UBND TỈNH PHÚ THỌ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÙNG VƯƠNG
ĐỖ THỊ HƯƠNG LY
NGHIÊN CỨU TIẾP NHẬN NAM CAO QUA
CHUYỂN THỂ ĐIỆN ẢNH LÀNG VŨ ĐẠI NGÀY ẤY
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN, VĂN HỌC
VÀ VĂN HĨA VIỆT NAM
Chun ngành: Lí luận văn học
Mã số: 8220120
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Phùng Ngọc Kiên
Phú Thọ, năm 2018
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan: Luận văn tốt nghiệp với đề tài Nghiên cứu tiếp
nhận Nam Cao qua chuyển thể điện ảnh “Làng Vũ Đại ngày ấy” là cơng
trình nghiên cứu của cá nhân tôi, không sao chép của bất kì ai.
Tơi xin chịu hồn tồn trách nhiệm về cơng trình nghiên cứu của mình.
Việt Trì, ngày
tháng
năm 2018
Tác giả luận văn
Đỗ Thị Hƣơng Ly
ii
LỜI CẢM ƠN
Luận văn thạc sĩ ngành Lý luận văn học với đề tài Nghiên cứu tiếp
nhận Nam Cao qua chuyển thể điện ảnh “Làng Vũ Đại ngày ấy” đƣợc hồn
thành là kết quả của việc học hỏi khơng ngừng của bản thân cùng sự giúp đỡ,
khích lệ động viên của các thầy cô, bạn bè, đồng nghiệp và ngƣời thân. Tôi
xin gửi lời cảm ơn tới những ngƣời đã giúp đỡ tôi trong suốt thời gian qua.
Tôi xin tỏ lịng kính trọng và biết ơn sâu sắc đối với thầy giáo TS Phùng Ngọc
Kiên đã trực tiếp chỉ bảo, hƣớng dẫn tơi trong suốt q trình nghiên cứu.
Xin chân thành cảm ơn lãnh đạo trƣờng Đại học Hùng Vƣơng, khoa
Khoa học xã hội và Nhân văn đã tạo những điều kiện tốt nhất cho tơi hồn
thành cơng việc của mình.
Cuối cùng, tơi xin chân thành cảm ơn đồng nghiệp, đơn vị cơng tác đã
giúp đỡ tơi trong q trình học tập và thực hiện luận văn.
Việt Trì, ngày
tháng
năm 2018
Tác giả luận văn
Đỗ Thị Hƣơng Ly
iii
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................... 1
1.1. Tính cấp thiết của vấn đề nghiên cứu ........................................................ 1
1.2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu .................................................................... 2
1.2.1. Nghiên cứu tiếp nhận Nam Cao trƣớc Cách mạng tháng Tám 1945 ........ 2
1.2.2. Nghiên cứu tiếp nhận Nam Cao sau Cách mạng tháng Tám 1945 đến
hết thế kỉ XX .................................................................................................. 3
1.2.3. Nghiên cứu Nam Cao hiện nay ............................................................ 6
1.2.4. Một hƣớng tiếp nhận mới: Chuyển thể văn học sang điện ảnh ........... 7
1.3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................ 11
1.3.1. Mục tiêu nghiên cứu .......................................................................... 11
1.3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu ......................................................................... 11
1.4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu............................................................ 12
1.4.1. Đối tƣợng nghiên cứu ........................................................................ 12
1.4.2. Phạm vi nghiên cứu............................................................................ 12
1.5. Phƣơng pháp nghiên cứu.......................................................................... 12
1.6. Cấu trúc của luận văn ............................................................................... 13
CHƢƠNG 1. CÁC VẤN ĐỀ VỀ LÍ THUYẾT .............................................. 14
1.1. Lý thuyết tiếp nhận................................................................................... 14
1.1.1. Giới thiệu chung................................................................................. 14
1.1.2. Một số vấn đề cơ bản của lý thuyết tiếp nhận ................................... 18
1.2. Những vấn đề chung về văn học và điện ảnh .......................................... 22
1.2.1. Văn học .............................................................................................. 22
1.2.2. Điện ảnh ............................................................................................. 23
1.2.3. Mối quan hệ giữa văn học và điện ảnh .............................................. 23
1.2.4. Chuyển thể - một hình thức dựng phim cơ bản, một dạng tiếp nhận
đặc biệt ......................................................................................................... 27
iv
CHƢƠNG 2: VIỆC XÂY DỰNG VÀ TỔ CHỨC CÁC TUYẾN TRUYỆN
TRONG PHIM ................................................................................................ 36
2.1. Không gian trong truyện - bối cảnh trên phim......................................... 38
2.2. Câu chuyện về lão Hạc - ngƣời nông dân cơ cực, bần hàn ...................... 39
2.2.1. Nhân vật lão Hạc từ truyện lên phim ................................................. 39
2.2.2. Những sáng tạo của Phạm Văn Khoa trên phim................................ 41
2.3. Câu chuyện về nỗi đau thân phận của Chí Phèo ...................................... 45
2.3.1. Câu chuyện về Chí Phèo từ trang sách lên màn ảnh.......................... 45
2.3.2. Nhân vật Chí Phèo trong cách nhìn của đạo diễn Phạm Văn Khoa ........ 46
2.4. Câu chuyện của Thứ - cuộc đời mòn và khao khát đổi thay.................... 56
2.4.1. Bƣớc ngoặt của cuộc đời mòn ........................................................... 56
2.4.2. Nguồn cảm hứng sáng tác bất tận ...................................................... 59
2.4.3. Hy vọng đổi thay vụt tắt..................................................................... 61
2.4.4. Quyết định cuối cùng ......................................................................... 64
Chƣơng 3: KẾT CẤU CỦA BỘ PHIM .......................................................... 67
3.1. Cuộc sống nông thôn u ám ....................................................................... 67
3.1.1. Phần mở đầu....................................................................................... 67
3.1.2. Phần phát triển .................................................................................. 71
3.1.3. Phần cao trào ...................................................................................... 82
3.2. Bi kịch của những ngƣời nông dân và lựa chọn mới của ngƣời trí thức . 84
3.2.1. Phần cởi nút........................................................................................ 84
3.2.2. Phần kết thúc ...................................................................................... 85
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 89
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 92
PHỤ LỤC
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của vấn đề nghiên cứu
Lý luận tiếp nhận là một lĩnh vực lớn của Lý luận văn học. Song đây lại
là một vấn đề lớn đang bị bỏ ngỏ. “Nếu xem hoạt động của văn học bao gồm
hai lĩnh vực lớn: sáng tác và tiếp nhận, thì bản thân sự tiếp nhận văn học đã
hàm chứa một nửa lý luận văn học” [20; 40] Bản thân lý luận tiếp nhận liên
quan đến nhiều loại lý thuyết khác nhƣ lý thuyết giao tiếp, kí hiệu học nghệ
thuật, lý thuyết thông tin nghệ thuật, tâm lý học nghệ thuật, lý thuyết giải
thích. Văn học tồn tại trong mỗi ngƣời đọc nhƣ một cơ thể sống. Song nó
khơng tự nhiên sống đƣợc, chính bản thân nhu cầu của ngƣời đọc, sự hứng
thú say mê, tìm tịi, khai thác, phát hiện, sáng tạo…mới làm nên sức sống bất
tử của một tác phẩm.
Nam Cao là một nhà văn có một vị trí đặc biệt trong nền văn học Việt
Nam hiện đại. Chính cuộc đời bế tắc của Nam Cao cũng đƣợc ơng đƣa vào
những sáng tác của mình. Có thể nói ơng là một trong số những nhà văn
nghèo nhất của thế hệ nhà văn trƣớc Cách mạng tháng Tám. Trong cuộc đời,
từng có lúc ơng phải bán đi vài cuốn tiểu thuyết mà mình rất trân quý để lấy
tiền mua thuốc cho con.
Với trƣờng hợp của Nam Cao, có một sự thống nhất cao độ giữa lối
sống và cách viết, giữa văn và đời. “Nhà văn mảnh khảnh thƣ sinh ăn nói ơn
tồn nhiều khi đến rụt rè, mỗi lúc lại đỏ mặt, mà kì thực lại mang trong lòng
một sự phản kháng mãnh liệt” [26; 419]. Các tác phẩm của Nam Cao thể hiện
một chủ nghĩa nhân văn cao cả, một quan niệm về con ngƣời đặc biệt thông
qua phong cách nghệ thuật đa dạng phong phú. Trải qua sự thay đổi của thời
gian, những sáng tác của ơng vẫn cịn ngun giá trị, khẳng định đƣợc vị trí
cuả Nam Cao trong lịch sử văn học dân tộc cũng nhƣ trong chƣơng trình Ngữ
văn phổ thơng hiện nay.
2
Chuyển thể điện ảnh là một phƣơng thức tiếp nhận sáng tạo. Các tác
phẩm điện ảnh chuyển thể từ văn học đã tạo ra một hƣớng tiếp nhận mới với
những tác phẩm văn học. Sáng tác của Nam Cao trong nhà trƣờng luôn luôn
để lại một dấu ấn mạnh mẽ với đối tƣợng học sinh phổ thông. Rõ ràng, khi
tiếp nhận tác phẩm văn học ở một dạng thức khác khiến học sinh ln có
những hứng thú nhất định.
Đã có rất nhiều cơng trình nghiên cứu về Nam Cao một cách đầy đủ và
quy mô, tiếp nhận Nam Cao ở rất nhiều bình diện và khía cạnh, song chƣa có
nghiên cứu nào về lý luận tiếp nhận sáng tác của Nam Cao qua một trƣờng
hợp chuyển thể điện ảnh. Ngƣời viết chọn đề tài Nghiên cứu tiếp nhận Nam
Cao qua chuyển thể điện ảnh “Làng Vũ Đại ngày ấy” với hy vọng góp phần
bổ sung thêm những khía cạnh cịn chƣa đƣợc nghiên cứu về những sáng tác
của Nam Cao, đa dạng hóa cách tiếp nhận về nhà văn, đặc biệt tạo hứng thú
tiếp nhận văn chƣơng cho đối tƣợng học sinh qua các tác phẩm chuyển thể.
Thông qua việc đọc, hệ thống, phân tích, tìm hiểu đối sánh các truyện Chí Phèo,
Lão Hạc, Sống mịn của Nam Cao trong sự chuyển thể thành bộ phim Làng Vũ
Đại ngày ấy của Phạm Văn Khoa, chúng tôi hy vọng sẽ đem đến một cách nhìn
mới trong quá trình tiếp nhận về Nam Cao và những sáng tác của ông.
1.2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
Căn cứ vào những tài liệu thu thập đƣợc trong quá trình tìm hiểu về kho
tƣ liệu phong phú về Nam Cao, chúng tôi phân chia việc nghiên cứu tiếp nhận
về nhà văn qua các giai đoạn sau:
1.2.1. Nghiên cứu tiếp nhận Nam Cao trước Cách mạng tháng Tám 1945
Việc nghiên cứu tiếp nhận Nam Cao những ngày đầu gặp rất nhiều trở
ngại. Số phận những tác phẩm của ơng cũng khơng may mắn nhƣ chính cuộc
đời nhiều cay đắng, lận đận của Nam Cao trƣớc cách mạng tháng Tám. Trong
3
suốt một thời gian dài, những sáng tác của ông nằm ngoài sự quan tâm của
các nhà nghiên cứu phê bình lý luận văn học, chƣa hề đƣợc các văn nghệ sĩ
quan tâm và đánh giá một cách xứng đáng.
Một nhận xét đầu tiên của nhà văn Lê Văn Trƣơng trong lời tựa cho tập
truyện Đôi lứa xứng đôi: “Dám nói và dám viết những cái khác ngƣời, ơng
Nam Cao đã mang đến cho ta những khoái cảm mới mẻ, và ơng đã tỏ ra là
ngƣời có can đảm” [26; 493]. Nhà văn Vũ Bằng cũng dành tặng những lời
trân trọng: “May mắn làm sao tôi lại đƣợc đọc một truyện của Nam Cao và
ngay mấy câu đầu tôi đã thích thú vì lối hành văn với những câu kệch cỡm,
nghịch ngợm, có khi dớ dẩn nhƣng đậm đà có duyên” [26; 499]. Tuy nhiên,
với những sự nhận xét ƣu ái nhƣ vậy nhƣng truyện Đôi lứa xứng đôi vẫn
không hề nhận đƣợc sự quan tâm nào của giới truyền thông lúc bấy giờ. Bộ
sách Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan dày hơn 1000 trang, gồm 5 tập, đề
cập tới 79 nhà văn, song chỉ có Nam Cao là không đƣợc nhắc đến.
1.2.2. Nghiên cứu tiếp nhận Nam Cao sau Cách mạng tháng Tám
1945 đến hết thế kỉ XX
Việc nghiên cứu và tiếp nhận Nam Cao ở thời điểm này cũng khơng có
gì thay đổi nhiều. Các nhà nghiên cứu ít nói đến Nam Cao. Những tác phẩm
của ông vẫn chƣa có sự đánh giá đúng mực. Ngay trong bộ sách Lược thảo
lịch sử văn học Việt Nam (NXB Xây dựng, 1957) khi nói đến trào lƣu văn học
hiện thực phê phán cũng chỉ có Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan đƣợc
nghiên cứu riêng với tƣ cách là các nhà văn hiện thực tiêu biểu. Quả thực đây
là một thiệt thòi lớn với nhà văn Nam Cao cũng nhƣ với nền nghiên cứu lý
luận phê bình văn học nƣớc nhà. Sinh thời ông chƣa từng đƣợc hƣởng vinh
quang nhƣ Nguyễn Tn, Vũ Trọng Phụng… Ngay chính ơng cũng đã từng tự
ti về những sáng tác của mình: “Trƣớc 1945 không xuất bản đƣợc tác phẩm
nào đáng kể” (Lời tự thuật gửi Hội Văn nghệ Việt Nam năm 1950). Mãi cho
4
đến khi ông qua đời, Điếu Văn của Nguyễn Huy Tƣởng trong lễ truy điệu
Nam Cao 1951 mới bắt đầu có những đánh giá khác về văn nghiệp của nhà
văn - chiến sĩ này khi cho rằng cái chết của Nam Cao cũng chính là “cái tang
cho giới văn nghệ và văn hóa Việt Nam” [1; 499]. Tiếp ngay sau đó, năm
1952, trong bài Nam Cao, Nguyễn Đình Thi đã nhận định “Văn Nam Cao,
ngay những tác phẩm đầu, đã thực sắc sảo… anh tạo đƣợc những điển hình
giai cấp thật sống và cảm động” [1; 46]. Năm 1954, hồi kí của Tơ Hồi
“Chúng ta mất Nam Cao” viết đầy xúc động: “Con ngƣời Nam Cao, nghệ
thuật và tƣ tƣởng Nam Cao, trƣớc mặt và trong tâm trí tơi, lúc nào cũng là
một bài học phấn đấu, bài học tin tƣởng của một thế hệ thanh niên đau khổ
mà dũng cảm của thời đại giữa hai lần chiến tranh thế giới” [1; 500]. Có lẽ
cho đến thời điểm đó thì “tổn thất về Nam Cao mới thật sự thấm thía trong
giới nghệ thuật và công chúng” (Phong Lê).
Đến năm 1956, bản thảo Sống mịn (từng đƣợc Tơ Hồi gìn giữ suốt
chiều dài cuộc kháng chiến) lần đầu tiên ra mắt bạn đọc thì tài năng của nhà
văn đã thực sự đƣợc khẳng định một cách chắc chắn. Tiếp theo đó năm 1961,
một chuyên luận nghiên cứu về Nam Cao, nhà văn hiện thực xuất sắc của Hà
Minh Đức đã bắt đầu khơi dòng nghiên cứu về Nam Cao.
Cho đến hết thế kỉ XX, có khoảng 200 cơng trình lớn nhỏ, những luận
văn, luận án… viết về Nam Cao. Rất nhiều cách tiếp cận về Nam Cao và
những tác phẩm của ơng. Thậm chí, những nhân vật điển hình mà Nam Cao
xây dựng nhƣ Chí Phèo, Thị Nở…cũng có những ý kiến trái chiều. Nhiều bài
viết giá trị của những nhà nghiên cứu nhƣ Nguyễn Đăng Mạnh, Lại Nguyên
Ân, Huệ Chi - Phong Lê, Nguyễn Đức Dân…Đặc biệt, tháng 11 - 1991, Viện
văn học phối hợp với Hội Nhà văn và Hội văn nghệ Hà Nam Ninh, trƣờng
Đại học Sƣ phạm I tổ chức một buổi hội thảo khoa học nhân 40 năm ngày mất
của nhà văn Nam Cao (1951 - 1991). Sau đó, cuốn sách giới thiệu những nhận
5
thức và đánh giá mới về nhà văn ra đời, đó là cuốn Nghĩ tiếp về Nam Cao do
Nhà XB Hội nhà văn ấn hành năm 1992. Sau đó, đến tháng 10 - 1997, nhân kỉ
niệm 80 năm ngày sinh của Nam Cao, Viện Văn học đã tổ chức thành công
một buổi hội thảo khoa học. Ở cuộc hội thảo này, các ý kiến một lần nữa
khẳng định vai trò, vị trí của nhà văn trong nền văn học Việt Nam. Sau sự
thành công của Hội thảo, một loạt các bài viết, tƣ liệu cơng trình nghiên cứu
về Nam Cao đƣợc khai thác và in ấn trên Tạp chí Văn học. Đáng chú ý là các
cuốn Nam Cao, đời văn và tác phẩm của Hà Minh Đức (NXB Văn học,
1997), cuốn Nam Cao, phác thảo sự nghiệp và chân dung của Phong Lê
(NXB Khoa học xã hội, 1997). Đây là những cơng trình khoa học tồn diện
và hệ thống của những chuyên gia hàng đầu nghiên cứu về những di sản đặc
sắc và phong phú của nhà văn Nam Cao.
Có thể nói rằng, Nam Cao là một trong những nhà văn hiện đại đƣợc
nghiên cứu nhiều nhất. Quá trình nghiên cứu về Nam Cao cũng đạt nhiều
thành tựu tiến bộ. Sự đọc và tiếp nhận nhà văn trong khơng khí dân chủ của
văn học ngày nay khiến ngƣời đọc đƣợc tiếp cận tác phẩm của Nam Cao ở rất
nhiều phƣơng diện. Thay vì chỉ chú ý đến những tác phẩm lớn nhƣ Sống mịn,
Chí Phèo, giới nghiên cứu đã tập trung đến những tác phẩm khác nhƣ Lão
Hạc, Lang Rận, Đời thừa, Một đám cưới…Từ đây nhiều vỉa tầng, lớp lớp ý
nghĩa dần đƣợc bóc tách. Giới nghiên cứu phê bình hiện đại cũng tìm tịi khai
thác các khía cạnh về ngôn ngữ, phong cách, thi pháp…khám phá những nét
tài hoa đặc sắc trong phong cách nghệ thuật của Nam Cao.
Năm 1998, xuất hiện một cuốn sách đƣợc đánh giá hiện tƣợng văn học,
với kỉ lục tái bản tới 8 lần trong một thời gian ngắn, đó là cuốn Chân dung và
đối thoại của Trần Đăng Khoa. Trong cuốn sách này, tác giả có nói tới Nam
Cao nhƣ thế này: về tài Nam Cao không hề thua Tsekhov, Lỗ Tấn nhƣng tầm
thì khác hẳn. Ơng cho rằng Tsekhov, Lỗ Tấn chỉ quan tâm đến vấn đề tinh
6
thần, cịn Nam Cao thì quan tâm đến cái bụng. Văn chƣơng nếu quanh quẩn
mãi với cái đói, miếng ăn thì khó lịng mà lớn đƣợc. Đây cũng là một trong số
những cách tiếp nhận, mà trong lịch sử tiếp nhận Nam Cao, Nguyễn Đăng
Mạnh cho đó là nhận thức về tác phẩm một cách “hời hợt”.
Đời tƣ của nhà văn cũng là một mối quan tâm lớn tới bạn đọc. Chúng ta
tiếp cận đời thực Nam Cao qua những trang hồi kí của những ngƣời thân thiết
với ơng nhƣ ngƣời vợ Trần Thị Sen, các nhà văn, nhà thơ nhƣ Nguyễn Huy
Tƣởng, Phong Nhã, Kim Lân, Lê Văn Trƣơng, Hồng Trung Thơng, Phạm Lê
Văn…Những dịng hồi ức ấy nhƣ một cuốn phim quay chậm giúp chúng ta
hiểu rõ hơn về con ngƣời ông; một ngƣời cha hiền lành, đôn hậu, yêu thƣơng
vợ con, yêu những ngƣời thân ruột thịt, yêu thƣơng cả những nghèo khổ bần
hàn quanh ông.
Làng Đại Hoàng, phủ Lý Nhân, tỉnh Hà Nam (quê hƣơng nhà văn) đã
đi vào văn chƣơng thực tự nhiên và ngày nay trở thành “một địa chỉ văn hóa”
một địa điểm du lịch thú vị với những món đặc sản dân dã truyền thống đã trở
thành những thƣơng hiệu đi khắp năm châu bốn biển nhƣ cá kho Đại Hoàng,
chuối Đại Hồng. Khơng cịn dấu vết của những năm tháng đói nghèo, làng
quê xƣa đã thực sự khởi sắc. Đây cũng chính là mong ƣớc của Nam Cao. Ơng
cũng đóng góp khơng nhỏ trong sự khởi sắc ấy. Đó chính là cách ơng u q
hƣơng mình.
1.2.3. Nghiên cứu Nam Cao hiện nay
Qua những nghiên cứu trong cuốn Chủ nghĩa hiện thực Nam Cao, Trần
Đăng Suyền đã “hy vọng đặt những viên gạch đầu tiên cho cơng trình nghiên
cứu tồn diện và hệ thống Những vấn đề của chủ nghĩa hiện thực trong văn
học Việt Nam”[18; 290].
Một loạt các đề tài luận án, luận văn đã đề cập đến những biểu hiện mọi
mặt trong sáng tác của Nam Cao nhƣ: những phƣơng diện chủ yếu của thi
7
pháp văn xuôi tự sự, ngôn ngữ, một số phong cách nổi bât, đề tài cái đói, diễn
ngơn hội thoại trong truyện ngắn của Nam Cao, đối thoại, độc thoại và mạch
lạc, tiểu từ tình thái trong tác phẩm của Nam Cao nhìn từ góc nhìn ngơn ngữ
học…Bên cạnh đó, sự tiếp nhận Nam Cao cũng có những thay đổi khi so sánh
Nam Cao với những tác giả trong và ngồi nƣớc nhƣ Vũ Trọng Phụng,
Nguyễn Cơng Hoan, Ngơ Tất Tố, Ruinoxke Akutagawa (Nhật Bản), Lỗ Tấn
(Trung Quốc), Sekhov (Nga)…, điều này mang đến những cảm quan rất mới
cho những cơng trình nghiên cứu về nhà văn Nam Cao.
Có thể nói rằng, cho đến nay, thật khó có một đặc điểm nào về nội
dung và hình thức nghệ thuật trong sáng tác của Nam Cao chƣa đƣợc nghiên
cứu và tiếp cận. Song, cũng cần khẳng định rằng, bất cứ một nhà nghiên cứu
nào dù tài năng đến đâu cũng không thể khám phá hết những giá trị tiềm tàng,
nhiều vỉa tầng trong sáng tác của các nhà văn lớn. Qua hàng trăm cơng trình
nghiên cứu lớn nhỏ về Nam Cao trong hơn nửa thế kỉ, có thể thấy việc nghiên
cứu tiếp nhận Nam Cao càng ngày càng trở nên đúng đắn hơn, tiếp cận đƣợc
chân giá trị trong sáng tác của ông rõ nét. Điều này khẳng định một chân lý:
Nam Cao là một đỉnh cao của chủ nghĩa hiện thực phê phán trong văn học
Việt Nam 1930 - 1945.
1.2.4. Một hướng tiếp nhận mới: Chuyển thể văn học sang điện ảnh
1.2.4.1. Vấn đề nghiên cứu chuyển thể
Vấn đề chuyển thể đã xuất hiện từ rất lâu và trở thành hiện tƣợng phổ
biến ở Việt Nam cũng nhƣ trên thế giới. Khi bộ phim chuyển thể đƣợc coi là
đầu tiên của nền điện ảnh Việt Nam Kim Vân Kiều (từ Truyện Kiều của
Nguyễn Du) xuất hiện, chúng ta đã nhận ra rằng, văn học chính là nguồn tài
nguyên bất tận cho các kịch bản phim. Tuy nhiên, việc nghiên cứu vấn đề lí
thuyết về chuyển thể vẫn chƣa thực sự đƣợc chú ý. Một số cuốn sách đƣợc
phát triển từ những luận án tiến sĩ nhƣ Từ tác phẩm văn học đến tác phẩm
8
điện ảnh (TS Phan Bích Thủy, Hội Điện ảnh Việt Nam và nhà Xuất bản Mỹ
thuật xuất bản, 2014). Gần đây, nhà Xuất bản Khoa học Xã hội xuất bản cuốn
Chuyển thể văn học - điện ảnh (nghiên cứu liên văn bản) của Lê Thị Dƣơng
(2016). Bên cạnh đó, cũng có một số bài đăng trên báo chí về vấn đề này: Văn
học - điện ảnh: Hiệu ứng cộng sinh ( Báo An ninh thế
giới online cũng có bài: Chuyển thể văn học thành tác phẩm điện ảnh: Khó để
so sánh, ( Song cần khẳng định, chúng ta có đánh giá
ở khía cạnh nào đi chăng nữa thì mỗi tác phẩm điện ảnh sẽ là một tác phẩm
độc lập chứ không phải là bản sao của tác phẩm văn học.
1.2.4.2. Lịch sử chuyển thể các tác phẩm văn học giai đoạn 1930 -1945
Có thể khẳng định rằng, chuyển thể từ văn học sang điện ảnh là một
cách tiếp nhận và tái hiện nghệ thuật vô cùng đặc sắc. Ngay từ khi xuất hiện,
nền điện ảnh Việt Nam đã mƣợn văn học làm nền tảng vững chắc cho mình.
Trong từng giai đoạn văn học đều có những tác phẩm chuyển thể thành phim.
Từ đó cho đến nay, số lƣợng các phim cải biên từ văn học ngày càng lớn.
Tính riêng với những tác phẩm văn học trong giai đoạn 1930 - 1945 đã khơng
ít tác phẩm xuất hiện trên màn ảnh, và hầu hết đều đạt đƣợc những thành công
nhất định: Trống mái (chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của Khái Hƣng 1971), Gánh hàng hoa (dựa trên tiểu thuyết của Nhất Linh và Khái Hƣng 1971), Chị Dậu (Tắt đèn của Ngô Tất Tố - 1980), Làng Vũ Đại ngày ấy (dựa
trên ba tác phẩm Chí Phèo, Lão Hạc, Sống mòn của nhà văn Nam Cao 1982), Số đỏ (chuyển thể từ tiểu thuyết Số đỏ của nhà văn Vũ Trọng Phụng 1990), Lều chõng (chuyển thể từ tác phẩm cùng tên của Vũ Trọng Phụng 2009), Trò đời (chắt lọc từ các tác phẩm: Kĩ nghệ lấy tây, Cơm thầy cơm cô,
Số đỏ của Vũ Trọng Phụng - 2013). Trong số những tác phẩm nêu trên, có
9
những tác phẩm và đạo diễn đã mang lại danh dự cho nền điện ảnh nƣớc nhà
khi tham dự các liên hoan phim trên thế giới. Phải kể đến Phạm Văn Khoa
cùng bộ phim Chị Dậu đã nhận Huy chƣơng vàng ở Pháp trong Liên hoan
phim Nantes, phim Làng Vũ Đại ngày ấy vinh dự đƣợc gửi đi dự Liên hoan
phim quốc tế ở Hawaii. Năm 2007, ông đƣợc trao tặng giải thƣởng Nhà nƣớc
cho bộ ba tác phẩm: Làng Vũ Đại ngày ấy, Chị Dậu và Lửa trung tuyến.
1.2.4.3. Lịch sử nghiên cứu về bộ phim Làng Vũ Đại ngày ấy
Bộ phim ra đời gây một tiếng vang lớn trong nền điện ảnh lúc bấy giờ.
Nhiều ý kiến xoay xung quanh bộ phim này. Nhà Biên kịch Đoàn Lê từng
chia sẻ: “Bộ phim ra đời đã gây nên dƣ luận ồn ào trong cũng nhƣ ngoài giới
điện ảnh. Ngƣời khen sáng tạo, táo bạo. Ngƣời chê tham lam lãng phí. Tham
vì mâm cỗ văn chƣơng sang trọng Nam Cao tặng cho đời có mấy món đầu vị
ngon lành nỡ nào gắp tất...” [26; 539].
Báo Thời Đại online ra ngày 14/8/2015 có bài viết “Làng Vũ Đại ngày
ấy” - tác phẩm điện ảnh “cất cánh” từ trang sách, khẳng định bộ phim đã tái
hiện chân thực đời sống nông thôn Việt Nam trƣớc cách mạng tháng Tám,
đồng thời khẳng định sự đột phá táo bạo về “cảnh nóng” trong phim. Bài viết
cũng cho thấy những tiềm năng du lịch đã khiến làng Vũ Đại ngày nay thay
da đổi thịt. Bƣớc đột phá khi giữ nguyên cảnh nóng trên phim cũng gây nhiều
ồn ào trong giới báo chí. Báo Tri thức trẻ online với bài Chuyện chưa tiết lộ
về cảnh nóng kinh điển của "Chí Phèo, Thị Nở, ( pheo-thi-no). Nhiều
so sánh khẳng định chất nghệ thuật trong “cảnh nóng” của bộ phim “Cảnh
nóng phim Việt khó qua mặt Thị Nở, Chí Phèo, ( Cũng có những bài viết tìm
hiểu những khó khăn của đồn làm phim đối với việc kiểm duyệt và sự tiếp
nhận của khán giả về việc giữ và cơng chiếu cảnh Chí Phèo cƣỡng bức Thị
10
Nở ở vƣờn chuối: Cảnh nóng trong phim Việt xưa: đằng sau cảnh nóng Chí
Phèo - Thị Nở, ( Tri thức trẻ cũng có
nhiều bài viết về các nhân vật trong phim nhƣ “Người đóng vai Chí Phèo
“kinh điển” nhất Việt Nam bây giờ ra sao” hay “Người diễn vai Thị Nở
“kinh điển” nhất Việt Nam bây giờ ra sao”. Hầu hết các bài viết tập trung
khai thác thành công của bộ phim ở khía cạnh nhân vật, cảnh phim có tính
chất đột phá, những ảnh hƣởng của bộ phim đến đời sống của ngƣời dân làng
Vũ Đại ngày nay. Luận văn thạc sĩ Ngơn ngữ và Văn hóa học của Nguyễn Thị
Tuyết Nhung nghiên cứu đề tài “Phim truyện Làng Vũ Đại ngày ấy và việc
chuyển thể các tác phẩm truyện văn học của Nam Cao” (Thành phố Hồ Chí
Minh - 2015) đã tìm hiểu vấn đề chuyển thể từ tác phẩm truyện văn học sang
tác phẩm điện ảnh, khai thác chuyển thể từ khía cạnh tình huống, sự kiện và
nhân vật tƣơng ứng trong truyện, đồng thời cũng phát hiện những đóng góp
cũng nhƣ những tồn tại của bộ phim.
Thực tế, có rất nhiều thú vị xoay xung quanh câu chuyện làm phim.
Chẳng hạn việc ngƣời đồng nghiệp Kim Lân trở thành nhân vật Lão Hạc của
Nam Cao, những chi tiết về đời thực của ông đƣợc đƣa lên màn ảnh…đã
khiến cho kho tàng văn chƣơng quý giá của ông một lần nữa đến với công
chúng bạn đọc qua sự tiếp nhận của một đối tƣợng ngƣời đọc đặc biệt, ở một
loại hình nghệ thuật cũng đặc biệt khơng kém.
Trong q trình nghiên cứu, mỗi cuốn sách, bài báo, luận văn…đều là
những nguồn tƣ liệu quý báu để tôi tiếp cận và khai thác đề tài: “Nghiên cứu
tiếp nhận Nam Cao qua chuyển thể điện ảnh Làng Vũ Đại ngày ấy”.
11
1.3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
1.3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Nam Cao là một tên tuổi lớn. Những vấn đề đặt ra trong sáng tác của
Nam Cao chƣa bao giờ là cũ. Thực hiện đề tài này luận văn hƣớng tới những
mục đích sau:
- Trƣớc hết, tìm hiểu cơ bản về vấn đề lý thuyết tiếp nhận văn học.
- Hình dung về cơng tác chuyển thể - một cách tiếp nhận văn học độc
đáo.
- Khai thác cách tiếp nhận tác phẩm văn chƣơng qua trƣờng hợp
chuyển thể điện ảnh Làng Vũ Đại ngày ấy.
- Khẳng định vị trí của Nam Cao và mở ra những hƣớng tiếp nhận mới
về những tác phẩm của ông đối với đối tƣợng học sinh phổ thông.
1.3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
GS Trần Đăng Suyền đã cho rằng: “Tuy rằng sự nghiệp văn học của
Nam Cao đã thu hút hàng trăm cơng trình nghiên cứu lớn nhỏ của các nhà
nghiên cứu, lý luận, phê bình văn học, nhƣng sáng tác của ông về nhiều
phƣơng diện vẫn cần đƣợc tiếp tục đào sâu nghiên cứu” [17; 5]. Quả thực,
những nghiên cứu về Nam Cao chƣa bao giờ là cũ, những tác phẩm văn
chƣơng của ông luôn là những mạch nguồn không hề vơi cạn trong đời sống
nghiên cứu phê bình văn học mọi thời. Với luận văn này, chúng tơi mong
muốn đóng góp một khía cạnh mới mẻ trong nghiên cứu tiếp nhận về Nam
Cao trong tƣơng quan với bộ phim điện ảnh về những tác phẩm của ơng, để
tiếp cận giá trị của dịng văn học hiện thực phê phán 1930 -1945 ở một
phƣơng diện khác, ở một cách đọc và tiếp nhận đầy sáng tạo. Đồng thời thấy
những giá trị lâu bền của những tác phẩm văn học khi đƣợc chuyển thể và
xuất hiện trên màn ảnh. Làng Vũ Đại ngày ấy đã trở thành một trong những
12
tác phẩm điện ảnh kinh điển Việt Nam vì giá trị tƣ tƣởng và tấm lòng nhân
đạo sâu sắc của nhà văn cùng với góc nhìn và sự tri âm, đồng sáng tạo của các
nhà làm phim. Bên cạnh đó, luận văn cũng hy vọng góp phần khẳng định
thêm tính hiệu quả và hiện đại trong việc nghiên cứu tiếp nhận các tác phẩm
văn chƣơng trong tƣơng quan với các tác phẩm điện ảnh nhằm khơi gợi niềm
yêu văn chƣơng, trân trọng, lƣu giữ những giá trị nghệ thuật của giới trẻ - một
nhiệm vụ quan trọng của giáo viên Ngữ văn hiện nay.
1.4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
1.4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Tìm hiểu lý thuyết tiếp nhận.
- Bộ phim Làng Vũ Đại ngày ấy kịch bản Đoàn Lê, đạo diễn Phạm Văn
Khoa trong sự đối sánh với cuộc đời Nam Cao và ba tác phẩm đƣợc chuyển
thể: Chí Phèo, Lão Hạc, Sống mịn.
1.4.2. Phạm vi nghiên cứu
Tác phẩm điện ảnh Làng Vũ Đại ngày ấy.
1.5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu nhƣ sau:
- Sử dụng phương pháp liên ngành: Có tham khảo các nghiên cứu trong
lĩnh vực văn hóa, điện ảnh, văn học… giúp ngƣời viết có kiến thức đa dạng
làm phong phú hơn cho đề tài của mình.
- Sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp: Từ những nghiên cứu về
vấn đề tiếp nhận, vấn đề chuyển thể, về cuộc đời nhà văn Nam Cao, các tuyến
truyện, kết cấu cốt truyện trong văn học và điện ảnh, ngƣời viết đã tổng hợp
và đƣa ra những nhận định đánh giá riêng về tiếp nhận văn học ở một dạng
đặc biệt là chuyển thể điện ảnh.
13
- Sử dụng phương pháp đối chiếu, so sánh: Mục đích để đối chiếu
những tiếp nhận sáng tạo của các nhà làm phim so với các tác phẩm văn học,
từ đó mở ra một hƣớng tiếp cận mới với các sáng tác của nhà văn Nam Cao.
- Sử dụng phương pháp nghiên cứu liên văn bản: Để thấy sự thay đổi
của các ký hiệu trong mối tƣơng tác giữa điện ảnh và văn học.
- Sử dụng thao tác phân loại, thống kê: Nhằm mục đích thấy các khía
cạnh giống và khác nhau ở tác phẩm văn học và tác phẩm điện ảnh.
1.6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, phần Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, phụ
lục, nội dung luận văn đƣợc cấu trúc thành 3 chƣơng:
Chƣơng 1: Các vấn đề về lí thuyết
Chƣơng 2: Việc xây dựng và tổ chức các tuyến truyện trong phim
Chƣơng 3: Kết cấu bộ phim
14
CHƢƠNG 1. CÁC VẤN ĐỀ VỀ LÍ THUYẾT
1.1. Lý thuyết tiếp nhận
1.1.1. Giới thiệu chung
Tiếp nhận văn học là một nội dung vừa mang tính văn chƣơng vừa
mang tính xã hội rất rõ nét. Cũng nhƣ các vấn đề khác trong xã hội, văn học
cũng có sự tồn tại, phát triển của riêng mình. Sự vận động phát triển của văn
học lệ thuộc rất nhiều vào hoạt động sáng tác, đồng thời cịn phụ thuộc vào
nhu cầu văn hóa, sở thích văn hóa, động cơ và những u cầu văn học khác
nhau của mỗi con ngƣời ở từng thời kì nhất định. Hans Robert Jauss và
Wolfgang Iser là những nhà lý thuyết tiêu biểu của trƣờng phái Konstanz
(Đức). Họ đã làm cho văn học có những chuyển biến lớn nhìn từ góc độ tiếp
nhận. Lý thuyết tiếp nhận của H.R.Jauss đã hoàn thiện lý thuyết tiếp nhận của
những bậc đàn anh đi trƣớc nhƣ Bêlinxki, Skhlôpxki, Roman Ingarden, Hans
Georg Gadamer…H.R.Jauss cho rằng: Các tác phẩm bao giờ cũng bao gồm
cả sự thể hiện ý tƣởng sáng tạo của nhà văn và sự tiếp nhận thực tế của ngƣời
đọc. Vì vậy, chúng ta có thể hiểu là lịch sử văn học vừa là lịch sử của tác giả
vừa là lịch sử của ngƣời đọc trong quá trình tiếp nhận. Đây là cách nhìn rất
mới lạ về “tính lịch sử của văn học”. Và từ quan niệm này, ông cho rằng tác
phẩm văn học là sự kết hợp giữa văn học và sự tiếp nhận của cơng chúng.
Vậy có thể hiểu rằng quá trình nhà văn sáng tạo là cả một quá trình đi từ sáng
tác đến tiếp nhận, chỉ khi đƣợc ngƣời đọc tiếp nhận, những tác phẩm văn
chƣơng mới có sức sống riêng của nó. Cũng từ đây, những khái niệm trọng
tâm của lý thuyết tiếp nhận đã ra đời nhƣ “tầm đón nhận”, “khoảng cách thẩm
mỹ”…Cùng với Hans Robert Jauss, Wolfgang Iser cũng là một trong những
ngƣời tiên phong đặt những viên gạch đầu tiên cho lý thuyết tiếp nhận. Iser đã
chú ý nghiên cứu sự tiếp nhận văn học trên một hoạt động đọc cụ thể. Lý
thuyết này của W.Iser cũng dựa trên cơ sở kế thừa, phát triển của các trƣờng
15
phái lý luận khác nhau trƣớc đó, tạo nên một sự tiếp cận hoàn toàn mới đối
với văn học. Hành trình nghiên cứu của Iser, nhƣ ơng nói là: “Từ sự hồi ứng
của ngƣời đọc đến nhân học văn học”, ông luôn quan tâm đến đặc trƣng của
văn học tạo nên sự tƣơng tác giữa văn học với ngƣời đọc.
Ở Việt Nam khoảng hai thập niên cuối thế kỉ XX, các nhà nghiên cứu
phê bình lý luận văn học ở nƣớc ta đã ý thức đƣợc tầm quan trọng của lý
thuyết tiếp nhận, nghiên cứu và phổ biến đến bạn đọc Việt Nam. Thực tế chƣa
có nhiều cơng trình nghiên cứu lớn về lý luận tiếp nhận song cũng có một số
bài viết về tiếp nhận văn học đăng trên các bài báo, tạp chí. Trên tạp chí văn
học số 4 (xuất bản 1971) Nguyễn Văn Hạnh cho rằng với một tác phẩm văn
học, giá trị của nó khơng giới hạn ở khâu sáng tác của tác giả mà nó còn đƣợc
xác định ở khâu “thƣởng thức”. Nhƣ vậy, ở thời điểm đó, Nguyễn Văn Hạnh
đã đƣa ra một quan điểm vơ cùng mới mẻ đó là mối quan hệ chặt chẽ giữa giá
trị văn học và vấn đề thƣởng thức các tác phẩm văn học của ngƣời đọc. Điều
này khiến cho trong quá trình đánh giá giá trị của tác phẩm, các nhà nghiên
cứu sẽ không chỉ dừng lại ở việc đối chiếu những vấn đề đƣợc đặt ra trong tác
phẩm, những giá trị tự thân của tác phẩm mà còn phải chú ý đến những ảnh
hƣởng tới thực tế xã hội, những đánh giá khác nhau của ngƣời đọc với tác
phẩm, những yếu tố lịch sử xã hội và cả tâm lý của sự tiếp thu.Tuy nhiên, ý
kiến này của Nguyễn Văn Hạnh ngay lập tức vấp phải nhiều ý kiến trái chiều
khi bị cho rằng ông đã coi nhẹ nhân tố sáng tác, coi nhẹ lập trƣờng tƣ tƣởng
giai cấp trong nghiên cứu, mặc dù vấn đề tiếp nhận ở thời điểm đó trên thế
giới đang đƣợc trao đổi, bàn luận một cách sôi nổi. Rõ ràng, giới nghiên cứu
thời kì này vẫn chƣa có một cái nhìn xác đáng về vấn đề tiếp nhận trong sáng
tác văn chƣơng.
Đến 1985, trên tạp chí Thơng tin KHXH, lần đầu tiên lý thuyết tiếp
nhận đã đƣợc Nguyễn Văn Dân giới thiệu đầy đủ và khá kĩ lƣỡng. Tại đây, lí
16
thuyết tiếp nhận của trƣờng phái Konstanz (Đức) mà đứng đầu là Han Robert
Jauss đƣợc phổ biến rộng rãi. Đây là cơng trình có sự tiếp thu của các cơng
trình nghiên cứu về độc giả của các tác giả trƣớc nhƣ Levin Schucking (Đức),
Walter Hohmann Harald Weinrich (Đức), Robet Escarpit (Pháp)…để tạo
những tiền đề khoa học chặt chẽ, chính xác có hiệu quả để nghiên cứu tiếp
nhận văn học. Năm 1986, một khái niệm mới ngưỡng tâm lí đã đƣợc Nguyễn
Văn Dân đề xuất. Đến năm 1999, tập tiểu luận Nghiên cứu văn học lý luận và
ứng dụng đƣợc xuất bản và đƣợc nhận giải thƣởng lý luận phê bình của Hội
Nhà văn Việt Nam năm 2000. Cũng từ đây, lý thuyết tiếp nhận văn học đã có
vị trí đúng của nó trong lý luận văn học, đồng thời cũng chứng tỏ đó là một
hƣớng nghiên cứu có nhiều tiềm năng.
Năm 1986, cuốn Lý luận văn học tập 1 (Nhà xuất bản Giáo dục) do
Trần Đình Sử biên soạn đã ra mắt bạn đọc và đƣợc sử dụng cho các trƣờng sƣ
phạm. Vấn đề tiếp nhận đƣợc ông đặt ở chƣơng X với tên Bạn đọc và tiếp
nhận văn học, sau đó bộ sách đƣợc tái bản và in lại thành một tập do Phƣơng
Lựu chủ biên. Đồng thời, kiến thức tiếp nhận văn học cũng đƣợc đƣa vào
giảng dạy ở chƣơng trình lớp 12 Ngữ văn Trung học phổ thơng. Điều này đã
chứng tỏ vị trí của lý thuyết tiếp nhận văn học trong nền văn học nƣớc nhà.
Trong nghiên cứu tiếp nhận văn học thì Trần Đình Sử, Phƣơng Lựu là những
nhà nghiên cứu đáng lƣu ý về chiều sâu, tâm huyết và bề dày kinh nghiệm.
Năm 1990, Huỳnh Vân trong bài viết Quan hệ văn học - hiện thực và
vấn đề tác động, tiếp nhận và giao tiếp thẩm mỹ đã đánh giá cao về chức năng
giao tiếp của văn học. Ở bài viết này, ông đã nhắc tới vấn đề cần hiểu mối
quan hệ hiện thực - văn học ở cả hai chiều: từ tác giả, tác phẩm đến hiện thực
và ngƣợc lại, tức là ở hai khía cạnh phản ánh và tác động, tiếp nhận. Về vấn
đề tiếp nhận, Huỳnh Vân tiếp tục phát triển nghiên cứu trong mối quan hệ với
những nhận định, những nghiên cứu của nhà lý luận ngƣời Đức Hans Robert
17
Jauss. Những nghiên cứu của tác giả là những đánh giá có cơ sở, đáng tin cậy
vì tác giả là ngƣời có những hiểu biết sâu sắc về lý thuyết tiếp nhận.
Bên cạnh đó phải kể đến một loạt các tác giả khác nhƣ Đỗ Đức Hiểu
với bài Đổi mới phê bình văn học, Nguyễn Thanh Hùng với cuốn Đọc và tiếp
nhận Văn chương, cuốn Lý luận văn học, vấn đề và suy nghĩ - một cuốn tài
liệu tham khảo chuyên sâu dành cho sinh viên do hai nhà nghiên cứu Huỳnh
Nhƣ Phƣơng và Nguyễn Văn Hạnh biên soạn. Tác giả Phan Trọng Luận cũng
đƣợc chú ý với cuốn Văn học nhà trường: nhận diện, tiếp cận. Giáo trình
Cảm thụ văn học của Dƣơng Thị Hƣơng cũng là một cuốn sách đáng chú ý
trong nhà trƣờng phổ thông…
Viết về vấn đề tiếp nhận thì nhà nghiên cứu Trƣơng Đăng Dung là
ngƣời chuyên sâu và bền bỉ. Những cuốn sách đƣợc đón nhận của ơng nhƣ:
Tác phẩm văn học như là một quá trình, Từ văn bản đến tác phẩm văn học.
Ơng đã khai thác những vấn đề cịn bỏ ngỏ về tiếp nhận nhƣ: Sự đọc và cắt
nghĩa văn bản, Văn bản văn học và sự cụ thể hóa văn bản… Những bài viết
của ông hầu nhƣ đều đƣợc nhận định là có tính khoa học và thuyết phục cao.
Một thực tế là các cơng trình có tính chất kinh điển của lý thuyết tiếp
nhận đƣợc giới thiệu ở Việt Nam chƣa nhiều. Trƣờng phái Konstanz (Đức) là
trƣờng phái tiêu biểu khai thác về vấn đề tiếp nhận. Những tác giả nổi tiếng
nhƣ Hans Robert Jauss, Wofgang Iser đã có đóng góp lớn cho nền lý luận thế
giới song họ vẫn chƣa đƣợc giới thiệu một cách đầy đủ ở Việt Nam vì khả
năng tiếp cận với những văn bản gốc của những tác giả này vẫn còn hết sức
hạn chế. Có thể nói rằng, cịn nhiều vấn đề về lý thuyết tiếp nhận chƣa đƣợc
khai thác triệt để ở nƣớc ta hiện nay, song bƣớc đầu các nhà nghiên cứu đã
nắm bắt đƣợc những điều cốt lõi, căn bản. Điều này dễ hiểu vì đây là lý thuyết
mới đang trên đƣờng tìm kiếm và tự hồn thiện mình.
18
1.1.2. Một số vấn đề cơ bản của lý thuyết tiếp nhận
1.1.2.1. Người đọc
Mỗi tác phẩm văn học là một q trình mà ở đó khơng hề có điểm kết
thúc hay bất biến. Nó ln đƣợc sáng tạo, mở rộng vô tận nhờ độc giả. Độc
giả trở thành nhân tố vô cùng quan trọng song hành cùng tác phẩm văn học.
GS Đỗ Đức Hiểu nhận định độc giả chính là “thƣợng đế của văn học”. Sự tiếp
nhận một tác phẩm văn học chính là hoạt động mà ở đó ngƣời đọc mở hồn ra
để đón nhận những tác phẩm văn chƣơng, sống trong thế giới nghệ thuật,
thƣởng thức cái hay, cái đẹp và tài nghệ của ngƣời nghệ sĩ sáng tạo. Ở đó,
ngƣời đọc phải tiếp nhận bằng tất cả sự tích cực và sáng tạo của mình. Đối
với những tác phẩm có giá trị, tác phẩm ấy khơng chỉ sống một lần mà sống
nhiều cuộc đời trong mỗi ngƣời đọc, ở từng thời kì khác nhau, trong từng
hồn cảnh xã hội tác phẩm lại mang một giá trị riêng. Cũng có thể nói, ngƣời
đọc cùng sáng tạo với tác giả, song bản chất sự sáng tạo của ngƣời đọc và tác
giả có sự khác biệt. Độc giả đã “Sáng tạo trong sự tiếp nhận” [22; 162], chọn
lựa cho mình những tác phẩm phù hợp với thị hiếu, nhận thức, có ích cho xã
hội và bản thân, làm cho tác phẩm có một cuộc sống khác, giàu ý nghĩa hơn.
Ở phƣơng diện lý thuyết tiếp nhận, Hans Robert Jauss cho rằng: Lịch
sử văn học là lịch sử tiếp nhận. Nhƣ thế có nghĩa là tạo nên lịch sử văn học
chính là ngƣời đọc, khi chúng ta viết về lịch sử văn học là chúng ta viết lại
lịch sử tiếp nhận của ngƣời đọc đối với những tác phẩm văn học nghệ thuật.
Với ý nghĩa này, chúng ta thấy đƣợc khả năng sáng tạo một cách chủ động
của ngƣời đọc với những giới hạn vô biên. Và từ khả năng sáng tạo một cách
chủ động này thì sự tồn tại lâu bền của một tác phẩm văn học mới đƣợc khởi
sắc. Song cũng cần nói thêm rằng, khả năng tiếp nhận tác phẩm ra sao, có
đúng ý tƣởng sáng tạo và truyền tải của tác gia văn học hay không, sáng tạo
đƣợc điều gì, tạo nên sự trƣờng tồn của tác phẩm hay khơng hồn tồn phụ
19
thuộc vào tầm đón nhận, từ quan niệm cảm thụ nghệ thuật hiện tại của ngƣời
đọc. Vì thế một tác phẩm mang ý nghĩa gì, giá trị ra sao nó sẽ phụ thuộc hồn
tồn vào tầm đón nhận của độc giả đó. Một tác phẩm ngay khi đƣợc xuất bản,
đƣợc phổ biến rộng rãi thì nó đã trở thành tài sản chung của cơng chúng. Tác
phẩm đó trƣờng tồn hay chết yểu hoàn toàn phụ thuộc vào độc giả. Vậy
“trong mối quan hệ với văn bản, độc giả không thụ động, ngƣợc lại anh ta là
một loại độc giả tích cực (active audience). Bằng việc đƣa vào văn bản những
kinh nghiệm sống, kinh nghiệm đọc (Jauss) hay bằng một điểm nhìn lƣu
chuyển của sự hồi tƣởng và dự phóng (Iser), anh ta có quyền năng lớn lao
trong việc tạo nghĩa cho văn bản” [27; 242].
Tiếp cận sâu phạm trù ngƣời đọc, ta thấy rằng có nhiều dạng độc giả
khác nhau, có nhiều dạng cơng chúng mà tác phẩm muốn tác động, giao tiếp
trong suốt quá trình thai nghén và hình thành tác phẩm, đồng thời cũng chịu
tác động ngƣợc trở lại của những đối tƣợng đó. Có thể nói rằng, giữa văn bản
và độc giả diễn ra một cuộc đối thoại. Văn bản chính là tiếng nói của nhà văn
và độc giả, thơng qua văn bản, lắng nghe tiếng nói ấy. Hiệu quả của việc tiếp
nhận ra sao lệ thuộc khá nhiều vào trình độ, giới tính, lứa tuổi, vị trí xã hộị,
mối quan tâm…của ngƣời đọc. Có thể chia ngƣời đọc ra thành các loại ngƣời
đọc nhƣ sau:
+ Ngƣời đọc tiềm ẩn
+ Ngƣời đọc thực tế
Ngƣời đọc tiềm ẩn là một khái niệm rất quen thuộc do W.Iser đề xuất.
Đây là khái niệm chỉ hình ảnh ngƣời đọc xuất hiện trong niềm mong đợi của
nhà văn, nó hiện diện trên văn bản và chi phối tới sáng tác của tác giả. Trong
suốt q trình đó “Cái bóng của ngƣời đọc luôn hắt lên từng trang viết của
nhà văn” [25; 166].
20
Ngƣời đọc thực tế “chỉ đối tƣợng tiếp nhận văn học tồn tại thật trong
cuộc đời…nó vƣợt khỏi khả năng bao quát của tác giả, không nhất thiết phải
trùng khớp và không thể nào trùng khớp với độc giả tiềm ẩn” [25; 167].
Trong ngƣời đọc thực tế, căn cứ vào tầm đón nhận có thể chia ra các loại độc
giả nhƣ: độc giả bình dân, độc giả có vốn tri thức nhất định, độc giả có trình
độ chun mơn cao nhƣ các nhà nghiên cứu, phê bình, lí luận… Có thể thấy
rõ ràng rằng, những loại độc giả này đã khiến cho q trình tiếp nhận khơng
có sự đồng nhất. Nghiên cứu lịch sử văn học của từng giai đoạn, kiểm chứng
sự tiếp nhận của độc giả, ngƣời ta có thể xây dựng lại một cách khá đầy đủ về
một thời kì văn học với các đặc điểm về sở thích, thị hiếu, tâm lý, trình độ văn
hóa… Cần căn cứ vào sự tiếp nhận của độc giả ở từng đối tƣợng cụ thể để làm
rõ tiến trình tiếp nhận và hiệu quả tiếp nhận.
1.1.2.2. Tầm đón nhận. (Tầm đón đợi)
Đây là một khái niệm đƣợc dùng khá phổ biến trong các cơng trình
nghiên cứu của trƣờng phái Konstanz (Đức). H.R.Jauss tiếp thu khái niệm này
từ K.Mannheim, đƣợc xác định khá rõ ràng trong cuốn Lịch sử văn học như là
sự khiêu khích đối với khoa học văn học (1970). Với ơng, tầm đón nhận chính
là kinh nghiệm và khả năng văn chƣơng của mỗi ngƣời đọc khi tiếp xúc với
tác phẩm, nó hợp thành bởi ba bộ phận: quan niệm về hình thức và đề tài,
quan niệm về thể loại, quan niệm về đặc trƣng văn chƣơng ở mối quan hệ
giữa sáng tạo với thực tế, giữa ngôn ngữ nghệ thuật trong văn chƣơng và ngôn
ngữ đƣợc sử dụng tồn dân. Nói nhƣ vậy, tầm đón nhận khơng thể tạo thành
trong ngày một ngày hai mà đƣợc hình thành và xây dựng trong cả quá trình
dài. Đây là một q trình mà ở đó ngƣời đọc có thể tiếp xúc, làm quen, đối
thoại với những tác phẩm nghệ thuật để đạt đƣợc sự chủ động tiếp nhận trong
mối tƣơng quan với chính tác phẩm văn học đó. Khi độc giả tiếp nhận những
tác phẩm mới với chất lƣợng khác trƣớc, cao hơn thì ngƣời đọc cũng đƣợc