữ quyền đƣợc thể hiện trong
truyện ngắn, nó có khả năng len lỏi vào các ngõ ngách của đời sống, phản ánh
kịp thời những vấn đề nóng bỏng, đƣợc đặt ra cấp thiết từng ngày từng giờ.
Đặc biệt, khám phá hiện thực ở tính cụ thể, sinh động, nhân văn, truyện ngắn
có khả năng truyền tải những thông điệp về nữ quyền: tự do tình dục, khao
khát tình u, hạnh phúc…Do có dung lƣợng nhỏ nên khi đọc truyện ngắn
không mất nhiều thời gian, dễ lôi cuốn đƣợc số đông bạn đọc, vì thế mà nó có
tính truyền bá khá cao.
1.2. Vấn đề nữ quyền và một số khái niệm liên quan
“Nữ quyền” đƣợc hiểu là “quyền bình đẳng của phụ nữ”. Ở cấp độ
rộng, khái niệm “nữ quyền” là quyền của nữ giới trong thế tƣơng quan với
nam giới để “nam nữ bình quyền”. Ở cấp độ hẹp, “nữ quyền” gần với các khái
niệm nhƣ “giới tính”, “phái tính”. Nếu nhƣ “giới tính”, “phái tính” là “cơng
cụ để phân biệt đặc tính giữa hai phái nam/nữ thì khái niệm nữ quyền cịn
hƣớng tới là sự bình đẳng giữa nam và nữ, đồng thời tạo ra hệ quy chuẩn
riêng của nữ giới” [41].
Theo Nguyễn Văn V nh: Nữ quyền “chính là sự lên tiếng của phụ nữ về
các vấn đề của mình”, “phụ nữ nói về phụ nữ”. Thời phong kiến, do ảnh
hƣởng của tƣ tƣởng Nho giáo “trọng nam khinh nữ”, “kì thị giới tính” khiến
cho ngƣời ngƣời phụ nữ phải chịu nhiều bất cơng. Chính vì vậy, “nữ
quyền” trƣớc hết là nói về quyền lợi của ngƣời phụ nữ. Nếu hiểu nhƣ thế,
khái niệm “nữ quyền” trong tiếng Việt cùng ngh a với cụm từ women’s
right trong tiếng Anh.
16
Tuy nhiên, theo thời gian, khi vấn đề bình đẳng giới đƣợc quan tâm
hơn trƣớc, “nữ quyền” không chỉ hiểu là “quyền lợi của ngƣời phụ nữ” nữa,
khái niệm này đã đƣợc hiểu rộng hơn. “Nữ quyền” là một khuynh hƣớng, một
“chủ ngh a lấy ngƣời phụ nữ làm trung tâm” của sự phản ánh, nhìn nhận,
đánh giá về ngƣời phụ nữ bằng thái độ trân trọng, đề cao. Điều này trái ngƣợc
với “chủ ngh a nam quyền” – coi ngƣời đàn ông là trung tâm. Cách hiểu nhƣ
vậy là khá phù hợp khi mà những vấn đề xoay quanh ngƣời phụ nữ hiện nay
đã trở nên vô cùng phong phú, phức tạp.
Trong phạm vi luận văn, chúng tôi s dụng khái niệm “sắc thái nữ
quyền” bởi lẽ bản thân Y Ban và Đỗ Hồng Diệu khơng chủ trƣơng sáng tác
theo chủ ngh a nữ quyền. Trong các sáng tác của họ nổi bật lên nhãn quan
phán xét. Nhãn quan này giúp họ bộc lộ đƣợc nội lực cũng nhƣ sự tự tin của
chính mình. Nó khiến cho họ đạt một vị thế ngang bằng với những nhà văn
khác giới. Trong các tác phẩm của mình, họ đã động chạm tới những vấn đề
mang tính nữ quyền nhƣ bình đẳng giới, xem xét lại vai trò của nam giới, ý
thức về “bản ngã” của nữ giới…Ẩn sau đó là những xung đột văn hóa cũ và
mới cịn nổi cộm trong giai đoạn đất nƣớc đổi mới và hội nhập.
1.3. Nữ quyền trong văn học
1.3.1. Văn học nữ quyền thế giới
“Văn học là tiếng nói của tâm hồn”. Văn học khơng chỉ là phƣơng tiện để
bày tỏ tâm tƣ, tình cảm mà còn là con đƣờng hữu hiệu để đấu tranh cho lẽ
phải, cho sự cơng bằng, trong đó có đấu tranh về bình đẳng giới.
Văn học nữ quyền trên thế giới chủ yếu tập trung ở hai bình diện: sáng
tác văn chƣơng và phê bình văn học. Văn học nữ quyền thƣờng gắn với
những quyền sống cơ bản, thiết thân của ngƣời phụ nữ, đi sâu vào thế giới
phức tạp của họ. Coi đó là đối tƣợng trung tâm của sự phản ánh, sáng tạo.
17
Căn cứ vào quá trình hình thành và phát triển, ta có thể hình dung diện
mạo của dịng văn học nữ quyền thế giới theo tuyến thời gian.
Giai đoạn “tiên phong và nữ quyền nguyên sơ” với “minh chứng về
quyền của phụ nữ” (1792) của Mary Wollstonecraft. Bà đƣợc đánh giá là “tổ
mẫu” của chủ ngh a nữ quyền. Bà là ngƣời đi đầu trong việc “phản đối thẩm
quyền xác lập nữ tính của các tác giả nam. Bà coi nhà văn nữ là ngƣời có lý
trí, đạo đức, nhân hậu, bản chất của giới tính đƣợc kiến tạo nhƣ một lợi thế và
không thể loại phụ nữ ra khỏi vị trí xã hội”. Tác phẩm Một căn phịng cho
riêng mình (1929) của tác giả Virginia Woolf đƣợc coi là “sách vỡ lịng” của
phê bình nữ quyền thế giới. Nhờ Virginia Woolf mà chúng ta có cái nhìn thấu
đáo hơn về văn chƣơng của phái mình.
Giai đoạn tiếp theo, nổi tiếng là tác giả Marie olympe de Gouge (ngƣời
Pháp) với Bản tuyên ngôn nhân quyền về giới nữ. Bà đã dũng cảm địi quyền
giải phóng cho ngƣời ngƣời da đen. Tác phẩm Deuxièmesexe (Giới nữ) của
tác giả Simone de Beauvoir đƣợc đánh giá là “bản tuyên ngôn nữ quyền”. Tác
phẩm đƣợc coi là một cơng trình nghiên cứu mới mẻ và táo bạo về phụ nữ
dựa trên tƣ tƣởng bình đẳng nam nữ. Cuốn sách đã góp phần thúc đẩy ý chí
vƣơn lên của phụ nữ để có địa vị ngang bằng với nam giới trong gia
đình cũng nhƣ ngồi xã hội.
Giai đoạn cuối thế kỷ XX. Đây là giai đoạn cao trào, giai đoạn chủ yếu
tạo nên những vấn đề chính của chủ ngh a nữ quyền. Tiêu biểu là tác giả
Doris Lessing với tác phẩm The Golden Notebook (Cuốn sổ tay vàng, 1962).
Cuốn sách đƣợc coi là “tuyên ngơn của chủ ngh a nữ quyền” mặc dù chính tác
giả cũng khơng hề có ý định để tác phẩm mang nội dung chính trị. Văn
chƣơng nữ quyền thế giới có nhiều cách tiếp cận khác nhau. Mary Eagleton
trong cuốn sách Lý thuyết văn học nữ quyền (1996) đã khảo sát mối quan hệ
18
giữa giới tính nữ và tác tạo văn chƣơng. Toril Moi trong cuốn Chính kiến văn
bản / giới tính (2002) đã chia ra làm hai trƣờng phái: phê bình văn học nữ
quyền Pháp và phê bình văn học nữ quyền Anh - Mỹ. Cuối thế kỷ XX, đầu
thế kỷ XXI, văn học nữ quyền phƣơng Tây cũng nhƣ phƣơng Đông đều có
những thành tựu đáng kể nhƣ: Tác giả ngƣời Pháp Marguerite Duras với tác
phẩm Người tình độc đáo và đầy mê hoặc; Trung Quốc với một số những cây
bút nữ trẻ mạnh mẽ và táo bạo nhƣ: C u Đan với tác phẩm Quạ đen, Vệ Tuệ
với tác phẩm Điên cuồng như Vệ Tuệ, hay Búp bê Thượng Hải v.v...
1.3.2. Vấn đề nữ quyền trong văn học Việt Nam đương đại
Từ văn học dân gian đến văn học đƣơng đại, vấn đề nữ quyền đã thẩm
thấu vào mạch ngầm văn học để tạo nên một “dòng chảy” xuyên suốt, vô tận.
Trong văn học dân gian, huyền thoại Con Rồng cháu Tiên đã đề cao vai
trò khai sinh ra dân tộc Việt của Quốc Mẫu Âu Cơ – ngƣời khởi nguồn cho sự
sinh tồn của dân cƣ đồng bằng và miền núi. Ca dao Việt Nam có khơng ít
những tác phẩm nói về vai trị quan trọng của ngƣời phụ nữ:
“Cái cị lặn lội bờ sơng
Gánh gạo ni chồng tiếng khóc nỉ non”.
Nhiều tác phẩm ngợi ca vẻ đẹp cả về thể chất lẫn tinh thần của ngƣời
phụ nữ:
“Thân em nhƣ chẽn lúa đòng đòng
Phất phơ dƣới ngọn nắng hồng ban mai”.
Hay:
“Chồng em áo rách em thƣơng
Chồng ngƣời áo gấm xông hƣơng mặc ngƣời".
19
Tuy nhiên, các tác giả văn học dân gian cũng nhận thức đƣợc rằng trong
xã hội ngƣời phụ nữ là đối tƣợng phải chịu đựng rất nhiều những bất công,
ngang trái do tƣ tƣởng “trọng nam khinh nữ” sinh ra: “Nhất nam viết hữu,
thập nữ viết vô”. Họ không đƣợc làm chủ bản thân, phải sống phụ thuộc:
“Thân em nhƣ tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai”
Không đƣợc tự do trong tình yêu: “Cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”. Từ
trong đau khổ, tủi cực khi bị chà đạp, vùi dập, ngƣời phụ nữ đã lên tiếng than
thân, trách phận:
“Thân em nhƣ trái bần trơi
Gió dập sóng dồi, biết tấp vào đâu?”
Những ngƣời phụ nữ không cam tâm, nhận phận đắng cay, tủi nhục đã đấu
tranh chống lại bất công, ngang trái để giành lấy quyền hạnh phúc cho mình:
“Trách cha, trách mẹ nhà chàng
Cầm cân chẳng biết là vàng hay thau
Thực vàng chẳng phải thau đâu/
Đừng đem th l a mà đau lịng vàng”.
Thơng qua hình thức trào lộng, tác giả dân gian cũng tìm cách “hạ bệ”
nam giới và nâng ngƣời phụ nữ lên vị trí bình đẳng giới:
“Ba đồng một mớ đàn ơng
Đem bỏ vào lồng cho kiến nó tha
Ba trăm một mụ đàn bà
Đem về mà trải chiếu hoa cho ngồi”
20
Sắc thái nữ quyền trong văn học dân gian chính là nền tảng cho văn học
viết kế thừa và phát huy.
Đến thời kỳ trung đại, do sự ảnh hƣởng khá sâu sắc của tƣ tƣởng Khổng
giáo đề cao nam giới và xem thƣờng nữ giới: “Đàn ông trên nhà. Đàn bà xó
bếp” khiến cho sự bất bình đẳng với nữ giới ngày càng tăng. Cuộc đời bi kịch
của ngƣời phụ nữ (từ quý tộc đến bình dân) đã trở thành đề tài trung tâm của
văn học:
“Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.”
Ý thức nữ quyền trong văn học nhƣ đƣợc thổi một luồng sinh khí mới
với sự góp mặt của hàng loạt những tác giả nữ tiêu biểu nhƣ: Đoàn Thị Điểm,
Hồ Xuân Hƣơng,...cùng với một số tác giả nam có quan điểm tiến bộ trong
việc nhìn nhận, đánh giá về phụ nữ nhƣ: Nguyễn Dữ, Đặng Trần Côn,
Nguyễn Gia Thiều, Nguyễn Du, Trần Tế Xƣơng…Các tác giả không chỉ tập
trung ca ngợi vẻ đẹp hình thể, tài năng, tâm hồn của ngƣời phụ nữ (Bánh trôi
nước của Hồ Xuân Hƣơng, Truyện Kiều của Nguyễn Du…) mà quan trọng
hơn, qua các sáng tác, các tác giả bày tỏ thái độ lên án những bất công trong
xã hội, bênh vực quyền sống, quyền hạnh phúc của ngƣời phụ nữ. Tiêu biểu
nhƣ Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn, Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ,
Cung oán ngâm của Nguyễn Gia Thiều, Truyện Kiều của Nguyễn Du…Đặc
biệt, trong tác giả nữ, Hồ Xuân Hƣơng đƣợc coi là ngƣời phụ nữ có ý thức s
dụng văn chƣơng làm vũ khí hữu hiệu để đấu tranh nữ cho quyền lợi của phụ
nữ một cách công khai, chủ động và quyết liệt hơn cả:
“Giá đây đổi phận làm trai đƣợc
Thì sự anh hùng há bấy nhiêu.”