Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

Ngôn ngữ sinh thái trong truyện ngắn của nguyễn minh châu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.34 MB, 78 trang )

UBND TỈNH PHÚ THỌ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÙNG VƯƠNG
----------

NGUYỄN THỊ BÍCH NGÂN

NGÔN NGỮ SINH THÁI TRONG
TRUYỆN NGẮN NGUYỄN MINH CHÂU
Chuyên ngành: Sư phạm Ngữ văn

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Ngành: Sư phạm Ngữ văn

PHÚ THỌ – 2019


i

LỜI CẢM ƠN
Với lịng kính trọng và biết ơn, em xin chân thành gửi đến Thầy Cô của
trường, của Khoa KHXH và VHDL, đặc biệt các Thầy Cô của Bộ mơn Ngữ
văn – Những người đã tận tình chỉ bảo, giúp đỡ em trong suốt thời gian học
tập và thực hiện khóa luận này.
Với lịng kính trọng và biết ơn, em xin gửi đến Cô – Th.s Quách Phan
Phương Nhân, người đã trực tiếp hướng dẫn, khích lệ em trong suốt quá trình
từ khi lựa chọn đề tài, tìm tài liệu, xây dựng các ý tưởng cho đến khi hoàn
thành khóa luận.
Em xin kính chúc Thầy Cơ dồi dào sức khỏe để truyền đạt kiến thức
cho thế hệ mai sau; chúc nhà trường ngày càng phát triển, khẳng định được vị
thế của mình trong khu vực.
Trong q trình hồn thiện khóa luận này, mặc dù đã có rất nhiều cố


gắng song vẫn khơng tránh khỏi những thiếu sót, kính mong Thầy Cơ quan
tâm đóng góp ý kiến để khóa luận được hồn thiện hơn.
Em xin trân trọng cảm ơn!
Việt Trì, tháng 5 năm 2019
Sinh viên thực hiện

Nguyễn Thị Bích Ngân

i


ii

MỤC LỤC

LỜI CẢM ƠN .................................................................................................... i
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của vấn đề nghiên cứu ........................................................... 1
2. Tổng quan về tình hình nghiên cứu .............................................................. 2
3. Nhiệm vụ khóa luận ...................................................................................... 6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 6
5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................... 6
6. Ý nghĩa của khóa luận ................................................................................... 7
7. Cấu trúc của khóa luận .................................................................................. 7
Chương 1 ........................................................................................................... 8
LÝ THUYẾT VỀ PHÊ BÌNH SINH THÁI VÀ TÁC GIẢ NGUYỄN MINH
CHÂU................................................................................................................ 8
1.1. Lí thuyết về phê bình sinh thái ................................................................... 8
1.1.1. Khát quát về sinh thái ............................................................................. 8
1.1.2. Phê bình sinh thái.................................................................................. 13

1.2. Văn học sinh thái ...................................................................................... 13
1.2.1. Khái niệm .............................................................................................. 13
1.2.2. Khuynh hướng văn xuôi sinh thái Việt Nam sau năm 1975 ................. 15
1.3. Ngôn ngữ sinh thái ................................................................................... 22
1.3.1. Quan niệm về ngôn ngữ sinh thái ......................................................... 22
1.3.2. Các biểu hiện của ngôn ngữ sinh thái................................................... 24
1.4. Về tác giả Nguyễn Minh Châu và truyện ngắn của ông .......................... 24
1.4.1. Cuộc đời và con người .......................................................................... 24
1.4.2. Sự nghiệp sáng tác ................................................................................ 26
1.4.3. Vị trí và những đóng góp của Nguyễn Minh Châu trong nền văn học
đương đại ........................................................................................................ 27

ii


iii

Chương 2 ......................................................................................................... 32
BIỂU HIỆN/ CÁC PHƯƠNG DIỆN CỦA NGÔN NGỮ SINH THÁI
TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN MINH CHÂU ................................... 32
2.1. Ngôn ngữ sinh thái tự nhiên, hoang dã .................................................... 32
2.1.1. Ngôn ngữ trần thuật .............................................................................. 32
2.1.2. Ngôn ngữ tả ........................................................................................... 37
2.2. Ngơn ngữ sinh thái đơ thị ......................................................................... 43
2.2.1.Nhân hóa ................................................................................................ 43
2.2.2. Nghệ thuật tự sự .................................................................................... 46
Chương 3 ......................................................................................................... 59
GIÁ TRỊ NỘI DUNG THỂ HIỆN QUA NGÔNNGỮ SINH THÁI TRONG
NGUYỆN NGẮN NGUYỄN MINH CHÂU ................................................. 59
3.1. Thiên nhiên là nền tảng làm nổi bật con người........................................ 59

3.2. Thể hiện sự gắn bó giữa thiên nhiên với con người................................. 61
3.2.1. Thiên nhiên giúp con người sống phong phú và phóng khống ........... 61
3.2.2. Đơ thị là khơng gian ngột ngạt, tù túng ................................................ 63
3.3. Con người phi nhân .................................................................................. 65
3.4. Cảm thức sợ hãi ........................................................................................ 67
3.5. Những người nghèo khổ .......................................................................... 68
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 71
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 73

iii


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của vấn đề nghiên cứu
Trong xã hội hiện đại, cùng với tốc độ phát triển của đơ thị hóa thì vấn
đề mơi trường đang được xã hội quan tâm rất lớn. Thế kỉ XXI mà nhiều nhà
nghiên cứu cho rằng, con người phải đối mặt với nhiều nguy cơ sinh thái.
Con người đang ngày càng khai thác thiên nhiên quá mức, khiến cho thiên
nhiên ngày càng cạn kiệt. Vì thế, thiên nhiên đáp trả con người không chỉ
bằng các thảm họa, thiên tai, biến đổi khí hậu ….., mà đáng sợ hơn như
Nguyễn Ngọc Tư cảnh báo “Con người hủy hoại thiên nhiên bằng cách hạ
nhục nó. Thiên nhiên trả thù bằng cách nó biến mất”. Với sự tàn phá của con
người như vậy thì thiên nhiên đã cất lên tiếng nói của mình qua văn chương
và phê bình sinh thái đã phát triển nhanh chóng và trở thành chuyên ngành
nổi bật của nghiên cứu văn học ngày nay. Đối tượng, phương pháp cũng như
trọng tâm nghiên cứu phê bình sinh thái khơng bất di bất dịch mà ngày càng
mở rộng và phức tạp. Là “tất cả những hình thức truyền thơng biểu hiện, từ
các văn bản in đến sự trình diễn thị giác, âm nhạc, điện ảnh cũng như các tài

liệu pháp lý và các báo cáo của các tổ chức phi chính phủ”. Điều này cho thấy
phê bình sinh thái đã nhanh chóng phát triển thành một lĩnh vực đa dạng, liên
ngành, một hướng nghiên cứu mới không bị ràng buộc vào bất kỳ một
phương pháp đơn lẻ nào hay một giáo điều, một cam kết theo quan điểm môi
trường luận nào. Theo khuynh hướng phê bình sinh thái, với tư cách là một
nhân tố quan trọng để truyền tải các nội dung, ngôn ngữ sinh thái là một vấn
đề mới cần được quan tâm và tìm hiểu thỏa đáng.
Tuy nhiên, trên thực tế, ngôn ngữ sinh thái là một vấn đề mới chưa
được nhiều nhà nghiên cứu chú ý khai thác, mặc dù ngay từ văn học trung đại
đến văn học Việt Nam hiện đại, các biểu hiện cho vấn đề này ngày càng trở
nên rõ nét hơn. Đó là những sáng tác của hàng loạt các tác giả như Nguyễn
Huy Thiệp, Trần Duy Phiên, Nguyễn Ngọc Tư, Nguyễn Thị Thu Huệ … Với
1


2

tác giả Nguyễn Minh Châu, những đặc sắc về nội dung, nghệ thuật trong
truyện ngắn của ông đã được đề cập trong rất nhiều các cơng trình nghiên
cứu, song khảo sát và nghiên cứu về ngôn ngữ sinh thái trong truyện ngắn của
ơng thì chưa nhiều. Vì thế, mặc dù bản thân cịn nhiều hạn chế, tơi vẫn mạnh
dạn lựa chọn tìm hiểu về truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu ở một góc nhìn
mới. Lựa chọn đề tài Ngơn ngữ sinh thái trong truyện ngắn của Nguyễn Minh
Châu làm đề tài nghiên cứu, em mong muốn được đóng góp một cơng sức của
mình để làm phong phú hơn trong lĩnh vực nghiên cứu về phê bình sinh thái.
2. Tổng quan về tình hình nghiên cứu
2.1. Nghiên cứu về sinh thái - sinh thái học
Sinh thái (oikos) theo nghĩa gốc tiếng Latinh là nhà ở, nơi cư trú, bất kì
một sinh vật sơng nào cũng cần nơi cư trú của mình. Thuật ngữ sinh thái học (
Ecology) có nguồn gốc từ chữ Hy Lạp, bao gồm oikos (chỉ nơi sinh sống) và

logos (học thuyết, khoa học), là một ngành khoa học trẻ [19;20].Thuở xưa,
Aristote và các triết gia Hy Lạp cổ đã có những dẫn liệu bao hàm ý nghĩa sinh
thái, nhưng lúc đó, sinh thái học chưa phải là một ngành khoa học độc lập vì
chưa có đối tượng riêng, nhiệm vụ riêng và phương pháp nghiên cứu riêng.
Mãi đến năm 1866, thuật ngữ“sinh thái học”(ecology) mới được bác sĩ, nhà
sinh vật học, nhà giải phẫu học so sánh người Đức Ernst Haecket (18341919) đề xuất trong cơng trình Hình thái học sinh vật đại cương(Generelle
Morphologie der Orgaismen). Trong chươngSinh thái học và phân bố
học(Oecologie und Chorologie), ông định nghĩa sinh thái học là sự nghiên
cứu điều kiện hữu cơ và điều kiện vô cơ mà các sinh mệnh sống dựa vào đó.
Nghĩa là nó được hiểu như là “mơn học về tương quan giữa thế giới bên ngoài
và các sinh vật”. Nhưng vào nửa sau thế kỉ XX, danh từ này được hiểu là việc
bảo vệ thiên nhiên, môi trường trong tiến trình phát triển kinh tế. Theo từ điển
tiếng Anh của Oxford, đến năm 1873 từ“sinh thái học” mới đi vào ngôn ngữ
Anh. Thơ ca lãng mạn Anh cũng thường biểu đạt ý nghĩa tầng sâu của trái đất
và “nơi ở”(okios, dwelling place).
2


3

Và trong cuốn Hài kịch của sự sinh tồn: những nghiên cứu trong sinh
thái học văn học(The Comedy of Survival: Studies in Literary Ecology, 1972)
Joseph Meeker giới thiệu thuật ngữ: sinh thái học văn học(literary ecology)
ám chỉ “sự nghiên cứu chủ đề sinh thái và những mối liên hệ xuất hiện trong
tác phẩm văn học”. Đồng thời, nó cũng là một sự thử nghiệm để khám phá ra
vai trò của nó là gì với văn học trong sinh thái học của lồi người. Thuật ngữ
ecocriticism có lẽ xuất hiên lần đầu tiên vào năm 1987 bởi Wiliam Rueckert
trong một khảo luận tên là “Văn học và sinh thái học: Một thử nghiệm mới
trong phê bình sinh thái. Phê bình sinh thái theo Ruecket có nghĩa là “việc
ứng dụng sinh thái học và theo đó các thuật ngữ sinh thái học vào nghiên cứu

văn học”[12, 245]. Định nghĩa của Rueckert có liên quan đặc biệt với khoa
học sinh thái học và theo đó đã giới hạn thành một thuật ngữ, có thể bao gồm
tất cả mối quan hệ giữa văn học và thế giới tự nhiên.
Đến những năm 1900, sinh thái học trở thành mơn khoa học độc lập.
Từ đó, thuật ngữ Oecologie hoặc Ecology trở nên quen thuộc với mọi người.
2.2. Giới thiệu lí thuyết Phê bình sinh thái
Về lí thuyết Phê bình sinh thái, đã có một số cơng trình nghiên cứu từ
các bài viết nhỏ (báo, tạp chí) đến những tiểu luận, sách giới thiệu, nghiên cứu
lí luận phê bình… Những tài liệu này đã chuyển ngữ sang tiếng Việt, mặc dù
với số lượng ít nhưng đã cung cấp những cách tiếp cận và hướng của Phê bình
sinh thái.
Trước hết, cần phải kể đến Ecoriticism – bài giảng của Karen Thornber
tại Viện Văn học, nhân chuyến trao đổi học thuật giữa Viện Havard Yenching
với các nhà nghiên cứu Việt Nam. Đây có thể coi là một trong những tài liệu
đầu tiên có ý nghĩa dẫn nhập về phê bình sinh thái được dịch sang tiếng Việt
với một hướng nghiên cứu văn học theo một định hướng mới: lí thuyết phê
bình sinh thái. Bài viết khởi đầu bằng một tổng quan ngắn về bản chất, ý
nghĩa và tiến trình của nghiên cứu mơi trường; cho thấy tính cấp thiết cũng

3


4

như khái quát một cách cơ bản nhất sự hình thành và phát triển của phê bình
sinh thái [2;3].
Phê bình sinh thái – cội nguồn và sự phát triển (2012) được Đỗ Văn
Hiểu dịch và tổng hợp trong hai cuốn Phê bình sinh thái Âu Mĩ (NXB Học
Lâm, 2008) và Phê bình sinh thái: Phát triển nguồn gốc [3;2] in trong Tuyển
tập văn luận văn học sinh thái Trung Quốc và Thế giới (NXB Đại học Công

thương Triết Giang, 2010). Cũng là một tài liệu có ý nghĩa mang đến hình
dung khái quát về tư tưởng nền tảng, các khái niệm chìa khóa cũng như
những khuynh hướng chính lí thuyết phê bình sinh thái.
Về văn học Việt Nam, trước hết có thể nói đến một trong những thực
hành đọc đầu tiên về hiện tượng văn học cụ thể trong thơ đương đại từ định
hướng lí thuyết phê bình sinh thái: Khí quyển thơ – sinh thái của Mai Văn
Phấn: Thơ, bầu trời và những linh hồn (2012) của Nhã Thuyên. Bài viết Tập
trung vào mối quan hệ đa chiều và không dễ nắm bắt giữa thơ ca, bầu trời
(không gian sinh thái) và những linh hồn (sự sống ẩn tang trong vạn vật).Xuất
phát từ những gợi dẫn của Karen Thornber, tác giả đã đề xuất việc tiếp cận
thơ của Mai Văn Phấn từ góc độ phê bình sinh thái có ý nghĩa như “một cách
tra vấn mối quan hệ giữa thơ ca và tự nhiên tưởng như yên ổn”.Đến Thơ Việt
Nam hiện đại Tiến trình và hiện tượng (2014), nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng
Thiệp đã dành một tiểu luận riêng về Thơ mới nhìn từ lí thuyết Phê bình sinh
thái: Thơ mới từ góc nhìn sinh thái học văn hóa.
Những nghiên cứu văn học nước ngồi từ điểm nhìn phê bình sinh thái
cũng có ý nghĩa trong việc đối sánh và nâng cao ý thức sinh thái trong văn
học cũng như phê bình văn học cũng như phê bình văn học Việt Nam. Những
cơng trình đầu tiên lưu tâm đến vấn đề này là báo cáo Tơtem sói của Khương
Nhung Nhìn từ lý thuyết phê bình sinh thái của Nguyễn Thị Tịnh Thy; khóa
luân Thiên nhiên sinh thái trong Con tàu trắng của TS.Aimatôp (2014) của
Khiếu Thị Hải, Hổ Trung Quốc của Lý Khắc Uy nhìn từ lí thuyết Phê bình
sinh thái (2014) của Hồng Thị Lành[3;8]…
4


5

Như vậy, mỗi cơng trình nghiên cứu đều có phát hiện, khám phá bước
đầu về phê bình sinh thái. Đây chính là nguồn tư liệu phong phú, có tính chất

gợi mở, định hướng về phê bình sinh thái nói chung và cho ngơn ngữ sinh thái
nói riêng.
2.3. Nghiên cứu về ngôn ngữ trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu
Về phương diện ngơn ngữ truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu thì có
một số cơng trình nghiên cứu như Ngơn ngữ người kể chuyện và ngôn ngữ
nhân vật trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu của
Cao Xuân Hải hay LATS của Đỗ Thị Liên Trường Đại học Khoa học Xã hội
và Nhân văn Ngôn ngữ kể chuyện trong truyện ngắn Nguyễn Khải và Nguyễn
Minh Châu. Các cơng trình này, đa phần đề cập đến vấn đề sử dụng ngôn ngữ
trong các truyện ngắn của ông và đi vào liệt kê các cách sử dụng ngôn ngữ. Sau
1975, với sự chuyển biến về tư tưởng và bút pháp truyện ngắn Nguyễn Minh
Châu có sự đổi mới về cách tiếp cận đời sống và con người thời đại.
Ngoài ra, một số nhà nghiên cứu văn học cũng đã đưa ra một số nhận
định liên quan đến ngôn ngữ nghệ thuật trong truyện ngắn của Nguyễn Minh
Châu như Trọng Hoàn trong Truyện ngắn của Bức tranh – sự đối diện và thức
tỉnh lương tâm đã có cái nhìn khái qt về ngơn ngữ trần thuật, cách thức trần
thuật, giọng điệu trần thuật trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu khi nói
rằng “Ở Nguyễn Minh Châu còn phải kể đến sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa
ngôn ngữ đa thanh và thời gian, không gian và đồng hiện. Khi lùi vào độc
thoại nội tâm, khi chuyển sang đối thoại trực tiếp, lúc cắt ngang bình luận
ngoại đề, sự đan xem linh hoạt đó khiến cho ngơn ngữ tác phẩm có giọng điệu
phức tạp, tạo nên hiệu quả cá biệt hóa hình tượng nhân vật từ bình diện đến
điểm nhìn trần thuật”.
Trong bài viết Giọng điệu và ngôn ngữ nghệ thuật của Nguyễn Minh
Châu, tác giả Tơn Phương Lan đã có những phân tích, nhận xét rất xác đáng
về giọng điệu, ngôn ngữ Nguyễn Minh Châu. Trong khi nói về ngơn ngữ
Nguyễn Minh Châu sau chiến tranh, tác giả đã tìm hiểu khả năng của ngôn
5



6

ngữ Nguyễn Minh Châu khi miêu tả thiên nhiên, tâm trạng con người. Khi đề
cập đến ngôn ngữ,Tôn Phương Lan nhận xét và chỉ ra chủ thể kể chuyện
(người kể chuyện – nhân chứng trong Mùa trái cóc ở miền Nam, người kể
chuyện trong Cỏ lau) và nêu ra được vai trò của chủ thể kể chuyện với việc
thể hiện giọng điệu, ngôn ngữ cũng như nội dung tác phẩm [8].
Trên đây là những cơng trình nghiên cứu và những ý kiến tiêu biểu của
một số nhà nghiên cứu về ngôn ngữ trong các sáng tác của Nguyễn Minh
Châu. Nhưng xem xét một cách tồn diện thì chưa có cơng trình nghiên cứu
nào tìm hiểu về ngơn ngữ sinh thái trong các truyện ngắn của Nguyễn Minh
Châu.Những nghiên cứu của người đi trước về ngôn ngữ trong truyện ngắn
Nguyễn Minh Châu sẽ là những gợi ý vô cùng quý báu và có ý nghĩa cho tơi
trong q trình triển khai đề tài.
3. Nhiệm vụ khóa luận
- Xác định cơ sở lý thuyết về ngôn ngữ sinh thái.
- Khảo sát và phân tích ngơn ngữ sinh thái để thấy được giá trị nội dung của
các truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Minh Châu.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Khóa luận nghiên cứu xác định đối tượng là ngôn
ngữ sinh thái.
- Phạm vi nghiên cứu: Khảo sát các truyện ngắn trong Tuyển tập Nguyễn
Minh Châu, NXB Văn học, 2012.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thống kê, phân loại: Thống kê, phân loại các ngôn ngữ sinh
thái trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu.
- Phương pháp liên ngành: sử dụng các kiến thức liên ngành có liên quan như
lí luận văn học, triết học, nhân học…… để hình thành cơ sở lí thuyết, giải
quyết nội số nội dung, đặc biệt là lí giải những vấn đề liên quan đến ngôn ngữ
sinh thái.


6


7

- Phương pháp phân tích:vận dụng để chỉ ra các phương thức thể hiện ngôn
ngữ sinh thái.
- Phương pháp trực giác: giúp nhận thức nghệ thuật bằng trực giác để thấy
được “thế giới tự nhiên”, thấy được bản chất của hiện thực môi trường sinh
thái đang ô nhiễm nghiêm trọng.
6. Ý nghĩa của khóa luận
- Khóa luận góp phần nghiên cứu về ngôn ngữ sinh thái trong các truyện ngắn
của Nguyễn Minh Châu.
- Khóa luận góp phần nêu ra và phân tích được ngơn ngữ sinh thái trong
truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu.
- Khóa luận góp phần giúp người đọcnhận thức ra mối quan hệ giữa thiên
nhiên và con người.
7. Cấu trúc của khóa luận
Chương 1: Cơ sở lý thuyết
Chương 2: Ngôn ngữ sinh thái trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu.
Chương 3: Giá trị nội dung thể hiện qua ngôn ngữ sinh thái trong truyện ngắn
Nguyễn Minh Châu.

7


8

Chương 1

LÝ THUYẾT VỀ PHÊ BÌNH SINH THÁI VÀ
TÁC GIẢ NGUYỄN MINH CHÂU
1.1. Lí thuyết về phê bình sinh thái
1.1.1. Khát quát về sinh thái

Từ nửa sau thế kỷ XX, theo đà phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ
thuật và kinh tế, môi trường ô nhiễm và sinh thái bị hủy hoại ngày càng
nghiêm trọng. Trong bối cảnh đầy căng thẳng của hiện thực mơi trường đó,
khái niệm sinh thái của lĩnh vực khoa học tự nhiên trở thành thuật ngữ được
chú ý hơn cả.
1.1.1.1.Quan niệm về sinh thái
Trước hết, từ ecological trong tiếng Anh (nghĩa tiếng Việt là sinh thái)
bắt nguồn từ okios(nơi ở) trong tiếng Hy Lạp. Ban đầu người ta hiểu “sinh
thái" từ góc độ sinh vật học. Ở lĩnh vực khoa học tự nhiên, sinh thái chỉ trạng
thái sinh tồn của tất cả sinh vật cho đến mối quan hệ mật thiết giữa chúng
hoặc giữa chúng và mơi trường.
Ngồi ra từ ecology trong tiếng Anh(nghĩa tiếng Việt là sinh thái học)
là sự kết hợp giữa hai danh từ có nguồn gốc Hy Lạp là oikos (nơi ở) và
logos(môn học/ nghiên cứu). Như vậy, về nghĩa đen, sinh thái học là môn học
nghiên cứu về các sinh vật ở “nhà”/ nơi ở của chúng, hay nói theo nghĩa rộng,
“sinh thái học là môn học về tất cả các quan hệ giữa sinh vật và môi trường và
các điều kiện cần thiết cho sự tồn tại của chúng”.Thuật ngữ này là nguồn gốc
tên gọi của bộ môn sinh thái học trong nhiều ngôn ngữ phương Tây.
Thứ hai, ban đầu sinh thái học được xem là phân khoa của sinh vật học.
Sinh thái chỉ giới hạn ở lĩnh vực khoa học tự nhiên, sinh thái học cũng vậy.
Nhưng đến cuối thế kỷ XIX- đầu thế kỉ XX, sinh thái học phát triển. Theo độ
nóng của vấn đề sinh thái toàn cầu, phạm vi của từ sinh thái càng được mở
8



9

rộng, ý nghĩa sinh thái của nó cũng ngày càng rộng hơn, đến mức nó bao hàm
tồn bộ khoa học sinh mệnh trên trái đất này. Đến đây, sinh thái học theo
nghĩa rộng là thái độ sống và hành động bảo vệ môi trường. Nếu như ở Anh
người ta thường sử dụng thuật ngữ“phê bình xanh”(green criticism) thì ở Mỹ
lại thích sử dụng thuật ngữ“phê bình sinh thái” (ecocritism). Nhiều thuật ngữ
khác cũng thường được sử dụng như “thi pháp sinh thái”, “phê bình văn học
mơi trường”, “nghiên cứu xanh”, “nghiên cứu (văn hóa) xanh”, “sáng tác tự
nhiên”, “sinh thái học lãng mạn”... Và hiện nay, sinh thái học đã xuyên thấm
đến các lĩnh vực khoa học tự nhiên và khoa học xã hội như: Luân lý học sinh
thái (Ecological ethics), Mỹ học sinh thái (Ecoaesthetic), Văn học sinh thái (
Ecoliterature), Xã hội học sinh thái (Ecosociology), Chủ nghĩa nhân văn sinh
thái (Ecological humanism),......
1.1.1.2. Quan điểm sinh thái
a, Ý thức sinh thái
Từ sinh thái và sinh thái học, các học giả đã triển khai thành một quan
niệm giá trị mới, phản ánh sự phát triển hài hòa giữa con người với tự nhiên.
Đó là ý thức sinh thái (Ecological consciousness). Ra đời vào nửa cuối thế kỷ
XX, ý thức sinh thái trở thành một tư tưởng tiến bộ trong tư tưởng của nhân
loại, là tiêu chí quan trọng của văn minh nhân loại trong xã hội hiện đại.
Hạt nhân tư tưởng của ý thức sinh thái là luân lý học sinh thái và triết
học sinh thái. Ý thức sinh thái là sự phản tư triết học về mối quan hệ giữa con
người với tự nhiên, là “sự nhận thức một cách tự giác của con người về tự
nhiên(các yếu tố của tự nhiên và quy luật hoạt động của chúng), về vị trí, vai
trị của con người trong mối quan hệ với tự nhiên và về trách nhiệm, nghĩa vụ
của con người trong việc điều khiển một cách có ý thức mối quan hệ đó
hướng đến mục tiêu phát triển bền vững của xã hội và sự đồng tiến hóa giữa
xã hội và tự nhiên”.
Trước thực trạng ngày một xấu đi của môi trường sinh thái, nhân loại

kêu gọi con người nâng cao ý thức sinh thái. Để bảo vệ tự nhiên, kêu gọi con
9


10

người và tự nhiên cùng chung sống hài hòa, đề xướng văn minh sinh thái,
những nhà khoa học nhân văn đã nghiên cứu khoa học nhân văn từ góc nhìn
sinh thái, trong đó bao gồm cả những người nghiên cứu văn học. Họ nhìn
nhận lại ý thức sinh thái trong tác phẩm văn học, nghiên cứu phương hướng
phát triển của việc sáng tác lẫn nghiên cứu văn học dẫn đến sự ra đời của văn
học sinh thái và phê bình sinh thái.
b, Triết học sinh thái
Triết học sinh thái (Ecological philosophy), là một phân nhánh mới của
triết học hiện đại. Đây là triết học về sự hài hòa và cân bằng sinh thái. Như
triết học môi trường, triết học sinh thái cũng là một trong những ngành khoa
học mới của triết học ứng dụng, ra đời trong bối cảnh môi trường sinh thái
lâm nguy do sự phát triển sai lầm của nhân loại.
“Sinh thái” trong triết học sinh thái theo nghĩa rộng là coi nhân loại với
tự nhiên là một, như là một phần khơng thể thiếu trong q trình tiến hóa của
vũ trụ này. Triết học sinh thái quan niệm rằng, mọi sự vật trong thế giới tự
nhiên không tồn tại độc lập mà đều có quan hệ móc xích với nhau, mơi trường
sống là do kết cấu hữu cơ giữa các sự vật tạo thành.Hệ thống hữu cơ khiến sự
vật nương tựa vào nhau, bao hàm lẫn nhau và cùng tồn tại. Con người cũng
vậy, họ là những yếu tố trong mạng lưới hữu cơ và có quan hệ phức tạp với
các chủng loài khác.
Khái niệm trung tâm của triết học sinh thái là “Thế giới là nơi trú ẩn”.
Quan điểm này thay cho quan điểm “Thế giới là một cỗ máy”.Thế giới mới
mẻ này nhấn mạnh tính chất độc đáo, quý giá và thiêng liêng của hành tinh
chúng ta. Về thế giới quan, các nhà triết học sinh thái lấy quan điểm tính

chỉnh thể sinh thái để quan sát sự vật và giải thích thế giới hiện thực. Về
phương pháp luận, họ sử dụng phương thức tư duy của sinh thái học. Về quan
niệm giá trị, họ cho rằng khơng chỉ con người có giá trị , mà mọi sinh mệnh
và giới tự nhiên cũng có giá trị, bao gồm giá trị bên ngoài và bên trong. Về
quan niệm tự nhiên, họ vừa phản đối quan điểm “phản tự nhiên”, vừa phản
10


11

đối quan điểm đề cao chủ nghĩa tự nhiên, tán thành quan điểm “con người và
tự nhiên phát triển hài hịa”. Triết học sinh thái nhấn mạnh tính ứng dụng thực
tiễn của lý luận, trở thành cơ sở triết học của phát triển bền vững, bởi vì nó là
một loại triết học mở.
c, Chủ nghĩa chỉnh thể sinh thái
Chủ nghĩa chỉnh thể sinh thái (Eco-holism) có nguồn gốc tư tưởng từ
phong trào môi trường đương đại, từ sự phản tư triết học của con người trước
nguy cơ sinh thái. Đây là một lực lượng quan trọng của phong trào môi
trường phương Tây, gồm có ba trường phái chính: ln lý học trái đất, sinh
thái học bề sâu và luân lý học giá trị luận tự nhiên.
Tư tưởng chủ nghĩa chỉnh thể sinh thái có ba nội dung chính: Mối liên
hệ chặt chẽ giữa các thành viên trong hệ thống sinh thái, tất cả đều có tác
dụng của mình trong hệ thống sinh thái, tất cả đều có tác dụng của mình trong
hệ thống sinh thái, khơng có “bữa trưa miễn phí” trong hệ thống sinh thái.
Chủ nghĩa chỉnh thể sinh thái không những phát triển phạm trù luân lý đạo
đức từ mối quan hệ của con người với tự nhiên mà còn nhấn mạnh rằng, sự
phát triển hài hòa của con người và tự nhiên là tiền đề và cơ sở để con người
có thế tiếp tục duy trì sự phát triển. Từ đó dẫn đến cuộc cách mạng triệt để đối
với quan điểm phát triển truyền thống.
Hơn nữa chỉnh thể sinh thái nỗ lực đi tìm mối quan hệ giữa con người

và tự nhiên cho đến việc nhân loại nên xem xét lại giá trị và định hướng hành
vi của mình như thế nào. Tiếp nhận gợi ý của sinh thái học hiện đại, chủ nghĩa
chỉnh thể sinh thái yêu cầu quan tâm đến toàn bộ hệ thống sinh thái từ phương
diện đạo đức, tạo nên một thế giới quan sinh thái, phương pháp luận sinh thái
và giá trị quan sinh thái hoàn toàn mới mẻ. Chủ nghĩa chỉnh thể sinh thái đưa
nhân loại thoát ra khỏi con đường tư duy cũ có từ hàng ngàn năm để nỗ lực
nhận thức hệ thống sinh thái, và từ nhận thức đó để xây dựng nên tiêu chí cơ
bản nhằm cân bằng tất cả những quan niệm, hành vi, phương thức sống và
khuôn mẫu phát triển của nhân loại, mang đến phương thức tư duy và cội
11


12

nguồn tư tưởng quan trọng để ngăn cản nhân loại tránh sai lầm, có thể dễ
dàng và xóa bỏ được các nguy cơ sinh thái.
d, Sinh thái học bề sâu
Sinh thái học bề sâu (Deep ecology) là khái niệm đối lập với sinh thái
học bề mặt (Shallow ecology) do nhà triết học nổi tiếng người Na Uy Arne
Naess đề xuất vào năm 1973.
Sinh thái học bề sâu lấy tư tưởng sinh thái học hiện đại làm cơ sở lý
luận, đồng thời hấp thu các tư tưởng của chủ nghĩa nhân văn, bao gồm tư
tưởng của Cơ đốc giáo, Phật giáo, Đạo gia, của các nhà triết học cận hiện đại
phương Tây như Baruch de Spinoza (1362- 1677), Martin Heiderger (1889 1976) và của chủ nghĩa tự nhiên, chủ nghĩa siêu nghiệm, chủ nghĩa bảo vệ
môi trường.Tôn chỉ của sinh thái học bề sâu là phê phán và phản ánh tư sự
phá hoại, bóc lột của con người đối với tự nhiên trong xã hội cơng nghiệp
hiện đại, tìm kiếm sự hòa đồng giữa con người với tự nhiên.
Hơn nữa, sinh thái học bề sâu là một loại chủ nghĩa môi trường cấp
tiến, sinh thái học bề sâu phản đối thế giới quan chủ nghĩa nhân loại trung
tâm, đặc biệt chú trọng đến tính chỉnh thể của con người và tự nhiên, chủ

trương sự bình đẳng, tính đa dạng, phi đẳng cấp, phi trung tâm hóa... của chủ
nghĩa sinh thái trung tâm. Và sinh thái học bề sâu là triết học của chủ nghĩa
chỉnh thể, có nguồn gốc từ triết học sinh thái, là một tầng bậc của triết học
sinh thái phát triển đến giai đoạn hiện đại, bao gồm tư tưởng của Barry
Commoner và những người khác.
Sự xuất hiện của sinh thái học bề sâu là một bước chuyển biến của
phong trào môi trường từ cải lương sang cấp tiến. Bắt nguồn từ vấn đề môi
trường, sinh thái bề sâu nhanh chóng hịa nhập với các tư tưởng khác và trở
thành lực lượng chính của phong trào mơi trường cấp tiến. Sinh thái học bề
sâu cho rằng nguy cơ sinh thái là nguy cơ sinh tồn và nguy cơ văn hóa của xã
hội hiện đại, mà nguồn gốc của nguy cơ sinh thái là ở cơ chế xã hội, ở hành vi
và quan niệm giá trị của con người. Vì vậy, cần phải thay đổi quan niệm giá
12


13

trị của con người và thể chế xã hội hiện hành, làm cho con người, xã hội và tự
nhiên trở thành một chỉnh thể, từ đó mới có thể giải quyết nguy cơ sinh thái
và nguy cơ sinh tồn.
1.1.2. Phê bình sinh thái
Phê bình sinh thái với tư cách là một khuynh hướng phê bình văn hóa
và văn học được hình thành ở Mĩ vào giữa những năm 90 của thế kỉ 20, tiếp
đó xuất hiện ở nhiều nước trên thế giới. Trong số rất nhiều giới định về thuật
ngữ “phê bình sinh thái”, định nghĩa được nhiều người tiếp nhận là định nghĩa
của một trong những người chủ chốt trong việc khởi xướng và phát triển phê
bình sinh thái Mĩ – Cheryll Glotfelty: “Phê bình sinh thái là phê bình bàn về
mối quan hệ giữa văn học và tự nhiên”. Cũng giống như phê bình nữ quyền
xem xét ngơn ngữ và văn học từ góc độ giới tính, phê bình Marxist mang lại ý
thức của phương thức sản xuất và thành phần kinh tế để đọc văn bản, phê

bình sinh thái mang đến phương pháp tiếp cận trái đất là trung tâm để nghiên
cứu văn học.
1.2. Văn học sinh thái
Chúng ta chỉ có duy nhất một trái đất và nó đang đối mặt với sự khủng
hoảng. Mơi trường ngày càng bị xâm hại nghiêm trọng và kéo theo đó là
những hệ lụy như khí hậu biến đổi, nguồn nước cạn kiệt, ơ nhiễm khơng khí,
hiệu ứng nhà kính.... Từ thực tại đó, ngay từ những năm 70 của thế kỷ XX,
văn chương thế giới đã có hàng loạt tác phẩm đề cập đến nguy cơ sinh thái,
hình thành nên một dòng văn học sinh thái (ecoliterature) lan tỏa khắp nơi.
1.2.1. Khái niệm
Văn học sinh thái (Ecoliterature) cịn có nhiều tên gọi khác như: văn
học sinh thái học (Ecological literture), Văn học môi trường, Văn học tự
nhiên, Văn học xanh, Lối viết/ văn bản tự nhiên..... Tham khảo cách định
danh của các ngành khoa học xã hội và các liên ngành của sinh thái học, có
thể thấy cơng thức chung của thuật ngữ là: (Eco/Ecological + tên ngành)=
ngành mới; chẳng hạn như:Chính trị học sinh thái, Mỹ học sinh thái, Xã hội
13


14

học sinh thái, Nhân loại học sinh thái,.... Ở lĩnh vực văn học, phần lớn các học
giả đã chọn dùng thuật ngữ Văn học sinh thái.
Người đầu tiên giới thiệu về văn học sinh thái, chủ nghĩa chỉnh thể sinh
thái, tư tưởng triết học sinh thái...ở Trung Quốc là Vương Nặc- giáo sư văn học
Đại học Hạ Môn. Trong công trình Văn học sinh thái Âu Mỹ, Vương Nặc cho
rằng Lối viết tự nhiên có đối tượng sáng tác rất hẹp, nhưng sự bao quát về mặt
đề tài và tư tưởng của nó thì q rộng. Bởi vì nó bao gồm tất cả những tác tác
phẩm phi sinh thái hoặc phản ánh sinh thái. “Văn học sinh thái khơng cịn đơn
thuần là văn học miêu tả tự nhiên thuần túy, khác nhau căn bản của văn học

sinh thái và văn học miêu tả tự nhiên truyền thống là nó tìm hiểu và trình bày
mối liên hệ giữa vạn vật trong tự nhiên cũng như địa vị của con người trong thế
giới tự nhiên, ảnh hưởng con người đối với tự nhiên và ảnh hưởng của tự nhiên
với con người, mối liên hệ giữa vạn vật trong tự nhiên với con người...”
Trên cơ sở nghiên cứu khái niệm của người đi trước, Vương Nặc đã
đưa ra một định nghĩa về văn học sinh thái được giới học thuật thừa nhận như
sau: “Văn học sinh thái là loại văn học lấy chủ nghĩa chỉnh thể sinh thái là cơ
sở tư tưởng, lấy lợi ích chỉnh thể của hệ thống sinh thái làm giá trị cao nhất
đề khảo sát và biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên và truy tìm
nguồn gốc xã hội của nguy cơ sinh thái”(Âu Mỹ sinh thái văn học, sđd, tr11)
[19;92]. Định nghĩa này, phản ánh được vấn đề mấu chốt của văn học sinh
thái là sinh thái.Một tác phẩm văn học sinh thái không chỉ đơn thuần miêu tả
tự nhiên học hệ sinh thái, mà quan trọng hơn là phải có đầy đủ tư tưởng sinh
thái và góc nhìn sinh thái. Hạt nhân của tư tưởng sinh thái là quan niệm về
tính hệ thống, tính chỉnh thể và tính liên hệ của sinh thái. Tư tưởng sinh thái
lấy tính bình đẳng, ổn định, bền vững và lợi ích chung của hệ thống sinh thái
làm điểm xuất phát và tiêu chí cuối cùng để bình xét phương thức sống, sự
tiến bộ của khoa học kĩ thuật, sự tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội của
nhân loại; không lấy chủ nghĩa nhân loại trung tâm làm cơ sở lý luận và lợi
ích của nhân loại làm thước đo giá trị của văn học.
14


15

Văn học sinh thái lấy chủ nghĩa chỉnh thể sinh thái hoặc quan niệm
chỉnh thể sinh thái làm kim chỉ nam để khảo sát mối quan hệ giữa tự nhiên và
con người. Văn học sinh thái còn thể hiện trách nhiệm sinh thái, lý tưởng sinh
thái, phê phán mặt trái của văn minh, phản ánh nguy cơ sinh thái, nguy cơ
tinh thần, nguy cơ tư tưởng và nguồn gốc xã hội của các nguy cơ đó.

1.2.2. Khuynh hướng văn xi sinh thái Việt Nam sau năm 1975
1.2.2.1. Sự hình thành văn xuôi sinh thái sau 1975
a, Giai đoạn manh nha
Tinh thần của sinh thái hiện đại có lẽ bắt nguồn từ nửa đầu thế kỉ XX,
với cảm quan sầu đô thị, Nguyễn Bính đã có tiếng nói từ khá sớm. Trước đó
Tú Xương cũng đã từng dự báo:
Phố phường chật hẹp người đơng đúc
Bồng bế nhau lên nó ở non
( Năm mới chúc nhau)
Trong văn học giai đoạn 1945-1975, đã có những mầm mống cho việc
xuất hiện văn học sinh thái. Cội nguồn nó bắt rễ từ tình u với quê hương đất
nước: tình yêu với hương cây cỏ nồng nàn ( Hương cỏ mật – Đỗ Chu; Mùa
hoa doi – Xuân Quỳnh….), với những âm thanh giản dị gần gũi ( Tiếng gà
trưa- Xn Quỳnh), với dịng sơng, cánh đồng thân thuộc (Đất nước –
Nguyễn Đình Thi, Những đứa con trong gia đình – Nguyễn Thi,…..) Dù vậy,
vẫn có sự khác biệt nhất định. Văn học giai đoạn 1945- 1975 có nói đến thiên
nhiên nhưng chủ yếu để biểu tượng cho các sự sống vĩnh hằng bất diệt dẫu
cuộc chiến khốc liệt đến thế nào (Vòng cườm trên cổ chim cu – Chế Lan Viên,
Rừng xà nu- Nguyễn Trung Thành….) Văn học cũng nói đến sự phá hoại của
chiến tranh đối với tự nhiên nhưng chủ yếu nghiêng về tố cáo tội ác của giặc
(Cánh đồng hoang- Nguyễn Quang Sáng, Dấu chân người lính- Nguyễn
Minh Châu…) Sinh thái mang tinh thần hiện đại, vì thế chưa hình thành.
Văn học sau năm 1975 với qn tính của nó, cũng có những sáng tác đi
theo dòng chảy tố cáo tội ác phá hoại thiên nhiên như Miền cháy - Nguyễn
15


16

Minh Châu, Lời hứa của thời gian Nguyễn Quang Thiều ….hay dòng “văn

học da cam”: di chứng của chất độc màu da cam tàn phá môi trường của chất
độc dioxin với những khu rừng xác xơ trụi lá, những mái đầu rụng hết tóc
của các nữ thanh niên xung phong (Người cịn sót lại của rừng cười- Võ Thị
Hảo), những đứa con khơng rõ hình hài của các cựu chiến binh (Mười ba bến
nước – Sương Nguyệt Minh, …). Khi chiến tranh đã lùi xa được một quãng
người ta mới nhận ra, không chỉ tổn thất về người, chất độc dioxin, những vết
tích… gây ra những tổn thất về mơi trường dài lâu mà con người chưa thể
khắc phục ngay được, những di căn của nó vẫn âm ỉ bào mịn nhiều thế hệ và
âm thầm tàn phá mơi trường.
b, Giai đoạn hình thành ý thức sinh thái
Nhìn vào văn xuôi sau năm 1975, chúng ta nhận thấy, trong các tác
phẩm giai đoạn này đã xuất hiện các chủ đề sinh thái:
Văn học truy tìm nguồn gốc của nguy cơ sinh thái. Vì vậy, phê phán
mặt trái văn minh là một đặc điểm nổi bật của khuynh hướng văn học này với
hầu hết các tác phẩm của Nguyễn Minh Châu, Sương Nguyệt Minh, Nguyễn
Ngọc Tư, Nguyễn Trí, Trần Duy Phiên,…
Ngồi ra, văn học sinh thái chú trọng đến trách nhiệm của con người
đối với tự nhiên, khẩn thiết kêu gọi bảo vệ vạn vật trong tự nhiên và duy trì
cân bằng sinh thái. Đó là những tác phẩm như Sống mãi với cây xanhNguyễn Minh Châu, Thập giá giữa rừng sâu- Nguyễn Khắc Phê, Khói trời
lộng lẫy- Nguyễn Ngọc Tư,…. Trách nhiệm của con người đối với tự nhiên
thành định hướng đạo đức chủ yếu. Đạo đức không phải chỉ trong mối quan
hệ giữa con người với nhau mà còn ở chỗ anh ta đối xử với thế giới xung
quanh ra sao.
Như vậy, sau năm 1975 đã hình thành khuynh hướng văn xuôi sinh thái
với những dấu hiệu: thứ nhất, hình thành các chủ đề sinh thái, ban đầu có thể
tản mát, khuất lấp giữa những đề tài khác, về sau đã thành những chủ đề khá
tập trung; thứ hai, về lực lượng sáng tác, từ chỗ chỉ vài tác phẩm lẻ tẻ văn
16



17

xi sinh thái đã có những lực lượng sáng tác riêng và đã được những thành
tựu đáng kể.
1.2.2.2. Thay đổi trong cách thể hiện mối quan hệ giữa con người và tự
nhiên trong văn xuôi sinh thái Việt Nam sau năm 1975.
1.2.2.1.Thay đổi điểm nhìn
Có sự khác biệt về điểm nhìn, các tác giả viết về tự nhiên dưới một
cảm quan sinh thái. Sự khác biệt về điểm nhìn đó, dẫn đến sự thay đổi quan
niệm về tự nhiên, vai trò của tự nhiên. Các ước lệ về tự nhiên bị phá vỡ, thay
vào đó là quan niệm về một tự nhiên tự trị, tồn tại bên ngoài con người, khơng
cịn phụ thuộc vào bàn tay con người: tự nhiên có sinh mệnh độc lập.
Thiên nhiên trong văn học trước năm 1975 về cơ bản xuất hiên với hai
dạng thức. Thứ nhất, thiên nhiên được nhân cách hóa. Giống như kiểu của
truyện cổ tích lồi vật, giải thích một đặc điểm tự nhiên của lồi vật Giếc đỏ
hoe vì khóc nhiều (Mắt giếc đỏ hoe) hoặc mang dáng dấp của truyện ngụ
ngơn: thơng qua nhân vật lồi vật để rút ra một bài học triết lí, một nội dung
giáo dục (Chuyến đi thứ hai – Võ Quảng, Dế mèn phiêu lưu kí –Tơ Hồi….)
Thứ hai, thiên nhiên xuất hiện như là nền cảnh, là phương tiện tính cách, tâm
hồn của con người (Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ), thể hiện khả năng
chinh phục tự nhiên như các truyện bắt sấu, bắt rắn, lấy ong mật,…
Tự nhiên trong văn xi sau năm 1975 cịn mang một cảm hứng khác,
đậm tâm thức đương đại, không phải chỉ là nền cảnh, là cái cớ mà “ chúng có
sinh mệnh thật sự”, có số phận , tính cách, tâm hồn…. như nhà văn Mạc Ngơn
từng phát biểu “Khi đó tơi bỗng cảm thấy cỏ cây quanh mình, và cả bị dê
nữa, đều có thể trị chuyện với con người, chúng chẳng những có sinh mệnh,
mà cịn có cả tình cảm nữa”. Mỗi loài vật được khắc họa bằng những chi tiết
rất riêng biệt, có đặc điểm nhận diện đặc trưng như những cá tính thật sự chứ
khơng phải bởi một đặc tính phổ qt nào đó. Con bìm bịp (Biển người mênh
mơng- Nguyễn Ngọc Tư) có tiếng nói “ giọng nói ấm lắm, tiếng kêu phát ra từ


17


18

tấm lòng”, Con khỉ cái (Muối của rừng – Nguyễn Huy Thiệp) thơng minh,
nhanh nhẹn, kiên trì….
Như vậy, điểm nhìn của phê bình sinh thái chuyển từ “con người làm
trung tâm” sang “trái đất là trung tâm”. Tuy nhiên, đó không phải là thái độ hạ
thấp con người mà đề xuất tư tưởng con người hài hòa với tự nhiên. Phê bình
sinh thái u cầu tơn trọng bất cứ sinh mệnh nào, coi tất cả sinh vật đều có giá
trị của riêng mình.
1.2.2.2. Thay đổi motif cốt truyện
Khi quan niệm về tự nhiên thay đổi, cấu trúc cốt truyện về mối quan hệ
giữa con người và tự nhiên cũng thay đổi. Văn học Việt Nam từ thời trung đại
đến nay có một motif quen thuộc: khi có một đều gì bất ổn, người ta thường
tìm về với nơng thơn như một nơi trú ẩn, chốn thanh bình để quên đi phiền
muộn: thơ điền viên của các nhà Nho ở ẩn; thơ lãng mạn quay lưng với đơ thị,
hay thậm chí khủng hoảng hôn nhân, mệt mỏi với bon chen của đời sống …
cũng tìm về quê như tìm về điểm tựa yên ổn và thanh bình.
Trong văn học giai đoạn 1945- 1975 mối quan hệ giữa con người và tự
nhiên chủ yếu thể hiện ở motif cốt truyện về sự chinh phục tự nhiên phục vụ
cho mục đích xây dựng xã hội (kiểu như Người lái đị sơng Đà – Nguyễn
Tuân; Đòan thuyền đánh cá – Huy Cận….) Trong văn học sau 1975, motif
cốt truyện đó bị phá vỡ thay vào đó là nhiều motif cốt truyện khác: cốt truyện
khai thác, cốt truyện đi săn, cốt truyện thuần hóa, cốt truyện về sự mất trú
ẩn…… Từ cốt truyện ấy, môi trường hiện ra với tất cả sự tàn phá, thiên nhiên
trở nên cỗi cằn, biến dạng. Vào bãi vàng, đi vào rừng khơng cịn để chinh
phục mà để vơ vét, tàn sát. Hai tập Bãi vàng đá quý, trầm hương; Đồ tể của

Nguyễn Trí; Trăm năm cịn lại- Trần Duy Phiên;….Các tác phẩm đã khắc
phục tư tưởng “rừng vàng biển bạc” tồn tại một cách thâm căn cố để rồi
chúng ta mặc sức khai phá tự nhiên mà khơng có tư duy về phát triển bền
vững. Sự ứng xử ngỗ ngược của con người trước với bà mẹ Trái đất đã gây ra

18


19

cho chính con người nhiều tai họa. Khi chúng ta trở nên tự phụ đến mức quên
cả cảm thông với thiên nhiên thì việc phải trả giá đắt cũng là điều tất yếu.
Hầu hết, trong các cốt truyện đi săn trong văn học sau năm 1975, các
tác giả đều tập trung khắc họa cảnh những loài vật đang yên ấm, vui vầy thì
gặp tai nạn do người thợ săn gây ra: gia đình khỉ đang vui chơi chuyền cành
(Muối của rừng – Nguyễn Huy Thiệp), đàn chim sẻ đang mổ những hạt thóc
của bà cụ Cần nhân hậu (Bà cụ Cần và bầy chim sẻ - Ma Văn Kháng)….thì tai
vạ chợt đến. Đi săn khơng cịn là niềm vui chinh phục mà nặng trĩu âu lo về
nhân tính “Ơng vừa làm điều ác” (Muối của rừng- Nguyễn Huy Thiệp). Nếu
như, trong văn học trước đó, motif cốt truyện đi săn thường thiên về cảm
hứng ca ngợi sức mạnh con người chiến thắng thiên nhiên hoang dã, dữ dằn
(bắt cá sấu, bắt rắn trong Đất rừng phương Nam – Đoàn Giỏi….) thì văn học
sau 1975 tơ nhấn về cảm giác khi con người tàn sát tự nhiên con người sẽ mất
hết tất cả: ông Diểu đi săn nhưng cuối cùng súng mất, ông tha bổng con khỉ,
áo quần và thức ăn để lại bị tổ mối đùn hết, ông trần truồng trở về nhà (Muối
của rừng – Nguyễn Huy Thiệp)…Motif truyện đi săn sau 1975 toát lên ý
niệm, nếu như anh chống lại tự nhiên sinh thành ra anh thì cuối cùng sẽ trở
nên trắng tay.
1.2.2.3. Thay đổi tính chất nhân vật
Từ xưa đến nay, văn học mô tả mối quan hệ giữa con người và thiên

nhiên dường như chưa thoát khỏi cái bóng của Uylitxơ về người anh hùng
chinh phục, khai phá tự nhiên. Những kẻ chinh phục trong văn học sinh thái
trở thành kẻ tàn sát, tội đồ với tự nhiên. Hình tượng nhân vật đã thay đổi từ
người khổng lồ chinh phục tự nhiên (trong văn học trước đó) trở thành kẻ
hủy diệt, là nạn nhân, kẻ chiến bại (trong văn xuôi sinh thái). Những mưu sinh
đã đẩy con người vào rừng, chiếm đoạt không gian sinh thái hoang đã, bóc lột
mơi trường, khai thác nguồn lợi từ thiên nhiên.
Nhân vật trong các tác phẩm khơng cịn là người anh hùng chinh phục
nữa mà trở thành nạn nhân. Một trong những vấn đề cấp thiêt mà phê bình
19


20

sinh thái đặt ra là cảnh báo về sự hủy hoại tự nhiên, sự biến đổi của môi
trường sinh thái. Người nông dân hàng ngày đối diện với bờ kênh, con rạch,
mảnh ruộng, cánh đồng…nên cảm nhận về những tai họa của tự nhiên, hậu
quả của biến đổi khí hậu: đất lở, núi lở, hạn hán, lũ lụt, xâm ngập mặn, mùa
nước nổi kéo dài,….thật cụ thể chân thực. Vấn đề thời sự này đã được nhiều
tác giả như Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Quang Thiều,
Nguyễn Ngọc Minh, Nguyễn Ngọc Tư…..đặt ra một cách bức thiết, trực diện
và tha thiết. Số phận của các nhân sẽ bị đe dọa cả về thể chất và tinh thần khi
môi trường sống bị hủy hoại vì con người là một phần tử của tự nhiên, chịu
ảnh hưởng từ tự nhiên, từ môi trường sống xung quanh. Bức tử tự nhiên ( Kẻ
ám sát cánh đồng – Nguyễn Quang Thiều, Khói trời lộng lẫy – Nguyễn Ngọc
Tư,….) con người sống trong một không gian giam cầm của rừng rậm bê
tông, cách bức với tự nhiên (Khách ở quê ra – Nguyễn Minh Châu, Bà cụ
Cần và đàn chim sẻ - Ma Văn Kháng,…)
1.2.2.4. Thay đổi giọng điệu
Văn học từ xưa đến nay ngợi ca bao hình tượng đều là những người

khẳng định vị thế bằng khát vọng chinh phục tự nhiên. Hoặc là, khi mơ tả tình
u thiên nhiên, văn học truyền thống vẫn coi thiên nhiên như là một khách
thể để thụ hưởng mà khơng có một cảnh báo mơi trường nào.
Trong các tác phẩm truyền thống, viết về tự nhiên chủ yếu là giọng trữ
tình (ca ngợi vẻ đẹp cử cây cỏ) của văn học điền viên, mục đồng, lãng mạn…
Tất nhiên, khi viết về tự nhiên, văn học sinh thái cũng có những tác phẩm có
giọng trữ tình sâu lắng mô tả vẻ đẹp của tự nhiên mĩ lệ (truyện ngắn Nguyễn
Quang Thiều, Dương Duy Ngữ…), hoài cảm về những thiên đường tự nhiên
đầy trầm tích văn hóa (Tuổi thơ im lặng – Duy Khán) hay cái giọng trong trẻo
trinh nguyên, tươi tắn lạ thường của Nguyễn Ngọc Thuần (Vừa nhắm mắt vừa
mở cửa sổ).
Tuy nhiên, cùng với cảm hứng phê phán giọng hoài nghi trở thành chủ
đạo với những hợp âm của giễu nhại, cật vấn, trào long, mỉa mai.Nguyễn Huy
20


21

Thiệp được coi là tác giả tiêu biểu. Ơng hồi nghi giáo dục, phỉ báng văn
minh “Dạy cho trẻ con tồn thứ láo tt” (lời ơng giáo Hội, Chăn trâu cắt
cỏ),…. vì đó là những điều khiến cho con người trở nên hám lợi, nguồn gốc
của tham vọng, quyền lực, dối trá, hư hỏng. Và như vậy, nó cũng khiến cho
con người rời ra bản tính tự nhiên tốt đẹp. Thương nhớ đồng quê, Chăn trâu
cắt cỏ,…của Nguyễn Huy Thiệp đi ra ngồi diễn ngơn lãng mạn, từ bỏ cái
nhìn thẩm mĩ hóa về thơn dã. Nơng thơn đã vĩnh viễn mất cái thanh thản của
những ảo tưởng truyền thống, đối diện với đói nghèo, vất vả, bất an và buồn
chán…thường trực.
Văn học giai đoạn 1945 – 1975 khi viết về mối quan hệ với tự nhiên,
thường mang giọng sử thi, giọng của người coi tự nhiên là bầu bạn, là vũ khí
trong cùng mục đích chiến đấu giành độc lập (Rừng che bội đội, rừng vây

quân thù; Em đi lên rừng cây xanh mở lối, em đi xuống suối suối ngả cúi
đầu). Thiên nhiên khơng có tiếng nói riêng biệt. Do vậy, tất nhiên khơng có
đối thoại, chỉ có tiếng nói của con người. Giọng điệu giễu nhại (parody) với
đặc trưng hình thức tổng hợp của cả hai tính chất tự phản tỉnh và liên văn bản
trở thành đặc trưng nổi bật của văn xuôi sinh thái sau năm 1975. Giễu nhại là
cách để gây ra hiệu ứng ngược, nó mang hai nghĩa, hai nghĩa đối chọi nhau,
tranh cãi nhau, điều đó, giúp thốt khỏi cái độc thoại của sử thi, đạt đến tính
đối thoại đầy tinh thần hiện đại. Mặt khác, văn xi sinh thái lắng nghe tiếng
nói tự nhiên câm nín, trầm lặng bên cạnh con người.
Như vậy, trong văn học Việt Nam sau năm 1975 đã xuất hiện một
khuynh hướng văn xuôi sinh thái, tuy không ào ạt, mạnh mẽ ngay từ đầu nhưng
ngày càng đang lớn dần, quy tụ được nhiều cây bút. Những ý tưởng sinh thái
của các tác giả Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Khắc Phê,
Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Minh Tuấn, Bùi Ngọc Tấn,…đã rung lên những hồi
chuông về sự khủng hoảng môi trường, những nỗi đau, niềm tuyệt vọng trước
cái mong manh của sự cân bằng tạo hóa và cắt nghĩa căn nguyên của những
thảm họa sinh thái, những bất an của tồn tại trọng một xã hội bị đầu độc bởi
21


×