UBND TỈNH PHÚ THỌ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÙNG VƯƠNG
HOÀNG VĂN CHƯỜNG
NGƯỜI TÌNH SPUTNIK CỦA HARUKI MURAKAMI
TỪ GĨC NHÌN BIỂU TƯỢNG NGHỆ THUẬT
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGƠN NGỮ, VĂN HỌC
VÀ VĂN HĨA VIỆT NAM
Chuyên ngành: Lí luận văn học
Mã số: 8220120
Phú Thọ, 2018
UBND TỈNH PHÚ THỌ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÙNG VƯƠNG
HOÀNG VĂN CHƯỜNG
NGƯỜI TÌNH SPUTNIK CỦA HARUKI MURAKAMI
TỪ GĨC NHÌN BIỂU TƯỢNG NGHỆ THUẬT
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGƠN NGỮ, VĂN HỌC
VÀ VĂN HĨA VIỆT NAM
Chuyên ngành: Lí luận văn học
Mã số: 8220120
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Đào Thị Thu Hằng
Phú Thọ, 2018
i
LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi; các số
liệu và kết quả nghiên cứu nêu trong luận văn là trung thực, đƣợc các đồng
tác giả cho phép sử dụng và chƣa từng đƣợc cơng bố trong bất kỳ một cơng
trình nào khác.
Phú Thọ, tháng 9 năm 2018
Tác giả luận văn
Hoàng Văn Chƣờng
ii
LỜI CẢM ƠN
Luận văn đƣợc hoàn thành dƣới sự hƣớng dẫn và góp ý của TS. Đào
Thị Thu Hằng. Em xin gửi lời biết ơn chân thành với sự hƣớng dẫn tận tình
của cơ giúp em hồn thành luận văn này.
Em xin trân trọng cảm ơn các thầy cô giáo trong Phòng Đào tạo, Khoa
Khoa học xã hội - Nhân văn - Trƣờng Đại học Hùng Vƣơng đã trực tiếp giảng
dạy, hƣớng dẫn các học viên lớp Thạc sĩ Lí luận văn học khóa 1, giúp chúng
em hồn thành chƣơng trình học tập và nghiên cứu.
Tơi cũng xin trân trọng cảm ơn Ban giám hiệu, đồng nghiệp tại
Trƣờng THCS Văn Lang, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ đã tạo điều kiện,
giúp đỡ tơi hồn thành chƣơng trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận
văn này.
Dù đã rất cố gắng, song luận văn cũng không tránh khỏi khỏi những hạn
chế và thiếu sót. Tác giả mong nhận đƣợc sự góp ý của thầy cơ và các bạn.
Phú Thọ, tháng 9 năm 2018
Tác giả luận văn
Hoàng Văn Chƣờng
iii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN .............................................................................................. i
LỜI CẢM ƠN ................................................................................................... ii
MỤC LỤC ........................................................................................................ iii
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................ 2
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu................................................................. 9
4. Phƣơng pháp nghiên cứu:.............................................................................. 9
5. Đóng góp của luận văn .................................................................................. 9
6. Cấu trúc luận văn ........................................................................................ 10
CHƢƠNG 1. BIỂU TƢỢNG NGHỆ THUẬT – LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
TÁC PHẨM CỦA MURAKAMI ................................................................... 11
1.1. Khái niệm biểu tƣợng ............................................................................... 11
1.2. Biểu tƣợng nghệ thuật .............................................................................. 15
1.3. Về biểu tƣợng trong Người tình Sputnik .................................................. 18
CHƢƠNG 2. HỆ THỐNG BIỂU TƢỢNG TRONG TIỂU THUYẾT NGƯỜI
TÌNH SPUTNIK – SỨC HẤP DẪN KÌ BÍ CỦA TÁC PHẨM ...................... 22
2.1. Vệ tinh Sputnik và sự mất tích – biểu tƣợng mang tính định hƣớng........... 22
2.2. Hệ thống biểu tƣợng về nhân vật ............................................................. 24
2.2.1. Biểu tƣợng Sumire đồng tính ................................................................ 25
2.2.2. Biểu tƣợng nhân vật “tôi” – thầy giáo .................................................. 36
2.2.3. Biểu tƣợng Miu - ngƣời phụ nữ kinh doanh rƣợu - và biểu tƣợng rƣợu ......48
2.2.4. Biểu tƣợng nhà văn ............................................................................... 52
2.3. Biểu tƣợng là sự vật, sự việc, hiện tƣợng ................................................ 53
2.3.1. Biểu tƣợng mối tình đơn phƣơng của Sumire với Miu ......................... 53
2.3.2. Biểu tƣợng tình bạn kì lạ giữa “tơi” và Sumire .................................... 54
iv
2.3.3. Biểu tƣợng sex....................................................................................... 56
2.3.4. Biểu tƣợng nƣớc .................................................................................... 59
2.3.5. Biểu tƣợng giếng cạn ............................................................................ 61
2.3.6. Biểu tƣợng hòn đảo ở Hi Lạp................................................................ 64
2.3.7. Biểu tƣợng hai tài liệu của Sumire để lại trong đĩa mềm ..................... 65
2.3.8. Biểu tƣợng ban nhạc bí ẩn trên hịn đảo ở Hi Lạp ................................ 68
CHƢƠNG 3. NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG BIỂU TƢỢNG TRONG NGƯỜI
TÌNH SPUTNIK – PHƢƠNG THỨC NHƢ LÀ TƢ TƢỞNG ....................... 71
3.1. Thực tại và huyền ảo đan xen .................................................................. 71
3.2. Tạo biểu tƣợng đa nghĩa và con ngƣời đa ngã ......................................... 75
3.3. Điểm nhìn trần thuật từ nhân vật “tơi” ..................................................... 81
3.4. Cốt truyện kép .......................................................................................... 83
3.5. Lối kể chuyện hóm hỉnh, hài hƣớc........................................................... 84
PHẦN III. KẾT LUẬN ................................................................................... 87
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 90
1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Một trong những con đƣờng để tiếp cận thế giới nghệ thuật tác phẩm
văn học là khám phá các biểu tƣợng nghệ thuật của tác phẩm. Có thể nói đây
là một trong những con đƣờng quan trọng nhất để đi vào tác phẩm. Mỗi tác
phẩm đều có hệ thống hình tƣợng, biểu tƣợng nghệ thuật tạo thành thế giới
nghệ thuật độc đáo của riêng mình. Việc khám phá thế giới biểu tƣợng nghệ
thuật của tác phẩm luôn là thao tác thú vị nhất để đi vào tìm hiểu những tƣ
tƣởng mà nhà văn muốn thể hiện.
Haruki Muarakami là một hiện tƣợng văn học thú vị của Nhật Bản, có
thể nói, ơng là nhà văn đại diện cho thời đại của nền văn học xứ sở “mặt trời
mọc”. Tên tuổi của ông cũng đã vƣợt qua biên giới của Nhật Bản và trở thành
quen thuộc với bạn đọc trên khắp thế giới. Nhắc đến Haruki Muarakami, bạn
đọc thƣờng nhớ đến một tiểu thuyết gia hiện đại mà tên tuổi đã gắn với những
kiệt tác đã làm “chấn động” văn đàn thế giới trong những năm qua: Rừng
NaUy, Biên niên kí chim vặn dây cót, Kafka bên bờ biển, Phía Nam biên giới,
phía Tây mặt trời; Người tình Sputnik… Nghệ thuật sử dụng biểu tượng là
một trong những điều làm nên sự bí ẩn, sức hấp dẫn trong tiểu thuyết của
Haruki Muarakami. Phƣơng tiện nghệ thuật hiệu quả này đã giúp nhà văn
chuyển tải thông điệp giàu giá trị đến độc giả. Khám phá hệ thống biểu tƣợng
văn hóa trong tiểu thuyết Haruki Muarakami là giải mã thế giới đa nghĩa, siêu
thực, giàu tính ẩn dụ của nhân loại, và góp phần hiểu thêm về nghệ thuật tiểu
thuyết bậc thầy của Haruki Murakami - tác gia đƣơng đại nổi tiếng Nhật Bản
và thế giới.
Con ngƣời tƣ duy bằng biểu tƣợng, truyền đạt thông điệp qua biểu
tƣợng. Biểu tƣợng là một loại siêu ngơn ngữ, có sức khái quát sâu rộng đời
sống xã hội và tinh thần con ngƣời. Ngày nay, biểu tƣợng đã trở thành
2
phƣơng tiện biểu đạt của hầu hết các ngành nghệ thuật, trong đó có văn học.
Biểu tƣợng trong đời sống văn hóa, văn học diễn tả những chân lý, những tƣ
tƣởng sâu xa của con ngƣời. Những biểu tƣợng này đã nhiều lần thay đổi, có
thể do một tiến trình cấu tạo có ý thức, và trở thành những hình ảnh tập thể
đƣợc các xã hội văn minh chấp nhận. Trải qua quá trình phát triển của tri thức
và tƣ duy con ngƣời, nhiều biểu tƣợng đã biểu đạt đƣợc những chân lí vĩnh
hằng mà cả lồi ngƣời chấp nhận. Cùng với đó là hệ thống biểu tƣợng phong
phú gắn với từng nề văn hóa của các dân tộc.
Khám phá thế giới biểu tƣợng chính là con đƣờng đi tìm những chân lí
bí ẩn, sâu thẳm, huyền ảo mà rất chân thực trong Người tình Sputnik của
Haruki Muarakami. Hơn nữa, thao tác tiếp nhận này sẽ là sự kế thừa hoàn hảo
thành quả tiếp nhận những kiệt tác khác về cả tiểu thuyết cũng nhƣ truyện
ngắn của ông. Đây là dịp để chúng ta có thêm những sự trau dồi lí thuyết và
đƣa lí thuyết về biểu tƣợng vào quá trình tiếp nhận các tác phẩm văn học Việt
Nam và thế giới đƣơng đại – những tác phẩm rất giàu biểu tƣợng.
Từ những lí do trên, tơi chọn đề tài cho luận văn là: “Người tình
Sputnik” của Haruki Murakami từ góc nhìn biểu tượng nghệ thuật.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
2.1. Tình hình nghiên cứu chung về sáng tác của Haruki Murakami
2.1.1. Tình hình nghiên cứu về Haruki Murakami ở nƣớc ngoài
Vấn đề nghiên cứu về Haruki Murakami và các sáng tác của ơng ở nƣớc
ngồi khá phong phú, đa dạng và sôi nổi. Hầu hết các nhà nghiên cứu đều
khẳng định những sáng tác của Haruki Murakami đã thể hiện tài năng kể
chuyện, nghệ thuật tự sự bậc thầy của ông.
Giáo sƣ Numano, giảng viên Văn học Đại học Tokyo, trong bài thuyết
trình Thế giới thơ và tiểu thuyết từ “Truyện Genji” đến Murakami Haruki đã
nêu lên năm lí do chính khiến tiểu thuyết Murakami đƣợc ƣa chuộng trên
3
khắp thế giới, trong đó, ơng đã nhấn mạnh đến hai yếu tố đó là văn phong trau
chuốt, điêu luyện; và cốt truyện cấu tứ khéo léo [51].
Bài viết Haruki Murakami tìm lối đi mới trong “Sau nửa đêm” của tác
giả Rattanavong Sanaphay, giới thiệu cuốn tiểu thuyết Sau nửa đêm cũng đề
cập đến lối viết “khó nắm bắt” của Murakami và cho rằng đó là lối viết
“khơng thuộc một thể loại nào”. Tác giả khẳng định: “Lối viết của ông đƣợc
đánh giá là trần trụi, táo bạo, sáng tạo, lãng mạn, hấp dẫn, hồi cổ; cịn nghệ
thuật kể chuyện của ông đƣợc xếp vào loại bậc thầy” [59].
Will Slocombe trong bài Haruki Murakami và đạo đức của sự thông
dịch lại chú ý đến cách sử dụng ngôi kể thứ nhất trong nghệ thuật kể chuyện
của Haruki Murakami. Ông cho rằng, sự sáng tạo trong cách sử dụng ngôi kể
thứ nhất của Haruki Murakami đã tạo nên nhiều sự khác biệt, sự cách tân so
với các tác giả khác, nó góp phần quan trọng vào việc xóa đi sự khác biệt
trong nghệ thuật tự sự phƣơng Đông và phƣơng Tây.
Trong bài viết Thế giới chuyện kể của Murakami, Welch Patricia lại
cống hiến cho độc giả một bài nghiên cứu sâu sắc và giá trị để có thể hiểu
thêm về “thế giới chuyện kể của Murakami” ở bình diện thế giới nhân vật mà
nhà văn đã kì cơng xây dựng. Theo Welch Patricia thì các nhân vật trong tiểu
thuyết Murakami thƣờng đƣợc đặt trong một thế giới phi ảo tƣởng, nó rèn nên
những bản nguyên của riêng mình: "Nhân vật của ơng là những ngƣời bình
thƣờng, nhƣng họ có thể làm những việc phi thƣờng nếu họ biết sống có ý
nghĩa, biết sử dụng tri thức với ý thức trách nhiệm, và luôn cẩn thận không
mù quáng nghe theo những tự sự đáng ngờ của kẻ khác” [56].
2.1.2. Tình hình nghiên cứu về Haruki Murakami ở Việt Nam
Cùng với sự lan tỏa rộng rãi trên thế giới, các tác phẩm của Haruki
Murakami đatrỏ nên quen thuộc đối với độc giả Việt Nam trong khoảng mƣời
năm trở lại đây. Các tác phẩm của ơng cũng có sự hấp dẫn đặc biệt với các
4
nhà nghiên cứu, giảng viên và sinh viên Ngữ văn nói riêng. Hiện nay, ở các
trƣờng đại học, xuất hiện nhiều những bài nghiên cứu, khóa luận tốt nghiệp,
luận văn thạc sĩ,… tìm hiểu về phong cách nghệ thuật của ông. Điều này
chứng tỏ “hiệu ứng” của văn chƣơng Murakami ngày càng sâu rộng. Ở những
cơng trình này, vấn đề nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết của Haruki
Murakami đƣợc đề cập đến nhƣ một phƣơng diện không thể thiếu trong thế
giới nghệ thuật của nhà văn.
Đã có nhiều diễn đàn về văn học Nhật Bản đƣợc tổ chức ở Việt Nam,
với sự tham dự của các nhà nghiên cứu, các chuyên gia văn học Nhật Bản
trong và ngoài nƣớc. Gây đƣợc sự chú ý và đạt hiệu quả nhất có lẽ là Hội thảo
về Murakami và Banana Yoshimoto đƣợc tổ chức tại Hà Nội, do Cơng ty văn
hóa truyền thơng Nhã Nam và Trung tâm giao lƣu văn hóa Việt – Nhật phối
hợp tổ chức, vào năm 2007. Nhiều vấn đề liên quan đến nghệ thuật tự sự tiểu
thuyết Haruki Murakami đƣợc luận bàn sơi nổi. Có thể thấy, những nghiên
cứu sâu về các sáng tác của Haruki Murakami, nhất là tiểu thuyết.
Nhà nghiên cứu Nhật Chiêu trong bài Thực tại trong ma ảo đã nhận
định khái quát về phong cách tiểu thuyết Haruki Murakami: “Tiểu thuyết của
Murakami Haruki, với tinh thần chơi đùa và tự do tƣởng tƣợng đƣợc kể bằng
một bút pháp sống động và đam mê nhƣ Nghìn lẻ một đêm của thời hiện đại.
Nghệ thuật của ông trở về với ngọn nguồn của tiểu thuyết, thời mà tiểu thuyết
cịn đầy tự do, khơng bó buộc phải sao chép hiện thực” [18, 4]. Nhật Chiêu đã
bƣớc đầu chú ý tới lối kể chuyện hấp dẫn, cuốn hút của Haruki Murakami, so
sánh nó với lối kể của Nghìn lẻ một đêm – kiệt tác của văn chƣơng nhân loại.
Theo Nhật Chiêu (2007), hai yếu tố độc đáo trong nghệ thuật tự sự của Haruki
Murakami đó là “cấu trúc mở” và “ngôn ngữ mới”. Cấu trúc tác phẩm mà
Murakami sử dụng trong hầu hết các sáng tác của ông rất mở. Ông cho rằng
Haruki Murakami luôn nỗ lực sáng tạo một ngôn ngữ mới cho văn chƣơng
5
Nhật. Các nhà văn Nhật thƣờng sử dụng ngô ngữ mờ ảo, tế nhị, đậm chất
phƣơng Đơng. Trong khi đó, Murakami đã tạo nên thứ ngôn ngữ văn chƣơng
mới gần gũi với lời ăn tiếng nói chân thật mà ngƣời dân Nhật Bản, sáng tỏ,
sống động, đầy hơi thở thời đại.
Tác giả Cao Việt Dũng, trong bài Bí ẩn như là thủ pháp của cách kể
chuyện phân tích về nghệ thuật tự sự của Haruki Murakami, tìm ra nét độc
đáo trong cách kể chuyện của Murakami. Theo tác giả, sự bí ẩn chính là điều
hấp dẫn và lơi cuốn trong tiểu thuyết Murakami, đó là “cái bí ẩn khơng đƣợc
giải thích”. Tác giả nhấn mạnh nhiều yếu tố bí ẩn tạo nên sự kì bí trong sáng
tác của Murakami, nhƣng cái chính là "dựa vào năng lực kể chuyện của
Murakami. Murakami, trƣớc hết, và xét đến cùng, là một ngƣời kể chuyện
giỏi” [23, 20]. Nhận định của Cao Việt Dũng đã góp phần khẳng định trong
nghệ thuật kể chuyển của Haruki Murakami cách kể, nghệ thuật kể chuyện
mới thực sự là yếu tố căn cốt tạo nên sức hấp dẫn cho tác phẩm. Đây cùng là
quan niệm về nghệ thuật kể chuyện hiện đại, khẳng định vai trò của tài năng
nghệ thuật trong việc sáng tạo không ngừng của các nhà văn viết truyện.
Tác giả Đào Thị Thu Hằng trong Truyền thống và hậu hiện đại trong
truyện ngắn Murakami Haruki (Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 12/2015)
đã có những nhận định gợi mở, rất gần với nghiên cứu của chúng tơi: “Ngồi
ẩn dụ, thì biểu tƣợng siêu hiện thực cũng xuất hiện trong hầu khắp các tác
phẩm của Murakami. Trong những tác phẩm của ông, ngƣời đọc sẽ nhận
thấy cả không gian và thời gian là một sự đan cài của thực tại và ảo giác.
Hình ảnh mang tính biểu tƣợng cao nhất trong tác phẩm của ơng chính là cái
giếng cạn” [28].
Trong bài nghiên cứu Cấu trúc tự sự trong Kafka bên bờ biển theo cách
nhìn phân tâm học (Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 9 năm 2010), tác giả Lê
Nguyên Cẩn đã vận dụng nhiều lí thuyết hiện đại để nghiên cứu cấu trúc tự sự
6
và kết cấu nhân vật trong tiểu thuyết Kafka bên bờ biển của Haruki
Murakami. Tác giả đã nhận định: “Kỹ thuật kể chuyện nổi bật lên hàng đầu
trong tác phẩm này chắc chắn chịu ảnh hƣởng nghệ thuật kể chuyện của điện
ảnh" [14]. Dƣờng nhƣ tác giả đã tạo nên đƣợc những cảnh quay sinh động
theo từng sự kiện của cốt truyện. Bên cạnh đó, bài viết cũng đề cập đến một
số phƣơng diện tự sự khác nhƣ: điểm nhìn trần thuật, ngôi kể trong tiểu thuyết
Murakami: “Cách thức kể chuyện trong tác phẩm này, do đó, cũng là sự kết
hợp giữa hai cách kể: cách kể từ bên trong, từ xuất phát điểm là thế giới nội
tâm, là dòng tâm tƣ của bản thân nhân vật; và kể từ bên ngoài, dựa trên bối
cảnh lịch sử, những sự kiện có thật đã xảy ra kết nối lại để tơn tạo cho chân
dung nhân vật đƣợc kể" [14]. Tóm lại, trong cách kể chuyện, Murakami ln
đan xen hai điểm nhìn trần thuật, hai ngơi kể thứ nhất số ít và ngơi thứ ba số
ít. Nó tạo nên sự đan cài các tuyến truyện phức tạp và hấp dẫn bạn đọc, giúp
bạn đọc có thể nhìn và khám phá nhân vật đa diện hơn.
Thời gian gần đây, trong xu thế mở cửa và hịa nhập vào nền văn hóa
chung của nhân loại thì văn học Nhật Bản mới đƣợc giới thiệu một cách rộng
rãi đến bạn đọc Việt Nam. Ngoài các cơng trình nghiên cứu có tính chất khái
qt về lịch sử văn học Nhật Bản qua bản dịch các tác phẩm từ cổ điển đến
hiện đại, sáng tác của các tác giả thuộc về vẻ đẹp truyền thống Nhật Bản nhƣ
Yasunari Kawabata, Ryunosuke Akutakawa, Yukio Mishima… thì mảng
nghiên cứu văn chƣơng đƣơng đại nhƣ Yoshimoto Banana, Murakami
Haruki, Ryu Murakami… vẫn còn khiêm tốn và chƣa tƣơng xứng với sự mến
mộ của độc giả đối với tác giả này. Tuy nhiên sáng tác của Murakami Haruki
ở các thể loại truyện ngắn, truyện dài, tiểu thuyết đều đƣợc giới nghiên cứu,
phê bình thế giới và Việt Nam đánh giá rất cao mặc dù văn chƣơng Murakami
hầu nhƣ không đƣợc giới hàn lâm của văn học Nhật Bản đánh giá cao. Ông là
hiện tƣợng khá đặc biệt khi không đƣợc khẳng định tại Nhật Bản nhƣng lại
7
đƣợc công nhận rộng rãi trên thế giới. Việc ông không đoạt đƣợc giải Nobel
văn học năm 2017 cũng để lại sự tiếc nuối lớn với độc giả thế giới nói chung
và Việt Nam nói riêng.
Tác phẩm của Haruki Murakami xuất bản đã nhận đƣợc sự đón nhận nồng
nhiệt của độc giả Việt Nam. Ông trở thành hiện tƣợng đƣợc bàn luận nhiều.
Một số bài viết khác nhƣ Murakami - hiện tượng cùng thời đại (OOI
Kouichi Ký giả, Ban văn nghệ báo Mainichi, nguồn Ochikochi, số 12 tháng 89/2006, đƣợc dịch và sử dụng trong hội thảo về Murakami do cơng ty Văn
hóa và Truyền thơng Nhã Nam và Đại sứ quán Nhật Bản tổ chức ngày
17/3/2007 tại Hà Nội), Murakami - một hiện tượng văn học tại Việt Nam
(Đào Thị Thu Hằng, Tạp chí Nghiên cứu Đơng Bắc Á, số 5/2009), Nhà văn
Murakami Haruki - Cuộc đời và sự nghiệp (Lƣu Thị Thu Thủy, Tạp chí
Nghiên cứu Đơng Bắc Á, số 6/ 2008), Cuộc tìm kiếm bản thể con người hiện
đại (Nguyễn Hồi Nam), Murakami Haruki và sự xóa nhòa ranh giới giữa
văn học thuần túy và văn học đại chúng Nhật Bản (Nguyễn Thị Bích Thủy Nguyễn Bích Nhã Trúc, Tạp chí nghiên cứu văn học, số 1/2013)… cũng góp
thêm những tiếng nói ý nghĩa giúp độc giả nhìn nhận thêm nhiều điều về cuộc
đời sự nghiệp, phong cách sáng tác của cây bút độc đáo này. TS. Đào Thị Thu
Hằng là ngƣời có nhiều nghiên cứu và các bài viết về sáng tác của Murakami
nói chung và tiểu thuyết của ơng nói riêng. Ngồi bài viết kể trên thì Cách kể
hỗn độn trong truyện ngắn Murakami Haruki (Tạp chí Khoa học Trƣờng Đại
học Sƣ phạm Hà Nội, số 10/2016) cũng là những gợi mở quan trọng với
chúng tôi.
Thể loại sở trƣờng là tiểu thuyết của Murakami đƣợc giới nghiên cứu,
phê bình tập trung tranh luận. Xung quanh kiệt tác Rừng Nauy đã có nhiều ý
kiến nhƣ Rừng Nauy - sex thuần túy hay nghệ thuật đích thực (Phan Quý
Bích, đăng trên báo Văn nghệ, 2006), Tản mạn Rừng Nauy và Haruki
8
Murakami (Phạm Xuân Nguyên, 2007). Sau đó là các bài viết về các tiểu
thuyết nổi tiếng xuất bản tiếp theo nhƣ Biên niên kí chim vặn dây cót, Kafka
bên bờ biển, Phía Nam biên giới, phía Tây mặt trời…
Sau các thiên tiểu thuyết tuyệt tác trên, năm 1999, tiểu thuyết Người
tình Sputnik của ơng ra đời. Ngay lập tức nó đã tạo nên một làn sóng đón
nhận nồng nhiệt, đƣợc bạn đọc trên thế giới yêu mến. Tác phẩm đƣợc dịch và
ấn hành tại Việt Nam năm 2008 và cũng đƣợc đơng đảo ngƣời u văn tìm
đọc. Tuy nhiên, việc nghiên cứu về tác phẩm chƣa có cơng trình nào cơng
phu, quy mơ. Hầu hết mới chỉ có một số bài viết về những góc cạnh nhỏ của
tác phẩm đƣợc đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành.
Tác giả Trần Tố Loan có bài Kiểu con người đa ngã trong tác phẩm
“Người tình Sputnik” của Murakami, đăng trên Tạp chí Văn học nước ngoài,
số tháng 3 năm 2010. Trong bài viết, tác giả đã đánh giá cao tài năng nghệ
thuật của Haruki Murakami thơng qua tiểu thuyết Người tình Sputnik. Đặc
biệt, tác giả đã chỉ ra một số nhân vật đƣợc xây dựng theo kiểu con ngƣời đa
ngã. Tác giả cho rằng thơng qua những hình tƣợng nhân vật theo kiểu con
ngƣời này, Haruki Murakami đã chạm đến những vấn đề căn cốt nhất của con
ngƣời nhƣ vấn đề đi tìm bản ngã thực sự của mỗi ngƣời. Trần Tố Loan nhấn
mạnh tác dụng của việc xây dựng những hình tƣợng nhân vật đa ngã trong
Người tình Sputnik. Theo tác giả, thế giới vốn mang bản chất hỗn mang, bản
thân con ngƣời cũng mang trong mình nhiều bản thể đa ngã mà chúng ta chƣa
thể hiểu hết: Có thể nói "Ngƣời tình Sputnik đã diễn tả đƣợc tinh tế cảm thức
của thời đại con ngƣời không tin vào đại tự sự nữa và họ đi tìm những mảnh
vỡ của chính mình. Mỗi mảnh vỡ ấy chính là một phần trong cái tơi đa ngã
của họ” [34].
Với tình hình nghiên cứu về tác phẩm này cịn khá ít ỏi, ngƣời viết gặp
nhiều khó khăn trong q trình nghiên cứu sâu tác phẩm. Điều đó càng thơi
9
thúc bản thân tìm hiểu, khám phá để mong đóng góp đƣợc những cách tiếp
cận một tác phẩm có giá trị của Haruki Murakami.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Các biểu tƣợng nghệ thuật trong tác phẩm Người tình Sputnik của nhà
văn Murakami.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Tác phẩm tiểu thuyết Người tình Sputnik của nhà văn Murakami, bản
dịch của Ngân Xuyên, Nhà xuất bản Hội nhà văn ấn hành năm 2008, tái bản
năm 2016.
3.3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Tìm ra những hình tƣợng mang tính biểu tƣợng trong tác phẩm Người
tình Sputnik. Đi sâu khám phá giá trị thẩm mĩ, ý nghĩa của các biểu tƣợng
nghệ thuật trong tác phẩm này.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu:
- Phƣơng pháp phân tích văn bản văn học.
- Vận dụng phƣơng pháp cấu trúc – hệ thống, phƣơng pháp thi pháp
học kết hợp với phƣơng pháp so sánh văn học – đối chiếu với cảm quan hậu
hiện đại trong thể loại tiểu thuyết, với các nhà truyện ngắn hậu hiện đại nổi
tiếng khác trên thế giới để làm nổi bật những đặc trƣng trong các biểu tƣợng
của tác phẩm.
5. Đóng góp của luận văn
Q trình phát hiện, hệ thống, phân tích, đánh giá các biểu tƣợng nghệ
thuật trong tác phẩm Người tình Sputnik của nhà văn Murakami sẽ đem đến
những kết luận quan trọng về khám phá tác phẩm qua thế giới biểu tƣợng
nghệ thuật, đặc biệt là tiểu thuyết và truyện ngắn. Với cái nhìn mang tính
10
phân tích, so sánh cùng sự cố gắng đi sâu vào phân tích những biểu hiện đặc
trƣng của chủ nghĩa hậu hiện đại trong tác phẩm Murakami Haruki, luận văn
sẽ mang đến một cái nhìn tổng hợp, tồn diện và đa chiều hơn về thế giới
nghệ thuật mang đậm dấu ấn hậu hiện đại trong tiểu thuyết của Murakami.
Luận văn sẽ đóng góp phần nào vào q trình vận dụng các phƣơng pháp
nghiên cứu tác phẩm theo hƣớng biểu tƣợng. Bên cạnh đó, giúp ích cho q
trình giảng dạy tại trƣờng phổ thơng khi khai thác các tác phẩm có tính biểu
tƣợng sâu sắc, rèn luyện kĩ năng đọc hiểu văn bản văn học ở cấp độ cao cho
học sinh.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài các phần mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục tài liệu tham
khảo, phần nội dung chính của luận văn gồm có 3 chƣơng nhƣ sau:
Chƣơng 1: Biểu tƣợng nghệ thuật – lí luận và thực tiễn tác phẩm của
Murakami.
Chƣơng 2: Hệ thống biểu tƣợng trong tiểu thuyết Người tình Sputnik –
sức hấp dẫn kì bí của tác phẩm
Chƣơng 3: Nghệ thuật xây dựng biểu tƣợng trong Người tình Sputnik –
phƣơng thức nhƣ là tƣ tƣởng
11
CHƢƠNG 1. BIỂU TƢỢNG NGHỆ THUẬT – LÍ LUẬN
VÀ THỰC TIỄN TÁC PHẨM CỦA MURAKAMI
1.1. Khái niệm biểu tƣợng
Từ thuở con ngƣời sống cuộc sống hồng hoang cho đến xã hội văn
minh, biểu tƣợng đã trở thành một phƣơng tiện lƣu giữ những thành tựu tƣ
duy và biểu đạt suy nghĩ cua con ngƣời. Đã từ rất lâu con ngƣời tƣ duy bằng
biểu tƣợng và sử dụng biểu tƣợng để lƣu giữ và truyền đạt những suy nghĩ
của mình. Biểu tƣợng là một chiếc cầu nối kết giữa văn hóa dân tộc với văn
minh nhân loại, giữa nhà văn và ngƣời đọc, nói là chúng ta sống trong một thế
giới biểu tƣợng thì vẫn chƣa đủ, mà dƣờng nhƣ có một thế giới biểu tƣợng
đang sống trong chúng ta, mang theo tƣ tƣởng của chúng ta. Thế giới biểu
tƣợng của con ngƣời đã xóa đi khoảng cách về địa lí, ngơn ngữ, văn hóa giữa
các dân tộc với nhau để tƣ tƣởng con ngƣời gặp gỡ nhau.
Biểu tƣợng hiểu đơn giản là những hình ảnh sự vật chứa đựng nhiều
tầng lớp ý nghĩa, giàu sức nặng biểu trƣng trong đời sống văn hóa con ngƣời.
Ví dụ đơn giản, chúng ta có thể nói sƣ tử cá là biểu tƣợng của Singapo, lá
phong là biểu tƣợng của Canada, núi Phú Sĩ là biểu tƣợng của ngƣời Nhật
Bản,... Từ lâu, biểu tƣợng từ lâu đã tồn tại và trở thành một phần không thể
thiếu trong đời sống của con ngƣời, nhỏ bé và đơn giản từ những hiện tƣợng
thiên nhiên, cho đến màu sắc, các con số, hay lớn lao kì vĩ nhƣ những biểu
tƣợng đại điện cho một sức mạnh, một dân tộc. Và điều đặc biệt là cũng
những hình ảnh ấy, có thể với khơng gian thời gian này nó biểu tƣợng cho lớp
nghĩa này nhƣng với không gian thời gian khác nó biểu tƣợng cho lớp nghĩa
khác, thậm chí nhiều lớp nghĩa khác nhau. Chính điều này làm nên sự đa tầng,
đa nghĩa và cuốn hút của biểu tƣợng, khiến biểu tƣợng trở thành đối tƣợng
nghiên cứu của nhiều chuyên ngành trong lĩnh vực khoa học nghệ thuật. Biểu
tƣợng hiển hiện khắp nơi quanh ta, có biểu tƣợng trở nên thân thuộc, có biểu
12
tƣợng kì vĩ xa xơi cần phải khám phá, và sự khám phá ấy nhiều khi cần đến
hành trình của cả cuộc đời. Vậy nên, “Nói là chúng ta sống trong một thế giới
biểu tƣợng thì vẫn cịn chƣa đủ, phải nói một thế giới biểu tƣợng sống trong
chúng ta” [15;8].
Trong văn hóa nói chung và văn học nói riêng, các biểu tƣợng ít nhiều
ảnh hƣởng bởi hệ quy chiếu dân tộc vùng miền và quan điểm cá nhân của mỗi
nhà văn. Quá trình tạo dựng tác phẩm của nhà văn cũng là quá trình họ xây
dựng các biểu tƣợng và cũng nhƣ vậy, đồng hành cùng với họ, độc giả cũng
tham chiếu vào quá trình khám phá và giải mã các biểu tƣợng khi tiếp nhận
tác phẩm văn học. Với vấn đề biểu tƣợng này quá trình giải mã đồng sáng tạo
của độc giả hứa hẹn nhiều bất ngờ thú vị.
Bản thân các nhà nghiên cứu cũng có rất nhiều nhận định, góc nhìn,
hƣớng tiếp cận khác nhau về vấn đề biểu tƣợng. Các tác giả của Từ điển biểu
tượng văn hóa thế giới (1997) đã so sánh và phân biệt biểu tƣợng với những
khái niệm gần với nó nhƣ: biểu hiện, vật hiệu, phúng dụ, ẩn dụ, loại suy, triệu
chứng, dụ ngôn, ngụ ngôn luân lý. Nếu nhƣ những lối diễn đạt bằng hình ảnh
đó đều có điểm chung là những “dấu hiệu và không vƣợt quá mức độ của sự
biểu nghĩa” [15;19], “là một quy ƣớc tùy tiện trong đó cái biểu đạt và cái
đƣợc biểu đạt vẫn xa lạ với nhau” [15;19], thì biểu tƣợng “có sự đồng chất
giữa cái biểu đạt và các đƣợc biểu đạt theo nghĩa một lực năng động tổ chức”
[15;19]. Đồng thời các nhà nghiên cứu cũng phân biệt giữa biểu tƣợng với
biểu tƣợng toán học và biểu tƣợng của đức tin. Biểu tƣợng tốn học “chỉ là
những kí hiệu mà dung tải các quy ƣớc đã đƣợc Viện Tiêu chuẩn hóa xác định
chặt chẽ” [15;19]. Biểu tƣợng phong phú hơn một dấu hiệu, ký hiệu đơn
thuần: “Nó đầy gợi cảm và năng động. Nó khơng chỉ vừa biểu hiện, theo một
cách nào đó, vừa che đậy; nó cịn vừa thiết lập, cũng theo một cách nào đó,
vừa tháo dỡ. Nó tác động lên cấu trúc tinh thần. Vì vậy, nó đƣợc so sánh với
13
những dạng thức gây xúc cảm, có tính chức năng, có tính động lực, để chỉ rõ
rằng, nó huy động, có thể nói, tồn bộ tâm trí con ngƣời… Biểu tƣợng giả
định một sự đứt gãy bình diện, một sự gián đoạn, một sự chuyển đổi sang một
loại hình khác; nó đƣa ta vào một loại hình mới đa chiều. Phức hợp, không
xác định, nhƣng đƣợc dẫn dắt theo một hƣớng nào đó, các biểu tƣợng cịn
đƣợc gọi là các tổng chủ đề hay các hình ảnh có tính hệ tiên đề” [15;19].
Trong cơng trình này, Jean Chevalier và Alam Ghoerbrant cũng cũng
chỉ ra bản chất của các biểu tƣợng là khó xác định và rất sống động. Khởi
nguyên biểu tƣợng (symbol) là một vật đƣợc cắt làm đôi, mảnh sứ, gỗ hay
kim loại. Đó là dấu hiệu để nhận nhau của những ngƣời thân, những ngƣời
bạn, cha mẹ nhận ra con cái… “Mọi biểu tƣợng đều chứa đựng những dấu
hiệu bị đập vỡ; ý nghĩa của biểu tƣợng bộc lộ ra trong cái vừa là gãy vỡ vừa là
nối kết những phần của nó đã bị vỡ ra” [15;23]. “Biểu tƣợng định hình thành
một vế rõ ràng có thể nắm bắt đƣợc, gắn liền với vế khác, không nắm bắt
đƣợc” [15;24]. Biểu tƣợng luôn bao hàm hai mặt tƣởng nhƣ đối lập mà lại bổ
sung cho nhau. Cho nên “Việc tiếp nhận biểu tƣợng loại trừ thái độ đứng
nhìn, mà địi hỏi thái độ nhập cuộc” [15;26].
Biểu tƣợng có thể đa nghĩa, hoặc phái sinh nghĩa mới ở những khơng
gian thời gian khác nhau nhƣng nhìn chung, “dƣới vẻ đa dạng về hình thức và
các cách giải thích của nó, biểu tƣợng vẫn chứa một trong những đặc điểm là
tính ổn định trong sự ám thị về một mối quan hệ giữa cái biểu trƣng và cái
đƣợc biểu trƣng” [15;27]. Bên cạnh đó, biểu tƣợng cịn có khả năng liên
thơng: “Khơng có một vách kín nào ngăn cách chúng cả: ln có một liên hệ
khả dĩ từ cái này sang cái kia” [15;28; linh hoạt: “Chúng biểu đạt các mối
quan hệ đất – trời, không gian – thời gian, nội tại– siêu tại, cũng nhƣ một cái
chén miệng ngửa lên trời hay úp xuống đất. Đấy là tính lƣỡng cực thứ nhất.
Còn một lƣỡng cực khác nữa: là tổng hợp của những đối kháng, biểu tƣợng có
một bộ mặt ban ngày và một bộ mặt ban đêm” [15;28]. Mang tính chất linh
14
hoạt, liên thông, đa nghĩa nên tiếp cận biểu tƣợng từ góc độ nào thì sẽ cho ra
hình ảnh biểu tƣợng từ góc độ ấy.
Cũng trong cơng trình này, Jean Chevalier và Alam Ghoerbrant đã chỉ
ra 9 chức năng của biểu tƣợng, gồm: chức năng thăm dò, chức năng của vật
thay thế, chức năng trung gian, chức năng thống nhất, chức năng giáo dục và
trị liệu, chức năng xã hội hóa, chức năng cộng hƣởng, chức năng siêu nghiệm
và chức năng biến đổi năng lƣợng tâm thần.
Cuốn Từ điển thuật ngữ văn học do các tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình
Sử, Nguyễn Khắc Phi chủ biên, khi đề cập đến các khái niệm, thuật ngữ liên
quan đến văn học và nghiên cứu văn học đƣa ra quan niệm về biểu tƣợng:
“Trong nghĩa rộng, biểu tƣợng là đặc trƣng phản ánh cuộc sống bằng hình
tƣợng của văn học nghệ thuật. Theo nghĩa hẹp, biểu tƣợng là một phƣơng
thức chuyển nghĩa của lời nói hay một loại hình tƣợng nghệ thuật đặc biệt có
khả năng truyền cảm lớn, vừa khái quát đƣợc bản chất của một hiện tƣợng
nào đấy, vừa thể hiện một quan niệm, một tƣ tƣởng hay một triết lí sâu xa về
cuộc đời và con ngƣời. Nhƣ vậy, theo nghĩa rộng biểu tƣợng gắn với phƣơng
thức phản ánh thực tại cuộc sống của văn học nghệ thuật, còn theo nghĩa hẹp
nó là một phƣơng thức chuyển nghĩa để phân biệt với ẩn dụ và hoán dụ. Đồng
thời biểu tƣợng “là hiện tƣợng lịch sử, chịu sự chi phối của ngơn ngữ, tâm lí,
quan niệm của dân tộc và thời đại” [24].
Trong tác phẩm văn học, đa số các biểu tƣợng đều hiển hiện và biểu
hiện cho một cho một ý tƣởng, hình ảnh mà tác giả muốn gửi gắm, vậy nên
đọc văn bản qua biểu tƣợng chính là con đƣờng ngắn nhất để nắm bắt tâm
tƣởng tác phẩm. Và hơn cả nhƣ thế, biểu tƣợng, dƣới góc độ văn hóa, cịn là
tiềm thức ơng cha – mà khơng thông qua tác phẩm – nhiều khi chúng ta bị bỏ
lỡ mà không hề hay biết.
Xem xét biểu tƣợng nhƣ một phần của văn hóa con ngƣời sẽ thấy nó
15
đóng vai trị quan trọng nhƣ thế nào với đời sống tinh thần của họ. Đơi khi
những gì biểu tƣợng cho cái xấu, cái ác cũng khơng hồn tồn vơ nghĩa. Nó
nhƣ một nhắc nhớ con ngƣời hãy biết tránh xa những gì là đen tối để vƣơn tới
những biểu tƣợng cao đẹp đóng vai trị kim chỉ nam trong đời sống. Từ đó, có
thể thấy, biểu tƣợng thƣờng mang trong mình tƣ tƣởng tính và triết học tính.
Bởi biểu tƣợng đƣợc xem nhƣ là: “sự tái hiện hình ảnh về sự vật khách quan
vốn đã đƣợc phản ánh bởi cảm giác và tri giác, nó là hình thức phản ánh cao
nhất và phức tạp nhất của giai đoạn nhận thức cảm tính, đồng thời nó cũng là
bƣớc q độ từ giai đoạn nhận thức cảm tính lên giai đoạn nhận thức lý tính”
[59;121]. Có thể thấy, nhƣ vậy, biểu tƣợng đƣợc hình thành, hun đúc khơng
phải từ thuở hồng hoang mông muội mà từ buổi con ngƣời đã tƣ duy lí trí một
cách mạch lạc và có chủ đích, và tƣ tƣởng tính đƣợc đúc rút qua kinh nghiệm
ngày thƣờng.
Trong biểu tƣợng bao giờ cũng có một cái gì cổ sơ. Mỗi nền văn hóa
cần một bộ cánh văn bản để thực hiện chức năng cổ sơ đó. Nói nhƣ Jung thì
những biểu tƣợng sâu xa nhất trong tiềm thức nhân loại đƣợc gọi là cổ mẫu.
Theo Jung, các cổ mẫu giống nhƣ những nguyên mẫu của các tập hợp biểu
tƣợng ăn sâu vào vô thức đến nỗi chúng trở thành những kí tích. Cổ mẫu biểu
hiện ra nhƣ những cấu trúc tâm thần gần nhƣ phổ biến, bẩm sinh hay đƣợc
thừa kế, một thứ ý thức tập thể, chúng thể hiện qua các biểu tƣợng đặc biệt.
Tham khảo các cơng trình nghiên cứu về biểu tƣợng, bƣớc đầu tƣ duy
độc lập về biểu tƣợng, chúng tôi nhận thức, từ biểu tƣợng đến biểu tƣợng
nghệ thuật cũng là một quá trình nhận thức, vì vậy, để tiếp cận tác phẩm văn
học thì tìm hiểu về biểu tƣợng nghệ thuật là một hƣớng đi đúng đắn.
1.2. Biểu tƣợng nghệ thuật
Văn học là tấm gƣơng phản chiếu cuộc sống, phản chiếu thực tại khách
quan, nhƣng đó khơng phải là một sự sao chép đơn thuần. Thực tại khách
16
quan đƣợc tái hiện trong tác phẩm mang hình bóng của thế giới chứ khơng
hồn tồn là thế giới thật. Hay nói khác đi, đó là thực tại qua hƣ cấu của nhà
văn. Thế giới thực tại hƣ cấu đó đƣợc tạo nên bởi nhiều yếu tố nghệ thuật,
trong đó có biểu tƣợng nghệ thuật.
Biểu tƣợng là những hình ảnh sự vật cụ thể cảm tính bao hàm trong nó
nhiều ý nghĩa gây đƣợc ấn tƣợng sâu sắc đối với ngƣời đọc. Biểu tƣợng nghệ
thuật đƣợc coi là kí hiệu thẩm mĩ đa nghĩa bao gồm cái biểu đạt và cái đƣợc
biểu đạt. Nó chính là sự mã hố cảm xúc ý tƣởng của nhà văn. Biểu tƣợng trở
thành phƣơng tiện diễn đạt cơ đọng hàm súc có sức khai mở rất lớn trong sự
tiếp nhận của độc giả. Tìm hiểu biểu tƣợng nghệ thuật sẽ góp phần hiểu rõ
hơn bản chất của việc xây dựng hình tƣợng trong văn học đồng thời giúp cho
việc sử dụng thuật ngữ này đƣợc chính xác hơn.
Những tác phẩm sử dụng nhiều biểu tƣợng thể hiện sự chối từ cách viết
trực tiếp giãi bày tâm tƣ tình cảm (nhất là đối với thơ ca). Những tác phẩm
viết theo lối viết biểu tƣợng không hề dễ đọc chút nào. Biểu tƣợng mang bản
chất kí hiệu nhƣng nó khác với kí hiệu thơng thƣờng. Kí hiệu thơng thƣờng có
thể dùng một từ thích hợp hơn để gọi: tín hiệu. P. Guiraud cho rằng: Một tín
hiệu là một kích thích mà tác động của nó đến cơ thể gợi ra hình ảnh ký ức
của một kích thích khác. Dựa trên định nghĩa đó đƣa ra sự phân tích khá thú
vị: một sự vật muốn trở thành tín hiệu phải đƣợc cảm nhận bởi các giác quan
nó phải gợi ra phải đại diện cho một cái gì đó khác với chính nó phải có một ý
nghĩa phải đƣợc một chủ thể lí giải nó phải nằm trong một hệ thống tín hiệu
nhất định. Khrapchenco đồng ý với quan niệm của S. Pirv cho rằng kí hiệu
thay thế cho một cái gìđó cho khách thể của nó. Đồng thời bổ sung thêm quan
niệm cho rằng kí hiệu khơng chỉ thay thế các sự vật thực tại mà cả các quá
trình và cả các quan niệm tƣ tƣởng của con ngƣời. Thế nhƣng về cơ bản biểu
17
tƣợng nói chung và biểu tƣợng nghệ thuật nói riêng khác với những kí hiệu
tín hiệu thơng thƣờng.
Theo Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới biểu hiện vật hiệu phúng dụ
ngụ ngơn ln lí đều khơng phải là biểu tƣợng, chúng chỉ là những dấu hiệu
và không vƣợt quá mức độ của sự biểu nghĩa. Ngay cả các biểu tƣợng đại số
học toán học khoa học và một số những cơng thức giáo lí... cũng chỉ là những
kí hiệu. Vậy biểu tƣợng khác kí hiệu thơng thƣờng là biểu tƣợng rộng lớn hơn
cái ý nghĩa đƣợc gán cho nó một cách nhân tạo, hiệu lực của nó vƣợt ra ngồi
ý nghĩa. Nó đầy gợi cảm và năng động nó khơng chỉ vừa biểu hiện theo một
cách nào đó vừa tháo dỡ ra cái đƣợc biểu đạt dồi dào hơn cái biểu đạt. Một sự
vật, hiện tƣợng, con ngƣời … đƣợc gọi là biểu tƣợng khi nó tích đọng bên
trong những ý nghĩa sâu sắc đƣợc nhiều ngƣời thừa nhận, nhiều khi mang tính
phổ quát cả một cộng đồng dân tộc hay nhân loại. Biểu tƣợng luôn magn một
số ý nghĩa cố định nào đó, nhƣng đồng thời lại tiềm ẩn khả năng mở ra những
ý nghĩa khác trong sự cảm nhận, khám phá của bạn đọc.
Có thể nói biểu tƣợng là những hình ảnh sự vật cảm tính chứa đầy ý
nghĩa và nó càng trở nên sinh động hơn trong đời sống văn hoá trong cảm
nhận của con ngƣời. Trong tiến trình văn hóa và lịch sử lồi ngƣời, biểu
tƣợng văn hóa ln có xu hƣớng biến đổi, phát triển về ý nghĩa. Tuy nhiên
qua thời gian, nó sẽ đọng kết lại những ý nghĩa chủ đạo, cố định, nhiều khi
khó có thể thay đổi đƣợc ở các thời đại sau. Trong khi đó, biểu tƣợng nghệ
thuật ln ln có xu hƣớng tái sinh, phát triển, bổ sung về mặt ý nghĩa không
trong sáng tác. Các nhà văn sẽ dựa trên những ý nghĩa cố định để phát triển,
mở rộng nội hàm ý nghĩa của biểu tƣợng. Hơn thế nữa, do đặc trƣng của tiếp
nhận văn học là luôn sáng tạo, đa dạng, nen, biểu tƣợng còn biến đổi và phát
triển ý nghĩa rất phong phú cả trong tiếp nhận. Cái biểu đạt có thể vẫn giữ
nguyên nhƣng ý nghĩa của nó đó đƣợc bổ sung. Biểu tƣợng lƣu giữ trong nó
18
những ý nghĩa cổ xƣa và mang thêm những nét mới. Biểu tƣợng nghệ thuật
tịn tại trong chính thế giới của nó – thế giới tác phẩm nghệ thuật – chứ không
chỉ tồn tại trong thế giới thực tại của thời đại. Chính vì thế mà đơi khi có thể
biểu tƣợng trở nên khó hiểu. Tuy nhiên, chính vì biểu tƣợng nghệ thuật gắn
với thế giới nghệ thuật của tác phẩm, cho nên việc khám phá nó là khơng q
khó khăn. Mỗi biểu tƣợng đều có những mẫu số chung là những ý nghĩa
khách quan, cố định đã đƣợc cộng đồng thừa nhận. Đó là điều khơng thể phủ
nhận, và ln phải đƣợc cắt nghĩa, lí giải khi khám phá tác phẩm. Tuy nhiên,
cần thiết phải khám phá những ý nghĩa mới mẻ đƣợc đƣa vào biểu tƣợng để
hiểu hết giá trị tác phẩm và tƣ tƣởng của tác giả.
1.3. Về biểu tƣợng trong Người tình Sputnik
Hệ thống biểu tƣợng trong tiểu thuyết của Murakami rất đa dạng, mang
đậm cá tính sáng tạo của nhà văn. Lối tƣ duy bằng biểu tƣợng đã góp phần
khẳng định sự nối kết của ông với truyền thống văn hóa, văn học Nhật Bản,
đồng thời, thể hiện sự am hiểu sâu sắc văn hóa nhân loại, cảm quan hiện thực
bén nhạy của nhà văn trong việc nắm bắt tinh thần thế giới hiện đại. Hệ thống
biểu tƣợng của Murakami đa dạng và phức tạp, nó trải dài trên các bình diện
khơng gian, thời gian, nhân vật đến cấu trúc, kết cấu. Murakami khai thác
huyền thoại của nhân loại rất hiệu quả qua việc vận dụng biểu tƣợng cổ mẫu
để phản ánh thực tại phức diện của con ngƣời hiện đại. Bởi theo ông, những
điển tích và các giai thoại văn học là nguyên mẫu cho mọi nhà văn, chúng là
kho chất liệu để sáng tạo. Nhà văn cịn khẳng định huyền thoại ln ảnh
hƣởng đến ông, mang lại cho ông nguồn cảm hứng mãnh liệt khi sáng tác.
Ông cho rằng những yếu tố huyền bí và sức mạnh trong truyện có thể tiếp sức
và cuốn hút bạn. Từ thuở xa xƣa khi con ngƣời sống cuộc sống dã man, bầy
đàn thì chúng ta đã biết kể chuyện, biết tƣởng tƣợng ra những điều hợp lí để
giải thích thế giới xung quanh.
19
Tác giả Đào Thị Thu Hằng cho rằng, thế giới biểu tƣợng trong sáng tác
của Murakami, “dù là vật hay con vật thì vẫn ln gắn liền với hình ảnh con
ngƣời hậu hiện đại với nhiều đổ vỡ nghiêm trọng trong đời sống tinh thần. Nó
là biểu trƣng cho những mất mát, những vấn đề ai cũng có thể một lần trong
đời phải đối mặt. Hãy tự tìm cách xoay xở để vƣợt lên chính mình, đó chính
là thơng điệp mà tác giả gửi gắm qua các biểu tƣợng” [28].
Hệ thống biểu tƣợng trong Người tình Sputnik của Murakami đƣợc xây
dựng trong mối quan hệ chặt chẽ, có tính chỉnh thể nghệ thuật cao. Mỗi biểu
tƣợng dù là nhỏ nhất đều gắn liền với tính cách, số phận của các nhân vật
đƣợc nhắc tới, đặc biệt là các nhân vật chính nhƣ Sumire hay Miu. Người tình
Sputnik của Murakami đã khai thác một trong những đề tài ít đƣợc đề cập đến,
là đề tài nhạy cảm, cũng là khó thể hiện: đồng tính nữ. Trong cách nhìn của
nền văn hóa phƣơng Đơng, đồng tính, nhất là đơng tính nữ là vấn đề nhạy
cảm, khó nói. Ở đâu đó vẫn cịn nhiều định kiến khắt khe về hiện tƣợng này.
Ngay cả với ngƣời trong cuộc, những ngƣời mà tạo hóa đã buộc họ bị quyến
rũ bởi ngƣời đồng giới, họ cũng không thể thể hiện ra tất cả những suy nghĩ
của mình về khát vọng tình yêu, đam mê xác thịt với ngƣời đồng giới.
Murakami đã đi sâu vào khám phá thế giới nội tâm sâu thẳm của những con
ngƣời tột cùng cơ đơn trong cõi ngƣời bởi những tình cảm, nỗi niềm thầm kín
nhất. Ơng đã thể hiện đƣợc những giằng xé khủng khiếp trong nội tâm con
ngƣời giữa sự đơn cơi đáng sợ. Ơng cũng thể hiện đƣợc những đam mê, khát
khao cháy bỏng, mà suy cho cùng đó là khát vọng sống rất ngƣời của họ. Lấy
đề tài đồng tính nữ để khám phá và thể hiện những góc kì diệu nhất, cũng là
đau khổ nhất của tình yêu mà loài ngƣời vẫn trải qua, suy cho cùng, nhà văn
đã tìm đƣợc một đề tài và một cách thể hiện thực sự độc đáo và hấp dẫn để
khái quát về đời sống nội tâm, những khát vọng, những cơ đơn, bế tắc, tuyệt
vọng của kiếp ngƣời nói chung. Những dòng mở đầu câu chuyện đã gieo vào